1. Vừa sản xuất vừa chiến đấu

Phương châm chuyển hướng kinh tế sang điều kiện thời chiến bảo vệ an toàn, tiếp tục sản xuất phục vụ chiến đấu. Tại Hội nghị cán bộ Đảng từ ngày 02 đến ngày 08/7/1965, thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam Duẩn đã nhấn mạnh đến vai trò của hậu phương lớn miền Bắc hội chủ nghĩa mối quan hệ gắn giữa sản xuất chiến đấu: “Có chuẩn bị tốt chiến đấu tốt mới bảo vệ được sản xuất. sản xuất dồi dào mới bảo đảm được chiến đấu”; “Phải đem toàn lực ra để đánh giặc đem toàn lực ra để sản xuất”1.

Trong chiến tranh phá hoại, các nghiệp công nghiệp hệ thống giao thông vận tải huyết mạch những mục tiêu hàng đầu của không quân Mỹ. Theo thống kê, hầu hết các khu công nghiệp, 100% các nhà máy điện, 345 nghiệp bị đánh phá nặng nề (cuộc chiến tranh phá hoại lần đầu 225 nghiệp lần thứ hai 120 nghiệp).

Đứng trước một thử thách khắc nghiệt khi không quân Mỹ tăng cường bắn phá miền Bắc, ngành Công Thương bước vào cuộc chiến đấu mới, vừa xây dựng sở vật chất cho chủ nghĩa hội, vừa chi viện cho miền Nam, phục vụ sự nghiệp thống nhất đất nước. Trong cuộc không chiến ác liệt, chỉ riêng bầu trời miền Bắc con đường huyền thoại Trường Sơn đã phải chịu 5 triệu tấn bom, mìn, hóa chất các loại, nhiều gấp 2,5 lần số bom không quân Mỹ rải xuống trong Chiến tranh thế giới thứ hai.

Từ tháng 6/1966, Nhà máy khí Nội đã di chuyển an toàn gần 1.500 tấn phương tiện, thiết bị đến 16 địa điểm Bắc (nay Bắc Ninh Bắc Giang); Nhà máy Dệt 8-3 với hơn 7.000 công nhân đã phân tán ra nhiều địa điểm nhưng vẫn duy trì sản xuất liên tục. Các đơn vị sản xuất trọng điểm khác như Nhà máy Xe lửa Gia Lâm, Nhà máy Gỗ Cầu Đuống, Nhà máy khí Trần Hưng Đạo, nghiệp Dược phẩm 1 (nay nghiệp Dược phẩm Trung ương 1), nghiệp Dược phẩm 2 (nay nghiệp Dược phẩm Trung ương 2), Nhà máy In Tiến Bộ... hàng chục nghìn công nhân, viên chức cùng người thân được tán ra khỏi nội thành.

Trong cuộc chiến vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu, các sở công nghiệp thương mại thành lập các đội tự vệ, sẵn sàng đương đầu với các cuộc tập kích đường không, bảo đảm các điều kiện cho hoạt động sản xuất thời chiến. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, từ ngày 18 đến ngày 29/12/1972, nhiều cán bộ, công chức thuộc khối quan các bộ: khí Luyện kim, Công nghiệp nhẹ, Nội thương, Ngoại thương, Vật đã trực tiếp tham gia vào các đơn vị tự vệ phòng không. Lưới lửa phòng không từ trên các nóc nhà 54 Hai Trưng, số 7 Tràng Thi, 91 Đinh Tiên Hoàng, 21 - 23 Ngô Quyền đan dày đặc, góp phần tạo nên các hệ thống phòng không tầm thấp, tầm cao hiệu quả của quân dân Thủ đô Nội.

Công nhân Điện

Cán bộ, công nhân viên Nhà máy Điện Yên Phụ diễn tập đánh địch giáp tại Nội, tháng 6/1966 (Ảnh: Trần Nguyên Hợi)

Ngành Điện với khẩu hiệu: “Tổ quốc cần điện như thể cần máu”; “Địch đánh ta phục hồi, địch lại đánh ta lại phục hồi” đã ăn sâu vào tiềm thức cán bộ, công nhân viên. Thực tế, nhiều nhà máy điện đã bị bom đạn giặc Mỹ tàn phá tan hoang. Trong điều kiện đó, nhiều sáng kiến đã ra đời. Để tránh thương vong, Nhà máy Nhiệt điện Thái Nguyên đã làm ống trượt chui vào hầm trú ẩn nhằm “thoát nhanh” khi máy bay địch ném bom. Sáng kiến này đã được áp dụng nhiều nhà máy điện trong suốt cuộc chiến chống máy bay Mỹ. Khi trạm bơm tuần hoàn Nhà máy Điện Việt Trì bị phá hỏng, cán bộ, công nhân viên đã tự thiết kế, lắp đặt trạm bơm số 2 cách đó khoảng 800 m, rút ngắn thời gian phục hồi hạn chế phạm vi đánh phá của máy bay địch.

Năm 1966, công trình “ống khói ngầm” của Nhà máy Điện Uông (đưa ống khói nhà máy chìm dưới lòng sông để ngụy trang, tránh máy bay địch ném bom) ra đời đã đi vào lịch sử như một sáng kiến đặc biệt, thể hiện nghị lực, ý chí kiên cường, bất khuất của tuổi trẻ - công nhân Nhà máy Điện Uông Bí. Ống khói ngầm khiến cho máy bay Mỹ tưởng Nhà máy đã “chết”, nhưng chúng không thể hình dung nổi dưới đống đổ nát, hoang tàn, Nhà máy vẫn phát điện, trái tim của hệ thống điện miền Bắc vẫn đập với sức sống diệu kỳ.

Tự vệ thép

Đội tự vệ xưởng Luyện cốc - Công ty Gang thép Thái Nguyên chiến đấu bảo vệ Khu Gang thép (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Khu Gang thép Thái Nguyên, một trọng điểm bắn phá của không quân Mỹ, những năm tháng ấy đã thành lập lực lượng tự vệ tất cả các đơn vị. Các đơn vị tự vệ được trang bị súng phòng không, sau này còn pháo cao xạ 37 mm, góp phần cùng Bộ đội chính quy Trung đoàn 256 - Quân khu Việt Bắc giăng lưới lửa khi máy bay địch đánh phá Thái Nguyên, tấn công Nhà máy. Từ năm 1966 đến cuối năm 1972, không quân Mỹ đã huy động hơn 1.700 lần, trong đó 42 lần máy bay B.52 với 115 trận đánh phá, thả gần 3.000 quả bom các loại xuống Khu Gang thép Thái Nguyên, nhưng chúng không đạt được mục đích phá hoại nhà máy, làm ngưng trệ sản xuất. Công nhân, đội “tự vệ thép” với khẩu hiệu “Bám máy, bám lò” sẵn sàng “đổi máu lấy thép” đã di chuyển phân xưởng, dây chuyền ra khỏi mục tiêu, vừa sản xuất, vừa anh dũng chiến đấu. Những mẻ gang vẫn ra đi khắp mọi miền Tổ quốc. Trên bầu trời Khu Gang thép Thái Nguyên đã 59 máy bay bị bắn hạ, 5 phi công Mỹ bị tự vệ bắt sống tại chỗ.

Trong hai lần chiến tranh phá hoại do không quân Mỹ tiến hành, vùng mỏ Quảng Ninh đã trải qua 1.500 ngày trực tiếp đối mặt với các cuộc oanh kích. Trong 1.500 ngày đêm ấy, không quân Mỹ đã đánh vào vùng mỏ Quảng Ninh 2.340 trận, rải 28.531 quả bom, mìn, thủy lôi các loại, gây thiệt hại về tài sản hết sức nặng nề cho các mỏ than.

Nhưng cũng chính trong điều kiện chiến tranh ác liệt, gian khổ ấy, bản lĩnh ý chí quyết chiến, quyết thắng của công nhân vùng mỏ Quảng Ninh tỏa sáng, một trong những tấm gương tiêu biểu Đại đội trưởng tự vệ Than Hòn Gai - Anh hùng Lực lượng trang Đặng Hát. Anh hùng Đặng Hát sinh năm 1936 tại thôn Đồng Tái, Thống Kênh, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Ông bộ đội trở về từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, rồi vào làm tại phân xưởng Đống - Bến của nghiệp Than Hòn Gai (nay Công ty Tuyển than Hòn Gai).

Ngày 20/8/1960, tự vệ bến Hòn Gai ra đời cùng với ngày thành lập nghiệp Bến Hòn Gai, trận địa pháo phòng không 37 mm thuộc lực lượng tự vệ đã tham gia nhiều trận chiến đấu, bắn rơi nhiều máy bay địch, trong đó trận đánh trả không quân Mỹ ngày 05/8/1964 trận đầu đánh thắng giặc Mỹ xâm lược đánh phá miền Bắc đã đi vào lịch sử. Năm 1968, Đại đội pháo cao xạ 37 mm được thành lập thuộc nghiệp Bến Hòn Gai, do Đặng Hát làm Đại đội trưởng, gồm 4 khẩu đội pháo, với biên chế 45 người.

Ngay khi nhận nhiệm vụ, Đại đội trưởng Đặng Hát đã chỉ huy đơn vị tích cực huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu cao. Ông đã mang kinh nghiệm từ những tháng năm trong quân ngũ vận dụng vào xây dựng lực lượng tự vệ bán trang.

Đặng Bá Hát

Đại đội trưởng Đặng Hát đồng đội trên trận địa (Ảnh: Công ty Tuyển than Hòn Gai)

Chiều 12/7/1972, không quân Mỹ đánh phá bến phà Bãi Cháy. Đại đội trưởng Đặng Hát toàn khẩu đội tập trung cao độ quan sát mục tiêu, bắn trả quyết liệt. Không quân Mỹ đã nghi binh, dùng 2 máy bay bay thấp, ném bom trúng trận địa. Đặng Hát bị mảnh bom xuyên thủng bụng, một tay giữ chặt vết thương, tay kia ông vẫn phất cờ lệnh miệng còn hô: Bắn! Nhưng vết thương quá nặng, Đặng Hát đã anh dũng hy sinh bên mâm pháo.

Sau khi Đặng Hát hy sinh, cờ lệnh trong trận đánh ngày 12/7/1972 được sưu tầm hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Quân khu III. Đây một kỷ vật cùng thiêng liêng sức lan tỏa sâu rộng đối với khách tham quan trong công tác tuyên truyền giáo dục lòng yêu nước, sự hy sinh quên mình sự nghiệp cách mạng của các thế hệ đi trước cho thế hệ trẻ hôm nay mai sau.

Liệt Đặng Hát được Đảng Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng trang. Tấm gương người chiến tự vệ anh hùng Đặng Hát mãi khắc sâu trong lòng người dân vùng Mỏ, tên anh đã đi vào các tác phẩm thơ ca được đặt cho một con đường của thành phố Hạ Long.

Tại Nội, cả ngành Công nghiệp nhẹ - ngành hàng sản xuất hàng tiêu dùng cũng nằm trong số mục tiêu phá hoại của không quân Mỹ. Những đôi tay quen cầm thoi, dệt vải... của chị em công nhân Nhà máy Dệt 8-3 đã buộc phải cầm súng. Hệ thống phòng không được triển khai nhanh chóng. Từ các cửa phân xưởng, hệ thống hào giao thông được xây bằng gạch chắc chắn, đường hào chữ chi chạy xung quanh nhà máy; khi báo động, công nhân xách súng chạy theo hào giao thông đến trận địa. Năm 1966, nhà máy tổ chức được một tiểu đoàn tự vệ gồm 5 đại đội, 134 trung đội, 2 tiểu đội trực thuộc; bộ phận hành chính tổ chức các đội công binh, hóa học, cứu sập, cứu thương, thông tin liên lạc... Phối hợp với trận địa cao xạ của Bộ lệnh Quân khu Thủ đô, tự vệ nhà máy bố trí lưới lửa theo hai tuyến: tuyến trên cao gồm 8 tổ súng trường, 2 đại liên, 1 trung liên, đặt trên nóc phân xưởng đay, sợi, dệt. Tuyến mặt đất gồm 7 tổ, bố trí trận địa phân xưởng Nhuộm, Thoi suốt, khí. Đội hình chiến đấu hiệp đồng chặt chẽ với trận địa của Nhà máy khí Mai Động, Nhà máy Kẹo Hải Châu, Nhà máy Xay Lương Yên, tạo thành lưới lửa phía đông nam thành phố.

Tại Nhà máy Liên hiệp Dệt Nam Định, ngày, Mỹ ném bom 2 - 3 trận. vậy, thời gian này, nhiều người gọi Nhà máy “Cồn Cỏ của Thành Nam”. Từ tháng 7/1965 đến tháng 12/1972, máy bay Mỹ đã gây ra hậu quả rất nặng nề: phá hủy 22% thiết bị máy móc 70% nhà xưởng, 151 cán bộ, công nhân viên chức hy sinh, 197 người bị thương.

Để bảo vệ sản xuất, Nhà máy thành lập 1 tiểu đoàn tự vệ (gồm 3 đại đội) 1 trung đội trực chiến lưu động gồm 283 cán bộ, chiến sĩ, trong đó 131 nữ dưới sự chỉ đạo của Tỉnh đội. “Đội bom sản xuất” hình ảnh công nhân Nhà máy Dệt Nam Định thời kỳ này. Vừa hăng hái sản xuất, lực lượng tự vệ nhà máy còn tham gia chiến đấu tất cả các trận cùng quân dân thành phố, đánh trả quyết liệt máy bay Mỹ. trận tự vệ nhà máy đã bổ sung, tăng cường 18 pháo thủ cho một đơn vị pháo cao xạ của bộ đội trên địa bàn thị Phủ Lý. Không chỉ nam công nhân tham gia chiến đấu, các chị em công nhân cũng rất anh dũng trên mọi mặt trận, nhiều chị đã hy sinh khi tuổi đời còn trẻ, như chị Thị Minh Nguyệt, đảng viên Đảng bộ Nhà máy Dệt Nam Định. Chị Nguyệt đã cùng đồng đội đánh trả máy bay Mỹ 21 trận. Trận thứ 22 chiến đấu bảo vệ cầu Phủ Lý, diễn ra vào chiều 07/7/1967, chị bị thương nhưng không cho đồng đội biết, vẫn tiếp tục chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng.

công nhân dệt

Công nhân Nhà máy Liên hiệp Dệt Nam Định vừa sản xuất, vừa đeo súng sẵn sàng chiến đấu (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Trong những trận quyết chiến bảo vệ sản xuất, bảo vệ nguồn lực của hậu phương miền Bắc để chi viện cho miền Nam, cán bộ, người lao động ngành Công Thương đã ghi nhiều chiến công vào trang vàng lịch sử của dân tộc. Khu Gang thép Thái Nguyên đã bắn hạ 59 máy bay của không quân Mỹ, 5 phi công Mỹ bị tự vệ bắt sống tại chỗ; ngày 10/12/1967, chị Lưu Thị Xuân cùng tự vệ Nhà máy Dệt 8-3 bắn rơi một máy bay phản lực Mỹ; ngày 13/8/1968, chỉ với 14 viên đạn 12 ly 7, tự vệ Nhà máy Dệt 8-3 lại bắn rơi một máy bay không người lái; tháng 7/1968, đội tự vệ của May 10 hiệp đồng với đơn vị bạn bắn rơi 1 máy bay phản lực Mỹ Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, Thành phố Nội; ngày 07/02/1972, lực lượng tự vệ của Đèo Nai đã anh dũng chiến đấu bắn rơi được 1 máy bay Mỹ, góp phần vào thành tích bắn rơi chiếc máy bay thứ 200 của vùng Mỏ trên bầu trời miền Bắc; ngày 10/5/1972, tự vệ Nhà máy Điện Yên Phụ bắn rơi 1 máy bay F4 của Mỹ; ngày 27/6/1972 tự vệ Nhà máy Phân lân Văn Điển bắn rơi 1 máy bay F4 của Mỹ; đêm 19/12/1972, tự vệ Kho xăng dầu Thượng bắn rơi chiếc máy bay AD6 của Mỹ; đêm ngày 22/12/1972, tự vệ Nhà máy khí Mai Động phối hợp với tự vệ Nhà máy Dệt kim Đông Xuân Nội bắn rơi 1 chiếc F-111A “cánh cụp cánh xòe”... Những chiến công đó không những bảo đảm cho dòng điện, nguồn xăng dầu, vật tư, nguyên liệu, hàng tiêu dùng lưu thông mạnh mẽ trên thị trường, còn góp phần cùng quân dân miền Bắc đập tan các cuộc tập kích đường không chiến lược của không quân Hoa Kỳ.

Mặc đã tán những phân xưởng, thậm chí cả nhà máy công nghiệp quan trọng ra khỏi đô thị bảo vệ khá hữu hiệu sở sản xuất, nhưng sản xuất công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, do lực lượng lao động trẻ khỏe được huy động vào chiến trường. Mặt khác, tình trạng thiếu nguyên, nhiên, vật liệu trầm trọng, các thiết bị máy móc bị đánh phá hỏng chưa kịp sửa chữa hoặc sửa chữa vội không đảm bảo an toàn, sự cố thường xảy ra. Do đó, sản xuất công nghiệp bị giảm sút trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, đặc biệt những ngành trọng điểm đánh phá của không quân Mỹ

Tự vệ Bánh kẹo

Tự vệ Nhà máy Bánh kẹo Nội đẩy mạnh sản xuất, luyện chắc tay súng, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Thời kỳ 1965 - 1970, sản lượng điện giảm từ 633,6 triệu kWh xuống còn 501 triệu kWh, than giảm từ 4,2 triệu tấn xuống còn 2,7 triệu tấn, máy cắt gọt kim loại giảm từ 1.866 cái xuống còn 1.857 cái, ximăng giảm từ 573 nghìn tấn xuống còn 524 nghìn tấn, vải giảm từ 100,3 triệu mét xuống còn 89,4 triệu mét... Tính theo tỷ lệ, những sản phẩm giảm nhiều trong khoảng 30 - 50%. Những sản phẩm mức sản xuất tăng lên chủ yếu thuộc công nghiệp địa phương do chủ trương đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương, do công nghiệp địa phương chú trọng khai thác nguyên vật liệu tại chỗ, nên ít bị ảnh hưởng bởi chiến tranh.

Đến năm 1971 (năm cuối cùng của thời kỳ ba năm khôi phục kinh tế), tình hình thực hiện kế hoạch đã tiến bộ hơn, giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đã tăng 14% so với kế hoạch đề ra, cụ thể công nghiệp trung ương tăng 17,5% công nghiệp địa phương tăng 11,2%, nhìn chung đã vượt so với mức trước chiến tranh 2,7%. Các sản phẩm quan trọng như điện, than, supe lân, vải, giấy... đều vượt kế hoạch.

Nữ tự vệ

Nữ tự vệ Phạm Thị Viễn, Khẩu đội 1, Trung đội dân quân tự vệ Nhà máy khí Mai Động đã bắn rơi một chiếc F-111A “cánh cụp cánh xòe” (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Công cuộc khôi phục đang tiến hành được 3 năm thì vào giữa năm 1972, đế quốc Mỹ lại bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai. Tuy chiến tranh phá hoại lần này chỉ kéo dài chưa đầy 1 năm, nhưng mức độ hủy diệt của bằng cả 4 năm của lần trước cộng lại.

Ngay khi chiến tranh leo thang vừa chấm dứt, ngày 23/01/1973, tắt Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình Việt Nam, thì ngày 24/01/1973, Ban thư đã ra Chỉ thị số 200-CT/TW, yêu cầu mỗi cấp chính quyền ngành kinh tế phải nắm chắc, giải quyết nhanh hiệu quả các vấn đề về ổn định sản xuất2.

Tiếp đến, ngày 25/6/1973, Bộ Chính trị Thông báo số 04-TB/TW về nhiệm vụ khôi phục phát triển kinh tế 1973 - 1975, nhấn mạnh: 1973, 1974, 1975 ba năm khôi phục phát triển kinh tế, nằm trong quá trình thực hiện bước đi ban đầu của thời kỳ công nghiệp hóa hội chủ nghĩa miền Bắc3.

Nghị quyết số 229-NQ/TW ngày 22/01/1974 Hội nghị lần thứ 22 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nhiệm vụ, phương hướng khôi phục phát triển kinh tế miền Bắc trong hai năm 1974 - 1975 đã đề ra nhiệm vụ cấp bách khẩn trương hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục mức sản xuất công nghiệp ngang trước chiến tranh hoặc chí ít bằng năm 1971, tăng cường sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa hội miền Bắc4.

Công cuộc khôi phục phát triển công nghiệp lần này tập trung vào một số ngành bản như các ngành sản xuất vật liệu xây dựng năng lượng; phát triển các ngành khí chế tạo lan, tàu kéo, sửa chữa ôtô, xe máy phục vụ cho khôi phục giao thông vận tải; sản xuất hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu; ngoài ra, đẩy mạnh các ngành khai thác cá, muối, nước mắm...

Vốn đầu xây dựng bản công nghiệp trong ba năm 1973 - 1975 3 tỉ đồng, gấp hơn 1,2 lần so với tổng vốn đầu xây dựng bản của 6 năm trước (1965 - 1971); trong đó, vốn cho khởi công các công trình mới 465 triệu đồng chiếm 15% vốn đầu xây dựng bản. Riêng năm 1973, vốn đầu 823 triệu đồng, vốn xây lắp tăng lên 378 triệu đồng, được ưu tiên cho các ngành: Điện: 53 triệu đồng (14%), Thực phẩm: 46 triệu đồng (11%), khí: 42 triệu đồng (10%), Luyện kim: 23 triệu đồng (7%)... Vốn đầu trên hạn ngạch 200 triệu đồng dành cho khôi phục tiếp tục các công trình dở dang trong chiến tranh; vốn cho khởi công các công trình mới 35 triệu đồng5.

Những ngành đã thực hiện khôi phục cải tạo tốt điện, than, vật liệu xây dựng, khí sửa chữa đóng mới phương tiện vận tải, sản xuất phụ tùng, phụ kiện cho khôi phục phát triển kinh tế. Những công trình quan trọng được khôi phục, cải tạo mở rộng mỏ than Vàng Danh: 1,8 triệu tấn/năm, mỏ than Mông Dương: 0,9 triệu tấn/năm, cải tạo Nhà máy Nhiệt điện Uông đợt II III: công suất 50 MW, Nhiệt điện Thái Nguyên: 24 MW, khí Nội: 2.410 tấn sản phẩm, Supe Phốtphát Lâm Thao đợt II: 30 vạn tấn/năm, Ximăng Hải Phòng: 80 vạn tấn/năm...

Các công trình dở dang trong chiến tranh được tiếp tục đầu các công trình mới được xây dựng đã đi vào sản xuất các nhà máy: Dệt Minh Phương (Vĩnh Phú): 50 triệu mét vải/năm, In nhãn hiệu Vĩnh Phú: 1.000 tấn/năm, Nhiệt điện Ninh Bình: công suất 100 MW, Thủy điện Thác Bà: công suất 108 MW, Luyện thép Thái Nguyên: 12 vạn tấn, Cán thép Gia Sàng: 5 vạn tấn, Phân đạm Bắc: 6 vạn tấn, khí Trung tâm Cẩm Phả: 17.000 tấn sản phẩm, Đóng tàu Bạch Đằng: 3 nghìn tấn, Khóa Minh Khai: 1.000 tấn sản phẩm, Động Điện Hunggari: 1.600 tấn sản phẩm, khí Nông nghiệp: 5.000 tấn sản phẩm (máy kéo nhỏ), Gạch Bỉm Sơn Gạch Xuân Hòa: 15 triệu viên/năm...

Tổng đầu cho công nghiệp giai đoạn 1973 - 1975 tăng 9,7 lần so với giai đoạn khôi phục kinh tế 1955 - 19576.

Nhờ đẩy nhanh tốc độ khôi phục, cải tạo xây dựng mới, sở vật chất - kỹ thuật năng lực sản xuất của ngành Công nghiệp miền Bắc năm 1975 đã được khôi phục tăng lên đáng kể, không những chỉ thay đổi về lượng còn thay đổi về chất. Tính chung, trong cả thời kỳ 10 năm (1965 - 1975), vốn đầu xây dựng bản cho công nghiệp 4.325 triệu đồng, chiếm 35 - 37% vốn đầu kiến thiết của cả nền kinh tế gấp 2 lần tổng vốn đầu xây dựng bản công nghiệp của thời kỳ 10 năm trước gộp lại (1955 - 1965). Nhờ thế, tài sản cố định trong công nghiệp tăng 107%.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp vẫn được duy trì. Trong giai đoạn này đã xây dựng 11 trường công nhân kỹ thuật, trong đó 3 trường được khởi công ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, đó các trường: khí Việt Đức, Kỹ thuật Khoan Sông Đà, khí Thủy lợi. Năm 1974, tuyển đào tạo 11 vạn công nhân kỹ thuật, trong đó gửi đi học nước ngoài 8,5 nghìn người, học các trường dạy nghề trung ương 7,5 vạn người các trường dạy nghề địa phương 2,65 vạn người; đào tạo đại học 1,8 vạn người trung học chuyên nghiệp 29 vạn người7. Như vậy, tổng số đào tạo từ bậc đại học trở xuống tới công nhân kỹ thuật học nghề trong năm 1974 khoảng 42 vạn người - đây quả một con số không nhỏ.

công nhân Supe

Các cán bộ, công nhân viên Nhà máy Supe Phốtphát Lâm Thao điều chế phân bón qua hệ thống cánh khuấy chạy điện8 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Công tác nghiên cứu khoa học vẫn được chú ý trong những năm chiến tranh, đặc biệt trong thời kỳ khôi phục. Hướng tập trung nghiên cứu sử dụng các nguyên, vật liệu thay thế, chế tạo các sản phẩm mới, cải tiến các sản phẩm đã có, tăng cường công tác quản chất lượng tiêu chuẩn hóa, công bố cấp giấy chứng nhận chỉ tiêu chất lượng, cải tiến kỹ thuật hợp hóa sản xuất, áp dụng các tiến bộ công nghệ mới để tăng hiệu quả chất lượng sản phẩm.

lốp xe đạp

Những chiếc lốp xe đạp vừa được tháo ra từ khuôn hấp của dây chuyền sản xuất mới của Nhà máy Cao su Sao Vàng Nội, tháng 10/1974 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Những chủ trương nỗ lực kể trên đã đem lại kết quả khá tốt: Năm 1975, ngành Công nghiệp làm ra giá trị sản lượng 4.100 triệu đồng (tính theo giá cũ), tăng 77% so với năm 1965 năm bước vào chiến tranh phá hoại gấp 2,8 lần năm 1960. Về tốc độ phát triển giá trị sản lượng công nghiệp, trong giai đoạn 1965 - 1968 giảm sút, giai đoạn 1971 - 1975 đã sự tăng trưởng khá hơn, đạt tốc độ tăng bình quân 10,3%/năm. Tỷ trọng công nghiệp trong tổng giá trị sản lượng công - nông nghiệp được duy trì mức trên 50%, cụ thể là: năm 1965 chiếm 53,3%, năm 1969 chiếm 53,9% năm 1975 chiếm 55%. Mặc trong hoàn cảnh chiến tranh, song công nghiệp địa phương công nghiệp nhẹ đã nhanh chóng vươn lên trong các năm 1966 - 1970; bình quân hằng năm, công nghiệp nặng chỉ tăng 0,5% thì công nghiệp nhẹ lại tăng 1,5%, công nghiệp trung ương giảm 1,8% thì công nghiệp địa phương lại tăng 3,6%.

Những chủ trương nỗ lực kể trên đã đem lại kết quả khá tốt: Năm 1975, ngành Công nghiệp làm ra giá trị sản lượng 4.100 triệu đồng (tính theo giá cũ), tăng 77% so với năm 1965 năm bước vào chiến tranh phá hoại gấp 2,8 lần năm 1960. Về tốc độ phát triển giá trị sản lượng công nghiệp, trong giai đoạn 1965 - 1968 giảm sút, giai đoạn 1971 - 1975 đã sự tăng trưởng khá hơn, đạt tốc độ tăng bình quân 10,3%/năm. Tỷ trọng công nghiệp trong tổng giá trị sản lượng công - nông nghiệp được duy trì mức trên 50%, cụ thể là: năm 1965 chiếm 53,3%, năm 1969 chiếm 53,9% năm 1975 chiếm 55%. Mặc trong hoàn cảnh chiến tranh, song công nghiệp địa phương công nghiệp nhẹ đã nhanh chóng vươn lên trong các năm 1966 - 1970; bình quân hằng năm, công nghiệp nặng chỉ tăng 0,5% thì công nghiệp nhẹ lại tăng 1,5%, công nghiệp trung ương giảm 1,8% thì công nghiệp địa phương lại tăng 3,6%.

Sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 1975 đã đạt vượt so với năm 1965: điện phát ra đạt 1.333,9 triệu kWh (tương đương 210%), than sạch: 5,2 triệu tấn (tương đương 123%), máy phát điện diesel: 2.075 cái (tương đương 242%), động điện: 10.069 cái (tương đương 176,2%), tàu kéo ca nô: 115 cái (tương đương 130,6%), cày bừa cải tiến: 302,5 nghìn cái (tương đương 141%), phân bón hóa học: 423 nghìn tấn (tương đương 293,7%), thuốc trừ sâu: 4.683 tấn (tương đương 127,4%), vải mặc: 105,2 triệu mét (tương đương 105%), quần áo dệt kim: 19,1 triệu cái (tương đương 241%), nước chấm: 20 triệu lít (tương đương 471,6%)9...

Cùng với thắng lợi của khôi phục phát triển công nghiệp, vào năm 1975, lần đầu tiên nền kinh tế miền Bắc đã đạt được chỉ tiêu “Ba số 5”, đó là: 5 triệu tấn than, 5 triệu tấn thóc 5 triệu con lợn. Điều này thật ý nghĩa với một nước nghèo vừa ra khỏi chiến tranh ác liệt; đây căn cứ để đánh giá miền Bắc căn bản hoàn thành công cuộc khôi phục lần thứ hai vào năm 1975.

Binh đoàn Than

Năm 1967, gần 2.000 thợ mỏ một số đơn vị khác được tập hợp thành Binh đoàn Than gồm Tiểu đoàn 385, Tiểu đoàn 386 Tiểu đoàn 9. Kể từ khi được thành lập đến ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, những người lính Binh đoàn Than đã tham gia hàng trăm trận đánh lớn nhỏ.

Rất nhiều đồng chí chiến đấu anh dũng, lập chiến công, được phong tặng danh hiệu Dũng diệt Mỹ, Dũng diệt xe giới, Huân chương Giải phóng. Điển hình như: Chiến Nguyễn Xuân Hùng (công nhân Tuyển than Hòn Gai) cùng đồng đội bắn cháy 2 xe tăng, 1 xe giới; chiến Nguyễn Đức Bình (thợ mỏ Đèo Nai) cùng đồng đội đánh Kho xăng Nhà Bè, thiêu hủy hàng vạn lít xăng dầu; Tiểu đội trưởng Phạm Ngọc Niếp (thợ mỏ Thống Nhất) dũng cảm mưu trí, cùng đồng đội bắn chìm 1 tàu chiến của Mỹ - ngụy...

Thống sau năm 1975, trong gần 2.000 thợ mỏ vào chiến trường năm ấy, hơn 300 người lính Binh đoàn Than không bao giờ trở lại; gần 400 thương binh hoặc bị phơi nhiễm chất độc da cam.

Nguồn: Website của Vinacomin báo Quảng Ninh.

binh đoàn Than

Binh đoàn Than làm lễ xuất quân, năm 1967 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)


1. Viện Hàn lâm Khoa học hội Việt Nam, Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 13 (Từ năm 1965 đến năm 1975), Nxb. Khoa học hội, Nội, 2017, tr.42.

2, 3. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.34, tr.440, 71.

4. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.35, tr.9.

5. Xem Bộ Công Thương: lược lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.146.

6. Xem Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.375.

7. Xem Bộ Công Thương: lược lịch sử ngành Công Thương, Sđd, tr.147.

8. Năm 1974, Nhà máy Supe Phốtphát Lâm Thao (Vĩnh Phú) đã sản xuất vượt mức 220 tấn phân bón phục vụ vụ Đông Xuân.

9. Xem Bộ Công Thương: lược lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.148.

1. Vừa sản xuất vừa chiến đấu

Phương châm chuyển hướng kinh tế sang điều kiện thời chiến bảo vệ an toàn, tiếp tục sản xuất phục vụ chiến đấu. Tại Hội nghị cán bộ Đảng từ ngày 02 đến ngày 08/7/1965, thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam Duẩn đã nhấn mạnh đến vai trò của hậu phương lớn miền Bắc hội chủ nghĩa mối quan hệ gắn giữa sản xuất chiến đấu: “Có chuẩn bị tốt chiến đấu tốt mới bảo vệ được sản xuất. sản xuất dồi dào mới bảo đảm được chiến đấu”; “Phải đem toàn lực ra để đánh giặc đem toàn lực ra để sản xuất”1.

Trong chiến tranh phá hoại, các nghiệp công nghiệp hệ thống giao thông vận tải huyết mạch những mục tiêu hàng đầu của không quân Mỹ. Theo thống kê, hầu hết các khu công nghiệp, 100% các nhà máy điện, 345 nghiệp bị đánh phá nặng nề (cuộc chiến tranh phá hoại lần đầu 225 nghiệp lần thứ hai 120 nghiệp).

Đứng trước một thử thách khắc nghiệt khi không quân Mỹ tăng cường bắn phá miền Bắc, ngành Công Thương bước vào cuộc chiến đấu mới, vừa xây dựng sở vật chất cho chủ nghĩa hội, vừa chi viện cho miền Nam, phục vụ sự nghiệp thống nhất đất nước. Trong cuộc không chiến ác liệt, chỉ riêng bầu trời miền Bắc con đường huyền thoại Trường Sơn đã phải chịu 5 triệu tấn bom, mìn, hóa chất các loại, nhiều gấp 2,5 lần số bom không quân Mỹ rải xuống trong Chiến tranh thế giới thứ hai.

Từ tháng 6/1966, Nhà máy khí Nội đã di chuyển an toàn gần 1.500 tấn phương tiện, thiết bị đến 16 địa điểm Bắc (nay Bắc Ninh Bắc Giang); Nhà máy Dệt 8-3 với hơn 7.000 công nhân đã phân tán ra nhiều địa điểm nhưng vẫn duy trì sản xuất liên tục. Các đơn vị sản xuất trọng điểm khác như Nhà máy Xe lửa Gia Lâm, Nhà máy Gỗ Cầu Đuống, Nhà máy khí Trần Hưng Đạo, nghiệp Dược phẩm 1 (nay nghiệp Dược phẩm Trung ương 1), nghiệp Dược phẩm 2 (nay nghiệp Dược phẩm Trung ương 2), Nhà máy In Tiến Bộ... hàng chục nghìn công nhân, viên chức cùng người thân được tán ra khỏi nội thành.

Trong cuộc chiến vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu, các sở công nghiệp thương mại thành lập các đội tự vệ, sẵn sàng đương đầu với các cuộc tập kích đường không, bảo đảm các điều kiện cho hoạt động sản xuất thời chiến. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, từ ngày 18 đến ngày 29/12/1972, nhiều cán bộ, công chức thuộc khối quan các bộ: khí Luyện kim, Công nghiệp nhẹ, Nội thương, Ngoại thương, Vật đã trực tiếp tham gia vào các đơn vị tự vệ phòng không. Lưới lửa phòng không từ trên các nóc nhà 54 Hai Trưng, số 7 Tràng Thi, 91 Đinh Tiên Hoàng, 21 - 23 Ngô Quyền đan dày đặc, góp phần tạo nên các hệ thống phòng không tầm thấp, tầm cao hiệu quả của quân dân Thủ đô Nội.

Công nhân Điện

Cán bộ, công nhân viên Nhà máy Điện Yên Phụ diễn tập đánh địch giáp tại Nội, tháng 6/1966 (Ảnh: Trần Nguyên Hợi)

Ngành Điện với khẩu hiệu: “Tổ quốc cần điện như thể cần máu”; “Địch đánh ta phục hồi, địch lại đánh ta lại phục hồi” đã ăn sâu vào tiềm thức cán bộ, công nhân viên. Thực tế, nhiều nhà máy điện đã bị bom đạn giặc Mỹ tàn phá tan hoang. Trong điều kiện đó, nhiều sáng kiến đã ra đời. Để tránh thương vong, Nhà máy Nhiệt điện Thái Nguyên đã làm ống trượt chui vào hầm trú ẩn nhằm “thoát nhanh” khi máy bay địch ném bom. Sáng kiến này đã được áp dụng nhiều nhà máy điện trong suốt cuộc chiến chống máy bay Mỹ. Khi trạm bơm tuần hoàn Nhà máy Điện Việt Trì bị phá hỏng, cán bộ, công nhân viên đã tự thiết kế, lắp đặt trạm bơm số 2 cách đó khoảng 800 m, rút ngắn thời gian phục hồi hạn chế phạm vi đánh phá của máy bay địch.

Năm 1966, công trình “ống khói ngầm” của Nhà máy Điện Uông (đưa ống khói nhà máy chìm dưới lòng sông để ngụy trang, tránh máy bay địch ném bom) ra đời đã đi vào lịch sử như một sáng kiến đặc biệt, thể hiện nghị lực, ý chí kiên cường, bất khuất của tuổi trẻ - công nhân Nhà máy Điện Uông Bí. Ống khói ngầm khiến cho máy bay Mỹ tưởng Nhà máy đã “chết”, nhưng chúng không thể hình dung nổi dưới đống đổ nát, hoang tàn, Nhà máy vẫn phát điện, trái tim của hệ thống điện miền Bắc vẫn đập với sức sống diệu kỳ.

Tự vệ thép

Đội tự vệ xưởng Luyện cốc - Công ty Gang thép Thái Nguyên chiến đấu bảo vệ Khu Gang thép (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Khu Gang thép Thái Nguyên, một trọng điểm bắn phá của không quân Mỹ, những năm tháng ấy đã thành lập lực lượng tự vệ tất cả các đơn vị. Các đơn vị tự vệ được trang bị súng phòng không, sau này còn pháo cao xạ 37 mm, góp phần cùng Bộ đội chính quy Trung đoàn 256 - Quân khu Việt Bắc giăng lưới lửa khi máy bay địch đánh phá Thái Nguyên, tấn công Nhà máy. Từ năm 1966 đến cuối năm 1972, không quân Mỹ đã huy động hơn 1.700 lần, trong đó 42 lần máy bay B.52 với 115 trận đánh phá, thả gần 3.000 quả bom các loại xuống Khu Gang thép Thái Nguyên, nhưng chúng không đạt được mục đích phá hoại nhà máy, làm ngưng trệ sản xuất. Công nhân, đội “tự vệ thép” với khẩu hiệu “Bám máy, bám lò” sẵn sàng “đổi máu lấy thép” đã di chuyển phân xưởng, dây chuyền ra khỏi mục tiêu, vừa sản xuất, vừa anh dũng chiến đấu. Những mẻ gang vẫn ra đi khắp mọi miền Tổ quốc. Trên bầu trời Khu Gang thép Thái Nguyên đã 59 máy bay bị bắn hạ, 5 phi công Mỹ bị tự vệ bắt sống tại chỗ.

Trong hai lần chiến tranh phá hoại do không quân Mỹ tiến hành, vùng mỏ Quảng Ninh đã trải qua 1.500 ngày trực tiếp đối mặt với các cuộc oanh kích. Trong 1.500 ngày đêm ấy, không quân Mỹ đã đánh vào vùng mỏ Quảng Ninh 2.340 trận, rải 28.531 quả bom, mìn, thủy lôi các loại, gây thiệt hại về tài sản hết sức nặng nề cho các mỏ than.

Nhưng cũng chính trong điều kiện chiến tranh ác liệt, gian khổ ấy, bản lĩnh ý chí quyết chiến, quyết thắng của công nhân vùng mỏ Quảng Ninh tỏa sáng, một trong những tấm gương tiêu biểu Đại đội trưởng tự vệ Than Hòn Gai - Anh hùng Lực lượng trang Đặng Hát. Anh hùng Đặng Hát sinh năm 1936 tại thôn Đồng Tái, Thống Kênh, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Ông bộ đội trở về từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, rồi vào làm tại phân xưởng Đống - Bến của nghiệp Than Hòn Gai (nay Công ty Tuyển than Hòn Gai).

Ngày 20/8/1960, tự vệ bến Hòn Gai ra đời cùng với ngày thành lập nghiệp Bến Hòn Gai, trận địa pháo phòng không 37 mm thuộc lực lượng tự vệ đã tham gia nhiều trận chiến đấu, bắn rơi nhiều máy bay địch, trong đó trận đánh trả không quân Mỹ ngày 05/8/1964 trận đầu đánh thắng giặc Mỹ xâm lược đánh phá miền Bắc đã đi vào lịch sử. Năm 1968, Đại đội pháo cao xạ 37 mm được thành lập thuộc nghiệp Bến Hòn Gai, do Đặng Hát làm Đại đội trưởng, gồm 4 khẩu đội pháo, với biên chế 45 người.

Ngay khi nhận nhiệm vụ, Đại đội trưởng Đặng Hát đã chỉ huy đơn vị tích cực huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu cao. Ông đã mang kinh nghiệm từ những tháng năm trong quân ngũ vận dụng vào xây dựng lực lượng tự vệ bán trang.

Đặng Bá Hát

Đại đội trưởng Đặng Hát đồng đội trên trận địa (Ảnh: Công ty Tuyển than Hòn Gai)

Chiều 12/7/1972, không quân Mỹ đánh phá bến phà Bãi Cháy. Đại đội trưởng Đặng Hát toàn khẩu đội tập trung cao độ quan sát mục tiêu, bắn trả quyết liệt. Không quân Mỹ đã nghi binh, dùng 2 máy bay bay thấp, ném bom trúng trận địa. Đặng Hát bị mảnh bom xuyên thủng bụng, một tay giữ chặt vết thương, tay kia ông vẫn phất cờ lệnh miệng còn hô: Bắn! Nhưng vết thương quá nặng, Đặng Hát đã anh dũng hy sinh bên mâm pháo.

Sau khi Đặng Hát hy sinh, cờ lệnh trong trận đánh ngày 12/7/1972 được sưu tầm hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Quân khu III. Đây một kỷ vật cùng thiêng liêng sức lan tỏa sâu rộng đối với khách tham quan trong công tác tuyên truyền giáo dục lòng yêu nước, sự hy sinh quên mình sự nghiệp cách mạng của các thế hệ đi trước cho thế hệ trẻ hôm nay mai sau.

Liệt Đặng Hát được Đảng Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng trang. Tấm gương người chiến tự vệ anh hùng Đặng Hát mãi khắc sâu trong lòng người dân vùng Mỏ, tên anh đã đi vào các tác phẩm thơ ca được đặt cho một con đường của thành phố Hạ Long.

Tại Nội, cả ngành Công nghiệp nhẹ - ngành hàng sản xuất hàng tiêu dùng cũng nằm trong số mục tiêu phá hoại của không quân Mỹ. Những đôi tay quen cầm thoi, dệt vải... của chị em công nhân Nhà máy Dệt 8-3 đã buộc phải cầm súng. Hệ thống phòng không được triển khai nhanh chóng. Từ các cửa phân xưởng, hệ thống hào giao thông được xây bằng gạch chắc chắn, đường hào chữ chi chạy xung quanh nhà máy; khi báo động, công nhân xách súng chạy theo hào giao thông đến trận địa. Năm 1966, nhà máy tổ chức được một tiểu đoàn tự vệ gồm 5 đại đội, 134 trung đội, 2 tiểu đội trực thuộc; bộ phận hành chính tổ chức các đội công binh, hóa học, cứu sập, cứu thương, thông tin liên lạc... Phối hợp với trận địa cao xạ của Bộ lệnh Quân khu Thủ đô, tự vệ nhà máy bố trí lưới lửa theo hai tuyến: tuyến trên cao gồm 8 tổ súng trường, 2 đại liên, 1 trung liên, đặt trên nóc phân xưởng đay, sợi, dệt. Tuyến mặt đất gồm 7 tổ, bố trí trận địa phân xưởng Nhuộm, Thoi suốt, khí. Đội hình chiến đấu hiệp đồng chặt chẽ với trận địa của Nhà máy khí Mai Động, Nhà máy Kẹo Hải Châu, Nhà máy Xay Lương Yên, tạo thành lưới lửa phía đông nam thành phố.

Tại Nhà máy Liên hiệp Dệt Nam Định, ngày, Mỹ ném bom 2 - 3 trận. vậy, thời gian này, nhiều người gọi Nhà máy “Cồn Cỏ của Thành Nam”. Từ tháng 7/1965 đến tháng 12/1972, máy bay Mỹ đã gây ra hậu quả rất nặng nề: phá hủy 22% thiết bị máy móc 70% nhà xưởng, 151 cán bộ, công nhân viên chức hy sinh, 197 người bị thương.

Để bảo vệ sản xuất, Nhà máy thành lập 1 tiểu đoàn tự vệ (gồm 3 đại đội) 1 trung đội trực chiến lưu động gồm 283 cán bộ, chiến sĩ, trong đó 131 nữ dưới sự chỉ đạo của Tỉnh đội. “Đội bom sản xuất” hình ảnh công nhân Nhà máy Dệt Nam Định thời kỳ này. Vừa hăng hái sản xuất, lực lượng tự vệ nhà máy còn tham gia chiến đấu tất cả các trận cùng quân dân thành phố, đánh trả quyết liệt máy bay Mỹ. trận tự vệ nhà máy đã bổ sung, tăng cường 18 pháo thủ cho một đơn vị pháo cao xạ của bộ đội trên địa bàn thị Phủ Lý. Không chỉ nam công nhân tham gia chiến đấu, các chị em công nhân cũng rất anh dũng trên mọi mặt trận, nhiều chị đã hy sinh khi tuổi đời còn trẻ, như chị Thị Minh Nguyệt, đảng viên Đảng bộ Nhà máy Dệt Nam Định. Chị Nguyệt đã cùng đồng đội đánh trả máy bay Mỹ 21 trận. Trận thứ 22 chiến đấu bảo vệ cầu Phủ Lý, diễn ra vào chiều 07/7/1967, chị bị thương nhưng không cho đồng đội biết, vẫn tiếp tục chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng.

công nhân dệt

Công nhân Nhà máy Liên hiệp Dệt Nam Định vừa sản xuất, vừa đeo súng sẵn sàng chiến đấu (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Trong những trận quyết chiến bảo vệ sản xuất, bảo vệ nguồn lực của hậu phương miền Bắc để chi viện cho miền Nam, cán bộ, người lao động ngành Công Thương đã ghi nhiều chiến công vào trang vàng lịch sử của dân tộc. Khu Gang thép Thái Nguyên đã bắn hạ 59 máy bay của không quân Mỹ, 5 phi công Mỹ bị tự vệ bắt sống tại chỗ; ngày 10/12/1967, chị Lưu Thị Xuân cùng tự vệ Nhà máy Dệt 8-3 bắn rơi một máy bay phản lực Mỹ; ngày 13/8/1968, chỉ với 14 viên đạn 12 ly 7, tự vệ Nhà máy Dệt 8-3 lại bắn rơi một máy bay không người lái; tháng 7/1968, đội tự vệ của May 10 hiệp đồng với đơn vị bạn bắn rơi 1 máy bay phản lực Mỹ Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, Thành phố Nội; ngày 07/02/1972, lực lượng tự vệ của Đèo Nai đã anh dũng chiến đấu bắn rơi được 1 máy bay Mỹ, góp phần vào thành tích bắn rơi chiếc máy bay thứ 200 của vùng Mỏ trên bầu trời miền Bắc; ngày 10/5/1972, tự vệ Nhà máy Điện Yên Phụ bắn rơi 1 máy bay F4 của Mỹ; ngày 27/6/1972 tự vệ Nhà máy Phân lân Văn Điển bắn rơi 1 máy bay F4 của Mỹ; đêm 19/12/1972, tự vệ Kho xăng dầu Thượng bắn rơi chiếc máy bay AD6 của Mỹ; đêm ngày 22/12/1972, tự vệ Nhà máy khí Mai Động phối hợp với tự vệ Nhà máy Dệt kim Đông Xuân Nội bắn rơi 1 chiếc F-111A “cánh cụp cánh xòe”... Những chiến công đó không những bảo đảm cho dòng điện, nguồn xăng dầu, vật tư, nguyên liệu, hàng tiêu dùng lưu thông mạnh mẽ trên thị trường, còn góp phần cùng quân dân miền Bắc đập tan các cuộc tập kích đường không chiến lược của không quân Hoa Kỳ.

Mặc đã tán những phân xưởng, thậm chí cả nhà máy công nghiệp quan trọng ra khỏi đô thị bảo vệ khá hữu hiệu sở sản xuất, nhưng sản xuất công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, do lực lượng lao động trẻ khỏe được huy động vào chiến trường. Mặt khác, tình trạng thiếu nguyên, nhiên, vật liệu trầm trọng, các thiết bị máy móc bị đánh phá hỏng chưa kịp sửa chữa hoặc sửa chữa vội không đảm bảo an toàn, sự cố thường xảy ra. Do đó, sản xuất công nghiệp bị giảm sút trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, đặc biệt những ngành trọng điểm đánh phá của không quân Mỹ

Tự vệ Bánh kẹo

Tự vệ Nhà máy Bánh kẹo Nội đẩy mạnh sản xuất, luyện chắc tay súng, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Thời kỳ 1965 - 1970, sản lượng điện giảm từ 633,6 triệu kWh xuống còn 501 triệu kWh, than giảm từ 4,2 triệu tấn xuống còn 2,7 triệu tấn, máy cắt gọt kim loại giảm từ 1.866 cái xuống còn 1.857 cái, ximăng giảm từ 573 nghìn tấn xuống còn 524 nghìn tấn, vải giảm từ 100,3 triệu mét xuống còn 89,4 triệu mét... Tính theo tỷ lệ, những sản phẩm giảm nhiều trong khoảng 30 - 50%. Những sản phẩm mức sản xuất tăng lên chủ yếu thuộc công nghiệp địa phương do chủ trương đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương, do công nghiệp địa phương chú trọng khai thác nguyên vật liệu tại chỗ, nên ít bị ảnh hưởng bởi chiến tranh.

Đến năm 1971 (năm cuối cùng của thời kỳ ba năm khôi phục kinh tế), tình hình thực hiện kế hoạch đã tiến bộ hơn, giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đã tăng 14% so với kế hoạch đề ra, cụ thể công nghiệp trung ương tăng 17,5% công nghiệp địa phương tăng 11,2%, nhìn chung đã vượt so với mức trước chiến tranh 2,7%. Các sản phẩm quan trọng như điện, than, supe lân, vải, giấy... đều vượt kế hoạch.

Nữ tự vệ

Nữ tự vệ Phạm Thị Viễn, Khẩu đội 1, Trung đội dân quân tự vệ Nhà máy khí Mai Động đã bắn rơi một chiếc F-111A “cánh cụp cánh xòe” (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Công cuộc khôi phục đang tiến hành được 3 năm thì vào giữa năm 1972, đế quốc Mỹ lại bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai. Tuy chiến tranh phá hoại lần này chỉ kéo dài chưa đầy 1 năm, nhưng mức độ hủy diệt của bằng cả 4 năm của lần trước cộng lại.

Ngay khi chiến tranh leo thang vừa chấm dứt, ngày 23/01/1973, tắt Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình Việt Nam, thì ngày 24/01/1973, Ban thư đã ra Chỉ thị số 200-CT/TW, yêu cầu mỗi cấp chính quyền ngành kinh tế phải nắm chắc, giải quyết nhanh hiệu quả các vấn đề về ổn định sản xuất2.

Tiếp đến, ngày 25/6/1973, Bộ Chính trị Thông báo số 04-TB/TW về nhiệm vụ khôi phục phát triển kinh tế 1973 - 1975, nhấn mạnh: 1973, 1974, 1975 ba năm khôi phục phát triển kinh tế, nằm trong quá trình thực hiện bước đi ban đầu của thời kỳ công nghiệp hóa hội chủ nghĩa miền Bắc3.

Nghị quyết số 229-NQ/TW ngày 22/01/1974 Hội nghị lần thứ 22 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nhiệm vụ, phương hướng khôi phục phát triển kinh tế miền Bắc trong hai năm 1974 - 1975 đã đề ra nhiệm vụ cấp bách khẩn trương hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục mức sản xuất công nghiệp ngang trước chiến tranh hoặc chí ít bằng năm 1971, tăng cường sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa hội miền Bắc4.

Công cuộc khôi phục phát triển công nghiệp lần này tập trung vào một số ngành bản như các ngành sản xuất vật liệu xây dựng năng lượng; phát triển các ngành khí chế tạo lan, tàu kéo, sửa chữa ôtô, xe máy phục vụ cho khôi phục giao thông vận tải; sản xuất hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu; ngoài ra, đẩy mạnh các ngành khai thác cá, muối, nước mắm...

Vốn đầu xây dựng bản công nghiệp trong ba năm 1973 - 1975 3 tỉ đồng, gấp hơn 1,2 lần so với tổng vốn đầu xây dựng bản của 6 năm trước (1965 - 1971); trong đó, vốn cho khởi công các công trình mới 465 triệu đồng chiếm 15% vốn đầu xây dựng bản. Riêng năm 1973, vốn đầu 823 triệu đồng, vốn xây lắp tăng lên 378 triệu đồng, được ưu tiên cho các ngành: Điện: 53 triệu đồng (14%), Thực phẩm: 46 triệu đồng (11%), khí: 42 triệu đồng (10%), Luyện kim: 23 triệu đồng (7%)... Vốn đầu trên hạn ngạch 200 triệu đồng dành cho khôi phục tiếp tục các công trình dở dang trong chiến tranh; vốn cho khởi công các công trình mới 35 triệu đồng5.

Những ngành đã thực hiện khôi phục cải tạo tốt điện, than, vật liệu xây dựng, khí sửa chữa đóng mới phương tiện vận tải, sản xuất phụ tùng, phụ kiện cho khôi phục phát triển kinh tế. Những công trình quan trọng được khôi phục, cải tạo mở rộng mỏ than Vàng Danh: 1,8 triệu tấn/năm, mỏ than Mông Dương: 0,9 triệu tấn/năm, cải tạo Nhà máy Nhiệt điện Uông đợt II III: công suất 50 MW, Nhiệt điện Thái Nguyên: 24 MW, khí Nội: 2.410 tấn sản phẩm, Supe Phốtphát Lâm Thao đợt II: 30 vạn tấn/năm, Ximăng Hải Phòng: 80 vạn tấn/năm...

Các công trình dở dang trong chiến tranh được tiếp tục đầu các công trình mới được xây dựng đã đi vào sản xuất các nhà máy: Dệt Minh Phương (Vĩnh Phú): 50 triệu mét vải/năm, In nhãn hiệu Vĩnh Phú: 1.000 tấn/năm, Nhiệt điện Ninh Bình: công suất 100 MW, Thủy điện Thác Bà: công suất 108 MW, Luyện thép Thái Nguyên: 12 vạn tấn, Cán thép Gia Sàng: 5 vạn tấn, Phân đạm Bắc: 6 vạn tấn, khí Trung tâm Cẩm Phả: 17.000 tấn sản phẩm, Đóng tàu Bạch Đằng: 3 nghìn tấn, Khóa Minh Khai: 1.000 tấn sản phẩm, Động Điện Hunggari: 1.600 tấn sản phẩm, khí Nông nghiệp: 5.000 tấn sản phẩm (máy kéo nhỏ), Gạch Bỉm Sơn Gạch Xuân Hòa: 15 triệu viên/năm...

Tổng đầu cho công nghiệp giai đoạn 1973 - 1975 tăng 9,7 lần so với giai đoạn khôi phục kinh tế 1955 - 19576.

Nhờ đẩy nhanh tốc độ khôi phục, cải tạo xây dựng mới, sở vật chất - kỹ thuật năng lực sản xuất của ngành Công nghiệp miền Bắc năm 1975 đã được khôi phục tăng lên đáng kể, không những chỉ thay đổi về lượng còn thay đổi về chất. Tính chung, trong cả thời kỳ 10 năm (1965 - 1975), vốn đầu xây dựng bản cho công nghiệp 4.325 triệu đồng, chiếm 35 - 37% vốn đầu kiến thiết của cả nền kinh tế gấp 2 lần tổng vốn đầu xây dựng bản công nghiệp của thời kỳ 10 năm trước gộp lại (1955 - 1965). Nhờ thế, tài sản cố định trong công nghiệp tăng 107%.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp vẫn được duy trì. Trong giai đoạn này đã xây dựng 11 trường công nhân kỹ thuật, trong đó 3 trường được khởi công ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, đó các trường: khí Việt Đức, Kỹ thuật Khoan Sông Đà, khí Thủy lợi. Năm 1974, tuyển đào tạo 11 vạn công nhân kỹ thuật, trong đó gửi đi học nước ngoài 8,5 nghìn người, học các trường dạy nghề trung ương 7,5 vạn người các trường dạy nghề địa phương 2,65 vạn người; đào tạo đại học 1,8 vạn người trung học chuyên nghiệp 29 vạn người7. Như vậy, tổng số đào tạo từ bậc đại học trở xuống tới công nhân kỹ thuật học nghề trong năm 1974 khoảng 42 vạn người - đây quả một con số không nhỏ.

công nhân Supe

Các cán bộ, công nhân viên Nhà máy Supe Phốtphát Lâm Thao điều chế phân bón qua hệ thống cánh khuấy chạy điện8 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Công tác nghiên cứu khoa học vẫn được chú ý trong những năm chiến tranh, đặc biệt trong thời kỳ khôi phục. Hướng tập trung nghiên cứu sử dụng các nguyên, vật liệu thay thế, chế tạo các sản phẩm mới, cải tiến các sản phẩm đã có, tăng cường công tác quản chất lượng tiêu chuẩn hóa, công bố cấp giấy chứng nhận chỉ tiêu chất lượng, cải tiến kỹ thuật hợp hóa sản xuất, áp dụng các tiến bộ công nghệ mới để tăng hiệu quả chất lượng sản phẩm.

lốp xe đạp

Những chiếc lốp xe đạp vừa được tháo ra từ khuôn hấp của dây chuyền sản xuất mới của Nhà máy Cao su Sao Vàng Nội, tháng 10/1974 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Những chủ trương nỗ lực kể trên đã đem lại kết quả khá tốt: Năm 1975, ngành Công nghiệp làm ra giá trị sản lượng 4.100 triệu đồng (tính theo giá cũ), tăng 77% so với năm 1965 năm bước vào chiến tranh phá hoại gấp 2,8 lần năm 1960. Về tốc độ phát triển giá trị sản lượng công nghiệp, trong giai đoạn 1965 - 1968 giảm sút, giai đoạn 1971 - 1975 đã sự tăng trưởng khá hơn, đạt tốc độ tăng bình quân 10,3%/năm. Tỷ trọng công nghiệp trong tổng giá trị sản lượng công - nông nghiệp được duy trì mức trên 50%, cụ thể là: năm 1965 chiếm 53,3%, năm 1969 chiếm 53,9% năm 1975 chiếm 55%. Mặc trong hoàn cảnh chiến tranh, song công nghiệp địa phương công nghiệp nhẹ đã nhanh chóng vươn lên trong các năm 1966 - 1970; bình quân hằng năm, công nghiệp nặng chỉ tăng 0,5% thì công nghiệp nhẹ lại tăng 1,5%, công nghiệp trung ương giảm 1,8% thì công nghiệp địa phương lại tăng 3,6%.

Những chủ trương nỗ lực kể trên đã đem lại kết quả khá tốt: Năm 1975, ngành Công nghiệp làm ra giá trị sản lượng 4.100 triệu đồng (tính theo giá cũ), tăng 77% so với năm 1965 năm bước vào chiến tranh phá hoại gấp 2,8 lần năm 1960. Về tốc độ phát triển giá trị sản lượng công nghiệp, trong giai đoạn 1965 - 1968 giảm sút, giai đoạn 1971 - 1975 đã sự tăng trưởng khá hơn, đạt tốc độ tăng bình quân 10,3%/năm. Tỷ trọng công nghiệp trong tổng giá trị sản lượng công - nông nghiệp được duy trì mức trên 50%, cụ thể là: năm 1965 chiếm 53,3%, năm 1969 chiếm 53,9% năm 1975 chiếm 55%. Mặc trong hoàn cảnh chiến tranh, song công nghiệp địa phương công nghiệp nhẹ đã nhanh chóng vươn lên trong các năm 1966 - 1970; bình quân hằng năm, công nghiệp nặng chỉ tăng 0,5% thì công nghiệp nhẹ lại tăng 1,5%, công nghiệp trung ương giảm 1,8% thì công nghiệp địa phương lại tăng 3,6%.

Sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 1975 đã đạt vượt so với năm 1965: điện phát ra đạt 1.333,9 triệu kWh (tương đương 210%), than sạch: 5,2 triệu tấn (tương đương 123%), máy phát điện diesel: 2.075 cái (tương đương 242%), động điện: 10.069 cái (tương đương 176,2%), tàu kéo ca nô: 115 cái (tương đương 130,6%), cày bừa cải tiến: 302,5 nghìn cái (tương đương 141%), phân bón hóa học: 423 nghìn tấn (tương đương 293,7%), thuốc trừ sâu: 4.683 tấn (tương đương 127,4%), vải mặc: 105,2 triệu mét (tương đương 105%), quần áo dệt kim: 19,1 triệu cái (tương đương 241%), nước chấm: 20 triệu lít (tương đương 471,6%)9...

Cùng với thắng lợi của khôi phục phát triển công nghiệp, vào năm 1975, lần đầu tiên nền kinh tế miền Bắc đã đạt được chỉ tiêu “Ba số 5”, đó là: 5 triệu tấn than, 5 triệu tấn thóc 5 triệu con lợn. Điều này thật ý nghĩa với một nước nghèo vừa ra khỏi chiến tranh ác liệt; đây căn cứ để đánh giá miền Bắc căn bản hoàn thành công cuộc khôi phục lần thứ hai vào năm 1975.

Binh đoàn Than

Năm 1967, gần 2.000 thợ mỏ một số đơn vị khác được tập hợp thành Binh đoàn Than gồm Tiểu đoàn 385, Tiểu đoàn 386 Tiểu đoàn 9. Kể từ khi được thành lập đến ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, những người lính Binh đoàn Than đã tham gia hàng trăm trận đánh lớn nhỏ.

Rất nhiều đồng chí chiến đấu anh dũng, lập chiến công, được phong tặng danh hiệu Dũng diệt Mỹ, Dũng diệt xe giới, Huân chương Giải phóng. Điển hình như: Chiến Nguyễn Xuân Hùng (công nhân Tuyển than Hòn Gai) cùng đồng đội bắn cháy 2 xe tăng, 1 xe giới; chiến Nguyễn Đức Bình (thợ mỏ Đèo Nai) cùng đồng đội đánh Kho xăng Nhà Bè, thiêu hủy hàng vạn lít xăng dầu; Tiểu đội trưởng Phạm Ngọc Niếp (thợ mỏ Thống Nhất) dũng cảm mưu trí, cùng đồng đội bắn chìm 1 tàu chiến của Mỹ - ngụy...

Thống sau năm 1975, trong gần 2.000 thợ mỏ vào chiến trường năm ấy, hơn 300 người lính Binh đoàn Than không bao giờ trở lại; gần 400 thương binh hoặc bị phơi nhiễm chất độc da cam.

Nguồn: Website của Vinacomin báo Quảng Ninh.

binh đoàn Than

Binh đoàn Than làm lễ xuất quân, năm 1967 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)


1. Viện Hàn lâm Khoa học hội Việt Nam, Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 13 (Từ năm 1965 đến năm 1975), Nxb. Khoa học hội, Nội, 2017, tr.42.

2, 3. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.34, tr.440, 71.

4. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.35, tr.9.

5. Xem Bộ Công Thương: lược lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.146.

6. Xem Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.375.

7. Xem Bộ Công Thương: lược lịch sử ngành Công Thương, Sđd, tr.147.

8. Năm 1974, Nhà máy Supe Phốtphát Lâm Thao (Vĩnh Phú) đã sản xuất vượt mức 220 tấn phân bón phục vụ vụ Đông Xuân.

9. Xem Bộ Công Thương: lược lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.148.

II- CÔNG NGHIỆP

Tự vệ Bánh kẹo

Tự vệ Nhà máy Bánh kẹo Hà Nội đẩy mạnh sản xuất, luyện chắc tay súng, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

lò cao Thái Nguyên

Công nhân lò cao Công ty Gang thép Thái Nguyên thi đua sản xuất, năm 1966 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Điện Yên Phụ

Công nhân Nhà máy Điện Yên Phụ vận hành lò máy, tháng 9/1970 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

2. Phát triển công nghiệp địa phương

Ngày 07/7/1965, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 123-NQ/TW, yêu cầu các ngành kinh tế “căn cứ vào nhiệm vụ kế hoạch cụ thể của ngành mình và việc phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới để xác định cụ thể việc kiện toàn ở những bộ phận, những cấp cần thiết; nhưng phương hướng chung vẫn là chú trọng kiện toàn địa phương và các cơ sở sản xuất”1.

Tại Hội nghị về công nghiệp địa phương toàn miền Bắc tháng 11/1965, Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị đánh giá: Sự phát triển công nghiệp địa phương thực sự là một bước mới trong sự phát triển công nghiệp nước ta.

Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 12 (tháng 12/1965) cũng nhận định: “Ra sức phát triển công nghiệp địa phương trong lúc này cũng là rất phù hợp với yêu cầu lâu dài về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, vì kinh tế địa phương phát triển sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi, tạo ra thị trường vững chắc cho công nghiệp trung ương, đặc biệt cho công nghiệp nặng phát triển”2. Báo cáo nêu rõ nhiệm vụ kinh tế hai năm 1966 - 1967, như sau: “Ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp địa phương, tăng cường năng lực kinh tế do các địa phương quản lý,... nâng cao mức tự cung tự cấp, hết sức cố gắng giải quyết các nhu cầu về ăn, mặc, trang bị và sửa chữa, nhu cầu về một số nguyên liệu, vật liệu và các hàng tiêu dùng để đẩy mạnh sản xuất, chiến đấu và bảo đảm đời sống nhân dân ở từng tỉnh, từng vùng.

Tăng cường năng lực sản xuất công nghiệp do các bộ quản lý,... tận dụng công suất của các xí nghiệp, đẩy mạnh sản xuất để giải quyết nhu cầu thiết bị, về các nguyên liệu, vật liệu và hàng tiêu dùng mà trung ương phải phụ trách, tập trung sức viện trợ cho việc xây dựng và phát triển kinh tế địa phương”3.

Thực hiện chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, ngành Công Thương triển khai nhiệm vụ bảo vệ sản xuất kết hợp chặt chẽ với xây dựng nền công nghiệp đất nước theo hướng:

- Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, giữa sản xuất công nghiệp với sẵn sàng chiến đấu.

- Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp trung ương với công nghiệp địa phương.

- Xây dựng cơ sở nguyên liệu vững chắc cho công nghiệp địa phương.

- Đẩy mạnh trang bị kỹ thuật cho công nghiệp địa phương.

- Chú trọng bổ sung và tích cực đào tạo cán bộ, thợ lành nghề cho công nghiệp địa phương.

Các bộ quản lý ngành Công Thương dành một nguồn lực quan trọng để hỗ trợ công nghiệp địa phương. Bộ Công nghiệp nặng, Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Cơ khí và Luyện kim, Bộ Điện và Than chú trọng bảo đảm nguồn điện, mở rộng và nâng cao năng lực chế tạo, sửa chữa sản xuất cơ khí, tiến hành xây dựng điểm cơ khí huyện và các điểm cơ khí sửa chữa xã, kết hợp với xây các trạm phát điện diesel, trạm thủy điện nhỏ, trang bị máy hơi nước và khai thác than thủ công; tập trung đầu tư cho sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, các xưởng công nghiệp nhẹ về xẻ gỗ, đồ mộc, thủy tinh, đường mật, bánh kẹo; một số ngành chế tạo nông cụ cải tiến, máy bơm nước... Bên cạnh đó, hướng dẫn về kỹ thuật, đào tạo và cung cấp cán bộ, hướng dẫn làm kế hoạch, giúp đỡ kinh nghiệm quản lý cho công nghiệp địa phương.

Bộ Nội thương, Bộ Vật tư đẩy mạnh đặt hàng gia công và thu mua hàng công nghiệp địa phương, đặc biệt những mặt hàng cần thiết cho sản xuất, đời sống và chiến đấu; cung cấp hoặc hỗ trợ địa phương tự giải quyết phần lớn nhu cầu về tư liệu sản xuất, nhất là trang bị máy móc nhỏ, máy nông cụ, xăng dầu, phân bón...

Bộ Ngoại thương lập kế hoạch giảm nhập thiết bị toàn bộ để tăng nhập thiết bị lẻ trang bị cho công nghiệp địa phương; nghiên cứu các công nghệ thích hợp với trình độ của công nghiệp địa phương, để phục vụ trực tiếp cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Đồng thời, tăng cường xuất khẩu các mặt hàng có thế mạnh của địa phương, gồm thủ công nghiệp, hàng mỹ nghệ, hàng nông sản chế biến, cây công nghiệp; duy trì hàng xuất khẩu có truyền thống vào thị trường các nước tư bản để tạo ngoại tệ cho nhập khẩu thiết bị lẻ như phương tiện vận tải, máy cơ khí nhỏ, các thiết bị cho công nghiệp địa phương mà trong nước chưa sản xuất được.

xã viên Mễ Trì

Xã viên Hợp tác xã Mễ Trì Thượng, huyện Từ Liêm (nay thuộc quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội) tích cực tăng gia sản xuất, năm 1970 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Với sự giúp đỡ của công nghiệp và thương nghiệp trung ương, công nghiệp địa phương đã phát huy được thế mạnh của mình, phục vụ trước hết cho ba mục tiêu trong nông nghiệp lúc đó (mỗi lao động phấn đấu đạt 5 tấn thóc, 2 đầu lợn và 1 ha gieo trồng), đặc biệt, tập trung vào các khâu yếu là phân bón, thức ăn gia súc, nông cụ thường và cải tiến; riêng về sản xuất hàng hóa tiêu dùng, các địa phương đều có kế hoạch phấn đấu tự giải quyết 40 - 50% nhu cầu tại chỗ.

Vốn đầu tư vào công nghiệp địa phương trong ba năm 1965 - 1967 tăng gấp 33 lần 3 năm trước chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Ngay tại các tỉnh bị đánh phá ác liệt nhất như các tỉnh thuộc Khu IV cũ, mỗi tỉnh cũng xây dựng thêm hàng chục xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Nếu năm 1965, toàn miền Bắc có 1.132 xí nghiệp, trong đó có 205 xí nghiệp trung ương, 927 xí nghiệp địa phương; đến năm 1969 toàn miền Bắc có 1.352 xí nghiệp, trong đó có 277 xí nghiệp trung ương, 1075 xí nghiệp địa phương4. Như vậy, trong cùng thời gian, xí nghiệp trung ương tăng 72 cơ sở, công nghiệp địa phương tăng 148 cơ sở.

Vốn đầu tư xây dựng cơ bản công nghiệp địa phương tăng nhanh chóng, tăng từ 8,1 triệu đồng năm 1960 lên 40,3 triệu đồng năm 1965 và 150,5 triệu đồng năm 1975; chiếm tỷ trọng trong cơ cấu vốn đầu tư công nghiệp tương ứng là 3,2%, 6,7% và 20%.

Nhờ vậy, trong bối cảnh các cơ sở thuộc ngành công nghiệp trung ương như điện, than, cơ khí, luyện kim, vải vóc... là trọng điểm bắn phá trong chiến tranh phá hoại có sản lượng giảm sút, thì những sản phẩm điển hình của công nghiệp địa phương tăng mạnh. Từ năm 1965 đến năm 1970, máy phát diesel từ 1.113 cái tăng lên 1.170 cái; động cơ điện từ 5.712 cái tăng lên 10.206 cái; máy bơm thủy lợi từ 1.915 cái tăng lên 2.476 cái; cày, bừa cải tiến từ 214 nghìn cái tăng lên 366 nghìn cái; xe cải tiến từ 59.580 cái tăng lên 90.570 cái; mai, cuốc xẻng từ 1.250 nghìn cái tăng lên 1.998 nghìn cái; máy tuốt lúa từ 1.930 cái tăng lên 3.530 cái; máy xay xát gạo từ 1.150 cái tăng lên 2.480 cái; máy nghiền thức ăn gia súc từ 200 cái tăng lên 1.150 cái; phân bón hóa học từ 144 nghìn tấn tăng lên 182 nghìn tấn; thuốc trừ sâu từ 3.676 tấn tăng lên 7.314 tấn; vôi bón ruộng từ 580 nghìn tấn tăng lên 611 nghìn tấn; chiếu cói từ 2.638 nghìn đôi tăng lên 4.158 nghìn đôi; đồ thủy tinh từ 9.531 tấn tăng lên 12.512 tấn; đồ sứ dân dụng từ 53,4 triệu cái tăng lên 60,2 triệu cái; vải màn từ 25,42 triệu mét tăng lên 50,61 triệu mét; nước chấm từ 4,24 triệu lít tăng lên 22,36 triệu lít; mì chính từ 21 tấn tăng lên 67 tấn...

Giá trị tổng sản lượng công nghiệp địa phương cũng tăng nhanh chóng. Chỉ số giá trị năm 1960 là 100%, thì năm 1965 bằng 148%, năm 1975 là 287%.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.299.

2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.516-517.

4. Xem Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.255.

Danh mục

Tùy chỉnh