II. CÔNG NGHIỆP

cửa hàng kinh doanh

Điện Việt Trì

Nhà máy điện Việt Trì lắp thêm 7, 8 ống khói 2 cao 60 m trong đợt mở rộng quy năm 1978 (Ảnh: Trần Nguyên Hợi)

II. CÔNG NGHIỆP

cửa hàng kinh doanh

Điện Việt Trì

Nhà máy điện Việt Trì lắp thêm 7, 8 ống khói 2 cao 60 m trong đợt mở rộng quy năm 1978 (Ảnh: Trần Nguyên Hợi)

3. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

Ngày 30/4/1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta kết thúc thắng lợi, miền Nam hoàn toàn được giải phóng, đất nước thống nhất. Cùng với các trường đào tạo ở miền Bắc, các bộ quản lý ngành Công Thương và các đơn vị thuộc ngành Công Thương lần lượt tiếp nhận các trường ở miền Nam: Ngày 19/12/1975, Bộ Cơ khí và Luyện kim tiếp nhận Trường tư thục Trung học Kỹ thuật đệ nhị cấp Don Bosco tại Thành phố Hồ Chí Minh để thành lập Trường Công nhân kỹ thuật IV; Bộ Nội thương tiếp nhận Trường Nghiệp vụ thương nghiệp Trung Trung bộ và nâng cấp trường thành Trường Trung học Thương nghiệp Đà Nẵng; Công ty Điện lực miền Nam tiếp nhận Trường Kỹ thuật Gia Định... Đồng thời, thành lập một số trường nghề ở các tỉnh trong cả nước.

Bên cạnh những trường đào tạo về công nghiệp, thương mại nói chung, có một số trường đào tạo chuyên sâu cho những ngành công nghiệp, những công trình công nghiệp cụ thể. Tiêu biểu là Trường Công nhân kỹ thuật Giấy Vĩnh Phú, Trường Công nhân Kỹ thuật Mỏ, Trường Đào tạo nghề Xây lắp điện, Trường Đào tạo nghề Cơ giới và xây dựng Uông Bí, Trường Đào tạo nhân lực dầu khí, Trường Trung học Công nghiệp thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Trung học Công nghiệp Cẩm Phả, Trường Kỹ thuật nghiệp vụ Công nghiệp nhẹ... Các trường này quan tâm nhiều đến thực tiễn hoạt động sản xuất và có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ sở sản xuất, nhất là trong nội dung giảng dạy (mời kỹ sư, công nhân có tay nghề bậc cao đến trường truyền thụ kinh nghiệm) và đưa học viên đến thực tập tại các phân xưởng, nhà máy.

Ví dụ điển hình là Trường Công nhân kỹ thuật Giấy Vĩnh Phú (thành lập năm 1983) - trường duy nhất đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật phục vụ ngành công nghiệp sản xuất giấy. Đây là công trình viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Thụy Điển dành cho Việt Nam, Trường được trang bị cơ sở vật chất, thiết bị giảng dạy khá hiện đại vào thời điểm đó. Hệ thống xưởng sản xuất, phòng thí nghiệm giúp học sinh có đủ điều kiện thực hành sản xuất và sửa chữa máy móc ngay trong quá trình học tập. Một trong những định hướng đào tạo của Trường là đào tạo theo địa chỉ cho các nhà máy, dự án sản xuất giấy ở các tỉnh, thành phố.

Với Trường Công nhân Kỹ thuật Mỏ, thành lập năm 1975 do Xí nghiệp Mỏ than Bắc Thái quản lý, chương trình đào tạo chính liên quan đến toàn bộ hoạt động của một khu mỏ, gồm lái xe vận tải mỏ, sửa chữa ôtô, vận hành máy khoan, máy xúc gạt. Thậm chí, Trường còn kiêm thêm nhiệm vụ bồi dưỡng, kèm cặp nâng bậc thợ cho Xí nghiệp Mỏ than Bắc Thái và các mỏ được thành lập trên địa bàn tỉnh Bắc Thái. Mỗi năm, Trường đào tạo hàng trăm lượt cán bộ chỉ huy sản xuất, từ tổ trưởng, trưởng ca, quản đốc đến chánh phó giám đốc các xí nghiệp.

Ngày 04/10/1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 360/CP chuyển Trường Thương nghiệp Trung ương thành Trường Đại học Thương nghiệp. Ngày 19/12/1983, Trường Đại học Thương nghiệp chuyển giao từ Bộ Nội thương về Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) quản lý. Một năm sau, theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Trường Đại học Ngoại thương chuyển từ Bộ Ngoại thương sang trực thuộc Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp.

Hằng năm, các trường đại học, trung học và trường đào tạo nghề đã cung cấp hàng vạn kỹ sư, công nhân lành nghề cho các ngành kinh tế trong cả nước, phục vụ đắc lực cho công cuộc hàn gắn vết thương sau chiến tranh, phục vụ cho chiến lược phát triển công nghiệp, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý của thời kỳ tiền đổi mới.

1. Cải tạo công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp

Ngày 29/9/1975, Hội nghị Trung ương lần thứ 24 ra Nghị quyết số 247-NQ/TW về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, khi bàn về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, Nghị quyết yêu cầu “Phải xóa bỏ tư bản mại bản bằng cách quốc hữu hóa cơ sở kinh tế của họ, biến thành sở hữu toàn dân do Nhà nước quản lý. Đối với kinh tế tư sản dân tộc, thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng hình thức công tư hợp doanh, bắt đầu từ những cơ sở sản xuất và kinh doanh quan trọng”1.

Ngày 15/7/1976, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 254-NQ/TW “Về những công tác trước mắt ở miền Nam”, trong đó đặt vấn đề “Thành lập Ban cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở Trung ương”2. Ngày 25/9/1976, Chính phủ ra Tuyên bố về chính sách đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam.

cửa hàng kinh doanh

Công cuộc cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam được tiến hành thông qua các hình thức quốc hữu hóa và chuyển thành xí nghiệp quốc doanh đối với các xí nghiệp công quản và xí nghiệp tư sản mại bản, tư sản bỏ chạy ra nước ngoài; thành lập xí nghiệp công tư hợp doanh; thành lập xí nghiệp, hợp tác xã. Tính đến hết năm 1978, chúng ta đã căn bản hoàn thành việc chuyển các cơ sở tư bản tư doanh trong các ngành công thương nghiệp và dịch vụ quan trọng thành xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh và các hình thức cải tạo xã hội chủ nghĩa khác3.

Cụ thể, đã chuyển quyền sở hữu và quản lý 1.500 xí nghiệp tư bản tư doanh loại lớn và vừa, sắp xếp, tổ chức lại thành 650 xí nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh với 130 nghìn công nhân và người lao động, chiếm 70% số công nhân, người lao động trong các xí nghiệp tư bản tư doanh. Có 64 công nhân được cử làm giám đốc các xí nghiệp công tư hợp doanh do các tỉnh, thành phố quản lý, hơn 100 công nhân làm quản đốc trong các xí nghiệp do Trung ương quản lý. Giá trị sản xuất công nghiệp của các xí nghiệp quốc doanh công tư hợp doanh chiếm 70% tổng sản lượng công nghiệp miền Nam.

Trong tiểu thủ công nghiệp, đã thành lập trên 500 hợp tác xã và 5.000 tổ hợp tác với trên 250 nghìn lao động. Riêng Thành phố Hồ Chí Minh có 144 hợp tác xã với 27.634 lao động và 1.964 tổ hợp tác với 75.284 lao động, chiếm 71% tổng số lao động thủ công nghiệp của Thành phố. Các tỉnh khác có số thợ thủ công được tổ chức lại chiếm khoảng 40%. Tới cuối năm 1985, số cơ sở tiểu thủ công nghiệp miền Nam đã có 2.937 hợp tác xã chuyên nghiệp, 10.124 tổ sản xuất chuyên nghiệp, 3.162 hợp tác xã nông nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, 529 hợp tác xã kiêm và 920 hộ tư nhân cá thể4.

Nhưng theo đánh giá, ta mới chỉ xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ trong công nghiệp mà chưa xác lập một cách thực chất quan hệ sản xuất mới.

Ngày 17/6/1980, Thông báo số 14-TB/TW về ý kiến của Ban Bí thư kết luận Hội nghị ngày 28 - 31/3/1980 bàn về cải tạo công thương nghiệp tư doanh ở miền Nam, đã đánh giá kết quả chủ yếu đạt được là “Bảo đảm cho Nhà nước làm chủ được các ngành kinh tế then chốt, bước đầu tổ chức và sắp xếp lại sản xuất và lưu thông theo kế hoạch Nhà nước”5; song hạn chế là “đã có phần nóng vội trong việc đề ra chủ trương hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa trong hai năm 1977 - 1978”6.


1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36, tr. 431, 222.

3. “Kết quả cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng công thương nghiệp ở các tỉnh, thành phố miền Nam”, báo Nhân Dân, số 8976, ngày 04/01/1979, tr.2.

4. Xem Bộ Công Thương: Sơ lược Lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.194.

5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.41, tr.137, 139.

Danh mục

Tùy chỉnh