I- BỐI CẢNH LỊCH SỬ, HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ NGÀNH CÔNG THƯƠNG
1. Chuyển hướng kinh tế miền Bắc
Sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ (tháng 8/1964), Mỹ chính thức gây ra cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc lần thứ nhất kéo dài từ ngày 07/02/1965 đến ngày 01/01/1968, lần thứ hai từ ngày 06/4/1972 đến ngày 30/12/1972.
Trong hai lần đánh phá miền Bắc, không quân và hải quân Mỹ đã ném bom, bắn phá liên tục với cường độ ngày càng tăng. Mục tiêu của các chiến dịch phá hoại đường không nhằm phá hủy hệ thống giao thông, các cơ sở công nghiệp và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam.
Để phù hợp với tình hình mới, tháng 01/1965, Hội đồng Quốc phòng đã họp, đề ra nhiệm vụ tăng cường công tác phòng thủ, trị an, sẵn sàng chiến đấu. Từ ngày 25 đến ngày 27/3/1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III họp Hội nghị lần thứ 11 (đặc biệt) về tình hình và nhiệm vụ cấp bách; quyết định chuyển hướng kinh tế miền Bắc từ thời bình sang thời chiến. Tinh thần và nội dung của sự chuyển hướng này không chỉ để phù hợp với tình hình thời chiến, mà còn nhằm “phù hợp với phương hướng về lâu dài của công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và chú ý đúng mức các yêu cầu về đời sống của nhân dân”1. Hướng phát triển công nghiệp trong giai đoạn mới là:
Thứ nhất, xây dựng nền kinh tế miền Bắc vững mạnh, trở thành hậu phương lớn, chi viện đắc lực cho chiến trường miền Nam.
Thứ hai, di chuyển nhanh chóng các cơ sở sản xuất và kho tàng về nơi sơ tán, bảo vệ an toàn xí nghiệp, duy trì sản xuất trong mọi tình huống, cải tiến công tác tổ chức sản xuất công nghiệp phù hợp với tình hình có chiến tranh, kết hợp sản xuất và chiến đấu, đảm bảo cung cấp các hàng hóa tiêu dùng thiết yếu và duy trì đời sống nhân dân không bị đảo lộn trong chiến tranh.
Thứ ba, khẩn trương xây dựng và phát triển mạng lưới công nghiệp địa phương về các vùng hậu phương trung du và miền núi, phân bố lại sản xuất công nghiệp để gắn với nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ, gắn công nghiệp với nông nghiệp và với các ngành kinh tế quốc dân khác, gắn kinh tế với quốc phòng. Mỗi vùng, miền, mỗi tỉnh có khả năng tự giải quyết phần lớn những nhu cầu ăn, mặc, ở, học, bảo vệ sức khỏe, hàng phục vụ sản xuất, hàng tiêu dùng thiết yếu. Đây cũng là động lực cho việc sáp nhập một số tỉnh, nhằm bảo đảm mỗi tỉnh có đủ cơ cấu kinh tế, điều kiện tự nhiên giải quyết những vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế, bảo vệ sản xuất của mình trong điều kiện chống chiến tranh phá hoại. Nghị quyết số 111-NQ/TW, Nghị quyết số 112-NQ/TW, Nghị quyết số 113-NQ/TW trong cùng ngày 08/4/1965 đã hợp nhất tỉnh Nam Định và Hà Nam; Thái Nguyên và Bắc Kạn; Hà Đông và Sơn Tây2.
Thứ tư, tạm dừng kiến thiết những công trình công nghiệp lớn, xây dựng những xí nghiệp cỡ vừa và cỡ nhỏ, đáp ứng yêu cầu an ninh - quốc phòng và phục vụ đời sống nhân dân.
Đây cũng là những năm tháng mà mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung và cơ chế bao cấp ngày càng bộc lộ sức ỳ của nó. Việc áp dụng kế hoạch hóa mệnh lệnh cứng nhắc trong sản xuất đã hạn chế quyền tự chủ và sự năng động của cơ sở.
Ở cấp vĩ mô, đã có những nỗ lực cải tiến mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung như kết hợp giữa chỉ tiêu hướng dẫn của Nhà nước và kế hoạch từ cơ sở, sau đó mới trở thành chỉ tiêu pháp lệnh. Tuy nhiên, đó vẫn là kế hoạch mang tính pháp lệnh, xí nghiệp muốn thay đổi vẫn phải thông qua cơ chế “xin - cho” mới được phép thay đổi. Thời kỳ xuất hiện nhiều xí nghiệp “hoàn thành kế hoạch” sau khi xin “điều chỉnh chỉ tiêu” - một hoạt động nở rộ vào quý II, quý III hằng năm.
Ở cấp vi mô, Chính phủ cho phép xí nghiệp quốc doanh tính lại giá thành hợp lý cho xí nghiệp, xác định giá bán buôn xí nghiệp, giá bán buôn công nghiệp, lãi định mức của xí nghiệp để có căn cứ phân phối lợi nhuận, nhưng chưa đủ để xí nghiệp quốc doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Bởi lẽ, giá trị vật tư mà Nhà nước “bán” cho xí nghiệp, cũng như giá mà Nhà nước “thu mua” của xí nghiệp không phản ánh quan hệ cung - cầu (mua cũng rẻ mà bán cũng rẻ) chủ yếu do Nhà nước đặt ra và quyết định.
Với những nhược điểm trên, mô hình kinh tế kế hoạch hóa đã dần dần biến thành cơ chế kế hoạch hóa hành chính tập trung; và cơ chế bao cấp đã trở thành cơ chế quan liêu, bao cấp. Đồng thời, chiến tranh đã khiến một nguồn lực lớn từ sản xuất, nhập khẩu hướng tới bảo đảm quốc phòng và các công trình phục vụ quốc phòng.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.111.
2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.140-145.
I- BỐI CẢNH LỊCH SỬ, HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ NGÀNH CÔNG THƯƠNG
1. Chuyển hướng kinh tế miền Bắc
Sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ (tháng 8/1964), Mỹ chính thức gây ra cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc lần thứ nhất kéo dài từ ngày 07/02/1965 đến ngày 01/01/1968, lần thứ hai từ ngày 06/4/1972 đến ngày 30/12/1972.
Trong hai lần đánh phá miền Bắc, không quân và hải quân Mỹ đã ném bom, bắn phá liên tục với cường độ ngày càng tăng. Mục tiêu của các chiến dịch phá hoại đường không nhằm phá hủy hệ thống giao thông, các cơ sở công nghiệp và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam.
Để phù hợp với tình hình mới, tháng 01/1965, Hội đồng Quốc phòng đã họp, đề ra nhiệm vụ tăng cường công tác phòng thủ, trị an, sẵn sàng chiến đấu. Từ ngày 25 đến ngày 27/3/1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III họp Hội nghị lần thứ 11 (đặc biệt) về tình hình và nhiệm vụ cấp bách; quyết định chuyển hướng kinh tế miền Bắc từ thời bình sang thời chiến. Tinh thần và nội dung của sự chuyển hướng này không chỉ để phù hợp với tình hình thời chiến, mà còn nhằm “phù hợp với phương hướng về lâu dài của công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và chú ý đúng mức các yêu cầu về đời sống của nhân dân”1. Hướng phát triển công nghiệp trong giai đoạn mới là:
Thứ nhất, xây dựng nền kinh tế miền Bắc vững mạnh, trở thành hậu phương lớn, chi viện đắc lực cho chiến trường miền Nam.
Thứ hai, di chuyển nhanh chóng các cơ sở sản xuất và kho tàng về nơi sơ tán, bảo vệ an toàn xí nghiệp, duy trì sản xuất trong mọi tình huống, cải tiến công tác tổ chức sản xuất công nghiệp phù hợp với tình hình có chiến tranh, kết hợp sản xuất và chiến đấu, đảm bảo cung cấp các hàng hóa tiêu dùng thiết yếu và duy trì đời sống nhân dân không bị đảo lộn trong chiến tranh.
Thứ ba, khẩn trương xây dựng và phát triển mạng lưới công nghiệp địa phương về các vùng hậu phương trung du và miền núi, phân bố lại sản xuất công nghiệp để gắn với nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ, gắn công nghiệp với nông nghiệp và với các ngành kinh tế quốc dân khác, gắn kinh tế với quốc phòng. Mỗi vùng, miền, mỗi tỉnh có khả năng tự giải quyết phần lớn những nhu cầu ăn, mặc, ở, học, bảo vệ sức khỏe, hàng phục vụ sản xuất, hàng tiêu dùng thiết yếu. Đây cũng là động lực cho việc sáp nhập một số tỉnh, nhằm bảo đảm mỗi tỉnh có đủ cơ cấu kinh tế, điều kiện tự nhiên giải quyết những vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế, bảo vệ sản xuất của mình trong điều kiện chống chiến tranh phá hoại. Nghị quyết số 111-NQ/TW, Nghị quyết số 112-NQ/TW, Nghị quyết số 113-NQ/TW trong cùng ngày 08/4/1965 đã hợp nhất tỉnh Nam Định và Hà Nam; Thái Nguyên và Bắc Kạn; Hà Đông và Sơn Tây2.
Thứ tư, tạm dừng kiến thiết những công trình công nghiệp lớn, xây dựng những xí nghiệp cỡ vừa và cỡ nhỏ, đáp ứng yêu cầu an ninh - quốc phòng và phục vụ đời sống nhân dân.
Đây cũng là những năm tháng mà mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung và cơ chế bao cấp ngày càng bộc lộ sức ỳ của nó. Việc áp dụng kế hoạch hóa mệnh lệnh cứng nhắc trong sản xuất đã hạn chế quyền tự chủ và sự năng động của cơ sở.
Ở cấp vĩ mô, đã có những nỗ lực cải tiến mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung như kết hợp giữa chỉ tiêu hướng dẫn của Nhà nước và kế hoạch từ cơ sở, sau đó mới trở thành chỉ tiêu pháp lệnh. Tuy nhiên, đó vẫn là kế hoạch mang tính pháp lệnh, xí nghiệp muốn thay đổi vẫn phải thông qua cơ chế “xin - cho” mới được phép thay đổi. Thời kỳ xuất hiện nhiều xí nghiệp “hoàn thành kế hoạch” sau khi xin “điều chỉnh chỉ tiêu” - một hoạt động nở rộ vào quý II, quý III hằng năm.
Ở cấp vi mô, Chính phủ cho phép xí nghiệp quốc doanh tính lại giá thành hợp lý cho xí nghiệp, xác định giá bán buôn xí nghiệp, giá bán buôn công nghiệp, lãi định mức của xí nghiệp để có căn cứ phân phối lợi nhuận, nhưng chưa đủ để xí nghiệp quốc doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Bởi lẽ, giá trị vật tư mà Nhà nước “bán” cho xí nghiệp, cũng như giá mà Nhà nước “thu mua” của xí nghiệp không phản ánh quan hệ cung - cầu (mua cũng rẻ mà bán cũng rẻ) chủ yếu do Nhà nước đặt ra và quyết định.
Với những nhược điểm trên, mô hình kinh tế kế hoạch hóa đã dần dần biến thành cơ chế kế hoạch hóa hành chính tập trung; và cơ chế bao cấp đã trở thành cơ chế quan liêu, bao cấp. Đồng thời, chiến tranh đã khiến một nguồn lực lớn từ sản xuất, nhập khẩu hướng tới bảo đảm quốc phòng và các công trình phục vụ quốc phòng.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.111.
2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.140-145.
CHƯƠNG IV: CÔNG NGHIỆP - THƯƠNG MẠI VỚI HAI NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC: XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC VÀ CHI VIỆN CHO MIỀN NAM (1965 - 1975)
Công nhân Nhà máy Liên hiệp Dệt Nam Định vừa sản xuất, vừa đeo súng sẵn sàng chiến đấu (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)Các cán bộ, công nhân viên Nhà máy Supe Phốtphát Lâm Thao điều chế phân bón qua hệ thống cánh khuấy chạy điện (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Những chiếc lốp xe đạp vừa được tháo ra từ khuôn hấp của dây chuyền sản xuất mới của Nhà máy Cao su Sao Vàng Hà Nội, tháng 10/1974 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)