III. THƯƠNG MẠI
Mỗi ngày, trạm thu mua của hợp tác xã mua bán huyện Thanh Trì thu mua của nông dân khoảng 10 tấn thóc (tháng 12/1958) (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Cửa hàng Bách hóa huyện Quỳnh Côi (Thái Bình) thu mua bông của nông dân, năm 1956 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
III. THƯƠNG MẠI
Mỗi ngày, trạm thu mua của hợp tác xã mua bán huyện Thanh Trì thu mua của nông dân khoảng 10 tấn thóc (tháng 12/1958) (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Cửa hàng Bách hóa huyện Quỳnh Côi (Thái Bình) thu mua bông của nông dân, năm 1956 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
3. Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965)
a) Chủ trương
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960) đã đề ra đường lối cách mạng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội xác định đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, thông qua nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế quốc dân. Tháng 4/1962, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III bàn về vấn đề xây dựng và phát triển công nghiệp theo phương hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý; kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với ưu tiên phát triển công nghiệp nặng; ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương, kết hợp xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ, kết hợp kỹ thuật hiện đại với kỹ thuật thô sơ.
Tiếp đến, Hội nghị lần thứ 8 (tháng 4/1963) về kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), xác định phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu và biện pháp chủ yếu của kế hoạch này.
Nội dung công nghiệp hóa
Thứ nhất, xác định rằng, thực chất của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là làm cách mạng khoa học - kỹ thuật; phát triển công nghiệp nặng để từng bước cải tạo kỹ thuật và trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế quốc dân.
Thứ hai, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; là khâu quyết định nhất để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên.
Thứ ba, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện và ra sức phát triển công nghiệp nhẹ. Ba bộ phận: công nghiệp nặng - nông nghiệp - công nghiệp nhẹ quan hệ mật thiết với nhau, cùng nương tựa nhau, thúc đẩy nhau phát triển với nhịp độ nhanh và theo tỷ lệ cân đối.
Thứ tư, kết hợp chặt chẽ ba mặt: phát huy cao độ tinh thần tự lực cánh sinh; sử dụng sự giúp đỡ của các nước anh em một cách hợp lý và có lợi nhất; và tích cực mở rộng sự hợp tác kinh tế của ta với các nước anh em.
Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được cụ thể hóa thành phương hướng, nhiệm vụ phát triển toàn ngành công nghiệp và các phân ngành công nghiệp trong kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965).
Nhiệm vụ của toàn ngành công nghiệp
- Xây dựng một bước cơ sở vật chất và kỹ thuật cho một nền công nghiệp hiện đại xã hội chủ nghĩa theo đường lối phát triển ưu tiên công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển công nghiệp nhẹ. Kết hợp với phát triển công nghiệp hiện đại của Nhà nước, vẫn phải coi trọng và ra sức phát triển thủ công nghiệp hợp tác hóa bằng cách đẩy mạnh cải tiến công cụ, cải tiến thiết bị và cải tiến kỹ thuật.
- Đẩy mạnh sản xuất các tư liệu sản xuất, chủ yếu là phát triển điện lực đi trước một bước, phát triển công nghiệp gang thép và công nghiệp chế tạo cơ khí, đồng thời phát triển công nghiệp than, công nghiệp vật liệu xây dựng và bước đầu xây dựng công nghiệp hóa học, nhằm phát huy năng lực trong nước, cung cấp một số loại vật tư kỹ thuật, nguyên liệu, vật liệu cho xây dựng cơ bản, cho sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải. Đặc biệt, cần chú trọng hướng công nghiệp phục vụ nông nghiệp, phục vụ cải tiến nông cụ, cải tiến kỹ thuật và chế biến nông sản.
- Ra sức phát triển các hàng tiêu dùng, thỏa mãn hầu hết các nhu cầu phổ thông về mặc, ăn uống, đồ dùng, học tập, bảo vệ sức khỏe, nâng cao dần đời sống của nhân dân.
- Đẩy mạnh chế biến các nông sản, mở rộng khai thác một số khoáng sản, mở rộng gia công các loại hàng thủ công có giá trị để tăng thêm nguồn hàng xuất khẩu.
Phương hướng phát triển các ngành công nghiệp
Điện lực: Phát triển thủy điện kết hợp với phát triển nhiệt điện, nhằm giảm giá thành xây dựng và giá thành phát điện, điều hòa việc cung cấp điện, phục vụ kịp thời cho nhu cầu phát triển kinh tế trong kế hoạch 5 năm và chuẩn bị một phần cho kế hoạch sau. Đi đôi với việc xây dựng các nhà máy mới, cải tiến thiết bị, tăng thêm công suất một số nhà máy sẵn có. Ở các địa phương, chú trọng lợi dụng sức nước, sức gió, hơi mêtan, xây dựng những trạm phát điện nhỏ để phục vụ cho nhu cầu của địa phương.
Xây dựng hệ thống lưới điện nối liền các nhà máy loại lớn và loại vừa với nhau và với những nơi tiêu thụ điện. Mặt khác, tăng cường quản lý việc dùng điện, hết sức tiết kiệm điện. Trong những năm 1961 - 1963, cần nghiên cứu mọi biện pháp để giảm nhẹ tình hình căng thẳng về cung cấp điện, đồng thời phải tập trung sức xây dựng xong các công trình đúng thời hạn để khắc phục sớm khó khăn về thiếu điện.
Luyện kim: Nhiệm vụ chủ yếu về công nghiệp luyện kim là cố gắng cung cấp phần lớn nhu cầu về gang, thép thông thường cho xây dựng cơ bản và một phần cho việc chế tạo cơ khí. Xây dựng xong Khu gang thép Thái Nguyên với công suất 200.000 tấn/năm; chú trọng phát triển sớm các lò cao cỡ nhỏ ở những nơi có điều kiện để sản xuất gang và xây dựng một số xí nghiệp liên hợp gang thép cỡ nhỏ. Để phục vụ cho công nghiệp gang thép, xây dựng và khai thác các mỏ sắt, đá vôi, đất chịu lửa,... xây dựng một số xưởng luyện các loại hợp kim gang cần cho việc nấu thép. Đồng thời, xúc tiến việc điều tra, thǎm dò, thiết kế, tích cực chuẩn bị để tiếp tục phát triển hơn nữa công nghiệp gang thép trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai.
Về luyện kim màu, xúc tiến việc khai thác và sản xuất chì, kẽm, khai thác bôxít và luyện nhôm, tích cực tăng thêm khả năng khai thác cromit, huy động tốt nhà máy thiếc. Đối với những mỏ đồng có trữ lượng ít, cần xây dựng cơ sở khai thác và sản xuất quy mô nhỏ.
Chế tạo cơ khí: Sản xuất một số loại máy móc công cụ chính xác cấp II trở xuống, một số loại thiết bị phối hợp đi theo với thiết bị toàn bộ, thiết bị về điện từ 100 kW trở xuống, tàu thủy từ 1.000 tấn trở xuống, xà lan, tàu kéo, canô, toa xe, một số thiết bị khoan lò, thiết bị thi công xây dựng cơ bản loại nhỏ.
Sản xuất các loại nông cụ cải tiến, một số máy móc nông nghiệp loại nhỏ, các loại máy móc giản đơn chế biến nông sản, ép gạch... để phục vụ nông nghiệp và công nghiệp địa phương.
Bảo đảm sửa chữa lớn và sản xuất một số loại phụ tùng, dụng cụ cho các ngành công nghiệp, vận tải, xây dựng cơ bản...
Kết hợp các xưởng cơ khí sẽ xây dựng trong kế hoạch 5 năm với các cơ sở sẵn có, bố trí thành một màng lưới cơ khí ở các địa phương để thực hiện các nhiệm vụ nói trên.
Gấp rút thống nhất và tăng cường quản lý ngành cơ khí, phân công sản xuất hợp lý giữa các cơ sở quốc doanh và công tư hợp doanh, giữa các cơ sở của Trung ương và các cơ sở địa phương để tận dụng khả năng hiện có và sử dụng tốt các cơ sở sẽ xây dựng thêm.
Khai thác than: Thỏa mãn đầy đủ nhu cầu trong nước về các loại than không khói, đồng thời tăng thêm mức xuất khẩu. Về than mỡ, cần hết sức đẩy mạnh thăm dò, thiết kế... để tiến tới giải quyết cho nhu cầu luyện than cốc.
Hướng chính để tăng sản lượng than vẫn là Hòn Gai, Cẩm Phả; chú trọng nâng cao trình độ khai thác cơ giới hóa và dần dần mở rộng việc khai thác bằng hầm lò; đồng thời tranh thủ mở các công trường khai thác ở Uông Bí, Mạo Khê, Tràng Bạch, Làng Cẩm. Ngoài ra, các địa phương có những mỏ than nhỏ, tổ chức khai thác để phục vụ nhu cầu của công nghiệp địa phương.
Vật liệu xây dựng: Thống nhất quản lý ngành vật liệu xây dựng, cố gắng đẩy mạnh sản xuất và khai thác để thỏa mãn nhu cầu về xây dựng cơ bản: tăng thêm cơ sở và phát triển sản xuất các loại gạch máy, ngói máy, gạch chịu lửa, cải tiến kỹ thuật và nâng cao chất lượng gạch ngói thủ công; đẩy mạnh khai thác cát, sỏi, đá; tăng thêm sản xuất các loại xi măng và các loại vôi; sản xuất các loại vật liệu đúc sẵn dể phục vụ việc cơ giới hóa ngành xây dựng; sản xuất các loại kính, đồ dùng vệ sinh..., cần cho việc xây dựng ở thành phố và xây dựng các nhà máy; đồng thời nghiên cứu, sản xuất các loại vật liệu rẻ tiền cần cho việc xây dựng nhà cửa ở nông thôn.
Hóa chất và phân bón: Sản xuất phân bón và thuốc trừ sâu cho nông nghiệp, đồng thời sản xuất một số hóa chất cơ bản như xút, axít sunfuríc, một số loại nguyên liệu hóa chất như thuốc nhuộm, sản xuất thuốc kháng sinh và một số dược liệu, sản xuất bông tơ nhân tạo theo quy mô nhỏ và tích cực chuẩn bị tiến tới sản xuất bông tơ nhân tạo theo quy mô lớn.
Xây dựng sớm nhà máy phân đạm; tích cực mở rộng khai thác mỏ apatít, xây dựng nhà máy làm giàu quặng, đẩy mạnh khai thác apatít để trao đổi với các nước anh em; tích cực thăm dò quặng lưu huỳnh cần cho việc sản xuất axít sunfuríc.
Khai thác gỗ và chế biến gỗ: Nhiệm vụ chính là tăng khối lượng gỗ khai thác hết sức lợi dụng các loại gỗ cành, gỗ nhánh; cơ giới hóa việc cưa, xẻ, gỗ; nghiên cứu, tổ chức ép gỗ vụn và sấy gỗ để tiết kiệm gỗ; chú trọng sản xuất các đồ gỗ dùng trong gia đình, cung cấp cho một phần nhu cầu của nhân dân.
Cần cố gắng thỏa mãn nhu cầu về giấy cho việc phát triển văn hóa. Đi đôi với việc xây dựng các xưởng hiện đại sản xuất giấy viết, giấy in, giấy báo, cần mở những xưởng giấy nhỏ ở các địa phương để sản xuất loại giấy thường.
Dệt, may mặc và da: Mở rộng và cải tiến Nhà máy Dệt Nam Định, Nhà máy Sợi và cải tiến nghề dệt thủ công. Xây dựng các nhà máy dệt kim, dệt bao tải, chế biến gai, đan lưới đánh cá, thuộc da, đóng giày.
Nâng cao kỹ thuật bật bông, kéo sợi; nghiên cứu dùng các loại cây có sợi như đay, gai,... để dệt vải. Cần tổ chức thu mua và thuộc da lợn để tăng sản lượng da.
Công nghiệp thực phẩm: Thỏa mãn nhu cầu về một số thực phẩm chủ yếu như đường, nước mắm và tăng thêm mức cung cấp về một số sản phẩm khác. Đồng thời, cần đẩy mạnh việc chế biến những sản phẩm để xuất khẩu.
Sử dụng tốt năng lực của nhà máy cá hộp; phát triển thêm các nhà máy xay loại vừa và nhỏ. Đi đôi với kế hoạch phát triển nông trường quốc doanh, cần xây dựng và sắp xếp hợp lý các cơ sở chế biến nông sản, như xưởng chè, xưởng chế biến cà phê, xưởng làm hoa quả hộp, bột, thịt, sữa.
Các ngành công nghiệp nhẹ khác: Chú trọng phát triển sản xuất các đồ dùng trong gia đình, xây dựng thêm nhà in, xây dựng xưởng phim, xưởng sản xuất đồ dùng thể thao, xưởng sản xuất học cụ, xưởng sản xuất xe đạp, kết hợp với xưởng máy điện thoại, sản xuất các phụ tùng thông dụng về vô tuyến điện để phục vụ công tác truyền thanh...
Công nghiệp quốc doanh địa phương: Có kế hoạch đẩy mạnh phát triển thủ công nghiệp và tận dụng năng lực sản xuất của các cơ sở công nghiệp công tư hợp doanh. Kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp do Trung ương quản lý và công nghiệp địa phương, giữa công nghiệp quốc doanh, công nghiệp công tư hợp doanh và thủ công nghiệp hợp tác hóa để hỗ trợ nhau cùng phát triển và bổ sung cho nhau.
Xây dựng những cơ sở nhỏ sản xuất theo lối bán cơ khí, nhằm giải quyết những nhu cầu của địa phương và hỗ trợ cho công nghiệp của Trung ương. Chú trọng những ngành nghề mà thủ công nghiệp không giải quyết được, hoặc không cung cấp đủ như nông cụ cải tiến, phương tiện vận tải thô sơ cải tiến, phân bón, vật liệu xây dựng, xay xát gạo, đường, bột, nước mắm, cá sấy,...
Chú trọng khả năng giải quyết nguyên liệu của địa phương trên cơ sở bảo đảm cung cấp nguyên liệu cho Trung ương và không ỷ lại vào việc Trung ương cung cấp nguyên liệu; cố gắng bảo đảm chất lượng và tiêu thụ; với một số loại sản phẩm cần đặc biệt khuyến khích như gang, thép... Nhà nước có chính sách bù lỗ trong thời gian đầu giá thành sản xuất còn cao, nhưng địa phương và cơ sở sản xuất phải phấn đấu để hạ dần giá thành.
Thủ công nghiệp: Hướng dẫn và giúp đỡ đẩy mạnh sản xuất vật liệu xây dựng nhà ở cho nhân dân, chế biến thực phẩm dùng ở địa phương, chế biến lần đầu các loại nông sản, lâm sản, hải sản để cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, phát triển các nghề làm đồ mây, cói, tre, song, các hàng mỹ nghệ và các hàng khác có giá trị xuất khẩu. Những ngành quan trọng như sản xuất ngũ kim nhỏ, sản xuất vật liệu xây dựng, dệt vải, thuộc da,... cần được chú ý giúp đỡ cải tiến thiết bị, cải tiến kỹ thuật, nâng cao phẩm chất và hạ giá thành sản phẩm.
b) Kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất đặt ra những chỉ tiêu lớn phát triển công nghiệp đến năm 1965
- Tỷ trọng trong nền kinh tế: Công nghiệp và thủ công nghiệp chiếm khoảng 51%, nông nghiệp chiếm khoảng 49%.
- Tỷ trọng của các thành phần kinh tế: Trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp, công nghiệp quốc doanh chiếm 68,9%, các xí nghiệp công tư hợp doanh và xí nghiệp hợp tác chiếm 5,3%, thủ công nghiệp hợp tác hóa chiếm 17,7%1.
- Vốn đầu tư vào công nghiệp chiếm khoảng 48% tổng mức đầu tư vào kinh tế và văn hóa; trong đó, nhóm A khoảng dưới 80% và nhóm B khoảng trên 20%.
- Giá trị sản lượng công nghiệp tăng bình quân hằng năm 17%, trong đó nhóm A tăng khoảng 20% và nhóm B tăng khoảng 15%, công nghiệp quốc doanh trung ương tăng bình quân hằng năm khoảng 22%, công nghiệp quốc doanh địa phương khoảng 20% và tiểu thủ công nghiệp 9%2.
Rất tiếc kế hoạch 5 năm đang được khẩn trương thực hiện còn chưa kết thúc thì cuối năm 1964, không quân Mỹ đánh phá miền Bắc. Từ đây, công nghiệp và toàn bộ đời sống kinh tế được đặt trong hoàn cảnh thời chiến.
c) Bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội
Trong 5 năm 1961 - 1965, tổng khối lượng vốn đầu tư cho công nghiệp thực hiện 1.351,8 triệu đồng, trong đó công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất (nhóm A): 78% và công nghiệp nhẹ (nhóm B): 22%. Theo cách phân loại khác: công nghiệp trung ương: 74,7%, công nghiệp địa phương: 25,3%. Riêng hai ngành Điện lực và Luyện kim đen chiếm 40% tổng vốn đầu tư vào công nghiệp. Do đó, tổng giá trị tài sản cố định mới tăng thêm của công nghiệp trong 4 năm 1961 - 1964 là 1.031,5 triệu đồng, trong đó công nghiệp trung ương tăng 964,5 triệu đồng và công nghiệp địa phương tăng 67 triệu đồng.
Cả thời kỳ kế hoạch 5 năm đã xây dựng thêm 120 xí nghiệp, đưa tổng số xí nghiệp quốc doanh tăng từ 1.012 xí nghiệp năm 1960 lên 1.132 xí nghiệp năm 1965, trong đó công nghiệp trung ương: 205 xí nghiệp và công nghiệp quốc doanh địa phương: 927 xí nghiệp.
Trong thời kỳ này đã tăng thêm 113 xí nghiệp quy mô lớn, kỹ thuật hiện đại. Xây dựng xong và đưa vào sản xuất các xí nghiệp công nghiệp nặng như các nhà máy nhiệt điện: Uông Bí, Việt Trì, Thái Nguyên, Hà Bắc, Vinh; Phân đạm Hà Bắc; Phân lân Văn Điển và Thanh Hóa; Hóa chất và thuốc trừ sâu Việt Trì.
Nhà máy Dệt 8-3 chính thức được khánh thành ngày 08/3/1965, sau 5 năm xây dựng (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Hoàn thành xây dựng và mở rộng nhiều xí nghiệp công nghiệp nhẹ như Dệt 8-3, Dệt len Hải Phòng, Sắt tráng men Hải Phòng, Nhuộm in hoa Hà Đông, Giấy Việt Trì, Đường Vạn Điểm và Sông Lam, Sứ Hải Dương, Xe đạp Thống Nhất, Cao su Sao Vàng, Bóng đèn Phích nước Rạng Đông... Đặc biệt, đẩy mạnh tốc độ xây dựng công trình cỡ lớn - Liên hợp Gang thép Thái Nguyên, vốn được khởi công từ cuối thời kỳ trước.
Giá trị sản lượng công nghiệp tăng 89% sau 5 năm, từ 1.458 triệu đồng năm 1960 lên 2.761 triệu đồng năm 1965. Tốc độ tăng giá trị sản lượng bình quân hằng năm đạt 13,6%; trong đó, công nghiệp nặng: 19,3% và công nghiệp nhẹ: 10,4%, công nghiệp quốc doanh trung ương: 20,4% và công nghiệp quốc doanh địa phương: 8,4%.
Tỷ trọng công nghiệp trong tổng giá trị sản lượng công - nông nghiệp từ 47% năm 1960 tăng lên 55% năm 1965. Cơ cấu công nghiệp cũng có sự thay đổi: công nghiệp nặng tăng từ 33,7% lên 42% và công nghiệp nhẹ giảm từ 66,3% xuống còn 58%; tỷ trọng công nghiệp trung ương: 51% và công nghiệp địa phương: 49%.
Bước đầu hình thành một cơ cấu công nghiệp theo hướng hiện đại, tự chủ. Công nghiệp trung ương phát triển chủ yếu về cơ khí, luyện kim, hóa chất, phân bón, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng. Công nghiệp địa phương dựa trên nguồn nguyên liệu tại chỗ để sản xuất các hàng hóa tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng thông dụng.
Hệ thống công nghiệp mới bao gồm ba bộ phận chủ yếu: công nghiệp quốc doanh trung ương, công nghiệp quốc doanh địa phương và tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã; trong đó công nghiệp nặng trung ương là xương sống của nền kinh tế quốc dân. Bước đầu hình thành một số khu công nghiệp tập trung như Hà Nội, Đông Anh, Việt Trì, Thái Nguyên, Hải Phòng, Nam Định, Hồng Quảng, Vinh,...
Công nghiệp quốc doanh, đặc biệt là công nghiệp trung ương, đã cung cấp cho nền kinh tế một khối lượng lớn những sản phẩm tư liệu sản xuất và hàng hóa tiêu dùng quan trọng: điện, than, gang, máy cắt gọt kim loại, động cơ điện, xà lan, bơm nước, phân bón hóa học, quặng apatít, ximăng, xe đạp, săm lốp xe đạp, nông cụ, vải, giấy, đồ thủy tinh, đồ sứ, đường mật, nước mắm,...
Những sản phẩm mới của công nghiệp nặng trung ương thời kỳ này chủ yếu là chế tạo thiết bị cỡ lớn và máy móc chính xác, như máy tiện 1 K62, máy mài M120, biến thế 1.800 kVA, động cơ 75 kW, bơm nước 4.000 - 8.000 m3/h, đầu máy xe lửa “Tự Lực”, bơm cao áp cho máy diesel, xích máy kéo, 14 loại phụ tùng cho ôtô. Ngoài ra, cũng tích cực nghiên cứu chế thử và đưa vào sản xuất máy mài chính xác, máy doa ngang, máy búa, máy dập, máy khoan đá, xe gạt, tàu hút bùn...
Anh hùng Lao động, “cha đẻ” choòng khoan “Made in Việt Nam”
Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử năm 1954, miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế, Anh hùng Lao động Trần Văn Giao cũng vừa học xong lớp 7 phổ thông. Ông rời quê ra Hà Nội tham gia học một lớp địa chất của trường đào tạo thuộc Bộ Công Thương ngày nay. Cùng học một trường “Chùa Láng” với ông còn có những người về sau đều là cán bộ cao cấp của ngành. Ông Giao nhớ lại: “Khóa học chỉ 6 tháng, nhưng đã trang bị cho chúng tôi những kiến thức vô cùng quý báu. Hết khóa học, nhà trường tổ chức một đội tình nguyện lên Lào Cai, làm nhiệm vụ thăm dò mỏ apatít, tôi giơ tay và được chấm ngay”.
Lào Cai lúc đó bạt ngàn là rừng nguyên sinh. Cả đội như lặn vào cánh rừng bạt ngàn ấy. Công việc nặng nề, triền miên, ăn uống kham khổ, bệnh sốt rét da vàng hoành hành dữ dội. Sau sáu, bảy tháng, ông chuyển về công tác tại Mỏ than Na Dương rồi sau đó là các mỏ than Quán Triều, Làng Cẩm (Thái Nguyên)...
Năm 1959, tổ chức lại điều động ông về thăm dò các mỏ sắt thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Cao Bằng, trong đó có mỏ sắt Trại Cau. Khi về công tác ở Đoàn Địa chất số 8, ông trở thành Đội trưởng Đội Khoan máy khi vừa tròn 20 tuổi. Đội Khoan của Trần Văn Giao có 12 máy khoan do Liên Xô trang bị. Có thể nói đó là khối thiết bị hiện đại nhất thời bấy giờ. Công trường xây dựng Khu Gang thép Thái Nguyên đang vào giai đoạn khởi động. Một yêu cầu đặt ra là phải nhanh chóng có báo cáo đánh giá về trữ lượng quặng sắt của Việt Nam để lập quy hoạch và kế hoạch khai thác, phục vụ chủ trương phát triển ngành công nghiệp luyện gang thép của đất nước. Cả đội lao vào làm việc không kể đêm ngày...
Và sau những cống hiến không mệt mỏi của mình, ngày 03/5/1962, ông được vinh dự đại diện cho hàng nghìn cán bộ, công nhân viên của ngành Địa chất tham gia Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn miền Bắc lần thứ ba. Tại Đại hội, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động (khi đó, ông mới vừa tròn 23 tuổi).
Trong bằng chứng nhận Anh hùng Lao động do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký còn ghi rõ: “Phát huy được nhiều sáng kiến có giá trị sử dụng máy khoan, thực hiện phương pháp khoan liên tục, giảm mỗi kíp khoan từ 6 giờ xuống còn 4 giờ, cải tiến phương pháp khoan sâu đạt kỷ lục cao nhất toàn ngành Địa chất, luôn luôn nêu cao tinh thần dám nghĩ dám làm, hăng say lao động, xung phong gương mẫu, ham học hỏi, tiêu biểu cho thế hệ thanh niên mới”.
Năm 1963, khi mẻ gang đầu tiên tại Khu Liên hợp Gang thép Thái Nguyên ra đời, cũng là lúc ông Trần Văn Giao được điều về Đoàn Thăm dò Dầu lửa 36 thuộc Tổng cục Địa chất với nhiệm vụ tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở đồng bằng Bắc Bộ.
Tháng 9/1975, Tổng cục Dầu khí được thành lập. Ông Nguyễn Văn Biên được bổ nhiệm làm Tổng cục trưởng, Trung tướng Đinh Đức Thiện được Chính phủ cử sang làm Bộ trưởng phụ trách Dầu khí. Ông Trần Văn Giao được điều động từ Đoàn 36 Y về làm chuyên viên ở bộ phận quản lý khoa học kỹ thuật thuộc Vụ Kế hoạch của Tổng cục Dầu khí. Ông Đinh Đức Thiện đã yêu cầu phải nghiên cứu chế tạo cho được choòng khoan (mũi khoan). Anh hùng Trần Văn Giao được giao trực tiếp điều phối công tác đó.
Ông lục tung đống tài liệu mang từ Rumani về. Trong số sách mang về ấy có một cuốn về công nghệ chế tạo choòng khoan. Ông và các đồng nghiệp lao vào nghiên cứu.
Kết quả là sau một thời gian, những choòng khoan mang nhãn hiệu “Made in Việt Nam” đã ra đời, đưa về giếng khoan 104 ở Phù Cừ khoan thử ở độ sâu hơn 3.000 m, được Hội đồng nghiệm thu đề tài nghiên cứu chế tạo thử nghiệm choòng khoan đánh giá chất lượng cao.
Nguồn: Website của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương.
Công nghiệp địa phương, tiểu thủ công nghiệp
Tinh thần Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 05/7/1961 của Ban Bí thư về nhiệm vụ, phương hướng phát triển sản xuất và củng cố hợp tác xã thủ công nghiệp và Nghị quyết số 105-NQ/TW ngày 19/9/1964 của Bộ Chính trị về phương châm phát triển công nghiệp địa phương là đi từ nhỏ lên lớn, từ giản đơn đến phức tạp, từ thủ công và bán cơ khí lên cơ khí, từ phân tán, quy mô nhỏ đến tập trung, thích hợp với quá trình đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.
Năm 1965, miền Bắc có 927 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh địa phương và 2.529 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp với 517.548 công nhân và thợ thủ công chuyên nghiệp. Công nghiệp địa phương tạo ra 1.290 triệu đồng giá trị sản lượng, chiếm 49% giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp miền Bắc, tăng 4,8 lần so với năm 1955 và 142% so với năm 1960; trong đó, công nghiệp quốc doanh địa phương và công tư hợp doanh tăng 100% so với năm 1960 và chiếm 39%, tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã, cá thể tăng 22,5% và chiếm 61%. Phân theo ngành phục vụ: sản xuất tư liệu tiêu dùng chiếm 60,8%, sản xuất tư liệu sản xuất chiếm 34,6% và xuất khẩu 4,6%3.
Những sản phẩm chủ yếu của công nghiệp địa phương bao gồm các hàng hóa tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng thông dụng cho dân cư như điện, than, gang, phân bón hóa học, gạch ngói, ximăng, gỗ tròn, tre nứa, song mây, nông cụ cải tiến, chiếu cói, da thuộc, đường mật, cá, muối...
Tiểu thủ công nghiệp, lực lượng to lớn của công nghiệp địa phương, sản xuất ra 61% giá trị sản lượng công nghiệp địa phương và 40% giá trị sản lượng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp miền Bắc. Công cuộc cải tạo đã thu hút nửa triệu lao động (chiếm 95% thợ thủ công trong diện cải tạo) vào các hợp tác xã, tổ sản xuất hợp tác, chỉ còn một bộ phận nhỏ làm ăn cá thể, chiếm 4% giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp và 13,8% giá trị sản lượng công nghiệp địa phương. Tuy nhiên, nếu không kể bộ phận cá thể tiếp tục duy trì được nhịp độ tăng trưởng (2,1 lần trong thời gian 1961 - 1965), thì bộ phận hợp tác xã đang suy giảm liên tục: giá trị sản lượng năm 1962 bằng 114% so với năm 1961, năm 1963 chỉ còn 97% và năm 1964 là 98,5%.
d) Những ngành công nghiệp chủ yếu
Điện lực: Đạt tốc độ phát triển nhanh: 248% (tốc độ chung của công nghiệp 189%). Xây dựng thêm các nhà máy điện như Uông Bí - Nhà máy nhiệt điện có công suất lớn nhất đầu tiên ở miền Bắc, Việt Trì, Thái Nguyên, Hà Bắc, Vinh,... đưa tổng số cơ sở từ 33 năm 1961 lên 40 năm 1965. Làm xong 571 km đường dây 110 kV, 1.135 km đường dây 35 kV. Hình thành mạng lưới điện 110 kV thống nhất phân phối điện cho phía Nam và Bắc Hà Nội, khu vực Nam Định, Hải Phòng, Bắc Giang, Việt Trì, Phú Thọ, Thái Nguyên, khu mỏ than. Hoàn thành các đường dây 110 kV Đông Anh - Hà Nội - Nam Định, Uông Bí - Mông Dương, Đông Anh - Bắc Giang. Hoàn thành và đưa vào sử dụng các trạm biến thế 110/35/6 kV như Hà Đông (40 nghìn kVA), Trình Xuyên và Mông Dương (20 nghìn kVA). Ngoài ra, đã xây dựng một số trạm phát điện nhỏ ở các thị xã, thị trấn, các trạm thủy điện nhỏ miền núi. Năm 1964, khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Thác Bà - Nhà máy thủy điện có công suất lớn đầu tiên ở miền Bắc, Nhà máy Thủy điện Na Hang, Nhà máy Thủy điện Suối Cun, Nhà máy Thủy điện Lạng Sơn.
Năm 1965, miền Bắc đạt sản lượng điện 633,6 triệu kWh, tăng gấp 2,5 lần so với năm 1960. Công suất huy động thêm của ngành Điện trong thời gian này là 103.000 kW; công suất có khả năng huy động là 192.000 kW, đảm bảo cung cấp điện ổn định cho các nhà máy và khu công nghiệp quan trọng, cho nông nghiệp chống úng và chống hạn ở đồng bằng Bắc Bộ, một số khu vực trung du và miền núi.
Khai thác than: Sản lượng than khai thác tăng từ 2,6 triệu tấn năm 1960 lên 4,2 triệu tấn năm 1965; trong đó, Công ty Than Hòn Gai sản xuất phần chủ yếu, ngoài ra còn có các mỏ Uông Bí, Mông Dương. Ngành Than đã xây dựng thêm một số mỏ phụ; khởi công xây dựng mỏ than Mông Dương; nghiên cứu khôi phục mỏ than Mạo Khê; mở rộng mỏ than Uông Bí; hoàn thành xây dựng cơ sở luyện cốc Hồng Gai; thăm dò bổ sung trữ lượng các mỏ than Vàng Danh, Cánh Gà, Mông Dương, Mạo Khê; nâng cấp trữ lượng than Hà Tu, Hà Lầm, Tây Bắc; khởi công thăm dò Khe Chàm,...
Cơ khí: Đã có khả năng chế tạo các máy công cụ chính xác cấp 2, các loại máy nổ, máy bơm, các thiết bị toàn bộ cho một số ngành công nghiệp nhẹ. Xây dựng thêm một số nhà máy cơ khí quan trọng, như: Cơ khí Trung tâm Cẩm Phả, Cơ khí Nông nghiệp Hà Đông; cải tạo và mở rộng các nhà máy: Cơ khí Duyên Hải, Điện Cơ, Cơ khí Uông Bí, Xe đạp Thống Nhất, Cơ khí Trần Hưng Đạo; hoàn thành xây dựng phân xưởng cắt gọt và mở rộng phân xưởng cơ khí của Nhà máy Cơ khí Hà Nội, hoàn thành Nhà máy Đóng tầu Bạch Đằng (đợt I), mở rộng Nhà máy Xe lửa Gia Lâm, khởi công Nhà máy Liên hợp Diesel, Nhà máy Cẩm Phả, Nhà máy Điện cơ Hunggari, Nhà máy Dụng cụ đồ nghề và cân, Nhà máy Cơ khí Gia Lâm...; đưa số xí nghiệp cơ khí lên 148 xí nghiệp năm 1965, đạt giá trị sản lượng 309 triệu đồng, trong đó cơ khí chế tạo chiếm 80% và cơ khí sửa chữa chiếm 20%, cơ khí phục vụ sản xuất chiếm 90% và phục vụ tiêu dùng chiếm 10%.
Luyện kim: Sản lượng gang miền Bắc vào năm 1965 đạt 115 nghìn tấn (riêng Thái Nguyên đạt 90 nghìn tấn), thép thỏi đạt 10 nghìn tấn. Nghiên cứu đúc các bán thành phẩm để giảm ứ đọng thép thỏi, chuẩn bị phương án cho mở rộng Khu Liên hợp Gang thép Thái Nguyên đợt 2. Ngoài ra, tích cực đẩy mạnh khai thác kim loại màu, đạt sản lượng thiếc thỏi: 436 tấn và quặng Cromit khô: 13,1 nghìn tấn, tổ chức khai thác mỏ thiếc Sơn Dương (Tuyên Quang), tích cực giải quyết bãi thải và áp dụng phương pháp khai thác mới để nâng sản lượng khai thác quặng Cromit ở Cổ Định (Thanh Hóa).
Phân bón, hóa chất: Năm 1965, các loại phân bón đạt sản lượng: supe phốtphát: 87,2 nghìn tấn, quặng apatít cục: 680 nghìn tấn, thuốc bột 666: 1.569 tấn, axít sunfuríc: 4.688 tấn. Năm 1965, đã hoàn thành xây dựng Nhà máy Phân đạm Hà Bắc và bắt đầu xây dựng cơ sở nghiền apatít, mở rộng phân xưởng axít sunfuríc, gấp rút nghiên cứu xây dựng nhà máy điện giải và thuốc nhuộm.
Sau gần hai năm xây dựng, ngày 19/5/1961, Nhà máy Hóa chất số 1 Việt Trì đã mở máy sản xuất an toàn và cho ra mẻ xút đầu tiên (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng: Số cơ sở công nghiệp thực phẩm và công nghiệp hàng tiêu dùng tăng từ 321 cơ sở năm 1960 lên 336 cơ sở năm 1965. Tập trung mở rộng và nâng công suất cho hai nhà máy đường Nghệ An và Việt Trì (đưa công suất từ 350 tấn mía/ngày lên 500 tấn mía/ngày), Nhà máy Thuốc lá Thăng Long (tăng công suất lên 100 triệu bao/năm), cân đối thiết bị và nâng công suất Nhà máy Giấy Việt Trì (đạt công suất 20 nghìn tấn), mở rộng Nhà máy Gỗ Cầu Đuống, hoàn thành xây dựng và huy động hết công suất Nhà máy Dệt 8-3 (35 triệu mét vải), hoàn thành các phân xưởng phụ và huy động hết công suất Nhà máy Mì chính Việt Trì, tăng thiết bị cho các cơ sở sản xuất đường, chè, rượu, xà phòng, sữa bột, đậu nành, bột ngô. Ngoài ra, cũng khởi công xây dựng các nhà máy: Đường Sao Vàng, Hoa quả Việt Trì, Sấy thuốc lá Ninh Bình, Giấy Vạn Điểm, Thuộc da Vinh, Chế biến thịt Phú Thụy,...
đ) Tổ chức, quản lý và phát triển công nghiệp
Thi đua, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản lý, củng cố chế độ hạch toán kinh tế: Ngay từ đầu năm 1961, toàn ngành Công nghiệp đã mở cuộc vận động thi đua “Hợp lý hóa sản xuất và cải tiến kỹ thuật”, đồng thời kết hợp triển khai cuộc vận động cải tiến quản lý “Ba xây, ba chống” (với nội dung “nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu”).
Trong ngành công nghiệp nặng, từ cuối năm 1960, đã áp dụng hạch toán tới phân xưởng và tổ sản xuất (Cơ khí Hà Nội, Ximăng Hải Phòng, Phốtphát Hải Phòng, Nông cụ Hà Đông, Cơ khí Trần Hưng Đạo, Gạch Cầu Đuống, Than Hồng Gai,...). Các xí nghiệp, công trường thành lập Hội đồng định mức để thực hiện trả lương theo sản phẩm, góp phần củng cố chế độ hạch toán kinh tế. Việc áp dụng hạch toán tới phân xưởng phát triển rộng khắp và mang hình thức mới: để quần chúng tham gia xây dựng định mức, tự phấn đấu hoàn thành và vượt định mức, tham gia công tác quản lý và dân chủ hóa quản lý xí nghiệp.
Để giải quyết những khó khăn trong tiêu thụ và cung ứng nguyên liệu, thúc đẩy sản xuất của các cơ sở hợp tác xã thủ công nghiệp và công tư hợp doanh địa phương, Nghị quyết số 21-NQ/TW đã chủ trương thay chế độ gia công bằng hợp đồng kinh tế. Các hợp tác xã sẽ không còn phụ thuộc, bị động vào nhà cung ứng và tiêu thụ duy nhất là mậu dịch quốc doanh, mà được chủ động ký kết hợp đồng mua nguyên vật liệu và bán sản phẩm của mình với các cơ quan, đơn vị kinh tế khác. Các hợp tác xã cũng được phép mở đại lý tiêu thụ sản phẩm, tổ chức trưng bày triển lãm, để có thể tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng. Khuyến khích cơ sở sản xuất tự định giá gia công và thu mua hợp lý, theo nguyên tắc đảm bảo chi phí sản xuất, cải thiện đời sống, tăng cường trang thiết bị cho cơ sở và đảm bảo tích lũy cho Nhà nước. Giá thu mua hoặc gia công phải lấy giá thành làm cơ sở4.
Nghị quyết số 105-NQ/TW đã mở rộng quyền hạn cho các địa phương về quản lý phát triển công nghiệp địa phương. Trung ương sẽ chỉ giao kế hoạch sản xuất, cung cấp vật tư, tiêu thụ sản phẩm đối với một số mặt hàng quan trọng. Việc quản lý vốn, tài sản và sản xuất công nghiệp địa phương do Ủy ban hành chính địa phương hay các sở, ty công nghiệp địa phương đảm nhiệm. Thành lập Vụ (hay Cục) Công nghiệp địa phương trực thuộc Văn phòng Phủ Thủ tướng; thành lập Liên hiệp Hợp tác xã thủ công nghiệp (gọi tắt là Liên hiệp xã trung ương) như một tổ chức xã hội - nghề nghiệp của thợ thủ công, để vận động thi đua sản xuất, cải tiến kỹ thuật. Các địa phương cũng thành lập Sở Quản lý công nghiệp quốc doanh địa phương và Sở Quản lý hợp tác xã thủ công nghiệp từ các ty công nghiệp cũ5.
Lời Bác dạy về quản lý sản xuất
Một buổi sáng ngày 28/4/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông. Nói chuyện với cán bộ, người lao động Nhà máy, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Tổ chức chính quyền cần có kế hoạch, biện pháp sát đúng. Tổ chức thật tốt bộ máy quản lý, đội ngũ những người làm công tác khoa học kỹ thuật, nhằm tăng năng suất lao động, chú trọng việc nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, thực hành tiết kiệm, đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của nhân dân. Đó là ý thức giai cấp, là lương tâm và trách nhiệm của mỗi cán bộ, công nhân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và nói chuyện với công nhân, viên chức Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông, ngày 28/4/1964 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến các phân xưởng, Người luôn hỏi: “Chất lượng hôm nay đã tốt hơn chưa? Mỗi ngày các cháu làm được bao nhiêu phích, bao nhiêu bóng đèn?”. Chủ tịch Hồ Chí Minh hỏi đồng chí Giám đốc Nhà máy:
- Chú làm Giám đốc, trong bữa ăn tối của gia đình, bóng đèn bị hỏng, chú có bực không?
- Dạ thưa Bác, có ạ!
- Thế thì mọi người dùng bóng đèn kém chất lượng họ cũng bực như chú đấy!
Rồi Chủ tịch Hồ Chí Minh kể một câu chuyện: “Có mấy gia đình công nhân được nhận nhà mới. Nhờ anh em giúp đỡ, họ đã mua sắm giường mới, bóng đèn, phích nước, xe đạp... mọi người đều phấn khởi. Tiếc thay các thứ đó chỉ dùng được mấy hôm “đã có vấn đề”. Các cô, các chú thử nghĩ xem, cảm tình của những gia đình ấy đối với ngành Công nghiệp nhẹ nồng hậu thế nào?”.
Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm tới giữ gìn môi trường, vệ sinh và cảnh quan công nghiệp của Công ty. Ngày ấy, vật tư hóa chất được cung cấp giá rẻ, anh em chưa biết tiết kiệm, nhặt nhạnh, chắt chiu. Đi tới phân xưởng phích nước, thấy mảnh thủy tinh hình thoi cong cong rơi vãi, Bác cúi xuống nhặt bỏ nhẹ vào thùng đựng mảnh. Thấy vệ sinh công nghiệp, cảnh quan môi trường Nhà máy còn chưa tốt, Bác nói: “Bác đã có dịp đến thăm những nhà máy ở nước bạn, anh em công nhân nước bạn giữ nhà máy rất sạch, rất đẹp. Còn Nhà máy Bóng đèn Phích nước của chúng ta đây bẩn quá. Máy móc bẩn này, tường nhà bẩn này, nơi làm việc cũng bẩn này. Vệ sinh công nghiệp không đảm bảo thì ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, có đúng không các chú!”.
Tới Phân xưởng Thủy tinh, Bác hỏi thợ thổi: “Các chú được đào tạo nghề ở đâu? - Dạ thưa Bác, chúng cháu được đào tạo tại Nhà máy ạ. - Bác khen: Thế thì các chú làm việc giỏi đấy!”.
Cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần nhắc nhở cán bộ, công nhân viên Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông nhiều điều sâu sắc. Trước lúc ra về, Bác dặn: “Các cô, các chú cố gắng làm tốt, Bác sẽ về thăm...”.
Nguồn: Cổng thông tin điện tử quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.
e) Tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế
Cùng với việc phát huy nguồn lực trong nước, chúng ta tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa để phát triển công nghiệp. Sự giúp đỡ của các nước chủ yếu là đưa chuyên gia và công nhân kỹ thuật sang Việt Nam để thiết kế, thi công các công trình, hạng mục; giúp đỡ thiết bị toàn bộ, viện trợ nguyên, vật liệu, thiết bị lẻ, vật tư.
Theo Hiệp định Kinh tế, thương mại Việt Nam - Liên Xô giai đoạn 1961 - 1965, Liên Xô giúp Việt Nam xây dựng 43 xí nghiệp và các công trình công nghiệp. Theo Hiệp định Kinh tế, thương mại dài hạn Việt Nam - Trung Quốc ký ngày 31/01/1961, Trung Quốc cho Việt Nam vay số tiền gần 142 triệu rúp chuyển đổi. Việt Nam dùng số tiền này thanh toán cho việc mua các thiết bị của Trung Quốc để xây dựng và mở rộng 28 xí nghiệp thuộc ngành luyện kim, công nghiệp nhẹ và đường sắt. Tiêu biểu là Nhà máy Hóa chất Việt Trì, Cao su Sao Vàng, Phân đạm Hà Bắc, Sứ Hải Dương... Theo Hiệp định kinh tế thương mại dài hạn 3 năm giữa Việt Nam và Hunggari cũng có nhiều công trình công nghiệp nước bạn giúp Việt Nam.
Để có được những kết quả hợp tác đó, tại Đại hội III, Đảng Lao động Việt Nam đã chủ trương tăng cường sự hợp tác kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa; trong đó, căn cứ vào tình hình thực tiễn, có những phương thức hợp tác với những nhóm nước cụ thể: Trong quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, chủ yếu là ta nhận sự giúp đỡ của bạn, đồng thời hết sức phát huy sự hợp tác của ta với bạn. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa khác, cần cân nhắc yêu cầu và khả năng của ta cũng như của bạn, bảo đảm lợi ích chính trị và kinh tế của hai bên.
Về hợp tác khoa học và kỹ thuật, cần tranh thủ học tập kinh nghiệm tiên tiến của Liên Xô, Trung Quốc và của các nước khác, nhờ giúp đỡ trong việc điều tra, thăm dò, thiết kế, đào tạo cán bộ nghiên cứu khoa học và cán bộ kỹ thuật, nghiên cứu giải quyết một số vấn đề kỹ thuật theo yêu cầu của điều kiện tự nhiên ở nước ta.
“Trong việc trao đổi ngoại thương, cần bảo đảm phân phối phần lớn kim ngạch xuất nhập khẩu trong khối các nước xã hội chủ nghĩa, hết sức cố gắng tăng kim ngạch hàng năm với các nước anh em; cần chú trọng cung cấp những loại hàng mà các nước anh em cần với khối lượng ngày càng tăng như apatít, crommit, gỗ, các đặc sản nhiệt đới...”6.
Nhìn chung, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) đã đạt được những thành tựu quan trọng. Trong công nghiệp, công nghiệp quốc doanh phát triển với nhịp độ cao. Các ngành công nghiệp nặng như dầu khí, luyện kim, hóa chất... được xây dựng và đi vào sản xuất. Công nghiệp nhẹ và mạng lưới công nghiệp địa phương phát triển khá. Mặc dù vậy, công nghiệp vẫn còn chưa hướng vào mục tiêu trung tâm là phục vụ sản xuất nông nghiệp và hàng tiêu dùng. Quan niệm về công nghiệp hóa còn quá nhấn mạnh đến việc phát triển công nghiệp nặng. Báo cáo tại Hội đồng Chính phủ ngày 25/02/1964, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đánh giá: “Trong những năm vừa qua, chúng ta chưa nhìn thấy hết vị trí và tác dụng của công nghiệp nhẹ trong công cuộc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”7.
1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.839.
2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.24, tr.460-461.
3. Xem Bộ Công Thương: Sơ lược lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.129.
4. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.22, tr.381-382.
5. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.25, tr.258-262.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.835.
7. Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.140.