2. Hệ thống tổ chức quản ngành Công Thương

Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, ngành Công Thương cùng với các ngành khác thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế sau chiến tranh cải tạo phát triển kinh tế, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất công nghiệp, thương mại. Hoạt động công nghiệp, thương mại ngày càng thể hiện vị trí, vai trò ý nghĩa quyết định trong nền kinh tế; trong đó, tập trung vào các lĩnh vực sau:

- Khôi phục xây dựng công nghiệp theo hướng hiện đại, quan tâm đến cân đối cấu hoàn chỉnh giữa công nghiệp nặng công nghiệp nhẹ.

- Chú trọng đặc biệt tới ngành năng lượng (điện than).

- Phát triển công nghiệp địa phương, tiểu thủ công nghiệp phục vụ nông nghiệp.

- Phát triển mạng lưới mậu dịch quốc doanh hợp tác mua bán.

- Thu mua cung cấp hàng hóa để điều tiết thị trường.

- Cung ứng nguyên, nhiên liệu giúp đỡ về trang bị kỹ thuật, gia công, bao tiêu sản phẩm hàng hóa cho các sở tiểu thủ công nghiệp.

- Tăng cường đấu tranh chống đầu về kinh tế.

Đây cũng thời kỳ hệ thống tổ chức của ngành Công Thương nhiều thay đổi:

- Ngày 21/7/1955, thành lập Cục Điện lực trực thuộc Bộ Công Thương, đặt dấu mốc pháp về hoạt động chỉ đạo, quản của quan quản nhà nước chuyên trách về lĩnh vực điện lực.

quầy hàng đồ chơi

Quầy hàng đồ chơi trẻ em tại Bách hóa Tổng hợp Nội dịp Tết Trung thu, tháng 10/1960 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

- Tháng 9/1955, Bộ Công Thương tách ra thành Bộ Công nghiệp (Bộ trưởng Thanh Nghị) Bộ Thương nghiệp (Bộ trưởng Phan Anh).

- Năm 1958, Bộ Thương nghiệp tách ra thành Bộ Nội thương (Bộ trưởng Đỗ Mười) Bộ Ngoại thương (Bộ trưởng Phan Anh).

- Năm 1960, Bộ Công nghiệp tách ra thành Bộ Công nghiệp nặng (Bộ trưởng Nguyễn Văn Trân) Bộ Công nghiệp nhẹ (Bộ trưởng Kha Vạng Cân).

- Đến năm 1960, hệ thống tổ chức quản ngành Công Thương gồm 4 bộ: Bộ Công nghiệp nặng, Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Nội thương Bộ Ngoại thương.

- Điểm đáng ghi nhớ trong giai đoạn này năm 1955, Nha Khoáng sản Kỹ nghệ đổi thành Sở Địa chất thuộc Bộ Công Thương, năm 1957 đổi thành Cục Địa chất, thuộc Bộ Công nghiệp; đến năm 1960, cùng với việc tách Bộ Công nghiệp thành Bộ Công nghiệp nặng Bộ Công nghiệp nhẹ, Tổng cục Địa chất Tổng cục Vật được thành lập, trực thuộc Hội đồng Chính phủ.

Từ tháng 7/1960 đến năm 1961, ông Văn Đức giữ chức vụ Tổng Cục trưởng Tổng cục Địa chất, từ năm 1962 đến năm 1979, ông Nguyễn Văn Điệp Tổng Cục trưởng.

2. Hệ thống tổ chức quản ngành Công Thương

Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, ngành Công Thương cùng với các ngành khác thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế sau chiến tranh cải tạo phát triển kinh tế, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất công nghiệp, thương mại. Hoạt động công nghiệp, thương mại ngày càng thể hiện vị trí, vai trò ý nghĩa quyết định trong nền kinh tế; trong đó, tập trung vào các lĩnh vực sau:

- Khôi phục xây dựng công nghiệp theo hướng hiện đại, quan tâm đến cân đối cấu hoàn chỉnh giữa công nghiệp nặng công nghiệp nhẹ.

- Chú trọng đặc biệt tới ngành năng lượng (điện than).

- Phát triển công nghiệp địa phương, tiểu thủ công nghiệp phục vụ nông nghiệp.

- Phát triển mạng lưới mậu dịch quốc doanh hợp tác mua bán.

- Thu mua cung cấp hàng hóa để điều tiết thị trường.

- Cung ứng nguyên, nhiên liệu giúp đỡ về trang bị kỹ thuật, gia công, bao tiêu sản phẩm hàng hóa cho các sở tiểu thủ công nghiệp.

- Tăng cường đấu tranh chống đầu về kinh tế.

Đây cũng thời kỳ hệ thống tổ chức của ngành Công Thương nhiều thay đổi:

- Ngày 21/7/1955, thành lập Cục Điện lực trực thuộc Bộ Công Thương, đặt dấu mốc pháp về hoạt động chỉ đạo, quản của quan quản nhà nước chuyên trách về lĩnh vực điện lực.

quầy hàng đồ chơi

Quầy hàng đồ chơi trẻ em tại Bách hóa Tổng hợp Nội dịp Tết Trung thu, tháng 10/1960 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

- Tháng 9/1955, Bộ Công Thương tách ra thành Bộ Công nghiệp (Bộ trưởng Thanh Nghị) Bộ Thương nghiệp (Bộ trưởng Phan Anh).

- Năm 1958, Bộ Thương nghiệp tách ra thành Bộ Nội thương (Bộ trưởng Đỗ Mười) Bộ Ngoại thương (Bộ trưởng Phan Anh).

- Năm 1960, Bộ Công nghiệp tách ra thành Bộ Công nghiệp nặng (Bộ trưởng Nguyễn Văn Trân) Bộ Công nghiệp nhẹ (Bộ trưởng Kha Vạng Cân).

- Đến năm 1960, hệ thống tổ chức quản ngành Công Thương gồm 4 bộ: Bộ Công nghiệp nặng, Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Nội thương Bộ Ngoại thương.

- Điểm đáng ghi nhớ trong giai đoạn này năm 1955, Nha Khoáng sản Kỹ nghệ đổi thành Sở Địa chất thuộc Bộ Công Thương, năm 1957 đổi thành Cục Địa chất, thuộc Bộ Công nghiệp; đến năm 1960, cùng với việc tách Bộ Công nghiệp thành Bộ Công nghiệp nặng Bộ Công nghiệp nhẹ, Tổng cục Địa chất Tổng cục Vật được thành lập, trực thuộc Hội đồng Chính phủ.

Từ tháng 7/1960 đến năm 1961, ông Văn Đức giữ chức vụ Tổng Cục trưởng Tổng cục Địa chất, từ năm 1962 đến năm 1979, ông Nguyễn Văn Điệp Tổng Cục trưởng.

1. Tình hình miền Bắc sau Hội nghị Giơnevơ

Sau Hội nghị Giơnevơ năm 1954, miền Bắc Việt Nam hoàn toàn được giải phóng, nhưng chế độ thực dân nửa phong kiến và những năm tháng chiến tranh đã để lại cho Việt Nam một nền kinh tế lạc hậu, bị tàn phá nặng nề, với hai cụm từ đặc trưng: “hoang tàn” và “xơ xác”.

Trong công nghiệp, phần lớn nhà máy, xí nghiệp không hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng. Nguyên liệu, nhiên liệu, máy móc thiếu nghiêm trọng. Gần 50% kho tàng, công sở bị phá hoại. Tại Hà Nội, Hải Phòng, khi ta vào tiếp quản, chỉ có nhà máy điện và nhà máy nước hoạt động.

Thương nghiệp bị đình đốn, các hoạt động đầu cơ, nâng giá, kinh doanh trái phép gây lũng đoạn thị trường diễn ra phổ biến. Nhà nước mới chỉ nắm khoảng 40% khối lượng hàng hóa bán buôn và 22% hàng hóa bán lẻ. Sản xuất ngừng trệ, lưu thông phân phối khó khăn, hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng.

Tại Hội nghị chính trị đặc biệt (ngày 27/3/1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về cảnh tượng của miền Bắc lúc đó như sau: “Chiến tranh xâm lược của thực dân đã làm cho kinh tế nước ta kiệt quệ. 1/7 ruộng đất bị bỏ hoang, 1/3 ruộng đất không có nước tưới để cày cấy, các công trình thủy lợi đều bị phá hủy, 1/4 số trâu bò bị bắn giết. Hàng chục vạn nóc nhà, hàng trăm thị trấn lớn nhỏ bị đốt trụi. Số nhà máy đã ít ỏi lại đều bị giặc tàn phá, máy móc bị tháo dỡ mang đi, sản xuất bị bế tắc. Đường sá, cầu cống, xe cộ phần lớn bị phá hoại. Ở thành phố, hàng chục vạn công nhân thất nghiệp. Nạn đói đe dọa khắp nơi. Tóm lại là một cảnh tượng hoang tàn, xơ xác”1.

Trong bối cảnh đó, công cuộc khôi phục kinh tế sau chiến tranh càng trở nên cấp bách hơn. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa II (tháng 7/1954), Tổng Bí thư Trường Chinh đã nêu rất nhiều nội dung cấp bách cần phải làm để phục hồi, phát triển kinh tế:

- “Nhiệm vụ của chúng ta là: phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, phục hồi và phát triển công thương nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng nền tài chính vững chắc để đạt tới ổn định vật giá, ổn định tiền tệ”2.

- “Trong điều kiện nước ta hiện nay, một mặt Chính phủ cần phục hồi cơ sở công nghiệp đã có và tạo điều kiện xây dựng thêm. Mặt khác phải nắm vững chính sách bảo hộ, khuyến khích các nhà công thương nghiệp; động viên họ bỏ vốn kinh doanh, góp phần vào việc xây dựng và phát triển kinh tế quốc dân. Một điều cần đặc biệt chú ý là phải phục hồi và khuyến khích tiểu thủ công nghiệp thành thị và nông thôn”3.

- “Việc trao đổi hàng hóa bây giờ không phải chỉ trong phạm vi nước ta, mà còn phải mở rộng ra với các nước”4.

- “Để đảm bảo cung cấp cho nhân dân và giữ vững giá cả, mậu dịch quốc doanh cần mua lương thực để cung cấp cho các thành thị, tổ chức thêm nhiều ngành, bán nhiều hàng hóa hơn nữa, ra sức mở mang xuất khẩu lâm thổ sản, nhập khẩu các thứ hàng công nghiệp cần thiết”5.

- “Phải theo đà phát triển của mậu dịch, yêu cầu của quần chúng và khả năng lãnh đạo mà tổ chức hợp tác xã cung tiêu để cải thiện đời sống cho nhân dân và giúp mậu dịch quốc doanh đóng được vai trò của nó trong việc khuyến khích sản xuất, giữ vững giá cả và lãnh đạo nhà buôn”6.

công thương toàn quốc Cuộc họp mặt các nhà công thương toàn quốc để phổ biến kế hoạch nhà nước năm 1956 tại Nhà hát lớn Hà Nội, ngày 20 - 21/01/1956 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Sau năm 1954, cách mạng Việt Nam cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc với các kế hoạch 3 năm lần thứ nhất (1955 - 1957), 3 năm lần thứ hai (1958 - 1960), 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) và kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược ở miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước.

Thời kỳ này, cùng với việc tập trung cao độ nguồn lực sản xuất và kinh doanh vào tay kinh tế nhà nước đã mở đường cho mô hình kinh tế kế hoạch hóa; cơ chế quản lý cung cấp cho cả người dân, doanh nghiệp, bao gồm cung cấp tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu, bao tiêu toàn bộ hàng nông sản và công nghệ; cung cấp hàng hóa thiết yếu cho người dân cũng mở đường cho cơ chế bao cấp mà thương nghiệp (nội thương, ngoại thương) là mắt xích trung tâm trong bao cấp từ đầu vào, cho đến sản xuất, bao tiêu đầu ra, phân phối đến người tiêu dùng.


1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.273.

2, 3, 4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.206, 208, 208, 209.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.209.

3. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

Những năm 1955 - 1956, các trường trung cấp kỹ thuật được thành lập mới, hoặc khôi phục trên cơ sở trường cũ của Pháp như Trường Kỹ nghệ thực hành Hà Nội. Tháng 02/1955, Trường đổi tên thành Trường Trung cấp Kỹ thuật I Hà Nội1. Đây là trường kỹ thuật chính quy đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trường có hai hệ đào tạo chính: hệ sơ cấp (đào tạo công nhân kỹ thuật các ngành tiện, nguội, gò hàn mộc); hệ trung cấp (đào tạo kỹ thuật viên mà lúc đó gọi là cán bộ kỹ thuật trung cấp các ngành cơ khí, điện, động lực và đúc - luyện kim).

Ngày 15/02/1955, Trường Trung cấp Kỹ thuật I Hà Nội khai giảng khóa I.

Sau 5 năm (1955 - 1959), Trường đã đào tạo hơn 700 cán bộ chuyên môn và công nhân kỹ thuật, những học viên ra trường đã đáp ứng kịp thời nhu cầu cán bộ kỹ thuật và quản lý, điều hành các xí nghiệp, viện, trường... trong những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Trường Trung cấp Kỹ thuật I Hà Nội đã ba lần vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm (ngày 02/9/1955, ngày 26/01/1957 và ngày 27/5/1957).

Đồng thời, một số trường trung cấp nghiệp vụ về thương mại, ngoại thương, vật tư lần lượt được thành lập. Mặc dù thiếu thốn về cơ sở vật chất, phương tiện, kinh nghiệm đào tạo, nhưng một số trường đã tranh thủ được sự giúp đỡ và hợp tác của chuyên gia Trung Quốc, Liên Xô và các cơ sở sản xuất, phân phối trong nước để xây dựng các chương trình, bài giảng, tổ chức những khóa đào tạo đầu tiên. Trong thời kỳ khôi phục kinh tế (1958 - 1960), nhiều trường trung cấp kỹ thuật và trường nghề đào tạo công nhân ra đời nhằm phục vụ ngay cho các đơn vị trong ngành sản xuất, như: Trường Trung cấp Kỹ thuật Mỏ, Trường Công nhân kỹ thuật Cơ điện Bắc Thái, Trường Trung cấp Địa chất, Trường Lái xe mỏ, Trường Kỹ thuật Điện lực...

Theo thời gian, phần lớn các trường đều mở rộng chương trình và cơ sở đào tạo. Điển hình như Trường Trung cấp Kỹ thuật III (Nam Định) từ đào tạo học viên ngành sợi - dệt ban đầu đã mở ra các chuyên ngành cơ khí, lò hơi, đường, mì chính, tinh bột, muối, chế biến gỗ... Đến năm 1965, Trường Trung cấp kỹ thuật III tách ra thành 3 trường: Trung học Kỹ thuật cơ khí vật dụng Hà Bắc; Trung học Kỹ thuật muối Đồ Sơn (Hải Phòng) và Trung học Kỹ thuật Dệt (Nam Định). Với Trường Kỹ thuật Trung cấp Thương nghiệp, trong những năm đầu mới thành lập, chủ yếu thực hiện chương trình kế hoạch đào tạo cán bộ trung cấp trong ngành về các môn vật giá, kế toán tài vụ, sau đó mở rộng ra các môn thống kê kế hoạch, tổ chức kỹ thuật, lao động tiền lương, thương phẩm, kỹ thuật bảo quản hàng hóa, kho tàng... Đến năm 1961, Trường Kỹ thuật Trung cấp Thương nghiệp được tách thành hai cơ sở đào tạo: Trường Trung cấp Thương nghiệp và Trường Trung cấp Thương phẩm, đều trực thuộc Bộ Nội thương.

Khoa Quan hệ quốc tế nằm trong Trường Đại học Kinh tế - Tài chính (nay là Trường Đại học Kinh tế quốc dân) nhưng do Bộ Ngoại giao trực tiếp quản lý về nội dung. Đến năm 1962, Khoa Quan hệ quốc tế tách ra khỏi Trường Đại học Kinh tế - Tài chính để thành lập Trường Cán bộ Ngoại giao - Ngoại thương (bậc đại học) theo Quyết định số 74-CP ngày 20/6/1962 của Chính phủ. Bộ môn Ngoại thương cũng được nâng lên thành Khoa Ngoại thương. Về giáo trình giảng dạy, khi còn là Khoa Quốc tế, chủ yếu dựa vào các chương trình của Liên Xô và Trung Quốc về nghiệp vụ xuất, nhập khẩu với một số môn hướng dẫn các thao tác cụ thể về đàm phán, ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương, vận tải giao nhận ngoại thương... Khi nâng cấp thành bậc đại học, Khoa Ngoại thương đã cử một số giảng viên về các tổng công ty xuất, nhập khẩu để tìm hiểu thực tiễn, thu thập tài liệu và nghiệp vụ ngoại thương thực tế. Nội dung các bài giảng bước đầu đã có liên hệ ít nhiều với thực tế ngoại thương Việt Nam.

Năm 1960, Trường Thương nghiệp Trung ương (Trường Đại học Thương mại ngày nay) được thành lập trực thuộc Bộ Nội thương, có nhiệm vụ đào tạo cán bộ trung cấp nghiệp vụ kỹ thuật thương nghiệp, bồi dưỡng cán bộ quản lý kinh tế và bổ túc văn hóa trong ngành. Chương trình đào tạo gồm các môn vật giá, kế toán tài vụ, thống kê kế hoạch, tổ chức kỹ thuật, lao động tiền lương, thương phẩm, kỹ thuật bảo quản hàng hóa, kho tàng... Về sau, trường còn đảm nhiệm một phần công tác nghiên cứu, hoạch định chính sách. Cụ thể, trường phối hợp với các vụ chuyên môn của Bộ Nội thương trong việc xây dựng các chính sách quản lý thị trường nội địa; quy hoạch mạng lưới bán lẻ, bán buôn; xây dựng chế độ kế toán, thống kê, Điều lệ tổ chức ngành, Điều lệ bán lẻ. Đây cũng là cơ hội tốt để cán bộ, giáo viên của trường vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, liên hệ thực tế để giảng dạy các môn học và thể hiện sự đóng góp của đội ngũ cán bộ, giáo viên nhà trường đối với ngành.

Các trường trung cấp và đại học đã cung cấp nguồn cán bộ kỹ thuật cho các phân ngành công nghiệp, các cán bộ thương nghiệp, vật tư, nghiệp vụ xuất, nhập khẩu, thanh toán quốc tế... Nhiều trường trở thành cái nôi đào tạo cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và lãnh đạo ngành Công Thương, như Trường Kỹ thuật chuyên nghiệp Hà Nội (nay là Đại học Công nghiệp Hà Nội) là nơi học tập của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng Trần Lum (khóa học 1955 - 1957); Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Lại Văn Cử (khóa học 1956 - 1958); Bộ trưởng, Trưởng ban Tổ chức cán bộ Chính phủ Đỗ Quang Trung (khóa học 1961 - 1963)...


1. Trường Trung cấp Kỹ thuật I Hà Nội chính là tiền thân của Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội ngày nay.

Danh mục

Tùy chỉnh