2. Xóa bỏ các công cụ bóc lột: các độc quyền nhà nước

Bên cạnh nạn đói, tệ nạn nghiện rượu, thuốc phiện trong nhân dân do các chính sách cưỡng ép tiêu thụ trước đây cũng như nạn độc quyền kinh doanh muối của chính quyền thực dân Pháp được Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem những vấn đề cấp bách cần giải quyết.

Chính phủ đã nhanh chóng ban hành lệnh nghiêm cấm việc nấu, bán hút thuốc phiện. Đồng thời, Chính phủ cũng cấm sản xuất, tàng trữ, tiêu thụ rượu làm từ ngũ cốc1 trong bối cảnh nhân dân ta đang bị nạn đói hoành hành. Mặt khác, Chính phủ vận động sâu rộng toàn dân không uống rượu với khẩu hiệu “Mỗi giọt rượu một giọt máu của đồng bào”. Chế độ cưỡng ép tiêu thụ rượu, thuốc phiện việc độc quyền sản xuất, phân phối rượu, thuốc phiện của các doanh nghiệp dưới thời chính quyền thực dân Pháp cũng bị bãi bỏ. Những vi phạm đối với các quy định trên đều bị xử nghiêm khắc.

Đối với muối, Chính phủ xóa bỏ chế độ độc quyền thu mua, phân phối muối trước đây. Theo đó, diêm dân trên cả nước được tự do bán muối ra thị trường sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước theo quy định. Đồng thời, Chính phủ tổ chức thu mua muối với giá hợp lý, giúp giảm thiệt hại cho diêm dân, tạo được sự yên tâm phấn khởi sản xuất đối với người làm muối. Việc tự do lưu thông muối trên thị trường đã giúp giá muối tại nhiều vùng giảm mạnh, đặc biệt tại các vùng miền núi, nhà nào cũng đủ muối ăn.

Việc Chính phủ xóa bỏ chế độ công quản đối với ba mặt hàng đặc biệt muối, rượu thuốc phiện của chính quyền thực dân Pháp đã tạo được ảnh hưởng tích cực về kinh tế, chính trị hội, tạo lập củng cố niềm tin của nhân dân đối với chính quyền cách mạng non trẻ, góp phần giải quyết những khó khăn của buổi đầu lập nước.


1. Sắc lệnh số 57/SL ngày 10/11/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc cấm không được sản xuất, tàng trữ, tiêu thụ rượu chế tạo bằng ngũ cốc.

2. Xóa bỏ các công cụ bóc lột: các độc quyền nhà nước

Bên cạnh nạn đói, tệ nạn nghiện rượu, thuốc phiện trong nhân dân do các chính sách cưỡng ép tiêu thụ trước đây cũng như nạn độc quyền kinh doanh muối của chính quyền thực dân Pháp được Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem những vấn đề cấp bách cần giải quyết.

Chính phủ đã nhanh chóng ban hành lệnh nghiêm cấm việc nấu, bán hút thuốc phiện. Đồng thời, Chính phủ cũng cấm sản xuất, tàng trữ, tiêu thụ rượu làm từ ngũ cốc1 trong bối cảnh nhân dân ta đang bị nạn đói hoành hành. Mặt khác, Chính phủ vận động sâu rộng toàn dân không uống rượu với khẩu hiệu “Mỗi giọt rượu một giọt máu của đồng bào”. Chế độ cưỡng ép tiêu thụ rượu, thuốc phiện việc độc quyền sản xuất, phân phối rượu, thuốc phiện của các doanh nghiệp dưới thời chính quyền thực dân Pháp cũng bị bãi bỏ. Những vi phạm đối với các quy định trên đều bị xử nghiêm khắc.

Đối với muối, Chính phủ xóa bỏ chế độ độc quyền thu mua, phân phối muối trước đây. Theo đó, diêm dân trên cả nước được tự do bán muối ra thị trường sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước theo quy định. Đồng thời, Chính phủ tổ chức thu mua muối với giá hợp lý, giúp giảm thiệt hại cho diêm dân, tạo được sự yên tâm phấn khởi sản xuất đối với người làm muối. Việc tự do lưu thông muối trên thị trường đã giúp giá muối tại nhiều vùng giảm mạnh, đặc biệt tại các vùng miền núi, nhà nào cũng đủ muối ăn.

Việc Chính phủ xóa bỏ chế độ công quản đối với ba mặt hàng đặc biệt muối, rượu thuốc phiện của chính quyền thực dân Pháp đã tạo được ảnh hưởng tích cực về kinh tế, chính trị hội, tạo lập củng cố niềm tin của nhân dân đối với chính quyền cách mạng non trẻ, góp phần giải quyết những khó khăn của buổi đầu lập nước.


1. Sắc lệnh số 57/SL ngày 10/11/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc cấm không được sản xuất, tàng trữ, tiêu thụ rượu chế tạo bằng ngũ cốc.

1. Những chủ trương và chính sách chung của Đảng và Chính phủ

Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ vào ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó nhiệm vụ “chống giặc đói” là nhiệm vụ hàng đầu. Chính phủ ban hành nhiều văn bản, giao Bộ Kinh tế Quốc gia thực hiện ngay các biện pháp đồng bộ nhằm khắc phục tình trạng thiếu lương thực, khơi dòng chảy lương thực thông suốt giữa các vùng, miền, như: xóa bỏ các hạn chế trong buôn bán, chuyên chở thóc gạo giữa các vùng, miền; cấm xuất khẩu các loại ngũ cốc và chế phẩm từ ngũ cốc, cấm sử dụng ngũ cốc vào các việc không cần thiết như nấu rượu... Đồng thời, Chính phủ cũng cử một ủy ban chuyên trách giúp đảm bảo và đốc thúc việc chuyên chở lương thực từ Nam Bộ và Trung Bộ ra Bắc Bộ.

Chỉ trong vòng ba tháng cuối năm 1945, đã có hàng nghìn tấn gạo được chuyển và phân phối kịp thời về các địa phương tại Bắc Bộ để cứu đói. Đây được xem là một kỳ tích, nhất là trong bối cảnh quân đội viễn chinh Pháp đã quay trở lại xâm lược Nam Bộ từ cuối tháng 9/1945 khiến việc chuyên chở lương thực giữa các vùng, miền gặp nhiều trắc trở.

Mặt khác, Bộ Kinh tế Quốc gia cũng trực tiếp động viên nhiều chủ doanh nghiệp cấp tốc sản xuất thêm nông cụ và bán không lấy lãi cho nông dân, thậm chí không tính công sản xuất mà chỉ tính chi phí nguyên liệu nhằm khắc phục tình trạng thiếu trâu bò trong sản xuất nông nghiệp. Trong vòng một năm, hoạt động sản xuất nông nghiệp đã đạt được nhiều kết quả lớn, góp phần quyết định giải quyết nạn đói.

Đồng thời, Chính phủ rất coi trọng việc khôi phục sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại nhằm tiến tới xây dựng nền kinh tế tự chủ của dân tộc. Chính phủ chủ trương phát triển hoạt động công nghiệp và thương mại. Phát huy lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước của giới công thương trong nước, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nhân dốc sức kiến thiết nền kinh tế và tham gia bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, Chính phủ cũng cố gắng không gây những xáo trộn không cần thiết, tạo điều kiện cho phép giới tư bản Pháp, Nhật nói riêng và tư bản nước ngoài nói chung duy trì công việc kinh doanh như cũ trong khung khổ pháp luật của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Trong Tuần lễ Vàng1, ngày 18/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành thời gian gặp thân mật 30 nhà công thương Hà Nội - đại diện cho giới công thương Việt Nam. Đây cũng là giới chức xã hội đầu tiên được Người tiếp tại Phủ Chủ tịch. Tại buổi gặp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò của giới công thương trong sự nghiệp xây dựng lại đất nước sau gần 80 năm dưới ách cai trị của thực dân Pháp. Người cũng phân tích sâu sắc, biện chứng mối quan hệ giữa dân giàu - nước mạnh. Sau cuộc gặp này, Chính phủ được giới công thương Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung ủng hộ rất lớn về vật chất, qua đó giảm bớt khó khăn về tài chính cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ.

Bác Hồ gặp công thương Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp thân mật 30 nhà công thương Hà Nội, đại diện cho giới công thương Việt Nam, tại Phủ Chủ tịch, ngày 18/9/1945 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Ngay sau đó, Sắc lệnh số 36/SL ngày 22/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được ban hành nhằm bãi bỏ tất cả các nghiệp đoàn vốn chủ yếu bảo vệ lợi ích độc quyền kinh doanh của một nhóm nhỏ doanh nghiệp dưới thời chính quyền thuộc địa, như nghiệp đoàn: Nông sản và Lâm sản, Kỹ nghệ, Khoáng sản, Thương mại,... Đến ngày 02/10/1945, Bộ Quốc dân Kinh tế ra Nghị định cho phép các nhà kinh doanh có quyền tự do khai trương, mở rộng, nhượng lại hay di chuyển cơ sở kinh doanh2, qua đó xóa bỏ quy chế ngặt nghèo của chính quyền cai trị trước đây trong việc kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh.

đấu giá Đông đảo đồng bào, trong đó có tầng lớp thương nhân, tham dự buổi đấu giá tranh của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuần lễ Vàng tháng 9/1945 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Tiếp tục khẳng định vai trò, sứ mệnh quan trọng của giới công thương, ngày 13/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho giới công thương Việt Nam. Trong thư, có đoạn viết: “Được tin giới công thương đã đoàn kết lại thành “Công - Thương cứu quốc đoàn” và gia nhập vào Mặt trận Việt Minh, tôi rất vui mừng. Hiện nay, “Công - Thương cứu quốc đoàn” đương hoạt động để làm nhiều việc ích quốc lợi dân, tôi rất hoan nghênh và mong đợi nhiều kết quả tốt. Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền hoàn toàn độc lập của nước nhà, thì giới Công - Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng”3. Về trách nhiệm của các cơ quan công quyền đối với sự phát triển của giới công thương, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp giới công thương trong công cuộc kiến thiết...”4.

Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc với định hướng chiến lược nước ta cần phải vừa chiến đấu, vừa xây dựng kinh tế để vượt qua các khó khăn. Hai nhiệm vụ này quan trọng ngang nhau và để phát triển kinh tế thì cần tập trung khôi phục sản xuất công nghiệp, cho tư nhân góp vốn kinh doanh các nhà máy, khai mỏ, khuyến khích giới công thương mở hợp tác xã, mở hội cổ phần tham gia kiến thiết lại nước nhà5.

Nhiều lĩnh vực công nghiệp và thương mại dần được phục hồi, các doanh nhân tổ chức huy động vốn lập công ty kinh doanh mới, trong đó, có nhiều công ty có quy mô vốn lớn như Thái Bình Thương hội tại Hà Nội với số vốn 1 triệu đồng Đông Dương, Hải Việt Công ty tại Hải Phòng với số vốn 500.000 đồng Đông Dương...6. Điều này đã minh chứng các chủ trương và giải pháp mở mang kinh tế, phục hồi công thương nghiệp của Chính phủ ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 phù hợp với yêu cầu của đất nước, được các nhà kinh doanh trong giới công thương hưởng ứng nhằm góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập.

Trước nguy cơ chiến tranh hiện hữu, ngay từ tháng 3/1946, Chính phủ đã chủ trương bí mật di chuyển dần các máy móc, thiết bị, vật tư nguyên liệu sản xuất từ các đô thị, vùng công nghiệp quan trọng như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn - Chợ Lớn... về các khu vực an toàn, nhằm chuẩn bị cơ sở vật chất cho công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

nhà máy giấy Chính phủ gấp rút sửa chữa, khôi phục các nhà máy lớn, trong đó có Nhà máy Giấy Đáp Cầu (Bắc Ninh) và lập các ủy ban thuộc Nhà nước để trông coi và tổ chức sản xuất (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Bộ Kinh tế được giao nhiệm vụ phối hợp với các đơn vị nghiên cứu, tính toán kỹ lưỡng những loại máy móc, vật tư sản xuất cần thiết và có thể di chuyển được, những gì cần ưu tiên chuyển trước và những gì có thể di chuyển cuối cùng mà vẫn đảm bảo duy trì hoạt động sản xuất. Đồng thời, Nha Tiếp tế trực tiếp thực hiện nhiệm vụ thu mua, vận chuyển và dự trữ hàng vạn tấn thóc gạo về các khu an toàn.

Một đội công tác đặc biệt được thành lập nhằm nghiên cứu tình hình kinh tế các địa phương mà Chính phủ dự kiến thiết lập thành căn cứ địa để đánh giá khả năng tự cấp tự túc, các nguồn lực kinh tế sẵn có, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ.

Theo thời gian, cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược lần thứ hai ngày càng cam go, ác liệt. Mặc dù bận nhiều công việc trong lãnh đạo kháng chiến, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành nhiều thời gian quan tâm đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của giới công thương. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên đánh giá cao, khuyến khích những thành tích đạt được của các đơn vị, xí nghiệp sản xuất, cơ sở thương mại. Đồng thời, Chính phủ cũng thực hiện hàng loạt giải pháp nhằm phát triển sản xuất công nghiệp, đảm bảo việc cung ứng hàng hóa cho kháng chiến và đời sống nhân dân diễn ra hiệu quả, cũng như đấu tranh kinh tế thắng lợi với địch.

Sự kiện Tuần lễ Vàng

Khi nhắc đến sự kiện Tuần lễ Vàng, bà Hoàng Thị Minh Hồ, vợ của nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô, chủ hiệu buôn tơ lụa nổi tiếng Phúc Lợi ở 48 Hàng Ngang (Hà Nội) xúc động kể lại: “Vợ chồng tôi cảm kích trước bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào cả nước khi cụ nói về trách nhiệm của người dân trước quốc gia non trẻ, nên ngay trong ngày đầu tiên vợ chồng tôi đã ủng hộ 117 lạng vàng”. Tổng cộng từ khi được giác ngộ, gia đình nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô đã ủng hộ Việt Minh, Chính phủ lâm thời 5.147 lạng vàng.

Nhà tư sản Nguyễn Sơn Hà chuyên sản xuất sơn cũng rất tích cực đóng góp tiền vàng, ông còn vận động các nhà tư sản khác và mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Trong lần ủng hộ đầu tiên, gia đình ông đã hiến tặng toàn bộ số nữ trang của gia đình nặng 10,5 kg vàng. Ngoài ra, còn rất nhiều nhà tư sản khác như ông Ngô Tử Hạ, ông Tống Minh Phương, bà Vương Thị Lai, ông Đỗ Đình Thiện...

Có một điều rất đáng khâm phục đó là các nhà tư sản đều biết rõ âm mưu của thực dân Pháp muốn quay lại chiếm Việt Nam và chắc chắn công việc kinh doanh của họ sẽ bị gây khó dễ nhưng họ vẫn chấp nhận. Trước tấm lòng vì nước của giới công thương Việt Nam, ngày 13/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư động viên, cổ vũ giới công thương tham gia công cuộc xây dựng đất nước và ngày này đã trở thành “Ngày Doanh nhân Việt Nam” hiện nay.

Tuần lễ Vàng Trong Tuần lễ Vàng, các tầng lớp nhân dân, trong đó có giới công thương đã quyên góp được 20 triệu đồng và 370 kg vàng (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

1. Tuần lễ Vàng là sự kiện do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động, bắt đầu từ ngày 17/9/1945 đến ngày 24/9/1945 nhằm kêu gọi sự ủng hộ của nhân dân, nhất là tầng lớp thương nhân, chung tay đóng góp vào ngân sách quốc gia, giúp tháo gỡ khó khăn về mặt tài chính của đất nước.
2. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 2, ngày 06/10/1945, tr.25.
3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.53.
5. Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, t.3, tr.44.

6. Xem Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Kinh tế học, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000 (Tập 1: 1945 - 1954), Sđd, tr.160.

3. Đối phó với việc địch phá hoại kinh tế - tài chính

Tháng 8/1945, khi Mặt trận Việt Minh lãnh đạo quần chúng nhân dân Tổng khởi nghĩa và đứng lên giành chính quyền, một trong những mục tiêu quan trọng mà lực lượng cách mạng phải chiếm giữ là hệ thống tài chính - tiền tệ nhằm giúp chính quyền mới có điều kiện hoạt động và thực hiện các công việc đảm bảo đời sống nhân dân.

Tuy nhiên, Ngân hàng Đông Dương do có quân đội phátxít Nhật canh giữ, sau đó quân đội Trung Hoa Dân quốc của tướng Lư Hán đã vào tiếp quản. Hậu quả là ngay sau khi thực dân Pháp quay trở lại tái chiếm Nam Bộ vào cuối tháng 9/1945 thì Ngân hàng Đông Dương do thực dân Pháp nắm quyền in ấn, phát hành tiền tệ đã ngưng hoàn toàn việc cung cấp tiền cho Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, gây khó khăn cho nền kinh tế Việt Nam.

Mặt khác, Chính phủ còn phải đối phó với nạn tiền Quan kim, Quốc tệ do quân đội Trung Hoa Dân quốc đem vào Việt Nam. Đội quân này tự tiện áp đặt tỷ giá khác xa thực tế, 1 đồng Quan kim đổi 1,5 đồng Đông Dương và 13,3 đồng Quốc tệ đổi 1 đồng Đông Dương, nhằm vơ vét của cải của nhân dân ta với giá rẻ mạt và lũng đoạn nền kinh tế Việt Nam. Trong khi đó, tỷ giá trên thị trường phải là 2,5 đồng Quan kim hoặc 50 - 60 đồng Quốc tệ mới đổi được 1 đồng Đông Dương1. Tình hình nghiêm trọng hơn khi đội quân này yêu cầu phải được đổi đến 4,5 tỉ đồng bạc Đông Dương, gấp hai lần số tiền đang lưu hành trên toàn lãnh thổ Việt Nam thời kỳ này.

Để tránh xung đột, thực hiện hòa hoãn về chính trị, Chính phủ đã quyết định tạm thời cho phép lưu hành những đồng tiền này trong phạm vi trao đổi hàng hóa giữa nhân dân Việt Nam với quân đội Trung Hoa Dân quốc. Việc đồng Quan kim mất giá nhanh chóng nhưng đội quân này vẫn ép người dân phải bán hàng hóa cho chúng đã gây nhiều tác động xấu. Chỉ sau khi đội quân này rút khỏi Việt Nam theo Hiệp ước Hoa - Pháp ngày 28/02/1946 và Hiệp định sơ bộ Việt Nam - Pháp ngày 06/3/1946, gánh nặng tài chính này mới được gạt bỏ.

Thực dân Pháp cũng đơn phương tuyên bố vô hiệu hóa toàn bộ tờ giấy bạc mệnh giá 500 đồng Đông Dương (tháng 11/1945), ấn định tỷ giá mới 1 đồng Đông Dương đổi 17 đồng franc (tháng 12/1945), cao hơn rất nhiều so với mức tỷ giá trước đây (1 đồng Đông Dương đổi 10 đồng franc) và phát hành mới tờ giấy bạc mệnh giá 100 đồng và 50 đồng Đông Dương (tháng 3/1946). Kể cả sau khi Tạm ước về quan hệ Việt Nam - Pháp được ký vào ngày 14/9/1946, thực dân Pháp tiếp tục đẩy mạnh các hành động khiêu khích kinh tế như tự ý tăng gấp đôi thuế nhập khẩu bông sợi, tăng gấp đôi giá bán vải cho Chính phủ ta. Các hành động này đều nhằm bóp nghẹt hoạt động kinh tế nước ta, đặc biệt là gây khó khăn cho cuộc kháng chiến của ta tại Nam Bộ.

Chính phủ đã sớm chủ trương và tiến hành bí mật việc phát hành đồng tiền riêng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhằm bảo đảm cho sự hoạt động của Chính phủ và đời sống nhân dân cũng như khẳng định nền độc lập, tự chủ quốc gia. Nhằm hỗ trợ chính quyền cách mạng khắc phục khó khăn về phương tiện in tiền, nhà tư sản dân tộc Đỗ Đình Thiện đã mua lại Nhà máy in Taupin từ tay tư sản Pháp rồi hiến tặng cho Chính phủ. Nhà máy Giấy Đáp Cầu chịu trách nhiệm cung cấp giấy để in tiền; đồng thời, các công nhân lành nghề, yêu nước tại Nhà in Taupin được vận động giúp tạo ra các bản in.

Đồng tiền đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được lưu hành tại vùng Nam Trung Bộ vào ngày 03/02/1946. Đến trước ngày Toàn quốc kháng chiến, đồng tiền độc lập đã thay thế đồng tiền Đông Dương trên toàn bộ thị trường vùng tự do. Nhân dân cả nước nhiệt liệt chào đón, hoan nghênh đồng tiền độc lập, gọi đồng tiền này là “giấy bạc Cụ Hồ”. Qua việc thu đổi đồng Đông Dương khi phát hành tiền mới, Chính phủ đã dần hạn chế được các thủ đoạn của thực dân Pháp trong mưu đồ nhiễu loạn nền kinh tế - tài chính Việt Nam. Đồng thời, một phần tiền Đông Dương thu đổi được lại trở thành nguồn ngoại tệ dự trữ để mua những mặt hàng trong vùng Pháp chiếm đóng, giúp Chính phủ đảm bảo cung ứng đầy đủ hàng hóa, duy trì lưu thông hàng hóa giữa các vùng miền trong cuộc kháng chiến trường kỳ sau này.

Đội quân Trung Hoa Dân quốc

Tháng 8/1945, thiếu tá Archimedes L.A Patti - Trưởng ban Đông Dương của OSS (Cơ quan Phục vụ chiến lược Mỹ) đã có mặt tại Hà Nội để thực hiện nhiệm vụ giải cứu tù binh và chuẩn bị cho việc giải giáp quân đội phátxít Nhật tại Bắc Đông Dương.

Sự can thiệp thô bạo vào nền kinh tế, tài chính Việt Nam của đội quân Trung Hoa Dân quốc đã được ông Archimedes L.A Patti ghi lại trong hồi ký “Why Vietnam” (Tại sao Việt Nam?) như sau: “Suốt đêm hôm đó, quân của tướng Lư Hán tràn vào thành phố, ầm ầm tiếng xe cộ đi lại, tiếng máy nổ, tiếng hô các hiệu lệnh... Nhưng chỉ sáng hôm sau, chúng tôi đã chứng kiến một cảnh tượng trái ngược hẳn. Đội quân này đã biến chất một cách ghê gớm! Đội quân tinh nhuệ hôm qua đã trở thành đội quân đi cướp, chiếm đất. Ra phố, tôi chỉ thấy một cảnh tượng lộn xộn không thể tả được cùng với những người Trung Quốc lang thang không mục đích... Chỉ còn thấy các đơn vị dân binh Trung Quốc quần áo rách rưới lộn xộn, đi dép cao su làm từ các lốp xe Jeep và mang đủ các loại vũ khí linh tinh...

Lư Hán ấn định một cách chính thức và một chiều tỷ giá hối đoái là 14 ăn 1. Tỷ lệ này đối với đồng Quốc tệ mất giá cùng với các thủ đoạn tài chính khác đã đặt khuôn khổ cho một chợ đen đồ sộ, tàn phá nền kinh tế Việt Nam...Với những đồng Quan kim mà ở Trung Quốc phải có hàng tấn mới có giá trị, các sĩ quan Trung Hoa Dân quốc ở Việt Nam có những quan hệ kinh doanh riêng, đã kết hợp chặt chẽ với con buôn, chủ nhà băng và thầu khoán để mua bằng một giá rẻ mạt mọi thứ có lợi mà họ thấy ở Việt Nam”.

Nguồn: Archimedes L.A.Patti: Tại sao Việt Nam?, Nxb. Đà Nẵng, 1995, tr.288.


1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Lịch sử Ngân hàng Việt Nam 1951 - 2021, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2021, tr.21.

Danh mục

Tùy chỉnh