1. Tình hình sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp

Từ tháng 3/1946, Chính phủ đã mật di chuyển dần các máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu... Nội về các tỉnh lân cận để chuẩn bị cho công cuộc kháng chiến. Khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ, việc tổng di chuyển trên cả nước được phát động, nhằm đem tất cả những thể được lên các căn cứ để trường kỳ kháng chiến. Phần lớn các sở sản xuất từ Nội đã tán ra vùng lân cận, nay di chuyển tiếp lên các chiến khu.

Tính đến tháng 3/1947, đã gần 40.000 tấn máy móc, vật sản xuất của các ngành được lực lượng cán bộ, công nhân vận chuyển an toàn, chủ yếu bằng sức người phương tiện thô như mảng, ngựa thồ, xe trâu... về các khu căn cứ kháng chiến. Riêng Bắc Bộ, gần 2/3 số máy móc các nghiệp được chuyển lên căn cứ. Đây nguồn lực cùng quan trọng trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, giúp hình thành 57 sở sản xuất hoạt động ngay khi kháng chiến toàn quốc nổ ra1, góp phần xây dựng nền kinh tế kháng chiến vững mạnh.

a) Sản xuất công nghiệp dân dụng

Với đặc điểm đại đa số các vùng tự do khu vực nông thôn, rừng núi hiểm trở trình độ sản xuất lạc hậu, nay lại bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, khốc liệt, nền công nghiệp tại vùng tự do trong những ngày đầu kháng chiến quy nhỏ, phân tán, mang tính động cao nhằm tránh sự càn quét của địch. Điển hình, việc đặt máy công cụ thường không đổ móng cố định chỉ bắt bulông trên khung gỗ để thể nhanh chóng tháo lắp, di chuyển khi địch càn quét. Nhà xưởng thường bằng gỗ, tre, nứa, lá. Thậm chí, một số khu vực tại Nam Bộ, các xưởng nhỏ còn được đặt trên ghe, thuyền.

xưởng may quân trang Xưởng may quân trang Chiến khu Việt Bắc năm 1946 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Nhờ xây dựng xưởng theo phương châm trên, nên khi bị địch tiến công, các xưởng lại được di chuyển đến vị trí mới, mọi hoạt động sản xuất của xưởng lại nhanh chóng được triển khai. Cách tổ chức này còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc tận dụng tối đa tài nguyên nhân lực tại mỗi địa phương. Nhờ kết hợp sáng tạo nhiều biện pháp, trong suốt cuộc kháng chiến, tuy địch dùng nhiều thủ đoạn nhưng vẫn không đạt được mục tiêu phá hủy hoạt động sản xuất của lực lượng kháng chiến. Xuyên suốt cuộc kháng chiến, hoạt động sản xuất công nghiệp của ta chỉ tập trung vào những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế thời chiến, gồm khí, khai thác than, hóa chất bản, dệt may giấy.

Đối với ngành khí, đây lĩnh vực được quan tâm phát triển hàng đầu trong số các ngành công nghiệp thời kỳ này, nhằm vừa đáp ứng nhu cầu sản xuất, sửa chữa khí chống lại thực dân Pháp, vừa đáp ứng nhu cầu của các lĩnh vực công nghiệp khác. Các xưởng khí được thiết lập tại tất cả các địa phương trong vùng tự do, đặc biệt tại vùng Việt Bắc, sử dụng kết hợp cả các phương pháp thủ công lẫn hiện đại.

Để tổ chức sản xuất, các xưởng trước hết phải giải quyết được vấn đề thiếu máy móc, nhất máy phát điện. Đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật đã tìm tòi nghiên cứu, cải tạo những bộ phận của đầu máy xe lửa, động ôtô đủ các loại, thành máy phát điện cho các máy công cụ lớn. Ngoài ra, các xưởng còn triệt để tận dụng các loại máy phát điện quay tay, đạp chân. Để giải quyết vấn đề thiếu máy công cụ, ta tận dụng tối đa các loại máy cũ, sửa chữa máy hỏng thành máy tốt tích cực tìm cách chế tạo các loại máy mới.

Nhà máy khí Trần Hưng Đạo ra đời Việt Bắc

Ông Nguyễn Nhân, sinh năm 1914, người Thái Bình. Khi còn trẻ, ông vào học nghề khí của Trường Bách nghệ Máy Tơ, Hải Phòng. Ra trường, đi làm bươn chải cuộc sống, ông về Nội lập nghiệp khí mang tên Nguyễn Nhân tại phố Hàng Bột (Tôn Đức Thắng, quận Đống Đa ngày nay) với vài chục công nhân. Đang làm ăn phát đạt thì toàn quốc kháng chiến năm 1946 nên ông đã cho tháo toàn bộ máy móc chở thuyền về Thái Bình để tính chuyện sau.

Một thời gian nghe tin anh bạn cùng lớp Máy năm xưa nay đang làm thư Tỉnh ủy Phú Thọ nên ông đạp xe lên đó mẫm tìm gặp để bàn chuyện tiếp tục làm nghề khí. Hai người đã đạp xe đi tìm ông Nguyễn Lương Bằng lúc này đang đảm trách Trưởng Ban Kinh tài của Đảng để xin ý kiến.

Gặp được ông Bằng, ông nhận được gợi ý nên cho chuyển máy lên góp với một số người khác cùng nghề để xây dựng một nhà máy khí trên chiến khu sản xuất một số sản phẩm để chống giặc ta đang cần, ông Nguyễn Lương Bằng hỏi thân tình: Thế anh Nhân định sẽ theo kháng chiến đến khi nào? - Dạ. Đến khi hết giặc ạ! - Vậy thì tốt. Ta cùng nhau bắt tay làm khí nhé. Nhiều khó khăn đấy”.

Thế ông chủ xưởng khí Nguyễn Nhân quay về Thái Bình để lại vợ cùng 3 con bỏ tiền thuê thuyền chở tất cả máy móc lên Chiêm Hóa, Tuyên Quang để góp với một số chủ xưởng, gara khí khác lập nên Nhà máy khí mang tên Trần Hưng Đạo do chính ông Nguyễn Lương Bằng đặt cử ông Nguyễn Nhân làm Giám đốc.

Nguồn: Đào Phan Long: “Nhà máy khí Trần Hưng Đạo ra đời Việt Bắc”,

Tạp chí khí Đời sống, 2021.

Trong sản xuất, việc rèn các chi tiết lớn thường dùng búa tay, đúc gang thủ công cho lượng đúc mỗi mẻ 30 - 50 kg, quạt gió thì dùng guồng quay tay hoặc đạp chân. Một số xưởng khí lớn, quan trọng đều các máy công cụ hiện đại như máy tiện, phay, bào, khoan, dập...

cơ khí Trần Hưng Đạo Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Nhà máy khí Trần Hưng Đạo trên chiến khu Việt Bắc (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Khó khăn về thiếu cán bộ, công nhân kỹ thuật được giải quyết bằng cách vừa học chuyên môn, vừa thực hành trong sản xuất, người biết kèm người chưa biết, tổ chức các lớp huấn luyện cấp tốc ngắn ngày buổi trao đổi kinh nghiệm, phát động phong trào “kèm cặp thợ trẻ”... Từ chỗ không biết kỹ thuật, công nhân đã nắm vững kỹ thuật thao tác, vận hành máy với hiệu quả cao. Công nhân đã nhiều sáng kiến kỹ thuật độc đáo. Điển hình, ngay đầu năm 1947, xưởng đúc gang thuộc Sở Khoáng chất Kỹ nghệ Trung Bộ đã chế tạo thành công một máy tiện nhỏ từ các bộ phận tự chế tạo.

Dần dần, ta đã tự sản xuất được nhiều loại máy móc như: máy cán bông, máy đan áo, máy in quay tay... Đặc biệt, Liên khu V đã chế tạo thành công máy xát sắn công suất tới 1 tấn/ngày, máy xay xát gạo, động loại nhỏ dung tích 1 xilanh. Các xưởng khí cũng cung cấp đa dạng loại nông cụ như cuốc, xẻng, lưỡi cày... chất lượng tốt với số lượng lớn, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo lương thực cho vùng tự do.

Trong các sở sản xuất, Nhà máy khí Trần Hưng Đạo tại Chiêm Hóa (Tuyên Quang) thành lập tháng 4/1947, được xem cái nôi của ngành khí Việt Nam. Trong hai năm 1947 - 1948, khi các nghiệp quân giới thuộc Bộ Quốc phòng còn thiếu nhiều phương tiện sản xuất, thì nhà máy đã hỗ trợ đắc lực bằng ba loại sản phẩm khí: máy dập đầu đạn AT, máy trộn thuốc đạn máy tiện cỡ nhỏ. Các loại máy này đều được thiết kế nhỏ gọn, dễ tháo lắp, di chuyển thuận lợi trong điều kiện rừng núi. Từ năm 1949, hoạt động của nhà máy được mở rộng, kiêm thêm nhiệm vụ sửa chữa chế tạo các loại máy như: máy phát điện, máy kéo sợi, máy cán bông, máy in... phục vụ công nghiệp dân dụng, giúp mở rộng hoạt động của nhiều đơn vị quan trọng như Đài Tiếng nói Việt Nam, Nhà in báo Sự Thật, Xưởng giấy Lửa Việt, Xưởng gốm sứ Sông Lô... Liên khu III, Liên khu IV cũng vận chuyển máy ra Việt Bắc để nhà máy sửa chữa. Từ năm 1947 đến năm 1952, nhà máy đặt dưới sự quản trực tiếp của Ban Kinh tế tài chính Trung ương. Đến năm 1952, nhà máy được chuyển sang hệ thống quản nhà nước, do Nha Kỹ nghệ thuộc Bộ Công Thương trực tiếp điều hành.

Đối với hoạt động khai khoáng, trong điều kiện hết sức thiếu thốn máy móc, không hệ thống điện quy lớn, địch tấn công ác liệt, phải khai thác chủ yếu bằng phương pháp thủ công, Bộ Kinh tế vẫn cố gắng phục hồi, đưa vào hoạt động trở lại những mỏ nằm trong vùng tự do thực dân Pháp đã khai thác trước đây tổ chức khai thác mới nhiều nhất thể đối với các mỏ khoáng sản khai thác được.

Trong đó, các mỏ than được ưu tiên khôi phục, mở rộng khai thác đầu tiên, điển hình các mỏ: Làng Cẩm, Quán Triều, Tân Thành (Thái Nguyên), Khe Bố (Nghệ An), Nông Sơn (Quảng Nam)... Nha Khoáng chất Kỹ nghệ2 trực tiếp quản lý, điều hành hoạt động khai thác của các mỏ. Đáng chú ý, đầu năm 1949, bốn mỏ than, gồm Phấn Mễ, Minh Khai, Đầm Đùn Khe Bố đã được tổ chức lại, trở thành những đơn vị công nghiệp nhà nước đầu tiên trong chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bên cạnh việc khai thác than thô, một số đơn vị đã tổ chức sản xuất thành công than cốc - nguyên liệu đầu vào quan trọng cho hoạt động luyện kim. Theo thống chưa đầy đủ, từ năm 1946 đến năm 1950, các mỏ than do ta kiểm soát đã khai thác được 20.000 tấn than than cốc. Từ năm 1951 trở đi, hoạt động khai thác tại nhiều mỏ được đẩy mạnh. Sản lượng tại mỏ Làng Cẩm đạt 150 tấn/tháng, mỏ Tân Thành đạt 150 tấn/tháng; các mỏ khác đạt trên dưới 100 tấn/tháng. Sản lượng khai thác than trong giai đoạn này tuy không cao nhưng đóng vai trò rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất khí của ngành quân giới công nghiệp khí trong những ngày đầu kháng chiến.

Các mỏ khai thác quặng kim loại cũng được sớm đưa vào hoạt động, trong đó, mỏ antimon Cốc Táy, Đầm Hồng (Tuyên Quang) từ năm 1946; mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng) từ đầu năm 1947, nhưng phải ngưng hoạt động vào cuối năm đó do thực dân Pháp mở rộng chiến tranh. Đến trước năm 1950, sản lượng khai thác quặng kim loại tại vùng tự do gần như không đáng kể hầu hết được cung ứng cho các xưởng quân giới để sản xuất khí. Sau thắng lợi của Chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950, nhiều mỏ khai khoáng quan trọng, quy lớn vốn nằm trong vùng tạm bị địch chiếm đã được giải phóng hoạt động khai thác được triển khai trở lại như mỏ thiếc Tĩnh Túc, mỏ chì - kẽm Chợ Đồn (Bắc Kạn), mỏ apatít (Lào Cai)..., giúp gia tăng đáng kể sản lượng khai thác quặng kim loại phục vụ các hoạt động sản xuất khí, phát triển công nghiệp.

Bên cạnh đó, Nha Kỹ nghệ cũng tổ chức các đoàn công tác để điều tra, lập bản đồ tài nguyên khoáng sản phục vụ công tác quy hoạch mở rộng khai thác khi điều kiện cho phép.

Đối với sản xuất hóa chất, hoạt động sản xuất hóa chất được khuyến khích phát triển tại tất cả các khu vực, vùng tự do, nhằm phục vụ trước hết cho công nghiệp quốc phòng, tiếp đến phục vụ hoạt động sản xuất công nghiệp nông nghiệp. Vượt qua các khó khăn do chiến tranh gây ra, các xưởng hóa chất quy nhỏ đã được thiết lập sản xuất thành công nhiều loại hóa chất bản, thiết yếu như: axít sunfuríc được sản xuất theo phương pháp bể chì; kali nitrat được điều chế từ phân dơi; chiết tách glyxêrin từ thảo mộc; điều chế hỗn hợp thủy ngân fulminat, sản xuất kali clorat... Qua đó, tạo nguồn nguyên liệu đầu vào quan trọng, cho phép sản xuất quy lớn thuốc nổ các loại, ngòi nổ, phân bón, ắc quy, thuốc nhuộm cho vải, diêm, mực in... Đặc biệt, việc sản xuất thành công một số loại hóa chất như cồn 90 độ, este gây tê... đã góp phần đắc lực trong việc cứu sống nhiều thương, bệnh binh trên chiến trường. Các loại hóa chất vùng tự do không thể sản xuất được, buộc phải tổ chức thu mua mật từ vùng tạm bị địch chiếm. Các sản phẩm hóa chất cũng loại hàng hóa bị địch kiểm soát mua bán gắt gao.

Đối với hoạt động dệt may, tương tự như các xưởng hóa chất, các xưởng dệt may xưởng nhuộm được thiết lập tại hầu hết các tỉnh, các khu nhằm đáp ứng nhu cầu quân nhu của bộ đội cũng như nhu cầu dân sinh. Trong đó, lớn nhất các xưởng dệt phục vụ bộ đội với số lượng công nhân lên đến hàng trăm người, còn những xưởng nhỏ hơn số công nhân từ 50 - 100 người. Đa số các xưởng đều sử dụng khung dệt thủ công, chỉ một số ít xưởng được trang bị máy khí hiện đại. Sợi phần lớn được lấy từ bông trồng ngay tại chính các địa phương, chỉ những khu vực thiếu sợi mới phải tìm thu mua từ vùng tạm bị địch chiếm. Sản phẩm dệt may của các xưởng cũng rất đa dạng, từ vải thô các loại đến quần áo thành phẩm.

Trong đó, Liên khu V nổi tiếng với việc sản xuất được loại vải sita, độ bền, mịn mềm không thua kém vải của các xưởng dệt nằm trong vùng tạm bị địch chiếm. Từ năm 1950 trở đi, ngành dệt trong vùng tự do đã đảm bảo cung cấp đầy đủ quân trang cho lực lượng trang, giúp cải thiện đáng kể sinh hoạt của các chiến sĩ. Trong những năm cuối cuộc kháng chiến, một số xưởng dệt may - nhuộm đã được mở rộng, hình thành các doanh nghiệp quốc doanh tham gia phát triển tài chính cho chính quyền cách mạng địa phương.

may quân trang Các xưởng may quân trang tại Chiến khu Việt Bắc được hợp nhất thành Xưởng may 10 năm 1952 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

bảng 13

Phong trào “tự lực, tự cường” Tam Kỳ

Suốt giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, vùng đất Tam Kỳ (Quảng Nam) thuộc vùng tự do. thế, khi Đảng Chính phủ kêu gọi nhân dân “tự lực, tự cường”, khắc phục các khó khăn để phục vụ công cuộc kháng chiến thì phong trào Tam Kỳ dấy lên mạnh mẽ. Trong đó, Trần Thị Khương (hay còn gọi Tân) tại làng An Phú (nay phường An Phú, thành phố Tam Kỳ) đã đứng ra xây dựng xưởng dệt đầu tiên Tam Kỳ từ cuối năm 1946. tìm mua bông hạt về trồng tại địa phương để tạo nguồn nguyên liệu, thuê thêm nhân công để mở rộng sản xuất phổ biến kỹ thuật cho nhiều người. Khi bắt đầu thành phẩm, mọi người đều gọi bằng cái tên thân mật: Vải sita Tân.

Tại sao lại vải sita? Bởi trong những thập niên đầu của thế kỷ XX, người Pháp đã mở Công ty Vải sợi Trung Kỳ - Société Industrielle de Textile d’ Annam, viết tắt thành S.I.T.A, từ đó, dân ta đọc chệch thành “vải sita”. Loại vải được dệt Tam Kỳ cũng độ bền bóng mịn không kém chất lượng vải Pháp này.

Từ xưởng dệt đầu tiên này, đến giữa năm 1947, hầu như khu vực nào tại Tam Kỳ cũng sở dệt vải. Nghề trồng bông, trồng dâu nuôi tằm, kéo sợi cũng nhờ đó phát triển theo. Không chỉ giúp nhân dân trong vùng “của ăn, của để”, còn giúp các sở dệt chủ động được nguồn nguyên liệu.

Vải sita Tân được Công ty Việt Thắng (hoạt động buôn bán nhằm phục vụ kháng chiến) đặt hàng để cung cấp cho cán bộ, chiến của Liên khu V. Công ty Việt Thắng chỉ yêu cầu Tân nhuộm vải màu tro xám, để trang bị riêng cho bộ đội... Cán bộ, chiến Liên khu V thời ấy đều được trang bị quân phục, võng, xắccốt, chăn đắp... bằng vải sita. Đây loại vải dày mịn, rất bền chắc tiện lợi cho sinh hoạt của người lính ngoài tiền tuyến. Bởi thế, bộ đội Liên khu V thời kỳ này được đánh giá lính ăn mặc “sang” nhất trong đội ngũ “Vệ quốc đoàn”.

Đối với sản xuất giấy, mặt hàng giấy đóng vai trò đặc biệt trong thời kỳ này. Không chỉ phục vụ cho việc học tập, sinh hoạt của người dân, quản của quan nhà nước, còn để in tiền - khí đặc biệt của ta trên mặt trận kinh tế. Tất cả các khu, vùng tự do đều xưởng sản xuất giấy, phần lớn sản xuất bằng phương pháp thủ công truyền thống.

Tại phía Bắc, những người dân vùng Bưởi (Hà Nội) vốn nổi tiếng với kỹ thuật làm giấy khi tản theo kháng chiến đã được huy động thiết lập các xưởng sản xuất giấy. Những người thợ lành nghề đã tận dụng triệt để nguồn nguyên liệu địa phương, tự chế tạo dụng cụ để sản xuất giấy. Mặc chất lượng giấy của ta chưa bằng các sản phẩm của vùng tạm bị địch chiếm, song đã đáp ứng tốt nhu cầu của nhân dân các quan nhà nước. Các sản phẩm giấy in, giấy viết đã góp phần quan trọng trong việc đẩy lùi “giặc dốt” tại vùng tự do. Đáng chú ý, Nhà máy Giấy Hoàng Văn Thụ, tiền thân Nhà máy Giấy Đáp Cầu, sở sản xuất giấy quan trọng nhất của ta thời kỳ này 6 chi nhánh đặt tại các tỉnh phía Bắc, với các tên gọi: Toàn Dân, Việt Nam, Cộng Hòa, Độc Lập, Tự Do Hạnh Phúc; trong đó, chi nhánh Việt Nam đặt tại Định Hóa (Tuyên Quang) sở lớn nhất. Các sản phẩm của nhà máy chủ yếu phục vụ cho các quan của Trung ương Đảng, Chính phủ, quân đội các sở in ấn văn hóa phẩm, báo chí. Đặc biệt, từ tháng 01/1948, đội ngũ cán bộ, công nhân nhà máy đã sáng tạo, khắc phục khó khăn kỹ thuật để tạo ra loại giấy dai đặc biệt từ cây rừng, chuyên phục vụ cho việc in tiền. Ngoài ra, một số sở sản xuất giấy tại Phú Thọ, Thanh Hóa, Ninh Bình đã sản xuất được cả giấy Pelure cán mỏng, nhiều màu, chuyên phục vụ để đánh máy.

Sau chiến thắng Biên giới thu đông năm 1950, hoạt động công nghiệp tại các vùng tự do được mở rộng hơn cả về quy lĩnh vực sản xuất. Ngành luyện kim đã chính thức được hình thành với việc sản xuất thành công gang theo phương pháp cao vào cuối năm 1951, giúp nền công nghiệp Việt Nam đạt bước tiến mới trong việc tự chủ nguyên liệu, vật liệu chế tạo. Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất hàng hóa dân sinh theo quy công nghiệp như phòng, diêm, dầu ăn, thuốc lá... dần hình thành cũng góp phần tích cực phục vụ đời sống nhân dân tại vùng tự do.

cao NX3 - cái nôi của ngành luyện kim

Vào năm 1948, nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất khí khi cuộc kháng chiến ngày càng khốc liệt, Cục Quân giới (Bộ Quốc phòng) đã đề nghị kỹ Quý Huân, một trí thức kiều bào theo Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước khi Người sang thăm Pháp vào năm 1946, nghiên cứu thiết kế, xây dựng cao luyện gang - một công nghệ khá khó tại thời điểm này. Ngày 15/11/1948, cao thí nghiệm dung tích 0,5 m3 tại huyện Con Cuông (Nghệ An) đã cho ra mẻ gang đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh dấu mốc son phát triển công nghiệp luyện kim của nước ta.

Dựa trên kinh nghiệm của cao thí nghiệm này, đặc phái viên của Cục Quân giới (Bộ Quốc phòng) Trịnh Tam Tỉnh tập hợp đội ngũ kỹ sư, cán bộ kỹ thuật trình độ cao như kỹ Trịnh Vân Yên, kỹ Đặng Trần Cảnh kỹ Lương Ngọc Khuê đã hoàn thiện, phát triển thành công kỹ thuật luyện gang cao với quy lớn xây dựng hai cao mang tên NX1 NX2 tại thung lũng Đồng Mười (Thanh Hóa) vào cuối năm 1951. Trong đó, cao NX1 dung tích 6,7 m3 chuyên để sản xuất cao NX2 dung tích 2 m3 chủ yếu để nghiên cứu. Chỉ trong 2 năm, hai cao này đã sản xuất hơn 400 tấn gang phục vụ các xưởng sản xuất khí một số nông cụ, góp phần đáp ứng nhu cầu của tiền tuyến hậu phương.

Tuy nhiên, cuối năm 1952, quân đội Pháp đã phát hiện ra hai cao này liên tiếp ném bom đánh phá. Tình thế này buộc các cán bộ kỹ công nhân tìm phương án giải quyết đề xuất việc xây dựng cao ngay trong hang núi Đồng Mười. Việc xây dựng hệ thống cao to lớn cồng kềnh trong hang núi đá cùng khó khăn, phức tạp về kỹ thuật nhất khi ta chưa nhiều kinh nghiệm. Đây cũng điều chưa tiền lệ trên thế giới, nhất khi chiến tranh diễn ra ác liệt.

Tháng 01/1953, các kỹ công nhân bắt đầu vừa cải tạo hang đá, vừa di chuyển hàng trăm tấn máy móc vào trong hang cũng như nghiên cứu giải quyết các vấn đề kỹ thuật phát sinh như xử hệ thống xả hơi, xả hơi độc, thoát khói... Bằng ý chí, nghị lực sáng tạo, đến tháng 7/1953, đội ngũ kỹ công nhân đã di chuyển toàn bộ cao NX1, NX2 vào trong hang. Trong suốt thời gian xây dựng, địch ném bom dữ dội bên ngoài nhưng bên trong, đội ngũ kỹ sư, công nhân ta vẫn bình tĩnh vận hành lò. Vào tháng 11/1953, cao NX3 dung tích tới 8,3 m3, cao 13 m được xây dựng mới trong lòng hang đá chính thức hoạt động.

Việc lắp đặt thành công cao NX3 đi vào vận hành sản xuất ổn định, mỗi ngày sản xuất ra trung bình 3 tấn gang cung cấp cho việc sản xuất khí các chiến trường cũng đúng vào lúc quân dân ta làm nên chiến thắng to lớn tại đèo Hải Vân (tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng), vậy cao NX3 được mang tên “Lò cao Hải Vân”. Toàn bộ hệ thống cao này được duy trì vận hành đến tận tháng 12/1954.

lò cao Di tích cao kháng chiến Hải Vân - cao NX3 (Ảnh K.M.S)

Hầu hết các nghiệp sản xuất hoạt động trong những lĩnh vực kể trên đều nghiệp quốc doanh, chủ yếu hoạt động không lợi nhuận sản xuất những thứ thiết yếu cho công cuộc kháng chiến đáp ứng nhu cầu dân sinh. Các nghiệp quốc doanh được Chính phủ bao cấp toàn bộ vật sản xuất, trang thiết bị cũng như tiền lương, phúc lợi cho công nhân. Trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, cách quản này đã giúp cán bộ, công nhân đỡ lo lắng về tài chính, tập trung sản xuất, song dần gây ra tâm lại. Từ năm 1952 trở đi, Chính phủ chủ trương chấn chỉnh các nghiệp quốc doanh. Bộ Công Thương đề xuất một số giải pháp cải tổ nghiệp quốc doanh nguyên tắc mới trong quản lý, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, tài chính tại các đơn vị sản xuất quốc doanh.

Theo đó, một số nghiệp hiệu quả kinh doanh thấp bị thu hẹp các hoạt động kém hiệu quả, đình chỉ hoặc giải thể, số còn lại phải chấn chỉnh hoạt động theo các điều lệ mới về doanh nghiệp quốc doanh nêu tại Sắc lệnh số 127/SL ngày 04/11/1952 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký. Các điều lệ này xác định các doanh nghiệp quốc doanh tổ chức kinh doanh của Nhà nước nhằm mục đích xây dựng phát triển bộ phận kinh tế nhà nước; lãnh đạo giúp đỡ kinh tế hợp tác kinh tế nhân phát triển theo những phương châm, chính sách kế hoạch kinh tế của Chính phủ; tích lũy vốn tăng thu cho tài chính quốc gia.

Đây được xem chủ trương quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trong duy quản bộ phận kinh tế quốc doanh của ta. Nhờ chủ trương này, các nghiệp đều phải tính toán hiệu quả tài chính, cải tiến hoạt động sản xuất nâng cao ý thức quản để dần giảm giá thành sản xuất.

b) Tiểu thủ công nghiệp

Trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt khiến hoạt động sản xuất công nghiệp hàng hóa khó phát triển, hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết các nhu cầu kháng chiến nhu cầu dân sinh. Vai trò của tiểu thủ công nghiệp trong công cuộc kháng chiến được xác định: “Phải khuyến khích thủ công nghiệp tiểu công nghiệp, đặng chế ra những vật phẩm thay thế cho hàng công nghiệp”3.

Bên cạnh các làng nghề truyền thống nằm trong vùng tự do, trong thời kỳ này xuất hiện thêm nhiều sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp do các nhà sản hoặc thợ thủ công từ thành thị tản theo kháng chiến lập ra. Lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp trong giai đoạn này xoay quanh chủ yếu hoạt động sản xuất những mặt hàng dân sinh thiết yếu như rèn nông cụ, vải dệt, chiếu, chăn, thuộc da, giấy viết thủ công, phòng, gốm sứ, gạch, đường, nước mắm... nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân sinh sống trong vùng tự do. Một số ít sản phẩm như gốm sứ dệt thủ công được giới thương nhân thu mua chuyển ra bán tại khu vực vùng tạm bị địch chiếm, tuy nhiên khối lượng không lớn.

Hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp chủ yếu dựa vào dụng cụ thô một số ít máy móc, đồng thời tận dụng tối đa nguồn nguyên vật liệu địa phương. Đến những năm cuối chiến tranh, nhiều sở sản xuất đã bắt đầu tập hợp lại tại các thị trấn, vùng dân lớn thay nằm phân tán, rải rác như trước đây.

Bộ Kinh tế chủ trương khuyến khích phát triển tất cả các hoạt động sản xuất tiểu, thủ công nghiệp, chỉ trừ một số lĩnh vực không thích hợp với điều kiện, yêu cầu của cuộc kháng chiến như làm vàng mã, hương, đồ thờ... Những lĩnh vực sản phẩm tối cần thiết như vải dệt, khí sản xuất dụng cụ nông, lâm nghiệp, diêm tiêu... được hỗ trợ về vốn tài chính cũng như vật đầu vào, kể cả tổ chức chuyển máy móc, nguyên, vật liệu cần thiết từ vùng tạm bị địch chiếm cho phần lớn các sở sản xuất này thuộc nhân. Nhờ các chính sách khuyến khích, nhiều nhà sản dân tộc tản theo kháng chiến đã mở xưởng dệt, diêm, phòng...

Nha Tín dụng sản xuất đã cho hàng trăm sở tại các liên khu vay hàng triệu đồng để mở mang sản xuất. Đồng thời, Nha Khoáng chất Kỹ nghệ thường xuyên cử các cán bộ đi trực tiếp gặp các sở sản xuất để nắm tình hình, hỗ trợ kịp thời cũng như phổ biến các kỹ thuật sản xuất mới. Tại Việt Bắc, nhiều làng nghề dệt truyền thống của đồng bào dân tộc đã được hỗ trợ kỹ thuật dệt để sản xuất được vải khổ rộng, kỹ thuật ươm sợi để nâng cao sản lượng, giúp đáp ứng phần nào nhu cầu vải may mặc cho nhân dân cũng như bộ đội. Bên cạnh đó, việc phổ biến các kỹ thuật rèn đúc đã giúp đồng bào các loại nông cụ mới, góp phần cải thiện hiệu quả canh tác nông nghiệp, gia tăng sản lượng lương thực.

Tại một số khu vực thuộc Liên khu V, mức sản xuất giấy từ các sở sản xuất thủ công đủ đáp ứng phần lớn nhu cầu giấy cho học tập, công tác của bộ đội nhân dân địa phương. Trong khi đó, tại khu vực Nam Bộ, nhiều sở làm mật mía, ép dầu với máy quay ly tâm thô đã ra đời, xưởng làm đồ gốm, sứ vừa làm sản phẩm dân dụng vừa làm các loại khuôn đúc đạn, vỏ mìn bằng sành, vỏ ximăng cho lựu đạn... phục vụ quân giới tạo ra những loại khí hiệu quả.

Sự phát triển của các sở sản xuất tiểu, thủ công nghiệp đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo tự giải quyết, tự đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của nhân dân lực lượng trang trong suốt thời gian kháng chiến gian khổ, thiếu thốn nhiều loại hàng hóa. Đồng thời, sự phát triển của lĩnh vực tiểu, thủ công nghiệp còn giúp cải thiện thu nhập, tạo việc làm cho một bộ phận đáng kể người dân trong vùng tự do, góp phần ổn định đời sống nhân dân đấu tranh kinh tế với địch.


1. Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, t.3, tr.137.

2. Nha Khoáng chất Kỹ nghệ được đổi tên thành Nha Kỹ nghệ theo Sắc lệnh số 143/SL ngày 21/12/1949 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc đổi tên Nha Thương vụ Nha Khoáng chất Kỹ nghệ.

3. Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Nội, 2007, t.I, tr.392.

1. Tình hình sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp

Từ tháng 3/1946, Chính phủ đã mật di chuyển dần các máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu... Nội về các tỉnh lân cận để chuẩn bị cho công cuộc kháng chiến. Khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ, việc tổng di chuyển trên cả nước được phát động, nhằm đem tất cả những thể được lên các căn cứ để trường kỳ kháng chiến. Phần lớn các sở sản xuất từ Nội đã tán ra vùng lân cận, nay di chuyển tiếp lên các chiến khu.

Tính đến tháng 3/1947, đã gần 40.000 tấn máy móc, vật sản xuất của các ngành được lực lượng cán bộ, công nhân vận chuyển an toàn, chủ yếu bằng sức người phương tiện thô như mảng, ngựa thồ, xe trâu... về các khu căn cứ kháng chiến. Riêng Bắc Bộ, gần 2/3 số máy móc các nghiệp được chuyển lên căn cứ. Đây nguồn lực cùng quan trọng trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, giúp hình thành 57 sở sản xuất hoạt động ngay khi kháng chiến toàn quốc nổ ra1, góp phần xây dựng nền kinh tế kháng chiến vững mạnh.

a) Sản xuất công nghiệp dân dụng

Với đặc điểm đại đa số các vùng tự do khu vực nông thôn, rừng núi hiểm trở trình độ sản xuất lạc hậu, nay lại bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, khốc liệt, nền công nghiệp tại vùng tự do trong những ngày đầu kháng chiến quy nhỏ, phân tán, mang tính động cao nhằm tránh sự càn quét của địch. Điển hình, việc đặt máy công cụ thường không đổ móng cố định chỉ bắt bulông trên khung gỗ để thể nhanh chóng tháo lắp, di chuyển khi địch càn quét. Nhà xưởng thường bằng gỗ, tre, nứa, lá. Thậm chí, một số khu vực tại Nam Bộ, các xưởng nhỏ còn được đặt trên ghe, thuyền.

xưởng may quân trang Xưởng may quân trang Chiến khu Việt Bắc năm 1946 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Nhờ xây dựng xưởng theo phương châm trên, nên khi bị địch tiến công, các xưởng lại được di chuyển đến vị trí mới, mọi hoạt động sản xuất của xưởng lại nhanh chóng được triển khai. Cách tổ chức này còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc tận dụng tối đa tài nguyên nhân lực tại mỗi địa phương. Nhờ kết hợp sáng tạo nhiều biện pháp, trong suốt cuộc kháng chiến, tuy địch dùng nhiều thủ đoạn nhưng vẫn không đạt được mục tiêu phá hủy hoạt động sản xuất của lực lượng kháng chiến. Xuyên suốt cuộc kháng chiến, hoạt động sản xuất công nghiệp của ta chỉ tập trung vào những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế thời chiến, gồm khí, khai thác than, hóa chất bản, dệt may giấy.

Đối với ngành khí, đây lĩnh vực được quan tâm phát triển hàng đầu trong số các ngành công nghiệp thời kỳ này, nhằm vừa đáp ứng nhu cầu sản xuất, sửa chữa khí chống lại thực dân Pháp, vừa đáp ứng nhu cầu của các lĩnh vực công nghiệp khác. Các xưởng khí được thiết lập tại tất cả các địa phương trong vùng tự do, đặc biệt tại vùng Việt Bắc, sử dụng kết hợp cả các phương pháp thủ công lẫn hiện đại.

Để tổ chức sản xuất, các xưởng trước hết phải giải quyết được vấn đề thiếu máy móc, nhất máy phát điện. Đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật đã tìm tòi nghiên cứu, cải tạo những bộ phận của đầu máy xe lửa, động ôtô đủ các loại, thành máy phát điện cho các máy công cụ lớn. Ngoài ra, các xưởng còn triệt để tận dụng các loại máy phát điện quay tay, đạp chân. Để giải quyết vấn đề thiếu máy công cụ, ta tận dụng tối đa các loại máy cũ, sửa chữa máy hỏng thành máy tốt tích cực tìm cách chế tạo các loại máy mới.

Nhà máy khí Trần Hưng Đạo ra đời Việt Bắc

Ông Nguyễn Nhân, sinh năm 1914, người Thái Bình. Khi còn trẻ, ông vào học nghề khí của Trường Bách nghệ Máy Tơ, Hải Phòng. Ra trường, đi làm bươn chải cuộc sống, ông về Nội lập nghiệp khí mang tên Nguyễn Nhân tại phố Hàng Bột (Tôn Đức Thắng, quận Đống Đa ngày nay) với vài chục công nhân. Đang làm ăn phát đạt thì toàn quốc kháng chiến năm 1946 nên ông đã cho tháo toàn bộ máy móc chở thuyền về Thái Bình để tính chuyện sau.

Một thời gian nghe tin anh bạn cùng lớp Máy năm xưa nay đang làm thư Tỉnh ủy Phú Thọ nên ông đạp xe lên đó mẫm tìm gặp để bàn chuyện tiếp tục làm nghề khí. Hai người đã đạp xe đi tìm ông Nguyễn Lương Bằng lúc này đang đảm trách Trưởng Ban Kinh tài của Đảng để xin ý kiến.

Gặp được ông Bằng, ông nhận được gợi ý nên cho chuyển máy lên góp với một số người khác cùng nghề để xây dựng một nhà máy khí trên chiến khu sản xuất một số sản phẩm để chống giặc ta đang cần, ông Nguyễn Lương Bằng hỏi thân tình: Thế anh Nhân định sẽ theo kháng chiến đến khi nào? - Dạ. Đến khi hết giặc ạ! - Vậy thì tốt. Ta cùng nhau bắt tay làm khí nhé. Nhiều khó khăn đấy”.

Thế ông chủ xưởng khí Nguyễn Nhân quay về Thái Bình để lại vợ cùng 3 con bỏ tiền thuê thuyền chở tất cả máy móc lên Chiêm Hóa, Tuyên Quang để góp với một số chủ xưởng, gara khí khác lập nên Nhà máy khí mang tên Trần Hưng Đạo do chính ông Nguyễn Lương Bằng đặt cử ông Nguyễn Nhân làm Giám đốc.

Nguồn: Đào Phan Long: “Nhà máy khí Trần Hưng Đạo ra đời Việt Bắc”,

Tạp chí khí Đời sống, 2021.

Trong sản xuất, việc rèn các chi tiết lớn thường dùng búa tay, đúc gang thủ công cho lượng đúc mỗi mẻ 30 - 50 kg, quạt gió thì dùng guồng quay tay hoặc đạp chân. Một số xưởng khí lớn, quan trọng đều các máy công cụ hiện đại như máy tiện, phay, bào, khoan, dập...

cơ khí Trần Hưng Đạo Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Nhà máy khí Trần Hưng Đạo trên chiến khu Việt Bắc (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Khó khăn về thiếu cán bộ, công nhân kỹ thuật được giải quyết bằng cách vừa học chuyên môn, vừa thực hành trong sản xuất, người biết kèm người chưa biết, tổ chức các lớp huấn luyện cấp tốc ngắn ngày buổi trao đổi kinh nghiệm, phát động phong trào “kèm cặp thợ trẻ”... Từ chỗ không biết kỹ thuật, công nhân đã nắm vững kỹ thuật thao tác, vận hành máy với hiệu quả cao. Công nhân đã nhiều sáng kiến kỹ thuật độc đáo. Điển hình, ngay đầu năm 1947, xưởng đúc gang thuộc Sở Khoáng chất Kỹ nghệ Trung Bộ đã chế tạo thành công một máy tiện nhỏ từ các bộ phận tự chế tạo.

Dần dần, ta đã tự sản xuất được nhiều loại máy móc như: máy cán bông, máy đan áo, máy in quay tay... Đặc biệt, Liên khu V đã chế tạo thành công máy xát sắn công suất tới 1 tấn/ngày, máy xay xát gạo, động loại nhỏ dung tích 1 xilanh. Các xưởng khí cũng cung cấp đa dạng loại nông cụ như cuốc, xẻng, lưỡi cày... chất lượng tốt với số lượng lớn, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo lương thực cho vùng tự do.

Trong các sở sản xuất, Nhà máy khí Trần Hưng Đạo tại Chiêm Hóa (Tuyên Quang) thành lập tháng 4/1947, được xem cái nôi của ngành khí Việt Nam. Trong hai năm 1947 - 1948, khi các nghiệp quân giới thuộc Bộ Quốc phòng còn thiếu nhiều phương tiện sản xuất, thì nhà máy đã hỗ trợ đắc lực bằng ba loại sản phẩm khí: máy dập đầu đạn AT, máy trộn thuốc đạn máy tiện cỡ nhỏ. Các loại máy này đều được thiết kế nhỏ gọn, dễ tháo lắp, di chuyển thuận lợi trong điều kiện rừng núi. Từ năm 1949, hoạt động của nhà máy được mở rộng, kiêm thêm nhiệm vụ sửa chữa chế tạo các loại máy như: máy phát điện, máy kéo sợi, máy cán bông, máy in... phục vụ công nghiệp dân dụng, giúp mở rộng hoạt động của nhiều đơn vị quan trọng như Đài Tiếng nói Việt Nam, Nhà in báo Sự Thật, Xưởng giấy Lửa Việt, Xưởng gốm sứ Sông Lô... Liên khu III, Liên khu IV cũng vận chuyển máy ra Việt Bắc để nhà máy sửa chữa. Từ năm 1947 đến năm 1952, nhà máy đặt dưới sự quản trực tiếp của Ban Kinh tế tài chính Trung ương. Đến năm 1952, nhà máy được chuyển sang hệ thống quản nhà nước, do Nha Kỹ nghệ thuộc Bộ Công Thương trực tiếp điều hành.

Đối với hoạt động khai khoáng, trong điều kiện hết sức thiếu thốn máy móc, không hệ thống điện quy lớn, địch tấn công ác liệt, phải khai thác chủ yếu bằng phương pháp thủ công, Bộ Kinh tế vẫn cố gắng phục hồi, đưa vào hoạt động trở lại những mỏ nằm trong vùng tự do thực dân Pháp đã khai thác trước đây tổ chức khai thác mới nhiều nhất thể đối với các mỏ khoáng sản khai thác được.

Trong đó, các mỏ than được ưu tiên khôi phục, mở rộng khai thác đầu tiên, điển hình các mỏ: Làng Cẩm, Quán Triều, Tân Thành (Thái Nguyên), Khe Bố (Nghệ An), Nông Sơn (Quảng Nam)... Nha Khoáng chất Kỹ nghệ2 trực tiếp quản lý, điều hành hoạt động khai thác của các mỏ. Đáng chú ý, đầu năm 1949, bốn mỏ than, gồm Phấn Mễ, Minh Khai, Đầm Đùn Khe Bố đã được tổ chức lại, trở thành những đơn vị công nghiệp nhà nước đầu tiên trong chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bên cạnh việc khai thác than thô, một số đơn vị đã tổ chức sản xuất thành công than cốc - nguyên liệu đầu vào quan trọng cho hoạt động luyện kim. Theo thống chưa đầy đủ, từ năm 1946 đến năm 1950, các mỏ than do ta kiểm soát đã khai thác được 20.000 tấn than than cốc. Từ năm 1951 trở đi, hoạt động khai thác tại nhiều mỏ được đẩy mạnh. Sản lượng tại mỏ Làng Cẩm đạt 150 tấn/tháng, mỏ Tân Thành đạt 150 tấn/tháng; các mỏ khác đạt trên dưới 100 tấn/tháng. Sản lượng khai thác than trong giai đoạn này tuy không cao nhưng đóng vai trò rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất khí của ngành quân giới công nghiệp khí trong những ngày đầu kháng chiến.

Các mỏ khai thác quặng kim loại cũng được sớm đưa vào hoạt động, trong đó, mỏ antimon Cốc Táy, Đầm Hồng (Tuyên Quang) từ năm 1946; mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng) từ đầu năm 1947, nhưng phải ngưng hoạt động vào cuối năm đó do thực dân Pháp mở rộng chiến tranh. Đến trước năm 1950, sản lượng khai thác quặng kim loại tại vùng tự do gần như không đáng kể hầu hết được cung ứng cho các xưởng quân giới để sản xuất khí. Sau thắng lợi của Chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950, nhiều mỏ khai khoáng quan trọng, quy lớn vốn nằm trong vùng tạm bị địch chiếm đã được giải phóng hoạt động khai thác được triển khai trở lại như mỏ thiếc Tĩnh Túc, mỏ chì - kẽm Chợ Đồn (Bắc Kạn), mỏ apatít (Lào Cai)..., giúp gia tăng đáng kể sản lượng khai thác quặng kim loại phục vụ các hoạt động sản xuất khí, phát triển công nghiệp.

Bên cạnh đó, Nha Kỹ nghệ cũng tổ chức các đoàn công tác để điều tra, lập bản đồ tài nguyên khoáng sản phục vụ công tác quy hoạch mở rộng khai thác khi điều kiện cho phép.

Đối với sản xuất hóa chất, hoạt động sản xuất hóa chất được khuyến khích phát triển tại tất cả các khu vực, vùng tự do, nhằm phục vụ trước hết cho công nghiệp quốc phòng, tiếp đến phục vụ hoạt động sản xuất công nghiệp nông nghiệp. Vượt qua các khó khăn do chiến tranh gây ra, các xưởng hóa chất quy nhỏ đã được thiết lập sản xuất thành công nhiều loại hóa chất bản, thiết yếu như: axít sunfuríc được sản xuất theo phương pháp bể chì; kali nitrat được điều chế từ phân dơi; chiết tách glyxêrin từ thảo mộc; điều chế hỗn hợp thủy ngân fulminat, sản xuất kali clorat... Qua đó, tạo nguồn nguyên liệu đầu vào quan trọng, cho phép sản xuất quy lớn thuốc nổ các loại, ngòi nổ, phân bón, ắc quy, thuốc nhuộm cho vải, diêm, mực in... Đặc biệt, việc sản xuất thành công một số loại hóa chất như cồn 90 độ, este gây tê... đã góp phần đắc lực trong việc cứu sống nhiều thương, bệnh binh trên chiến trường. Các loại hóa chất vùng tự do không thể sản xuất được, buộc phải tổ chức thu mua mật từ vùng tạm bị địch chiếm. Các sản phẩm hóa chất cũng loại hàng hóa bị địch kiểm soát mua bán gắt gao.

Đối với hoạt động dệt may, tương tự như các xưởng hóa chất, các xưởng dệt may xưởng nhuộm được thiết lập tại hầu hết các tỉnh, các khu nhằm đáp ứng nhu cầu quân nhu của bộ đội cũng như nhu cầu dân sinh. Trong đó, lớn nhất các xưởng dệt phục vụ bộ đội với số lượng công nhân lên đến hàng trăm người, còn những xưởng nhỏ hơn số công nhân từ 50 - 100 người. Đa số các xưởng đều sử dụng khung dệt thủ công, chỉ một số ít xưởng được trang bị máy khí hiện đại. Sợi phần lớn được lấy từ bông trồng ngay tại chính các địa phương, chỉ những khu vực thiếu sợi mới phải tìm thu mua từ vùng tạm bị địch chiếm. Sản phẩm dệt may của các xưởng cũng rất đa dạng, từ vải thô các loại đến quần áo thành phẩm.

Trong đó, Liên khu V nổi tiếng với việc sản xuất được loại vải sita, độ bền, mịn mềm không thua kém vải của các xưởng dệt nằm trong vùng tạm bị địch chiếm. Từ năm 1950 trở đi, ngành dệt trong vùng tự do đã đảm bảo cung cấp đầy đủ quân trang cho lực lượng trang, giúp cải thiện đáng kể sinh hoạt của các chiến sĩ. Trong những năm cuối cuộc kháng chiến, một số xưởng dệt may - nhuộm đã được mở rộng, hình thành các doanh nghiệp quốc doanh tham gia phát triển tài chính cho chính quyền cách mạng địa phương.

may quân trang Các xưởng may quân trang tại Chiến khu Việt Bắc được hợp nhất thành Xưởng may 10 năm 1952 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

bảng 13

Phong trào “tự lực, tự cường” Tam Kỳ

Suốt giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, vùng đất Tam Kỳ (Quảng Nam) thuộc vùng tự do. thế, khi Đảng Chính phủ kêu gọi nhân dân “tự lực, tự cường”, khắc phục các khó khăn để phục vụ công cuộc kháng chiến thì phong trào Tam Kỳ dấy lên mạnh mẽ. Trong đó, Trần Thị Khương (hay còn gọi Tân) tại làng An Phú (nay phường An Phú, thành phố Tam Kỳ) đã đứng ra xây dựng xưởng dệt đầu tiên Tam Kỳ từ cuối năm 1946. tìm mua bông hạt về trồng tại địa phương để tạo nguồn nguyên liệu, thuê thêm nhân công để mở rộng sản xuất phổ biến kỹ thuật cho nhiều người. Khi bắt đầu thành phẩm, mọi người đều gọi bằng cái tên thân mật: Vải sita Tân.

Tại sao lại vải sita? Bởi trong những thập niên đầu của thế kỷ XX, người Pháp đã mở Công ty Vải sợi Trung Kỳ - Société Industrielle de Textile d’ Annam, viết tắt thành S.I.T.A, từ đó, dân ta đọc chệch thành “vải sita”. Loại vải được dệt Tam Kỳ cũng độ bền bóng mịn không kém chất lượng vải Pháp này.

Từ xưởng dệt đầu tiên này, đến giữa năm 1947, hầu như khu vực nào tại Tam Kỳ cũng sở dệt vải. Nghề trồng bông, trồng dâu nuôi tằm, kéo sợi cũng nhờ đó phát triển theo. Không chỉ giúp nhân dân trong vùng “của ăn, của để”, còn giúp các sở dệt chủ động được nguồn nguyên liệu.

Vải sita Tân được Công ty Việt Thắng (hoạt động buôn bán nhằm phục vụ kháng chiến) đặt hàng để cung cấp cho cán bộ, chiến của Liên khu V. Công ty Việt Thắng chỉ yêu cầu Tân nhuộm vải màu tro xám, để trang bị riêng cho bộ đội... Cán bộ, chiến Liên khu V thời ấy đều được trang bị quân phục, võng, xắccốt, chăn đắp... bằng vải sita. Đây loại vải dày mịn, rất bền chắc tiện lợi cho sinh hoạt của người lính ngoài tiền tuyến. Bởi thế, bộ đội Liên khu V thời kỳ này được đánh giá lính ăn mặc “sang” nhất trong đội ngũ “Vệ quốc đoàn”.

Đối với sản xuất giấy, mặt hàng giấy đóng vai trò đặc biệt trong thời kỳ này. Không chỉ phục vụ cho việc học tập, sinh hoạt của người dân, quản của quan nhà nước, còn để in tiền - khí đặc biệt của ta trên mặt trận kinh tế. Tất cả các khu, vùng tự do đều xưởng sản xuất giấy, phần lớn sản xuất bằng phương pháp thủ công truyền thống.

Tại phía Bắc, những người dân vùng Bưởi (Hà Nội) vốn nổi tiếng với kỹ thuật làm giấy khi tản theo kháng chiến đã được huy động thiết lập các xưởng sản xuất giấy. Những người thợ lành nghề đã tận dụng triệt để nguồn nguyên liệu địa phương, tự chế tạo dụng cụ để sản xuất giấy. Mặc chất lượng giấy của ta chưa bằng các sản phẩm của vùng tạm bị địch chiếm, song đã đáp ứng tốt nhu cầu của nhân dân các quan nhà nước. Các sản phẩm giấy in, giấy viết đã góp phần quan trọng trong việc đẩy lùi “giặc dốt” tại vùng tự do. Đáng chú ý, Nhà máy Giấy Hoàng Văn Thụ, tiền thân Nhà máy Giấy Đáp Cầu, sở sản xuất giấy quan trọng nhất của ta thời kỳ này 6 chi nhánh đặt tại các tỉnh phía Bắc, với các tên gọi: Toàn Dân, Việt Nam, Cộng Hòa, Độc Lập, Tự Do Hạnh Phúc; trong đó, chi nhánh Việt Nam đặt tại Định Hóa (Tuyên Quang) sở lớn nhất. Các sản phẩm của nhà máy chủ yếu phục vụ cho các quan của Trung ương Đảng, Chính phủ, quân đội các sở in ấn văn hóa phẩm, báo chí. Đặc biệt, từ tháng 01/1948, đội ngũ cán bộ, công nhân nhà máy đã sáng tạo, khắc phục khó khăn kỹ thuật để tạo ra loại giấy dai đặc biệt từ cây rừng, chuyên phục vụ cho việc in tiền. Ngoài ra, một số sở sản xuất giấy tại Phú Thọ, Thanh Hóa, Ninh Bình đã sản xuất được cả giấy Pelure cán mỏng, nhiều màu, chuyên phục vụ để đánh máy.

Sau chiến thắng Biên giới thu đông năm 1950, hoạt động công nghiệp tại các vùng tự do được mở rộng hơn cả về quy lĩnh vực sản xuất. Ngành luyện kim đã chính thức được hình thành với việc sản xuất thành công gang theo phương pháp cao vào cuối năm 1951, giúp nền công nghiệp Việt Nam đạt bước tiến mới trong việc tự chủ nguyên liệu, vật liệu chế tạo. Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất hàng hóa dân sinh theo quy công nghiệp như phòng, diêm, dầu ăn, thuốc lá... dần hình thành cũng góp phần tích cực phục vụ đời sống nhân dân tại vùng tự do.

cao NX3 - cái nôi của ngành luyện kim

Vào năm 1948, nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất khí khi cuộc kháng chiến ngày càng khốc liệt, Cục Quân giới (Bộ Quốc phòng) đã đề nghị kỹ Quý Huân, một trí thức kiều bào theo Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước khi Người sang thăm Pháp vào năm 1946, nghiên cứu thiết kế, xây dựng cao luyện gang - một công nghệ khá khó tại thời điểm này. Ngày 15/11/1948, cao thí nghiệm dung tích 0,5 m3 tại huyện Con Cuông (Nghệ An) đã cho ra mẻ gang đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh dấu mốc son phát triển công nghiệp luyện kim của nước ta.

Dựa trên kinh nghiệm của cao thí nghiệm này, đặc phái viên của Cục Quân giới (Bộ Quốc phòng) Trịnh Tam Tỉnh tập hợp đội ngũ kỹ sư, cán bộ kỹ thuật trình độ cao như kỹ Trịnh Vân Yên, kỹ Đặng Trần Cảnh kỹ Lương Ngọc Khuê đã hoàn thiện, phát triển thành công kỹ thuật luyện gang cao với quy lớn xây dựng hai cao mang tên NX1 NX2 tại thung lũng Đồng Mười (Thanh Hóa) vào cuối năm 1951. Trong đó, cao NX1 dung tích 6,7 m3 chuyên để sản xuất cao NX2 dung tích 2 m3 chủ yếu để nghiên cứu. Chỉ trong 2 năm, hai cao này đã sản xuất hơn 400 tấn gang phục vụ các xưởng sản xuất khí một số nông cụ, góp phần đáp ứng nhu cầu của tiền tuyến hậu phương.

Tuy nhiên, cuối năm 1952, quân đội Pháp đã phát hiện ra hai cao này liên tiếp ném bom đánh phá. Tình thế này buộc các cán bộ kỹ công nhân tìm phương án giải quyết đề xuất việc xây dựng cao ngay trong hang núi Đồng Mười. Việc xây dựng hệ thống cao to lớn cồng kềnh trong hang núi đá cùng khó khăn, phức tạp về kỹ thuật nhất khi ta chưa nhiều kinh nghiệm. Đây cũng điều chưa tiền lệ trên thế giới, nhất khi chiến tranh diễn ra ác liệt.

Tháng 01/1953, các kỹ công nhân bắt đầu vừa cải tạo hang đá, vừa di chuyển hàng trăm tấn máy móc vào trong hang cũng như nghiên cứu giải quyết các vấn đề kỹ thuật phát sinh như xử hệ thống xả hơi, xả hơi độc, thoát khói... Bằng ý chí, nghị lực sáng tạo, đến tháng 7/1953, đội ngũ kỹ công nhân đã di chuyển toàn bộ cao NX1, NX2 vào trong hang. Trong suốt thời gian xây dựng, địch ném bom dữ dội bên ngoài nhưng bên trong, đội ngũ kỹ sư, công nhân ta vẫn bình tĩnh vận hành lò. Vào tháng 11/1953, cao NX3 dung tích tới 8,3 m3, cao 13 m được xây dựng mới trong lòng hang đá chính thức hoạt động.

Việc lắp đặt thành công cao NX3 đi vào vận hành sản xuất ổn định, mỗi ngày sản xuất ra trung bình 3 tấn gang cung cấp cho việc sản xuất khí các chiến trường cũng đúng vào lúc quân dân ta làm nên chiến thắng to lớn tại đèo Hải Vân (tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng), vậy cao NX3 được mang tên “Lò cao Hải Vân”. Toàn bộ hệ thống cao này được duy trì vận hành đến tận tháng 12/1954.

lò cao Di tích cao kháng chiến Hải Vân - cao NX3 (Ảnh K.M.S)

Hầu hết các nghiệp sản xuất hoạt động trong những lĩnh vực kể trên đều nghiệp quốc doanh, chủ yếu hoạt động không lợi nhuận sản xuất những thứ thiết yếu cho công cuộc kháng chiến đáp ứng nhu cầu dân sinh. Các nghiệp quốc doanh được Chính phủ bao cấp toàn bộ vật sản xuất, trang thiết bị cũng như tiền lương, phúc lợi cho công nhân. Trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, cách quản này đã giúp cán bộ, công nhân đỡ lo lắng về tài chính, tập trung sản xuất, song dần gây ra tâm lại. Từ năm 1952 trở đi, Chính phủ chủ trương chấn chỉnh các nghiệp quốc doanh. Bộ Công Thương đề xuất một số giải pháp cải tổ nghiệp quốc doanh nguyên tắc mới trong quản lý, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, tài chính tại các đơn vị sản xuất quốc doanh.

Theo đó, một số nghiệp hiệu quả kinh doanh thấp bị thu hẹp các hoạt động kém hiệu quả, đình chỉ hoặc giải thể, số còn lại phải chấn chỉnh hoạt động theo các điều lệ mới về doanh nghiệp quốc doanh nêu tại Sắc lệnh số 127/SL ngày 04/11/1952 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký. Các điều lệ này xác định các doanh nghiệp quốc doanh tổ chức kinh doanh của Nhà nước nhằm mục đích xây dựng phát triển bộ phận kinh tế nhà nước; lãnh đạo giúp đỡ kinh tế hợp tác kinh tế nhân phát triển theo những phương châm, chính sách kế hoạch kinh tế của Chính phủ; tích lũy vốn tăng thu cho tài chính quốc gia.

Đây được xem chủ trương quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trong duy quản bộ phận kinh tế quốc doanh của ta. Nhờ chủ trương này, các nghiệp đều phải tính toán hiệu quả tài chính, cải tiến hoạt động sản xuất nâng cao ý thức quản để dần giảm giá thành sản xuất.

b) Tiểu thủ công nghiệp

Trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt khiến hoạt động sản xuất công nghiệp hàng hóa khó phát triển, hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết các nhu cầu kháng chiến nhu cầu dân sinh. Vai trò của tiểu thủ công nghiệp trong công cuộc kháng chiến được xác định: “Phải khuyến khích thủ công nghiệp tiểu công nghiệp, đặng chế ra những vật phẩm thay thế cho hàng công nghiệp”3.

Bên cạnh các làng nghề truyền thống nằm trong vùng tự do, trong thời kỳ này xuất hiện thêm nhiều sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp do các nhà sản hoặc thợ thủ công từ thành thị tản theo kháng chiến lập ra. Lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp trong giai đoạn này xoay quanh chủ yếu hoạt động sản xuất những mặt hàng dân sinh thiết yếu như rèn nông cụ, vải dệt, chiếu, chăn, thuộc da, giấy viết thủ công, phòng, gốm sứ, gạch, đường, nước mắm... nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân sinh sống trong vùng tự do. Một số ít sản phẩm như gốm sứ dệt thủ công được giới thương nhân thu mua chuyển ra bán tại khu vực vùng tạm bị địch chiếm, tuy nhiên khối lượng không lớn.

Hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp chủ yếu dựa vào dụng cụ thô một số ít máy móc, đồng thời tận dụng tối đa nguồn nguyên vật liệu địa phương. Đến những năm cuối chiến tranh, nhiều sở sản xuất đã bắt đầu tập hợp lại tại các thị trấn, vùng dân lớn thay nằm phân tán, rải rác như trước đây.

Bộ Kinh tế chủ trương khuyến khích phát triển tất cả các hoạt động sản xuất tiểu, thủ công nghiệp, chỉ trừ một số lĩnh vực không thích hợp với điều kiện, yêu cầu của cuộc kháng chiến như làm vàng mã, hương, đồ thờ... Những lĩnh vực sản phẩm tối cần thiết như vải dệt, khí sản xuất dụng cụ nông, lâm nghiệp, diêm tiêu... được hỗ trợ về vốn tài chính cũng như vật đầu vào, kể cả tổ chức chuyển máy móc, nguyên, vật liệu cần thiết từ vùng tạm bị địch chiếm cho phần lớn các sở sản xuất này thuộc nhân. Nhờ các chính sách khuyến khích, nhiều nhà sản dân tộc tản theo kháng chiến đã mở xưởng dệt, diêm, phòng...

Nha Tín dụng sản xuất đã cho hàng trăm sở tại các liên khu vay hàng triệu đồng để mở mang sản xuất. Đồng thời, Nha Khoáng chất Kỹ nghệ thường xuyên cử các cán bộ đi trực tiếp gặp các sở sản xuất để nắm tình hình, hỗ trợ kịp thời cũng như phổ biến các kỹ thuật sản xuất mới. Tại Việt Bắc, nhiều làng nghề dệt truyền thống của đồng bào dân tộc đã được hỗ trợ kỹ thuật dệt để sản xuất được vải khổ rộng, kỹ thuật ươm sợi để nâng cao sản lượng, giúp đáp ứng phần nào nhu cầu vải may mặc cho nhân dân cũng như bộ đội. Bên cạnh đó, việc phổ biến các kỹ thuật rèn đúc đã giúp đồng bào các loại nông cụ mới, góp phần cải thiện hiệu quả canh tác nông nghiệp, gia tăng sản lượng lương thực.

Tại một số khu vực thuộc Liên khu V, mức sản xuất giấy từ các sở sản xuất thủ công đủ đáp ứng phần lớn nhu cầu giấy cho học tập, công tác của bộ đội nhân dân địa phương. Trong khi đó, tại khu vực Nam Bộ, nhiều sở làm mật mía, ép dầu với máy quay ly tâm thô đã ra đời, xưởng làm đồ gốm, sứ vừa làm sản phẩm dân dụng vừa làm các loại khuôn đúc đạn, vỏ mìn bằng sành, vỏ ximăng cho lựu đạn... phục vụ quân giới tạo ra những loại khí hiệu quả.

Sự phát triển của các sở sản xuất tiểu, thủ công nghiệp đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo tự giải quyết, tự đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của nhân dân lực lượng trang trong suốt thời gian kháng chiến gian khổ, thiếu thốn nhiều loại hàng hóa. Đồng thời, sự phát triển của lĩnh vực tiểu, thủ công nghiệp còn giúp cải thiện thu nhập, tạo việc làm cho một bộ phận đáng kể người dân trong vùng tự do, góp phần ổn định đời sống nhân dân đấu tranh kinh tế với địch.


1. Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, t.3, tr.137.

2. Nha Khoáng chất Kỹ nghệ được đổi tên thành Nha Kỹ nghệ theo Sắc lệnh số 143/SL ngày 21/12/1949 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc đổi tên Nha Thương vụ Nha Khoáng chất Kỹ nghệ.

3. Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Nội, 2007, t.I, tr.392.

IV. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP VÀ HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (19/12/1946 - 10/10/1954)

xưởng may quân trang Xưởng may quân trang ở Chiến khu Việt Bắc năm 1946 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam) cơ khí Trần Hưng Đạo Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo trên chiến khu Việt Bắc (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

2. Hoạt động thương mại ở vùng tự do

a) Các hình thức hoạt động

Trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, sản xuất phân tán, thị trường bị chia cắt phức tạp theo thế “cài răng lược” giữa vùng tự do và vùng tạm bị địch chiếm, khả năng kinh tế mỗi vùng khác nhau, công tác đảm bảo và phát triển lưu thông hàng hóa là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Bộ Kinh tế nói riêng và của Chính phủ nói chung nhằm ổn định sinh hoạt của nhân dân, đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng chiến, tiến tới xây dựng nền kinh tế kháng chiến có khả năng tự cấp, tự túc về mọi mặt.

Về phía Nhà nước, đã hình thành một số đơn vị chuyên trách được giao nhiệm vụ thu mua các loại hàng hóa cần thiết cho bộ đội và các cơ quan. Trong đó, ngay từ đầu năm 1947, Nha Tiếp tế được giao nhiệm vụ thu mua thóc gạo trên thị trường. Cùng với đó, Cơ quan Phân tán muối thuộc Bộ Tài chính được hình thành và đảm nhiệm tổ chức vận chuyển muối và mua muối trên thị trường để đưa về các khu an toàn.

Từ tháng 02/1948, hoạt động của Nha Tiếp tế được thay thế bởi Cục Tiếp tế vận tải thuộc Bộ Kinh tế1. Ngoài gạo và muối, danh mục hàng hóa được Cục Tiếp tế vận tải thu mua mở rộng thêm một số nguyên liệu, vật tư sản xuất như bông để kéo sợi, tre nứa và vỏ cây dó để làm giấy... Đến tháng 11/1950, Sở Nội thương thuộc Bộ Kinh tế được thành lập thay thế cho Cục Tiếp tế vận tải2.

Tất cả các loại hàng hóa được Nhà nước thu mua và dự trữ chủ yếu được phân phối cho bộ đội, cơ quan nhà nước, xí nghiệp quốc doanh và một phần cho nhân dân các vùng miền núi nhưng chỉ trong một số trường hợp thị trường tự do thiếu hụt hàng hóa nghiêm trọng. Các cơ quan nhà nước chuyên trách này được xem là các thành phần mới trong việc lưu thông hàng hóa trên thị trường, nhưng trong suốt cuộc kháng chiến, các cơ quan này chủ yếu đóng vai trò là người mua hàng vào để phục vụ hoạt động của Nhà nước và xuất khẩu. Chỉ từ khi Sở Mậu dịch được thành lập vào năm 1951 thì mới có việc bán hàng ra cho nhân dân, nhưng chỉ nhằm điều tiết giá tại một số thị trường chính. Phần lớn việc phân phối hàng hóa trên thị trường trong thời gian kháng chiến dựa vào thương nhân. Thương nhân đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy giao thương hàng hóa giữa các vùng tự do, cũng như giữa vùng tự do với vùng tạm bị địch chiếm. Dựa trên việc giá nhiều loại hàng hóa có sự chênh lệch lớn giữa vùng sản xuất và vùng tiêu thụ do tình trạng bị chia cắt, sự khác biệt về trình độ kinh tế giữa các địa phương, thị trường xuất hiện các luồng giao thương hàng hóa giữa các địa phương, tỉnh, khu và liên khu do sự hoạt động của thương nhân. Đây được xem là điểm độc đáo trong hoạt động thương mại thời chiến tranh. Các luồng hàng hóa này tập trung vào một số loại hàng hóa dân sinh chính, thiết yếu như thóc gạo, muối, vải... Điển hình là luồng muối từ Nam Định, Thái Bình thuộc Liên khu III lên Việt Bắc và Tây Bắc. Nếu so sánh với giá gạo thì giá muối tại Nam Định, Thái Bình có mức quy đổi 1 muối đổi 1 gạo, nhưng tại Việt Bắc thì mức quy đổi này lên tới 1 muối đổi 5 gạo, tạo ra mức lợi nhuận lớn cho thương nhân tham gia kinh doanh. Đồng thời, khi trở về, thương nhân còn có thể kiếm thêm lãi bằng việc vận chuyển hàng lâm thổ sản của Việt Bắc, Tây Bắc về bán lại tại Liên khu III, Liên khu IV, cũng như vùng tạm bị địch chiếm. Đường di chuyển của các luồng hàng hóa này thường xuyên thay đổi theo tình hình chiến sự giữa ta với địch. Mặc dù hình thức kinh doanh này nguy hiểm, vất vả, nhưng do mức lợi nhuận cao, nên hầu như các luồng hàng hóa gạo và muối ít khi bị ách tắc quá lâu, chỉ tạm ngưng do lũ lụt hoặc địch càn quét mạnh.

Nhận thấy tác dụng tích cực của các luồng giao thương hàng hóa này cũng như vai trò của thương nhân trong việc phát triển kinh tế vùng tự do, Chính phủ hết sức khuyến khích hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho thương nhân lưu thông hàng hóa.

Quan hệ giữa Nhà nước với lực lượng thương nhân trong thời kỳ này là quan hệ hợp tác. Nhà nước tạo mọi điều kiện để thương nhân hoạt động thuận lợi, cung ứng hàng hóa phục vụ nhân dân và công cuộc kháng chiến. Thương nhân cần đến Nhà nước để được tự do di chuyển giữa hai vùng; bên cạnh việc tìm kiếm lợi nhuận thì phần nhiều giới thương nhân có tinh thần yêu nước, mong muốn độc lập và cũng muốn giúp đỡ Chính phủ kháng chiến thành công.

Trước khi hệ thống mậu dịch quốc doanh được kiện toàn, hầu như tất cả các cơ quan chuyên trách quản lý thương mại của ta đều sử dụng thương nhân như là cầu nối với thị trường và tận dụng hệ thống thương nhân để điều hòa thị trường, bình ổn vật giá.

Trong thời kỳ này, hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa tập trung chủ yếu tại ba nơi: các chợ quê truyền thống, các cửa hàng gần tuyến đường giao thông chính và các thị trấn, trung tâm của vùng kháng chiến; trong đó, các chợ quê truyền thống vốn được hình thành từ rất lâu tại các địa phương, có chức năng giao thương hàng hóa cho nhân dân một vài làng, xã hoặc trong vùng. Các loại hàng hóa được bày bán tại đây chủ yếu là hàng nông sản, sản phẩm tiểu, thủ công nghiệp địa phương và một số ít sản phẩm công nghiệp tiêu dùng.

Các cửa hàng gần tuyến đường giao thông chính chủ yếu do người dân tản cư từ vùng đô thị lập ra và xuất hiện nhiều, tập trung ở một số đầu mối giao thông quan trọng, hình thành nên một số trung tâm kinh doanh sầm uất với nhiều loại hàng hóa, đặc biệt là sản phẩm công nghiệp tiêu dùng như giấy in, mực viết, vải các loại...

Tại hầu hết các vùng tự do của ta đều hình thành một hoặc một số trung tâm kháng chiến, hành chính và kinh tế đầu não như Ấm Thượng (Phú Thọ), Cầu Bố (Thanh Hóa), Tam Kỳ (Quảng Nam)... với lượng dân cư sinh sống đông, cán bộ và bộ đội qua lại nhiều. Tại đây, hoạt động giao thương hàng hóa diễn ra sôi động với khối lượng hàng hóa tập trung đông, trong đó có cả sản phẩm thuộc vùng tạm bị địch chiếm.

Các thương nhân sử dụng những trung tâm kinh tế này là nơi phân phối bán lẻ chính, cũng là nơi tập kết, thu mua các loại hàng hóa mà họ cần, từ đó hình thành giá các loại hàng hóa và tác động đến giá hàng hóa tại các vùng lân cận.

Vùng tự do

Trong quá trình di chuyển đến gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh vào tháng 5/1947 để trao đổi về điều kiện ngừng bắn giữa phía Việt Nam và Pháp, Đặc phái viên của Cao ủy Pháp ở Đông Dương - ông Paul Mus nhận thấy càng đi sâu vào vùng kháng chiến (vùng tự do theo cách gọi từ phía ta), hoạt động của mọi tầng lớp nhân dân càng nhộn nhịp.

Ông Paul Mus nhớ lại: “Đã có những khu phố mới hình thành ở cạnh đường, nhìn cách ăn mặc thì biết ngay những người ở đây đến từ Hà Nội. Họ buôn bán đủ các thứ hàng hóa. Có cả những quán giải khát, quán cơm và quán phở. Rất nhiều người đi lại tấp nập, có từng đoàn xe đạp thồ những bao nặng hai bên xe”. Paul Mus đoán những kiện hàng này là gạo hoặc muối - hai thứ mặt hàng cực kỳ thiết yếu tại Việt Bắc nói riêng và vùng tự do nói chung. Nhiều lần qua những ngã tư, có dân quân ngăn đường, để bộ đội hành quân, Paul Mus và những người đi đường phải đợi rất lâu. Đi trong đêm tối, các khách bộ hành mang nặng hàng hóa, nhưng họ vẫn cười nói vui vẻ.

Một đêm, trước khi gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 12/5/1947, ông Paul Mus cho biết được dẫn vào ven một đô thị. Đô thị cũ đã bị phá, nhưng nhiều phố có nhiều nhà mới làm bằng tre lợp lá cọ. Nhà nào cũng thắp đèn sáng để bán hàng. Rất đông người đi lại mua bán. Một đô thị buôn bán sầm uất như những khu phố ở ngoại thành Hà Nội mà Paul Mus đã biết. Mãi về sau, Paul Mus mới biết nơi đó là thị xã Thái Nguyên.

Nguồn: “Hồ Chí Minh và cuộc gặp cuối cùng với chính quyền Pháp”, Infonet, Chuyên trang của Báo VietnamNet, ngày 19/5/2016.

b) Hoạt động thương mại ở vùng tự do trước năm 1950

Trong những năm đầu kháng chiến 1946 - 1947, mặc dù các thành phố, khu sản xuất công nghiệp bị quân đội Pháp tái chiếm khiến ta bị thiếu hụt nguồn cung hàng hóa công nghiệp, nhưng ta vẫn giữ được một số khu vực sản xuất nông nghiệp lớn, đảm bảo nguồn cung nông sản. Bên cạnh đó, vì chiến tranh mới xảy ra, nhu cầu của bộ đội cũng chưa nhiều, còn nhân dân thì chủ yếu lo ổn định sinh hoạt, nên tuy nguồn hàng sinh hoạt có thiếu hụt nhưng chưa bị ảnh hưởng nặng nề. Tình hình lưu thông hàng hóa và giá cả chưa diễn biến quá phức tạp.

Tuy nhiên, sau một loạt thất bại quân sự tại chiến trường Đông Dương những năm 1947 - 1949, quân đội Pháp dần xoay sang tấn công ta mạnh hơn về mặt kinh tế. Địch tăng cường bắn phá các thị trấn, bến đò, các đường giao thông chính trong vùng tự do của ta. Năm 1949, chúng đánh rộng ra nhiều nơi, khiến các vùng tự do bị chia cắt mạnh, hoạt động giao thương hàng hóa giữa các vùng do ta kiểm soát bị ảnh hưởng nặng nề. Khối lượng hàng hóa lưu thông giữa các vùng tự do bị hạn chế cho dù hoạt động sản xuất của ta có phát triển hơn giai đoạn đầu của cuộc chiến. Bên cạnh đó, địch chủ tâm chiếm các khu sản xuất lúa gạo và muối chính của ta. Trong khi đó, nhu cầu về nhiều loại hàng hóa lại đang tăng mạnh khi cuộc kháng chiến của ta bước sang giai đoạn mới. Do đó, ta thường xuyên rơi vào tình trạng căng thẳng, thiếu hụt hàng hóa, nhất là đối với thóc gạo, muối và vải.

Liên khu Việt Bắc là nơi gặp nhiều khó khăn nhất, vì đây là nơi tập trung nhiều nhất các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến, với đông đảo lực lượng bộ đội, cán bộ và có địa hình hiểm trở. Hàng nông, lâm, thổ sản của các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang thuộc Liên khu Việt Bắc bị ứ đọng, không có nơi tiêu thụ, trong khi đó, lại rất thiếu các mặt hàng như gạo, muối, nước mắm, sợi, vải vốn hay được chuyển từ Liên khu III và Liên khu IV. Tình trạng khan hiếm hàng đẩy giá trên thị trường tăng nhanh: giá 1 kg gạo trong năm 1948 là 4 đồng thì đến năm 1949 đã lên tới 18 đồng, cao gấp 2 lần so với giá gạo tại Liên khu III và Liên khu IV.

Ngược lại, các tỉnh tại Liên khu III thì thừa gạo, nhiều loại nông sản và thủy hải sản nhưng lại thiếu các loại nông, lâm sản đặc thù của Liên khu Việt Bắc như chè, quế, sa nhân,... Tình hình tại các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh thuộc Liên khu IV, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên thuộc Liên khu V tương đối ổn hơn, do có thể tự cung, tự cấp nhiều loại hàng hóa thiết yếu, giá hàng hóa tuy có tăng nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với Liên khu Việt Bắc. Các tỉnh tại Nam Bộ thì nhiều nơi thừa thóc gạo nhưng lại thiếu sợi, vải bông.

Từ cuối năm 1948, hoạt động đầu cơ, tích trữ hàng bắt đầu xuất hiện mạnh. Ngày 19/11/1948, Chủ tịch Chính phủ ký Sắc lệnh số 257/SL về cấm chỉ mọi sự tích trữ có tính cách đầu cơ những hàng hóa cần thiết cho đời sống nhân dân; nếu phạm pháp sẽ bị trừng phạt với các khung hình phạt nghiêm khắc được Chính phủ ban hành. Tuy nhiên, việc thực hiện máy móc chính sách này khiến một số địa phương còn cấm nhân dân chuyên chở thóc gạo sang địa bàn khác, buộc Bộ Kinh tế phối hợp với Bộ Nội vụ nhắc nhở các địa phương thực hiện đúng nguyên tắc tự do buôn bán nhằm điều hòa sự phân phối hàng hóa và giá cả trong các địa phương.

Để ngăn chặn tình trạng tăng giá hàng hóa, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 8/SL ngày 25/02/1949 về việc định việc hóa giá những loại cần thiết cho đời sống nhân dân và công cuộc kháng chiến; trong đó quy định “cấm không được bán những loại hàng cần thiết cho đời sống nhân dân và công cuộc kháng chiến quá một giá tối đa do Chính phủ ấn định”. Đồng thời, Liên bộ Kinh tế - Nội vụ ra quy định yêu cầu người dân kê khai hàng hóa thiết yếu đang tích trữ, tổ chức Hội đồng hóa giá liên khu, tỉnh và thành phố, tổ chức thu mua thóc gạo theo giá quy định, hay còn gọi là hóa giá.

Chủ trương này mới chỉ được thực hiện trong một thời gian ngắn trên một phạm vi hẹp ở Liên khu Việt Bắc nhưng đã gây ra những tác động tiêu cực: hàng hóa biến mất khỏi thị trường, thương nhân rút vào buôn bán lén lút. Người tiêu dùng không mua được những hàng hóa cần thiết cho đời sống hằng ngày, giá thị trường không giảm mà còn tăng vọt. Sở dĩ có tình trạng trên là do hàng hóa trên thị trường lúc này thường là sản phẩm tự sản, tự tiêu của những người sản xuất nhỏ hoặc là sản phẩm thương nhân mua gom và bán ra để kiếm lời, giá mua và bán hình thành trên thị trường theo quan hệ cung cầu. Cách mua bán của những thành phần này trên thị trường để đối phó với việc Nhà nước áp đặt giá không phù hợp với tình hình cung cầu trên thị trường, họ có thể nhanh chóng rút vào bí mật khiến thị trường không còn hàng hóa, trong khi đó, Nhà nước lại không có lực lượng hàng hóa và mạng lưới phân phối thay thế thương nhân để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Cho nên, chủ trương hóa giá đã thất bại.

Trước tình trạng này, đến ngày 17/3/1949, Sắc lệnh số 8/SL và quy định về hóa giá được hủy bỏ, cho phép tự do buôn bán các hàng hóa thiết yếu trở lại. Giá hàng hóa càng diễn biến phức tạp khi giá muối tại các liên khu chênh lệch lớn sau khi địch đánh chiếm Phát Diệm (Ninh Bình) vào tháng 10/1949. Giá muối tháng 4/1950, tại Hà Tĩnh (Liên khu IV) là 2,45 đồng/kg, tại Hưng Yên (Liên khu III) là 14 đồng/kg và tại Thái Nguyên (Liên khu Việt Bắc) lên tới 120 đồng/kg. Ngay trong cùng một liên khu, giá hàng hóa cũng khác nhau.

Chính phủ đưa ra một giải pháp tạm thời là trả lương cho đội ngũ cán bộ, công chức bằng gạo3 vào tháng 5/1950. Bằng nhiều biện pháp kết hợp, nhất là đẩy mạnh phát triển tăng gia sản xuất, tăng cường tiết kiệm và nỗ lực cung ứng một số loại hàng hóa thiết yếu với giá rẻ ra thị trường, tình hình giá cả tạm được cải thiện. Như vậy, hai năm 1949 - 1950 là thời gian khó khăn nhất đối với quân và dân ta từ khi cuộc kháng chiến diễn ra.

Sau Chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950, vùng tự do được mở rộng và nối liền với một dải biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Nhu cầu kháng chiến cũng như nhu cầu của đời sống nhân dân tăng lên, nhu cầu lưu thông hàng hóa phát triển mạnh. Để nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động nội thương trong giai đoạn mới, ngày 17/11/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 168/SL về việc thành lập Sở Nội thương thuộc Bộ Kinh tế, thay cho Cục Tiếp tế vận tải. Theo đó, các phân sở, chi sở và chi điếm, Cửa hàng thuộc Sở Nội thương được thành lập tại các vùng tự do để trực tiếp thực hiện việc thu mua và phân phối hàng hóa, điều hòa thị trường.

c) Hoạt động thương mại ở vùng tự do sau năm 1950

Các khó khăn và thách thức chính

Sau thắng lợi Chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta bước sang giai đoạn tổng phản công với tương quan chính trị, quân sự và kinh tế giữa ta với địch dần nghiêng về phía ta, kéo theo đó là những thuận lợi cũng như các khó khăn mới trong công tác điều hành hoạt động giao thương hàng hóa tại vùng tự do.

Trong đó, nhiều khu vực rộng lớn được giải phóng, thế kìm kẹp và bao vây vùng tự do của Pháp bị phá vỡ, nhờ đó, hoạt động giao thông và liên lạc giữa các vùng tự do diễn ra ổn định, an toàn, thuận lợi hơn, điều này giúp mở rộng đáng kể thị trường sản xuất, tiêu thụ hàng hóa tại vùng tự do, khối lượng hàng hóa lưu thông tăng mạnh. Đặc biệt, tuyến biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc được khơi thông; đồng thời, lần lượt các quốc gia thuộc khối xã hội chủ nghĩa gồm Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Liên bang Xôviết, Cộng hòa Dân chủ Đức... công nhận và chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao - kinh tế với Việt Nam. Qua đó, nguồn cung nhiều loại hàng hóa vốn trước đây phải phụ thuộc chủ yếu vào vùng tạm bị địch chiếm đã trở nên đa dạng hơn. Mặt khác, đồng bào trên cả nước ngày càng tin tưởng, ủng hộ Chính phủ và công cuộc kháng chiến, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao thương hàng hóa giữa vùng tự do và vùng tạm bị địch chiếm.

Tuy nhiên, việc xây dựng bộ đội chủ lực và chuẩn bị các chiến dịch quân sự lớn đòi hỏi Nhà nước phải chi tiêu nhiều hơn, kéo theo đó là lượng giấy bạc được phát hành ra thị trường, nền kinh tế vùng tự do đối mặt với áp lực mất cân đối tiền - hàng căng thẳng. Đặc biệt, những nơi nào mà lực lượng quân đội tập trung đông để chuẩn bị cho các hoạt động quân sự thì nhu cầu hàng hóa tại nơi đó tăng mạnh, kéo theo giá hầu hết các mặt hàng đều tăng. Giá cả sau khi thiết lập mặt bằng mới lại không giảm xuống. Gạo và muối là hai mặt hàng thực phẩm tối cần thiết hằng ngày, có nhiều đột biến về giá nhất. Ví dụ, chỉ trong năm 1949, giá gạo tại Quảng Nam tăng 2,4 lần, tại Lạng Sơn đã tăng gấp 4 lần, tại Thái Nguyên tăng tới 5,1 lần so với năm 1947. Năm 1950, giá cả tiếp tục tăng lên với nhịp độ nhanh hơn.

HCM thăm Bắc Kan Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm bà con nông dân tỉnh Bắc Kạn đang thu hoạch lúa mùa năm 1950 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Trong khi đó, quân đội Pháp cũng tăng cường các hoạt động chống phá trên cả mặt trận quân sự lẫn kinh tế. Tại vùng tạm bị địch chiếm, giá nhiều loại hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa công nghiệp thấp hơn nhiều so với tại vùng tự do và bắt đầu tràn vào vùng tự do. Tình trạng này không chỉ đe dọa nghiêm trọng nền kinh tế vùng tự do, nhất là các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, mà còn khiến nạn buôn lậu, đầu cơ, lũng đoạn thị trường trở nên phức tạp hơn. Tất cả những điều này đòi hỏi Bộ Kinh tế phải có các biện pháp kinh tế, quản lý giá, bình ổn thị trường chặt chẽ và phù hợp hơn.

Những thành công nổi bật

Tiếp thu các chủ trương của Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (tháng 02/1951), xây dựng chính sách giá được Bộ Kinh tế xác định là vấn đề mấu chốt đầu tiên cần giải quyết để tháo gỡ các khó khăn hiện tại, giúp nền kinh tế vùng tự do vận hành ăn khớp với những thay đổi trên mặt trận quân sự - chính trị, đáp ứng những nhu cầu khi cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn mới. Chính sách giá bao gồm các mức giá cụ thể của một số loại hàng hóa quan trọng trên thị trường, các quan hệ giá giữa các loại hàng hóa và các loại chênh lệch giá được dùng để làm cơ sở cho việc bình ổn giá.

Chính sách giá mới cần đáp ứng các yêu cầu sau: Phải thúc đẩy được sản xuất tại vùng tự do trong điều kiện sản xuất quy mô nhỏ, kỹ thuật thô sơ, vật tư sản xuất là dựa vào nguồn cung tại chỗ, chất lượng hàng hóa còn thấp so với hàng hóa cùng loại từ vùng tạm bị địch chiếm; phải khuyến khích giao thương hàng hóa giữa nơi sản xuất và nơi tiêu thụ, giữa các địa phương; phải tạo động lực cho thương nhân khơi thông các luồng giao thương, tích cực phân phối hàng hóa trong điều kiện chiến tranh; phải giúp cải thiện đời sống của nhân dân so với giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Do hoạt động nông nghiệp vẫn chiếm chủ đạo trong nền kinh tế vùng tự do, đa số người dân vẫn là nông dân với sản phẩm chính là lúa gạo; nguồn thu nhập và sức mua của nông dân chủ yếu là từ tiền bán lúa gạo; đồng thời do điều kiện chiến tranh nên việc điều tra, nghiên cứu yếu tố hình thành giá trên thị trường bị hạn chế; vì vậy, Bộ Kinh tế đề xuất lấy giá lúa gạo làm cơ sở tính giá. Bộ Kinh tế cũng điều chỉnh giá một số loại nông sản cần thiết để khuyến khích nông dân đẩy mạnh canh tác như bông, mía đường...

Đối với giá hàng công nghiệp tiêu dùng, Bộ Kinh tế tham khảo các quan hệ giá giữa những loại hàng công nghiệp thiết yếu nhất so với giá gạo; đồng thời, có những điều chỉnh phù hợp để cải thiện đời sống người nông dân. Mức giá gạo được dùng làm cơ sở để xác định giá các loại hàng công nghiệp tiêu dùng là mức giá trên thị trường vùng tự do Việt Bắc lúc này.

Đối với các loại lâm, thổ sản chuyên xuất khẩu, việc định giá thu mua căn cứ vào giá xuất khẩu để khuyến khích nhân dân đẩy mạnh sản xuất, khai thác và khuyến khích thương nhân tham gia thu mua, xuất khẩu.

Mức giá cụ thể của một số mặt hàng thiết yếu được dùng làm cơ sở để bình ổn vật giá lúc này như sau: gạo: 400 đồng/kg, vải diềm bâu4: 1.600 đồng/mét, dầu hỏa: 1.200 đồng/lít.

Các mức giá cũng được tính toán để duy trì chênh lệch giá ở mức hợp lý giữa các vùng và giữa giá bán buôn với giá bán lẻ nhằm dành cho thương nhân một mức lãi thích đáng, khuyến khích họ mở rộng giao thương, khơi thông các luồng hàng quan trọng và đẩy mạnh việc phân phối hàng hóa đến người tiêu dùng. Các mức chênh lệnh giá này được Bộ Kinh tế tính toán cẩn thận dựa theo từng loại hàng, tính chất hàng, mức độ khó khăn trong vận chuyển, thu mua... nhằm tránh cho người tiêu dùng phải chi trả giá quá cao.

biến động giá cả

Chính sách giá mới đã phát huy tác dụng giúp hoạt động sản xuất, đặc biệt là sản xuất tiểu thủ công nghiệp diễn ra ổn định tại vùng tự do. Đời sống của người nông dân được cải thiện hơn khi chênh lệch giữa giá nông sản và giá hàng công nghiệp tiêu dùng được thu hẹp về mức hợp lý hơn. Nhiều luồng hàng như: muối, vải, gạo... từ Liên khu IV, Liên khu III lên Việt Bắc, luồng hàng lâm, thổ sản từ Việt Bắc về Liên khu III hay ra các cửa khẩu được khơi thông và phát triển nhộn nhịp.

Song song với việc xây dựng chính sách giá, Bộ Kinh tế xây dựng các giải pháp chống đột biến giá, điều hòa thị trường thông qua hệ thống mậu dịch quốc doanh. Theo đó, Sở Mậu dịch thuộc Bộ Công Thương được thành lập theo Sắc lệnh số 22/SL ngày 14/5/1951 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sở Mậu dịch có trách nhiệm đảm bảo cung cấp hàng hóa cần thiết phục vụ cho công cuộc kháng chiến, đời sống nhân dân, hoạt động sản xuất, cũng như bình ổn giá cả, đấu tranh chống đầu cơ, lũng đoạn thị trường, đấu tranh kinh tế với địch. Điều này đánh dấu bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển hoạt động thương mại tại nước ta, nhằm thích ứng với những điều kiện đặc thù trong chiến tranh, tạo tiền đề cho việc xây dựng ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa sau này.

Đáng chú ý, phương châm hoạt động của Sở Mậu dịch trong thời kỳ này là “nắm hàng chính, nắm thị trường chính, nắm bán buôn là chính”, tận dụng mạng lưới thương nhân để điều hòa giá trên toàn thị trường. Thương nhân được tổ chức thành các tổ, nhóm. Cán bộ mậu dịch sinh hoạt thường kỳ để cung cấp các thông tin quân sự, kinh tế, chính trị mới, nhằm định hướng, hỗ trợ hoạt động kinh doanh của họ, cũng như lắng nghe ý kiến phản ánh của thương nhân về chính sách và thu thập các thông tin thị trường thực tế.

Ngoài mặt hàng gạo, muối và chất đốt, Sở Mậu dịch gần như không bán lẻ trực tiếp đại trà các loại hàng hóa cho nhân dân, mà chỉ tập trung cung ứng hàng hóa cho các đơn vị nhà nước, bán buôn hàng hóa cho thương nhân để thương nhân trực tiếp phân phối cho người tiêu dùng với mức chênh lệch giá hợp lý. Bên cạnh đó, Sở Mậu dịch đứng ra thu mua trong nhân dân các loại hàng hóa mà thương nhân cần cho kinh doanh tại vùng tạm bị địch chiếm. Thông qua đó, Sở Mậu dịch điều hòa thị trường, điều chỉnh hoạt động của thương nhân phù hợp với định hướng của Nhà nước, từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế vùng tự do.

Sở Mậu dịch chủ động dự trữ những mặt hàng chính, thiết yếu nhằm xử lý tình trạng mất cân đối tạm thời, đặc biệt là đối với mặt hàng gạo và muối. Lực lượng mậu dịch được giao nhiệm vụ dự trữ lúa gạo theo tình hình cung - cầu, tình hình canh tác của các địa phương, gom mua khi vào vụ thu hoạch và bán ra khi vào thời điểm giáp hạt, bố trí kế hoạch vận chuyển để sẵn sàng bổ sung hàng hóa cho những nơi có nhu cầu tăng đột xuất. Với những biện pháp trên, từ năm 1952, những vụ đột biến giá gạo xảy ra ở một số nơi như Phú Thọ, Thanh Hóa và Thái Nguyên đã nhanh chóng được khắc phục.

dân công Phú Thọ Dân công tỉnh Phú Thọ gánh gạo phục vụ Chiến dịch Trung du trong những năm 1950 - 1951 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Bên cạnh đó, Bộ Kinh tế phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và Bộ Quốc phòng để cân đối tiền - hàng tại các địa phương chuẩn bị có chiến dịch quân sự lớn. Sở Mậu dịch căn cứ vào lượng tiền dự kiến chi ra để chuẩn bị lượng hàng bán ra tương ứng, thu tiền về. Các mặt hàng được chuẩn bị kỹ theo nhu cầu mà bộ đội, dân công và nhân dân hay mua trong các hoạt động quân sự. Kết quả là trong các chiến dịch được triển khai, đặc biệt trong hai chiến dịch lớn là Đông Xuân 1953 - 1954 và Điện Biên Phủ, nhu cầu hàng hóa và chi tiêu tập trung rất lớn trên một số địa bàn tại Việt Bắc, nhưng tình trạng đột biến giá không xảy ra.

Hệ thống mậu dịch quốc doanh ngày càng đóng vai trò lớn trong việc đảm bảo cung ứng đầy đủ những loại hàng hóa thiết yếu cho các cơ quan nhà nước, bình ổn giá và điều hành giới thương nhân phân phối hàng hóa hiệu quả cho nhân dân. Điều này được thể hiện qua khối lượng hàng hóa được hệ thống mậu dịch quốc doanh thu mua và phân phối cho quân đội, cơ quan nhà nước cũng như nhân dân tăng cao qua các năm.

lượng hàng hóa bán ra Nguồn: Viện Kinh tế học: Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi (1945 - 1954), Sđd, tr.244.

Công tác bình ổn vật giá được thực hiện hiệu quả đã giúp tốc độ tăng giá hằng năm chậm lại, cụ thể: giá năm 1951 so với năm 1950 tăng 3,6 lần; năm 1952 so với năm 1951 tăng 3,35 lần; năm 1953 so với năm 1952 tăng 1,17 lần. Đến năm 1954 giảm so với năm 1953 chỉ còn bằng 0,97 lần, trong đó, giá muối năm 1953 giảm so với năm 1952 tại khu vực thượng du hạ 32%, trung du giảm 52%. Giá vải tại Việt Bắc giảm chỉ còn 1 m vải tương đương 10 kg gạo, so với mức 15 - 20 kg gạo trước đây. Tốc độ tăng giá cũng giảm mạnh so với tốc độ phát hành tiền mặt, cụ thể: 5 tháng đầu năm 1951, tiền mặt phát hành tăng 1 lần thì giá tăng 2,6 lần; năm 1952 giá tăng không tới 1 lần và đến năm 1953 giá chỉ còn tăng 0,7 lần.

Giải quyết được vấn đề điều hòa thị trường được xem là một thắng lợi lớn không chỉ về mặt kinh tế mà cả về chính trị trong giai đoạn này. Thông qua việc bình ổn giá, vấn đề đột biến giá được ngăn chặn triệt để, nhân dân ngày càng thêm tin tưởng vào Đảng và Chính phủ, góp phần củng cố vững chắc nền kinh tế vùng tự do.


1. Sắc lệnh số 140/SL ngày 29/02/1948 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc thành lập Cục Tiếp tế vận tải trong Bộ Kinh tế và bãi bỏ Nha Tiếp tế.

2. Sắc lệnh số 168/SL ngày 17/11/1950 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc thành lập Sở Nội thương trong Bộ Kinh tế.

3. Sắc lệnh số 81/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc ấn định thang lương chung cho công chức làm việc trong các cơ quan Chính phủ.

4. Loại vải trắng dày, thô, được dệt bằng sợi thông thường; là loại vải phổ biến trên thị trường thời kỳ này (B.T).

Danh mục

Tùy chỉnh