Tiểu thủ công nghiệp
Quá trình khai thác thuộc địa cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp nhìn chung không ảnh hưởng quá nhiều đến các ngành thủ công nghiệp tại Việt Nam. Mặc dù một số nghề truyền thống như nấu rượu, làm muối bị chế độ độc quyền của chính quyền thuộc địa làm cho tê liệt nhưng nhiều ngành như nghề nuôi tằm, ươm tơ, gốm sứ, đồ mỹ nghệ chạm khảm, sơn mài… có điều kiện phát triển tốt hơn.
Bên cạnh đó, nhiều sản phẩm tiểu thủ công nghiệp mới ra đời theo nhu cầu xã hội như các sản phẩm giày dép da, đồ thủy tinh,… Đáng chú ý, nhờ nâng cao năng suất và cải thiện chất lượng thông qua tiếp cận các kỹ thuật sản xuất mới, nhiều sản phẩm tiểu thủ công nghiệp của người Việt đã dần thay thế các mặt hàng nhập từ Trung Quốc vốn trước chiếm vị thế độc quyền trên thị trường. Sức sống và sự phát triển của nhiều nghề trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp dưới thời chính quyền thuộc địa chủ yếu có hai lý do:
Thứ nhất, chính quyền thuộc địa và giới thương nhân người Pháp đã sớm nhận thấy các sản phẩm thủ công nghiệp của Việt Nam với chất lượng tốt và giá rẻ sẽ đem lại nguồn lợi lớn nên có chủ trương phát huy các ưu thế của thủ công nghiệp bản địa trên thị trường Pháp và thị trường thế giới. Bên cạnh đó, việc quảng bá các sản phẩm thủ công tinh xảo của xứ thuộc địa sẽ giúp nâng cao vị thế của Chính phủ Pháp đối với công chúng nước này và các quốc gia khác. Thông qua các Hội chợ Đấu xảo tại Pháp và ở các nước khác, nhiều mặt hàng như tơ lụa, mây đan, sơn mài, thêu… của Việt Nam đã gây ấn tượng mạnh trên thị trường quốc tế, mở ra nguồn lợi lớn cho người Pháp. Năm 1917, Sở Kinh tế Đông Dương đã được thành lập tại Paris (Pháp), một trong những nhiệm vụ chính của cơ quan này là giới thiệu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Liên bang Đông Dương đến thị trường Pháp và các nước khác.
Thứ hai, chính quyền thuộc địa không có chủ trương phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, trong khi đó, giá các sản phẩm hàng tiêu dùng nhập khẩu quá cao so với đại bộ phận dân chúng nên các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp vẫn còn thị trường. Khi các hoạt động kinh tế được khởi sắc và điều kiện giao thương thuận lợi cũng giúp nhu cầu về các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp trên thị trường nội địa tăng lên.
Các mạng lưới sản xuất đồ thủ công tinh xảo trong khu phố cổ của Hà Nội, các làng nghề truyền thống hàng trăm năm tuổi với lực lượng thợ thủ công lành nghề, siêng năng ở Nam Định, Hà Đông, Bắc Ninh… đã khiến người Pháp sớm tin rằng xứ Bắc Kỳ là nơi có nhiều tiềm năng nhất tại Việt Nam và dành sự quan tâm đặc biệt để đẩy mạnh phát triển các mặt hàng thủ công bản địa tại đây.
Điển hình, Công ty Thương mại châu Á (Société Commerciale Asiatique) được người Pháp thành lập năm 1923, trụ sở tại Nam Định, chuyên xuất khẩu các sản phẩm thủ công sang châu Âu và Hoa Kỳ như tinh dầu các loại, chiếu, sản phẩm mây tre đan. Ngoài việc tuyển dụng hàng nghìn công nhân làm việc trực tiếp tại các xưởng thuộc điều hành của công ty tại Nam Định, công ty còn thu mua sản phẩm của hàng nghìn thợ thủ công tại khu vực Đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, Công ty Thương mại châu Á buộc phải ngưng toàn bộ các đơn hàng xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ và sa thải phần lớn nhân công.
(Nguồn: Tư bản Pháp với thủ công nghiệp Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 37,năm 1958)
Trong số các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, người Pháp chú trọng phát triển nhóm sản phẩm lụa tơ tằm, do đây là những sản phẩm có sức tiêu thụ “gần như vô hạn tại chính quốc (Pháp), sau khi chế tác còn có sức tiêu thụ rất lớn nữa tại Đông Á”12. Lụa Vạn Phúc (Hà Nội ngày nay) được người Pháp đánh giá là loại sản phẩm tinh xảo nhất Đông Dương, vào các năm 1931 và 1932 từng được chọn tham dự các Hội chợ Đấu xảo lớn ở Marseille và Paris (Pháp). Chính quyền thuộc địa đã miễn, giảm thuế cho hoạt động trồng dâu, thành lập các trạm thí nghiệm chọn, lai tạo giống dâu và giống tằm với kỹ thuật tiên tiến, phổ biến kỹ thuật đến người nuôi. Các tiến bộ cơ khí và sản xuất hiện đại đã được ứng dụng để nâng cao hiệu quả sản xuất. Diện tích canh tác dâu và sản lượng kén, tơ tăng mạnh qua các năm, đồng thời doanh số xuất khẩu tơ lụa tăng cao đã phản ánh sự phát triển của ngành nghề này.
Sự phát triển của ngành công nghiệp dệt hiện đại đã thúc đẩy diện tích trồng bông được mở rộng nhằm đáp ứng nhu cầu nguyên liệu đầu vào của các nhà máy dệt. Đồng thời, các cơ sở dệt vải, kéo sợi thủ công trước đây được hiện đại hóa và mở rộng sản xuất, gia công cho các nhà máy bông sợi. Một số thợ thủ công Việt tích lũy được vốn đã thuê thợ, mở xưởng hiện đại để sản xuất sản phẩm, trực tiếp bán ra thị trường.
Đối với nghề gốm, sứ thủ công, các thợ thủ công đã đẩy mạnh cải tiến chất lượng, kỹ thuật sản xuất, và sử dụng những chất liệu, họa tiết đặc trưng của địa phương để cải thiện mỹ thuật đã cạnh tranh mạnh với các sản phẩm gốm sứ Trung Quốc, Nhật Bản và sản phẩm gốm sứ công nghiệp. Một số sản phẩm gốm sứ có chất lượng cao như men rạn và sứ xanh từ các làng nghề truyền thống tại Bình Định, Quảng Ngãi, Móng Cái (Quảng Ninh)... được lựa chọn xuất hiện trong nhiều cuộc triển lãm, hội chợ trong và ngoài nước, thu hút sự quan tâm lớn của giới thương nhân và người tiêu dùng.
Tuy nhiên, giống như các lĩnh vực kinh tế khác, cuộc Đại khủng hoảng kinh tế trên thế giới vào những năm 1930 đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nhiều nghề thủ công tại Việt Nam trong giai đoạn sau này. Do không tiêu thụ được sản phẩm, hàng loạt xưởng dệt, đan lát, gốm sứ… phải đóng cửa. Trong đó, nghề trồng dâu, nuôi tằm lấy tơ còn chịu áp lực cạnh tranh gay gắt từ lụa nhân tạo khi mặt hàng này được đẩy mạnh nhập khẩu vào Đông Dương sau năm 1930. Giá tơ sống sụt giảm mạnh khiến nhiều làng nghề chuyên nuôi tằm lấy tơ bỏ nghề, đặc biệt là tại xứ Bắc Kỳ.
Sự kiện và nhân chứng lịch sử
Thợ thủ công
Toàn quyền Paul Doumer nhớ lại trong hồi ký L’Indo-Chine française (Souvenirs) (tạm dịch: Xứ Đông Dương):“Các thợ thủ công Bắc Kỳ làm việc chăm chỉ và thuần thục. Họ thành công một cách đáng ngưỡng mộ trong các công việc đòi hỏi tỉ mỉ và tinh xảo. Họ có khiếu thẩm mỹ, và một số người trong bọn họ là những nghệ nhân thực sự. Những thợ đúc đồng, thợ kim hoàn, thợ khảm men huyền, thợ thêu, thợ điêu khắc, thợ khảm đã tạo được một tiếng tăm xứng đáng. Họ không phải là những người thợ bắt chước một nền nghệ thuật ngoại quốc. Dẫu vẻ bề ngoài của những sản vật lộ rõ mối quan hệ với những đồ vật Nhật Bản và Trung Hoa, thì chúng vẫn không phải được lấy cảm hứng từ đó; những người thợ đã tạo ra một nghệ thuật An Nam, với các hình mẫu và cách trang trí của chính họ”.
12. Paul Doumer. (1905). L’Indo-Chine française (Souvenirs). Paris: Vuibert et Nony.
Tiểu thủ công nghiệp
Quá trình khai thác thuộc địa cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp nhìn chung không ảnh hưởng quá nhiều đến các ngành thủ công nghiệp tại Việt Nam. Mặc dù một số nghề truyền thống như nấu rượu, làm muối bị chế độ độc quyền của chính quyền thuộc địa làm cho tê liệt nhưng nhiều ngành như nghề nuôi tằm, ươm tơ, gốm sứ, đồ mỹ nghệ chạm khảm, sơn mài… có điều kiện phát triển tốt hơn.
Bên cạnh đó, nhiều sản phẩm tiểu thủ công nghiệp mới ra đời theo nhu cầu xã hội như các sản phẩm giày dép da, đồ thủy tinh,… Đáng chú ý, nhờ nâng cao năng suất và cải thiện chất lượng thông qua tiếp cận các kỹ thuật sản xuất mới, nhiều sản phẩm tiểu thủ công nghiệp của người Việt đã dần thay thế các mặt hàng nhập từ Trung Quốc vốn trước chiếm vị thế độc quyền trên thị trường. Sức sống và sự phát triển của nhiều nghề trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp dưới thời chính quyền thuộc địa chủ yếu có hai lý do:
Thứ nhất, chính quyền thuộc địa và giới thương nhân người Pháp đã sớm nhận thấy các sản phẩm thủ công nghiệp của Việt Nam với chất lượng tốt và giá rẻ sẽ đem lại nguồn lợi lớn nên có chủ trương phát huy các ưu thế của thủ công nghiệp bản địa trên thị trường Pháp và thị trường thế giới. Bên cạnh đó, việc quảng bá các sản phẩm thủ công tinh xảo của xứ thuộc địa sẽ giúp nâng cao vị thế của Chính phủ Pháp đối với công chúng nước này và các quốc gia khác. Thông qua các Hội chợ Đấu xảo tại Pháp và ở các nước khác, nhiều mặt hàng như tơ lụa, mây đan, sơn mài, thêu… của Việt Nam đã gây ấn tượng mạnh trên thị trường quốc tế, mở ra nguồn lợi lớn cho người Pháp. Năm 1917, Sở Kinh tế Đông Dương đã được thành lập tại Paris (Pháp), một trong những nhiệm vụ chính của cơ quan này là giới thiệu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Liên bang Đông Dương đến thị trường Pháp và các nước khác.
Thứ hai, chính quyền thuộc địa không có chủ trương phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, trong khi đó, giá các sản phẩm hàng tiêu dùng nhập khẩu quá cao so với đại bộ phận dân chúng nên các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp vẫn còn thị trường. Khi các hoạt động kinh tế được khởi sắc và điều kiện giao thương thuận lợi cũng giúp nhu cầu về các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp trên thị trường nội địa tăng lên.
Các mạng lưới sản xuất đồ thủ công tinh xảo trong khu phố cổ của Hà Nội, các làng nghề truyền thống hàng trăm năm tuổi với lực lượng thợ thủ công lành nghề, siêng năng ở Nam Định, Hà Đông, Bắc Ninh… đã khiến người Pháp sớm tin rằng xứ Bắc Kỳ là nơi có nhiều tiềm năng nhất tại Việt Nam và dành sự quan tâm đặc biệt để đẩy mạnh phát triển các mặt hàng thủ công bản địa tại đây.
Điển hình, Công ty Thương mại châu Á (Société Commerciale Asiatique) được người Pháp thành lập năm 1923, trụ sở tại Nam Định, chuyên xuất khẩu các sản phẩm thủ công sang châu Âu và Hoa Kỳ như tinh dầu các loại, chiếu, sản phẩm mây tre đan. Ngoài việc tuyển dụng hàng nghìn công nhân làm việc trực tiếp tại các xưởng thuộc điều hành của công ty tại Nam Định, công ty còn thu mua sản phẩm của hàng nghìn thợ thủ công tại khu vực Đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, Công ty Thương mại châu Á buộc phải ngưng toàn bộ các đơn hàng xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ và sa thải phần lớn nhân công.
(Nguồn: Tư bản Pháp với thủ công nghiệp Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 37,năm 1958)
Trong số các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, người Pháp chú trọng phát triển nhóm sản phẩm lụa tơ tằm, do đây là những sản phẩm có sức tiêu thụ “gần như vô hạn tại chính quốc (Pháp), sau khi chế tác còn có sức tiêu thụ rất lớn nữa tại Đông Á”12. Lụa Vạn Phúc (Hà Nội ngày nay) được người Pháp đánh giá là loại sản phẩm tinh xảo nhất Đông Dương, vào các năm 1931 và 1932 từng được chọn tham dự các Hội chợ Đấu xảo lớn ở Marseille và Paris (Pháp). Chính quyền thuộc địa đã miễn, giảm thuế cho hoạt động trồng dâu, thành lập các trạm thí nghiệm chọn, lai tạo giống dâu và giống tằm với kỹ thuật tiên tiến, phổ biến kỹ thuật đến người nuôi. Các tiến bộ cơ khí và sản xuất hiện đại đã được ứng dụng để nâng cao hiệu quả sản xuất. Diện tích canh tác dâu và sản lượng kén, tơ tăng mạnh qua các năm, đồng thời doanh số xuất khẩu tơ lụa tăng cao đã phản ánh sự phát triển của ngành nghề này.
Sự phát triển của ngành công nghiệp dệt hiện đại đã thúc đẩy diện tích trồng bông được mở rộng nhằm đáp ứng nhu cầu nguyên liệu đầu vào của các nhà máy dệt. Đồng thời, các cơ sở dệt vải, kéo sợi thủ công trước đây được hiện đại hóa và mở rộng sản xuất, gia công cho các nhà máy bông sợi. Một số thợ thủ công Việt tích lũy được vốn đã thuê thợ, mở xưởng hiện đại để sản xuất sản phẩm, trực tiếp bán ra thị trường.
Đối với nghề gốm, sứ thủ công, các thợ thủ công đã đẩy mạnh cải tiến chất lượng, kỹ thuật sản xuất, và sử dụng những chất liệu, họa tiết đặc trưng của địa phương để cải thiện mỹ thuật đã cạnh tranh mạnh với các sản phẩm gốm sứ Trung Quốc, Nhật Bản và sản phẩm gốm sứ công nghiệp. Một số sản phẩm gốm sứ có chất lượng cao như men rạn và sứ xanh từ các làng nghề truyền thống tại Bình Định, Quảng Ngãi, Móng Cái (Quảng Ninh)... được lựa chọn xuất hiện trong nhiều cuộc triển lãm, hội chợ trong và ngoài nước, thu hút sự quan tâm lớn của giới thương nhân và người tiêu dùng.
Tuy nhiên, giống như các lĩnh vực kinh tế khác, cuộc Đại khủng hoảng kinh tế trên thế giới vào những năm 1930 đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nhiều nghề thủ công tại Việt Nam trong giai đoạn sau này. Do không tiêu thụ được sản phẩm, hàng loạt xưởng dệt, đan lát, gốm sứ… phải đóng cửa. Trong đó, nghề trồng dâu, nuôi tằm lấy tơ còn chịu áp lực cạnh tranh gay gắt từ lụa nhân tạo khi mặt hàng này được đẩy mạnh nhập khẩu vào Đông Dương sau năm 1930. Giá tơ sống sụt giảm mạnh khiến nhiều làng nghề chuyên nuôi tằm lấy tơ bỏ nghề, đặc biệt là tại xứ Bắc Kỳ.
Sự kiện và nhân chứng lịch sử
Thợ thủ công
Toàn quyền Paul Doumer nhớ lại trong hồi ký L’Indo-Chine française (Souvenirs) (tạm dịch: Xứ Đông Dương):“Các thợ thủ công Bắc Kỳ làm việc chăm chỉ và thuần thục. Họ thành công một cách đáng ngưỡng mộ trong các công việc đòi hỏi tỉ mỉ và tinh xảo. Họ có khiếu thẩm mỹ, và một số người trong bọn họ là những nghệ nhân thực sự. Những thợ đúc đồng, thợ kim hoàn, thợ khảm men huyền, thợ thêu, thợ điêu khắc, thợ khảm đã tạo được một tiếng tăm xứng đáng. Họ không phải là những người thợ bắt chước một nền nghệ thuật ngoại quốc. Dẫu vẻ bề ngoài của những sản vật lộ rõ mối quan hệ với những đồ vật Nhật Bản và Trung Hoa, thì chúng vẫn không phải được lấy cảm hứng từ đó; những người thợ đã tạo ra một nghệ thuật An Nam, với các hình mẫu và cách trang trí của chính họ”.
12. Paul Doumer. (1905). L’Indo-Chine française (Souvenirs). Paris: Vuibert et Nony.
Sản xuất bia là một ngành công nghiệp hoàn toàn mới tại Việt Nam. Năm 1875, ông Victor Larue - một sĩ quan hàng hải Pháp giải ngũ đã thành lập một xưởng bia nhỏ tại Sài Gòn. Xưởng bia này dần phát triển thành hãng lớn với tên gọi Hãng Bia và Nước đá Đông Dương (Brasseries Glacières d’Indochine), chuyên sản xuất bia, nước giải khát và nước đá vào năm 1927. Hãng bia và nước đá Đông Dương thiết lập hàng loạt nhà máy sản xuất nước giải khát và đá tại Sài Gòn - Chợ Lớn, Hà Nội, Hải Phòng, Cần Thơ và PhnomPenh (Campuchia).
Tại Hà Nội, xưởng bia đầu tiên có công suất 150 lít bia/ngày được thành lập vào năm 1890 bởi Alfred Hommel; đến năm 1892, Công ty Bia Hommel (Société de la Brasserie Hommel) được hình thành. Sản phẩm bia của công ty dần được tiêu thụ rộng rãi trên toàn bộ xứ Bắc Kỳ, phía Bắc xứ Trung Kỳ và Lào. Sức tiêu thụ bia gia tăng đã thúc đẩy công ty mở xưởng bia thứ 2 cũng tại Hà Nội, nâng tổng công suất thiết kế lên mức 400.000 lít/năm vào năm 1908 và đạt tới 2.000.000 lít/năm vào năm 1922. Đến năm 1928, Hãng Bia và Nước đá Đông Dương dần thâu tóm Công ty Bia Hommel và đạt vị thế độc quyền trong việc sản xuất bia, nước giải khát và nước đá tại Đông Dương. Khác với rượu được tiêu thụ rộng rãi trong mọi tầng lớp dân chúng, sản phẩm bia chủ yếu phục vụ người châu Âu và tầng lớp trung lưu người bản xứ ở các khu đô thị, thị trấn lớn tại Đông Dương.
Những năm sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, người Pháp bắt đầu quan tâm đến hoạt động tinh luyện đường. Trước năm 1920, Việt Nam chủ yếu bán đường thô của các xưởng ép mía thủ công sang Hồng Kông và nhập khẩu đường trắng cho tiêu dùng trong nước từ Indonesia và Pháp. Trong lĩnh vực tinh chế đường, Công ty Tinh luyện Đường Đông Dương (Société des Sucreries et Raffineries de l’Indochine) được thành lập vào năm 1923, được xem là mạnh nhất với số vốn ban đầu lên tới 10 triệu Franc. Công ty sở hữu hàng loạt nhà máy tinh luyện đường tại các vùng nguyên liệu mía lớn như Hiệp Hòa (Phú Yên) và Tây Ninh. Xuất khẩu đường tinh luyện của Việt Nam tăng mạnh từ 4.000 tấn trong năm 1900 lên 15.500 tấn vào năm 192411.
Bên cạnh đó, nhiều ngành công nghiệp chế biến thực phẩm khác được mở rộng hoặc mới được mở ra trong những năm sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất như sản xuất nước mắm, dầu ăn, chế biến muối, thuốc lá, cà phê, cao su… khi nhu cầu tiêu dùng tại khu vực Đông Dương và trên thế giới tăng mạnh. Trong đó, một số sản phẩm do các công ty thuộc người Việt đã được biết đến rộng rãi trên thị trường trong và ngoài nước như nước mắm Liên Thành của Liên Thành Thương Quán hoặc các loại dầu ăn của nhà tư sản dân tộc Trương Văn Bền.
Sự kiện và nhân chứng lịch sử
Xà bông cô Ba
Năm 1928, ông Trương Văn Bền mở công ty làm xà bông từ dầu nông sản với tên gọi Trương Văn Bền và các con - Dầu và Xà bông Việt Nam ((Truong Van Ben & fils - Huilerie et Savonnerie Vietnam) tại Chợ Lớn. Tên sản phẩm được đặt là xà bông Việt Nam với ý nghĩa xà bông của người Việt làm cho người Việt và các quảng cáo về xà bông của hãng thường ghi dòng chữ “Người Việt Nam nên xài xà bông của Việt Nam”. Sản phẩm được in nổi hình đầu người phụ nữ nên sau này người tiêu dùng quen gọi là xà bông Cô Ba.
Ông Trương Văn Bền không chỉ đưa sản phẩm xà bông đến các triển lãm thương mại mà còn đưa nhãn hiệu xà bông vào những loại hình nghệ thuật được người Việt yêu thích như vọng cổ, thơ lục bát... gây ấn tượng đến các tầng lớp trong xã hội từ giới bình dân đến trí thức. Với chất lượng tốt, giá cả phải chăng, sản phẩm xà bông Việt Nam không chỉ được tiêu thụ rộng rãi trong nước mà còn được bán khắp ba nước Đông Dương, cạnh tranh mạnh với xà bông nhập khẩu Marseille của Pháp đang thống lĩnh thị trường. Đến những năm 1940, nhà máy của ông Trương Văn Bền sản xuất ra khoảng 600 tấn xà bông và 10 tấn glycerine, trở thành một trong những doanh nghiệp hóa mỹ phẩm quan trọng nhất tại khu vực Đông Dương.
11. Gouvernement général de l’Indochine. (1941). Résumé Statistique Relatif Aux Années 1913 à 1940. Hanoi: Imprimerie D’extrême-Orient.