TIỂU KẾT
Nhìn tổng quát, nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ thuộc địa đã những thay đổi lớn với tốc độ phát triển nhanh vượt bậc so với thời kỳ phong kiến nhưng cũng chứa đựng nhiều khiếm khuyết. Sự phát triển công nghiệp thương mại Việt Nam trong thời kỳ thuộc địa chủ yếu đem lại lợi ích cho giới bản Pháp, đại bộ phận người bản xứ không được hưởng bất kỳ thành tựu nào từ sự phát triển của các hoạt động kinh tế. Thậm chí, bộ phận công nhân nông dân trong hội bị bóc lột, bòn rút thậm tệ.

Đối với lĩnh vực công nghiệp, người Pháp đã đem đến những phương thức sản xuất mới, cùng các công nghệ sản xuất được xem hiện đại thời kỳ này. Một số trung tâm công nghiệp quy lớn nhất khu vực đã được thiết lập với lực lượng công nhân lành nghề lớn. Tuy nhiên, chính quyền cai trị hoàn toàn không ý định công nghiệp hoá Việt Nam tức không đẩy mạnh phát triển những ngành công nghiệp nền tảng như luyện kim, khí, sản xuất chế tạo… Do chính quyền cai trị chỉ muốn khai thác tối đa lợi nhuận từ các nguồn lực kinh tế sẵn có, tập trung vào việc cung cấp những hàng hóa, nguyên liệu thô nền kinh tế Pháp cần. thế, những ngành khai khoáng, xay xát gạo, kéo sợi dệt… được khuyến khích hơn cả. Thế nhưng, những biến động theo bối cảnh lịch sử cũng như yếu tố lợi nhuận đã thúc đẩy một số lĩnh vực cần thiết cho nền kinh tế Việt Nam như tinh chế quặng, sản xuất giấy, hóa mỹ phẩm… hội phát triển. Các lĩnh vực sản xuất điện cung ứng nước phát triển chậm, chủ yếu dựa vào sự mở rộng của một số đô thị. Yếu tố lợi nhuận cũng thúc đẩy sự đầu của người Pháp trong việc phát triển nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp vốn phát triển lạc hậu dưới thời phong kiến.

Đối với lĩnh vực thương mại, mặc hoạt động thương mại nội địa lẫn xuất nhập khẩu trở nên sôi động, phát triển nhanh, giúp dần hình thành thị trường hàng hóa nhưng thiếu bền vững. Chính quyền cai trị áp đặt chính sách độc quyền mậu dịch, bảo hộ hàng hóa Pháp bằng hàng rào thuế quan ngặt nghèo để biến Việt Nam thành thị trường riêng, chuyên tiêu thụ các sản phẩm của nền công nghiệp Pháp, phụ thuộc chặt chẽ vào nền kinh tế Pháp. Sức sản xuất của các ngành công nghiệp chế biến tại chỗ yếu kém khiến hoạt động thương mại không thể phát triển bình thường với cách một ngành kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển. Điều này được thể hiện qua cấu xuất nhập khẩu, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu các loại hàng hóa, nguyên liệu thô với giá thấp nhưng lại nhập khẩu nhiều hàng hóa công nghiệp, sản phẩm tiêu dùng giá cao. Bên cạnh đó, tương tự như trong nhiều lĩnh vực công nghiệp, chính quyền cai trị áp đặt các điều kiện kinh doanh ngặt nghèo nhằm bảo vệ lợi ích của giới thương nhân Pháp, cũng như bắt tay với giới sản ngoại kiều nhằm kìm hãm sự phát triển của giới sản người Việt.

Chính chính sách thực dân bóc lột sau này thêm chính sách vét của phát xít Nhật đã bòn rút kiệt quệ mọi nguồn lực phát triển kinh tế của Việt Nam sau thời gian dài nằm dưới ách thống trị.

TIỂU KẾT
Nhìn tổng quát, nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ thuộc địa đã những thay đổi lớn với tốc độ phát triển nhanh vượt bậc so với thời kỳ phong kiến nhưng cũng chứa đựng nhiều khiếm khuyết. Sự phát triển công nghiệp thương mại Việt Nam trong thời kỳ thuộc địa chủ yếu đem lại lợi ích cho giới bản Pháp, đại bộ phận người bản xứ không được hưởng bất kỳ thành tựu nào từ sự phát triển của các hoạt động kinh tế. Thậm chí, bộ phận công nhân nông dân trong hội bị bóc lột, bòn rút thậm tệ.

Đối với lĩnh vực công nghiệp, người Pháp đã đem đến những phương thức sản xuất mới, cùng các công nghệ sản xuất được xem hiện đại thời kỳ này. Một số trung tâm công nghiệp quy lớn nhất khu vực đã được thiết lập với lực lượng công nhân lành nghề lớn. Tuy nhiên, chính quyền cai trị hoàn toàn không ý định công nghiệp hoá Việt Nam tức không đẩy mạnh phát triển những ngành công nghiệp nền tảng như luyện kim, khí, sản xuất chế tạo… Do chính quyền cai trị chỉ muốn khai thác tối đa lợi nhuận từ các nguồn lực kinh tế sẵn có, tập trung vào việc cung cấp những hàng hóa, nguyên liệu thô nền kinh tế Pháp cần. thế, những ngành khai khoáng, xay xát gạo, kéo sợi dệt… được khuyến khích hơn cả. Thế nhưng, những biến động theo bối cảnh lịch sử cũng như yếu tố lợi nhuận đã thúc đẩy một số lĩnh vực cần thiết cho nền kinh tế Việt Nam như tinh chế quặng, sản xuất giấy, hóa mỹ phẩm… hội phát triển. Các lĩnh vực sản xuất điện cung ứng nước phát triển chậm, chủ yếu dựa vào sự mở rộng của một số đô thị. Yếu tố lợi nhuận cũng thúc đẩy sự đầu của người Pháp trong việc phát triển nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp vốn phát triển lạc hậu dưới thời phong kiến.

Đối với lĩnh vực thương mại, mặc hoạt động thương mại nội địa lẫn xuất nhập khẩu trở nên sôi động, phát triển nhanh, giúp dần hình thành thị trường hàng hóa nhưng thiếu bền vững. Chính quyền cai trị áp đặt chính sách độc quyền mậu dịch, bảo hộ hàng hóa Pháp bằng hàng rào thuế quan ngặt nghèo để biến Việt Nam thành thị trường riêng, chuyên tiêu thụ các sản phẩm của nền công nghiệp Pháp, phụ thuộc chặt chẽ vào nền kinh tế Pháp. Sức sản xuất của các ngành công nghiệp chế biến tại chỗ yếu kém khiến hoạt động thương mại không thể phát triển bình thường với cách một ngành kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển. Điều này được thể hiện qua cấu xuất nhập khẩu, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu các loại hàng hóa, nguyên liệu thô với giá thấp nhưng lại nhập khẩu nhiều hàng hóa công nghiệp, sản phẩm tiêu dùng giá cao. Bên cạnh đó, tương tự như trong nhiều lĩnh vực công nghiệp, chính quyền cai trị áp đặt các điều kiện kinh doanh ngặt nghèo nhằm bảo vệ lợi ích của giới thương nhân Pháp, cũng như bắt tay với giới sản ngoại kiều nhằm kìm hãm sự phát triển của giới sản người Việt.

Chính chính sách thực dân bóc lột sau này thêm chính sách vét của phát xít Nhật đã bòn rút kiệt quệ mọi nguồn lực phát triển kinh tế của Việt Nam sau thời gian dài nằm dưới ách thống trị.

Giá cả
Ngay sau khi đánh chiếm Nam Kỳ vào năm 1862, chính quyền thuộc địa đã nhận thấy sự cần thiết của việc thiết lập một ngân hàng riêng tại đây để vừa phục vụ cho việc khai thác thuế vừa điều chỉnh nền kinh tế địa phương. Bên cạnh đó, sự có mặt của nhiều thương nhân châu Âu, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản… với các đồng tiền riêng của mình đã tạo ra những rắc rối trong thanh toán vì vấn đề định giá, quy đổi tiền tệ…, do đó chính quyền thuộc địa cần có đồng tiền chung cho Liên bang Đông Dương để bảo vệ các lợi ích của mình tại đây.

Ngày 21/1/1875, Chính phủ Pháp thành lập Ngân hàng Đông Dương và bắt đầu phát hành đồng tiền riêng dành cho xứ Đông Dương và giá trị được neo cố định với đồng Franc Pháp với tỷ lệ 1 đồng Đông Dương đổi 10 đồng Franc Pháp. Như vậy, người Pháp đã thống nhất tiền tệ, chủ động áp đặt tỉ giá, chi phối toàn bộ hoạt động kinh tế tại khu vực Đông Dương.

Ban đầu hệ thống tiền tệ này đã góp phần khơi thông lưu chuyển hàng hóa trên thị trường nội địa, mở rộng hoạt động ngoại thương, đặc biệt là khối các nước sử dụng đồng Franc Pháp. Hỗ trợ việc du nhập các kỹ nghệ sản xuất hiện đại, phát triển các hoạt động công nghiệp trong nước.

Tuy nhiên, các chính sách tài chính - kinh tế méo mó của chính quyền thuộc địa nhằm khai thác triệt để thị trường thuộc địa và cuộc Đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào những năm 1930 đã khiến hệ thống tiền tệ này bắt đầu trở nên hỗn loạn. Đồng thời, nhu cầu xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông, lâm sản sụt giảm nghiêm trọng, giá các mặt hàng này rơi xuống mức thấp kỷ lục, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thu nhập và sức mua của người dân, đặc biệt là các hộ nông dân. Đặc biệt, việc giá lúa gạo tại Nam Kỳ giảm từ mức trung bình 1,30 đồng Đông Dương/giạ trong năm 1926 xuống còn 0,4 đồng Đông Dương/giạ vào năm 1933 - mức thấp nhất trong vòng 30 năm khiến “dân Nam Kỳ nghèo,… không có tháng nào, năm nào mà giá lúa rẻ tệ mạt như năm nay vậy”15. Xuất khẩu lúa gạo vốn chiếm từ 40% - 50% tổng kim ngạch xuất khẩu thời kỳ này.

bang 9

bang 10

bang 11-12

Hàng hóa trở nên ế ẩm. Tại Sài Gòn, chỉ số giá bán buôn các sản phẩm giảm từ mức 100 điểm trong năm 1925 xuống còn 88 điểm vào năm 1932, và 71 điểm trong năm 1935. Tương tự, tại Hà Nội, chỉ số này cũng giảm từ mức 100 điểm trong năm 1925 xuống chỉ còn 70 điểm trong năm 1936.

Những bất hợp lý trong sự phát triển nền kinh tế khiến chênh lệch giữa giá của sản phẩm nông nghiệp với giá của sản phẩm công nghiệp ở mức rất cao. Ví dụ, giá 1 thếp giấy viết tương đương giá 5 kg gạo, giá 1 lít dầu hỏa bằng giá 3 kg gạo. Đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, nhất là khi phát xít Nhật xâm chiếm Đông Dương, đồng tiền Đông Dương trượt giá mạnh, giá các mặt hàng chính thức do chính quyền thực dân Pháp áp đặt luôn thấp hơn nhiều so với giá thị trường chợ đen. Trong khi đó thu nhập của đại bộ phận dân chúng ở mức rất thấp.
Sự kiện và nhân chứng lịch sử
“Đông Dương kêu cứu”
Trong sách Indochine S. O. S (Đông Dương kêu cứu) phát hành năm 1935, nữ nhà báo người Pháp Andrée Viollis cho biết “Ngoại trừ tại các thành phố lớn, tiền lương của công nhân không bao giờ vượt quá 2 Franc đến 2,50 Franc/ngày. Trong các nhà máy dệt, một ngày làm việc bắt đầu từ 7 giờ sáng đến 9 giờ tối, lương ngày của nam giới là từ 1,75 Franc đến 2 Franc, từ 1,25 Franc đến 1,50 Franc đối với phụ nữ và 0,75 Franc cho trẻ em từ 8 đến 10 tuổi”. Trong khi đó, tại Hà Nội, giá bán lẻ 1 kg gạo thường là hơn 0,3 Franc và giá 1 kg thịt lợn là hơn 3 Franc nếu tính theo tỷ giá hối đoái chính thức 1 đồng Đông Dương đổi được 10 Franc Pháp.


15.T.V (1933). Thị trường lúa gạo ở Nam Kỳ trong 30 năm nay (1905 - 1933). Phụ Nữ Tân Văn, số 219 (Tháng 10/1933), tr.7.

CHƯƠNG II: CÔNG NGHIỆP - THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP KHÁNG CHIẾN, KIẾN QUỐC (1945 - 1954)

Bác Hồ gặp giới công thương Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp thân mật 30 nhà công thương Hà Nội, đại diện cho giới công thương Việt Nam, tại Phủ Chủ tịch, ngày 18/9/1945 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam) Tuần lễ Vàng Trong Tuần lễ Vàng - tháng 9/1945, các tầng lớp nhân dân, trong đó có giới công thương đã quyên góp được 20 triệu đồng và 370 kg vàng (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam) xưởng may Các xưởng may quân trang tại Chiến khu Việt Bắc được hợp nhất thành Xưởng may 10 năm 1952 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Danh mục

Tùy chỉnh