1. Điều chỉnh cấu phát triển công nghiệp

Trong 5 năm 1976 - 1980, Đảng Nhà nước đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây dựng bản phát triển sản xuất, không coi trọng đúng mức việc khôi phục sắp xếp lại nền kinh tế, dẫn đến cấu công nghiệp thiên về xây dựng công nghiệp nặng những công trình quy lớn, không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển sản xuất hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu. Kết quả đầu nhiều, nhưng hiệu quả không cao.

Trên sở xác định lại bước đi của công nghiệp hóa, Đại hội V của Đảng chủ trương trong 5 năm 1981 - 1985 phải vừa phát triển, vừa sắp xếp lại sản xuất, bố trí lại xây dựng bản để nâng cao hiệu quả đầu tư, nhằm ổn định tình hình kinh tế - hội, ổn định đời sống nhân dân, tạo tiền đề đẩy mạnh công nghiệp hóa.

Tuy nhiên, do chưa thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết Đại hội V của Đảng nên nông nghiệp chưa thật sự được coi mặt trận hàng đầu, không được bảo đảm những điều kiện cần thiết để phát triển, nhất vật tư, tiền vốn các chính sách khuyến khích. Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, vẫn bị coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách. Công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp công nghiệp nhẹ. Một khuyết điểm lớn đã được Đại hội VI của Đảng chỉ ra là: “hầu như không sắp xếp lại các sở sản xuất để khắc phục sự chồng chéo, bất hợp lý, không tập trung được nguồn năng lượng, nguyên liệu, vật hạn vào những sở trọng điểm nhằm khai thác tốt nhất năng lực sản xuất hiện có. Mặt khác, trong xây dựng bản, tuy đã đình, hoãn một số công trình tương đối lớn, tập trung hơn cho các trọng điểm, nhưng về căn bản, vẫn chưa điều chỉnh hợp lý, không kiên quyết đình, hoãn những công trình chưa thật cấp bách kém hiệu quả, còn ham xây dựng nhiều công trình quy lớn. Khối lượng xây dựng dở dang quá nhiều, khiến cho vốn bị đọng quá lâu. Các địa phương các ngành còn xây thêm nhiều công trình ngoài kế hoạch, làm tăng thêm sự phân tán về tiền vốn vật tư”1.

Ngay sau Đại hội VI, chúng ta thực hiện từng bước việc đổi mới các chính sách kinh tế trên sở đổi mới duy tổng kết các thử nghiệm trong thực tế. Vấn đề đổi mới nhất điều chỉnh cấu đầu xác lập chế quản mới.

Trong đầu tư, Nhà nước không dồn quá nhiều vốn đầu vào công nghiệp nặng, quy lớn, đã kiên quyết đình hoãn gần 40 công trình lớn, cắt giảm gần 300 công trình nhỏ, chỉ tập trung vào các công trình khả năng huy động vào sản xuất trong kỳ kế hoạch, như các công trình năng lượng, dầu khí, phân bón... Phần lớn nguồn vốn đầu của Nhà nước dành cho ba chương trình kinh tế lớn, gồm lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu. “Trong 5 năm 1986 - 1990 đã dành cho 3 chương trình kinh tế hơn 60% vốn đầu của ngân sách trung ương, 75 - 80% vốn đầu của địa phương”2. Bên cạnh đó, phát triển một số ngành công nghiệp nguyên liệu, vật liệu, chủ yếu hóa chất bản, phân bón, thuốc trừ sâu, vật liệu xây dựng, một số kim loại đen màu; xây dựng công nghiệp lọc, hóa dầu theo công nghệ hiện đại cùng với sự phát triển một số ngành khác đi từ nguyên liệu dầu khí.

Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 1991 - 1995 được Đại hội VII của Đảng đề ra, tiếp tục điều chỉnh cấu kinh tế hướng vào 3 chương trình kinh tế lớn nhằm “ổn định, phát triển nâng cao hiệu quả nền sản xuất hội, ổn định từng bước cải thiện đời sống nhân dân bắt đầu tích lũy từ nội bộ nền kinh tế”3. Sự đầu vào các ngành công nghiệp cũng nhằm đến 3 chương trình này. Cụ thể, trong 5 năm 1991 - 1995, Nhà nước chú trọng đầu nhằm tăng nhanh sản lượng khai thác dầu khí; phát triển điện lực, nhất miền Trung miền Nam; sắp xếp đầu chiều sâu phát triển ngành khí nhằm trước hết phục vụ sản xuất chế biến sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp; phát triển công nghiệp điện tử - tin học; sớm xây dựng sở lọc dầu, sản xuất phân đạm; khai thác đá quý, bôxít, đất hiếm... Công nghiệp nhẹ được đầu theo hướng phát triển chương trình sản xuất hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu đa dạng, phục vụ tốt tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu, tăng thêm nhiều việc làm.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội (năm 1991) Chiến lược ổn định phát triển kinh tế - hội đến năm 2000 (năm 1991) cũng thể hiện sự chuyển hướng này:

“Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động hội cải thiện đời sống nhân dân”4.

“Công nghiệp liệu sản xuất khai thác, chế biến khoáng sản: Phát triển chọn lựa một số ngành, trước hết hướng vào phục vụ sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Quy mô, thời điểm xây dựng mức độ phát triển các ngành này căn cứ vào hiệu quả, khả năng đầu tư, nhất khả năng tranh thủ vốn kỹ thuật ngoài nước”5.

“Tận dụng khả năng của tất cả các thành phần kinh tế, phát triển mạnh công nghiệp hàng tiêu dùng bằng nhiều hình thức, quy công nghệ thích hợp để thỏa mãn nhu cầu về các loại hàng thông thường (hàng dệt may mặc, giấy, thuốc chữa bệnh, kim khí tiêu dùng...), tăng mức đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của nhân dân đẩy mạnh xuất khẩu. Tích cực tạo nguồn nguyên liệu tăng năng lực trang bị kỹ thuật trong nước, đồng thời đẩy mạnh nhập nguyên liệu thiết bị sản xuất trong nước chưa đáp ứng được. Đổi mới thiết bị, công nghệ bảo đảm chất lượng các loại nguyên liệu, vật liệu để tăng sức cạnh tranh của hàng hóa. Khuyến khích chế tạo mặt hàng mới. Mở rộng các hình thức liên doanh, hợp tác với nước ngoài làm hàng xuất khẩu một hướng ưu tiên để phát triển hiện đại hóa các ngành công nghiệp hàng tiêu dùng”6.

Xi măng Hà Tiên Từ năm 1985, Nhà máy Liên hợp Ximăng Tiên được tiếp tục mở rộng theo công nghệ hiện đại của Pháp; đến năm 1991, dây chuyền sản xuất clinker theo phương pháp khô của Nhà máy được hình thành (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Sự điều chỉnh cấu đầu công nghiệp được thực hiện từ Nhà nước thông qua sự công nhận, khuyến khích các thành phần kinh tế nhân. Nhà nước đã xác định chỉ phát triển kinh tế quốc doanh trong những ngành lĩnh vực then chốt, nắm những doanh nghiệp trọng yếu đảm đương những hoạt động các thành phần kinh tế khác không điều kiện hoặc không muốn đầu kinh doanh. Đồng thời, các doanh nghiệp quốc doanh 100% vốn Nhà nước hoặc hình thức doanh nghiệp cổ phần vốn Nhà nước chiếm tỷ lệ chi phối, sẽ hoạt động theo nguyên tắc tự chủ kinh doanh, tự trang trải tích lũy trong môi trường hợp tác, cạnh tranh; Nhà nước chỉ tài trợ thời hạn cho một số sở thật sự cần thiết.

Sự chuyển hướng đầu công nghiệp phát triển của các thành phần kinh tế, sản xuất công nghiệp trong 10 năm đầu thực hiện đổi mới (1986 - 1995) sự phát triển mạnh mẽ, thời kỳ 5 năm sau cao hơn thời kỳ 5 năm trước.

Về tăng trưởng, giá trị sản xuất công nghiệp liên tục tăng trưởng khá. Tính theo giá so sánh năm 1994, giá trị sản xuất công nghiệp từ 39,7 tỉ đồng năm 1985, tăng lên 52,9 tỉ đồng năm 1990 đạt 103,4 tỉ đồng năm 1995. Tính bình quân, thời kỳ 1986 - 1990, chỉ số phát triển công nghiệp tăng 5,9%/năm; thời kỳ 1991 - 1995 tăng 13,7%/năm, gấp 2,3 lần thời kỳ 1986 - 19907.

Bảng 43: Danh mục các ngành ưu tiên từ Đại hội III đến Đại hội VII của Đảng

bảng 43

Nguồn: Tổng hợp số liệu của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ III, IV, V, VI, VII của Đảng.

Dung Quất 1995 Thủ tướng Văn Kiệt xem xét quy hoạch tổng thể dự án xây dựng thành phố Vạn Tường Khu công nghiệp lọc hóa dầu Dung Quất, tháng 7/1995 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Về sản phẩm, các sản phẩm công nghiệp chủ yếu sức cạnh tranh tiêu thụ tốt hơn. Nhiều mặt hàng chế biến đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước xuất khẩu tăng dần như dệt may, da giày, một số sản phẩm khí, điện tử, điện gia dụng, đồ gỗ, quạt điện. Đặc biệt, ta đã bắt đầu sản phẩm dầu thô với sản lượng 41 nghìn tấn năm 1986, năm 1987 tăng gấp 7 lần, đạt 280 nghìn tấn; năm 1988 688 nghìn tấn; từ năm 1989, sản lượng dầu thô khai thác được tính bằng đơn vị triệu tấn: 1,52 triệu tấn. Các sản phẩm công nghiệp nhìn chung đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, xuất khẩu phục vụ sản xuất, nhất sản xuất nông nghiệp.

Về cấu, tốc độ tăng trưởng cao của công nghiệp thúc đẩy chuyển dịch cấu chung của nền kinh tế. Sự đóng góp của công nghiệp tiến sát ngưỡng chỉ tiêu đề ra trong Chiến lược ổn định phát triển kinh tế - hội đến năm 2000.

Thực tế, sản xuất công nghiệp giai đoạn 1991 - 1995 tăng trưởng ấn tượng, bình quân 13,7%/năm, nhưng đây cũng những năm đầu của thời kỳ đổi mới, các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển, “bung” ra rất mạnh, song chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ. Nếu năm 1986, dịch vụ chỉ chiếm 16,1% trong GDP (do kinh tế nhân chưa “bung” ra), đến năm 1990 đã đạt 37,7%, năm 1995 đạt 44,07%.

bảng 44

bảng 45

cấu các thành phần kinh tế trong sản xuất công nghiệp cũng sự dịch chuyển đáng kể. Bên cạnh kinh tế nhân trong nước, năm 1987, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Luật đầu nước ngoài tại Việt Nam; đã thu hút tạo ra một lực lượng doanh nghiệp FDI hùng hậu về vốn kỹ thuật, cùng với kinh tế nhân trong nước làm thay đổi cấu giá trị sản xuất công nghiệp của kinh tế quốc doanh.

Giá trị sản xuất trong khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm dần về tỷ trọng, từ 56,5% năm 1985 xuống 50,4% năm 1995. Điều này không nghĩa sản xuất của doanh nghiệp nhà nước co lại, biểu hiện của sự “bung” ra của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Khu vực kinh tế nhân chiếm tỷ trọng khá cao trong những năm đầu đổi mới, nhưng sau khi sự tham gia của khu vực FDI đã giảm mạnh về tỷ trọng, từ 41,4% năm 1990 xuống còn 24,6% năm 1995. Riêng khu vực FDI từ khi xuất hiện đã liên tục tăng trưởng mức cao, bình quân trên 23%/năm giai đoạn 1991 - 1995, đến năm 1995 đã vượt kinh tế nhân trong nước, chiếm 25,1% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. Khu vực kinh tế này ngày càng những đóng góp quan trọng vào sản xuất công nghiệp.

bảng 46

bảng 47

Mặc vậy, xét về tốc độ tăng trưởng, khu vực nhà nước nhân trong nước sự tăng trưởng đồng đều hơn trong suốt giai đoạn 1991 - 1995, bình quân trên 10%/năm, trong khi khu vực FDI tăng tốc mạnh những năm 1991, 1992 với trên 40%, sau đó giảm xuống trên 10% những năm 1993, 1994 xuống dưới 10% năm 1995.

Hoạt động của khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh rất đa dạng, tập trung chủ yếu vào các mặt hàng phục vụ sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng thực phẩm, góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu về lương thực, thực phẩm hàng tiêu dùng Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đề ra. Những sản phẩm các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đóng góp nhiều nhất cho công nghiệp bao gồm: quần áo may sẵn; giày, dép da, giày vải; gỗ xẻ; chiếu cói; thảm đay; vải màn sợi bông; khăn mặt, khăn tay; chè chế biến; gạo, ngô xay xát; dầu thực phẩm; sứ công nghiệp; nông cụ cầm tay; xe cải tiến; máy tuốt lúa không động cơ; quạt điện...

Sản xuất công nghiệp tăng mạnh, chuyển dịch sang đầu sản xuất hàng công nghiệp chế biến, phù hợp với xu hướng thị trường định hướng công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Điều này thể hiện trong cấu các mặt hàng xuất khẩu.

bảng 48

Bảng 50 cho thấy tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu tăng nhanh, trong khi hàng nông, lâm, thủy sản mặc kim ngạch tuyệt đối tăng nhưng tỷ trọng giảm 11% trong 10 năm.

Trong những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới, do hậu quả nặng nề nhiều năm của chế bao cấp, nên khi thực sự chuyển sang kinh doanh trên thị trường, nhiều nghiệp công nghiệp quốc doanh lần đầu tiên phải đối mặt với những thử thách gay gắt: vốn liếng thiếu hụt, hàng hóa đọng, lao động dôi dư, sản xuất đình đốn, không ít nghiệp phá sản... Nhưng, với bản lĩnh kiên cường, nhiều nghiệp đã phấn đấu vượt qua cơn khủng hoảng về thị trường tiêu thụ để vực dậy vào cuối năm 1989. Trong sự cạnh tranh đó, nhiều doanh nghiệp quốc doanh ngoài quốc doanh năng động, sáng tạo, phát triển tốt đã tạo nên bức tranh đa dạng với nhiều điểm sáng, góp phần tạo nên một cấu kinh tế mới, đặt niềm tin vững chắc vào sự phát triển ổn định của một nền kinh tế sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, điển hình như Nhà máy Bột ngọt Tân Bình (VIFON), Nhà máy khí Quang Trung (Ninh Bình), Nhà máy Bánh kẹo Hải Hà, Nhà máy Dệt kim Đông Xuân, Công ty May Việt Tiến, Liên hiệp Thực phẩm vi sinh Nội, Công ty Cổ phần Việt Nam Kỹ nghệ Súc sản (VISSAN),...

Nền công nghiệp Việt Nam trong 10 năm đổi mới (1986 - 1995) đã bước đầu hình thành một cấu công nghiệp tương đối hoàn chỉnh, sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, đặc biệt công nghiệp gia đình đã hình thành bước đầu phát triển. Công nghiệp hóa đã góp phần làm biến đổi bộ mặt đất nước. Các nhà máy đã mọc lên khắp các địa phương, kể cả miền núi, nơi trước đây chưa hề biết công nghiệp gì. Trên đồng ruộng đã xuất hiện hàng vạn cây số đường dây điện cao thế, hàng nghìn trạm bơm thủy lợi, điện đã được các gia đình sử dụng phổ biến trong sản xuất sinh hoạt. Công nghiệp nặng đã chế tạo được máy động lực, máy công cụ, thiết bị lẻ một số thiết bị toàn bộ cỡ nhỏ trang bị cho các ngành kinh tế quốc dân. Công nghiệp nhẹ đã sản xuất được nhiều mặt hàng tiêu dùng phục vụ cho đời sống xuất khẩu. Một đội ngũ lao động, công nhân cán bộ khoa học - kỹ thuật công nghiệp trên 3 triệu người đã được đào tạo, bồi dưỡng khá tốt...

Các ngành công nghiệp đã góp phần ổn định nâng cao đời sống nhân dân, phát huy tác dụng đối với các ngành kinh tế quốc dân, đặc biệt đối với nông nghiệp. Ngành khí đã hàng chục mặt hàng phục vụ nông nghiệp. Hằng năm, ngành Năng lượng đã dành cho nông nghiệp hàng triệu kilôoátgiờ điện hàng triệu tấn than. Ngành Hóa chất đã đưa về đồng ruộng hàng triệu tấn phân hóa học. Các ngành công nghiệp nhẹ cũng đã cung cấp cho nông dân những mặt hàng thiết yếu về ăn, mặc, ở, tiêu dùng, đi lại, học tập, chữa bệnh... Ngoài ra, nhiều nghiệp chế biến nông sản được xây dựng, góp phần mở rộng giá trị sử dụng nâng cao giá trị của hàng hóa nông sản.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.355.

2. Bộ Công Thương: Ngành Công Thương Việt Nam sau 25 năm đổi mới (Lưu hành nội bộ), Nội, 2012, tr.17.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.91.

4, 5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.135, 164, 163.

7. Xem Tổng cục Thống kê: Công nghiệp Việt Nam 20 năm đổi mới phát triển, Sđd, tr.85.

1. Điều chỉnh cấu phát triển công nghiệp

Trong 5 năm 1976 - 1980, Đảng Nhà nước đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây dựng bản phát triển sản xuất, không coi trọng đúng mức việc khôi phục sắp xếp lại nền kinh tế, dẫn đến cấu công nghiệp thiên về xây dựng công nghiệp nặng những công trình quy lớn, không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển sản xuất hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu. Kết quả đầu nhiều, nhưng hiệu quả không cao.

Trên sở xác định lại bước đi của công nghiệp hóa, Đại hội V của Đảng chủ trương trong 5 năm 1981 - 1985 phải vừa phát triển, vừa sắp xếp lại sản xuất, bố trí lại xây dựng bản để nâng cao hiệu quả đầu tư, nhằm ổn định tình hình kinh tế - hội, ổn định đời sống nhân dân, tạo tiền đề đẩy mạnh công nghiệp hóa.

Tuy nhiên, do chưa thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết Đại hội V của Đảng nên nông nghiệp chưa thật sự được coi mặt trận hàng đầu, không được bảo đảm những điều kiện cần thiết để phát triển, nhất vật tư, tiền vốn các chính sách khuyến khích. Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, vẫn bị coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách. Công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp công nghiệp nhẹ. Một khuyết điểm lớn đã được Đại hội VI của Đảng chỉ ra là: “hầu như không sắp xếp lại các sở sản xuất để khắc phục sự chồng chéo, bất hợp lý, không tập trung được nguồn năng lượng, nguyên liệu, vật hạn vào những sở trọng điểm nhằm khai thác tốt nhất năng lực sản xuất hiện có. Mặt khác, trong xây dựng bản, tuy đã đình, hoãn một số công trình tương đối lớn, tập trung hơn cho các trọng điểm, nhưng về căn bản, vẫn chưa điều chỉnh hợp lý, không kiên quyết đình, hoãn những công trình chưa thật cấp bách kém hiệu quả, còn ham xây dựng nhiều công trình quy lớn. Khối lượng xây dựng dở dang quá nhiều, khiến cho vốn bị đọng quá lâu. Các địa phương các ngành còn xây thêm nhiều công trình ngoài kế hoạch, làm tăng thêm sự phân tán về tiền vốn vật tư”1.

Ngay sau Đại hội VI, chúng ta thực hiện từng bước việc đổi mới các chính sách kinh tế trên sở đổi mới duy tổng kết các thử nghiệm trong thực tế. Vấn đề đổi mới nhất điều chỉnh cấu đầu xác lập chế quản mới.

Trong đầu tư, Nhà nước không dồn quá nhiều vốn đầu vào công nghiệp nặng, quy lớn, đã kiên quyết đình hoãn gần 40 công trình lớn, cắt giảm gần 300 công trình nhỏ, chỉ tập trung vào các công trình khả năng huy động vào sản xuất trong kỳ kế hoạch, như các công trình năng lượng, dầu khí, phân bón... Phần lớn nguồn vốn đầu của Nhà nước dành cho ba chương trình kinh tế lớn, gồm lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu. “Trong 5 năm 1986 - 1990 đã dành cho 3 chương trình kinh tế hơn 60% vốn đầu của ngân sách trung ương, 75 - 80% vốn đầu của địa phương”2. Bên cạnh đó, phát triển một số ngành công nghiệp nguyên liệu, vật liệu, chủ yếu hóa chất bản, phân bón, thuốc trừ sâu, vật liệu xây dựng, một số kim loại đen màu; xây dựng công nghiệp lọc, hóa dầu theo công nghệ hiện đại cùng với sự phát triển một số ngành khác đi từ nguyên liệu dầu khí.

Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 1991 - 1995 được Đại hội VII của Đảng đề ra, tiếp tục điều chỉnh cấu kinh tế hướng vào 3 chương trình kinh tế lớn nhằm “ổn định, phát triển nâng cao hiệu quả nền sản xuất hội, ổn định từng bước cải thiện đời sống nhân dân bắt đầu tích lũy từ nội bộ nền kinh tế”3. Sự đầu vào các ngành công nghiệp cũng nhằm đến 3 chương trình này. Cụ thể, trong 5 năm 1991 - 1995, Nhà nước chú trọng đầu nhằm tăng nhanh sản lượng khai thác dầu khí; phát triển điện lực, nhất miền Trung miền Nam; sắp xếp đầu chiều sâu phát triển ngành khí nhằm trước hết phục vụ sản xuất chế biến sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp; phát triển công nghiệp điện tử - tin học; sớm xây dựng sở lọc dầu, sản xuất phân đạm; khai thác đá quý, bôxít, đất hiếm... Công nghiệp nhẹ được đầu theo hướng phát triển chương trình sản xuất hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu đa dạng, phục vụ tốt tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu, tăng thêm nhiều việc làm.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội (năm 1991) Chiến lược ổn định phát triển kinh tế - hội đến năm 2000 (năm 1991) cũng thể hiện sự chuyển hướng này:

“Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động hội cải thiện đời sống nhân dân”4.

“Công nghiệp liệu sản xuất khai thác, chế biến khoáng sản: Phát triển chọn lựa một số ngành, trước hết hướng vào phục vụ sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Quy mô, thời điểm xây dựng mức độ phát triển các ngành này căn cứ vào hiệu quả, khả năng đầu tư, nhất khả năng tranh thủ vốn kỹ thuật ngoài nước”5.

“Tận dụng khả năng của tất cả các thành phần kinh tế, phát triển mạnh công nghiệp hàng tiêu dùng bằng nhiều hình thức, quy công nghệ thích hợp để thỏa mãn nhu cầu về các loại hàng thông thường (hàng dệt may mặc, giấy, thuốc chữa bệnh, kim khí tiêu dùng...), tăng mức đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của nhân dân đẩy mạnh xuất khẩu. Tích cực tạo nguồn nguyên liệu tăng năng lực trang bị kỹ thuật trong nước, đồng thời đẩy mạnh nhập nguyên liệu thiết bị sản xuất trong nước chưa đáp ứng được. Đổi mới thiết bị, công nghệ bảo đảm chất lượng các loại nguyên liệu, vật liệu để tăng sức cạnh tranh của hàng hóa. Khuyến khích chế tạo mặt hàng mới. Mở rộng các hình thức liên doanh, hợp tác với nước ngoài làm hàng xuất khẩu một hướng ưu tiên để phát triển hiện đại hóa các ngành công nghiệp hàng tiêu dùng”6.

Xi măng Hà Tiên Từ năm 1985, Nhà máy Liên hợp Ximăng Tiên được tiếp tục mở rộng theo công nghệ hiện đại của Pháp; đến năm 1991, dây chuyền sản xuất clinker theo phương pháp khô của Nhà máy được hình thành (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Sự điều chỉnh cấu đầu công nghiệp được thực hiện từ Nhà nước thông qua sự công nhận, khuyến khích các thành phần kinh tế nhân. Nhà nước đã xác định chỉ phát triển kinh tế quốc doanh trong những ngành lĩnh vực then chốt, nắm những doanh nghiệp trọng yếu đảm đương những hoạt động các thành phần kinh tế khác không điều kiện hoặc không muốn đầu kinh doanh. Đồng thời, các doanh nghiệp quốc doanh 100% vốn Nhà nước hoặc hình thức doanh nghiệp cổ phần vốn Nhà nước chiếm tỷ lệ chi phối, sẽ hoạt động theo nguyên tắc tự chủ kinh doanh, tự trang trải tích lũy trong môi trường hợp tác, cạnh tranh; Nhà nước chỉ tài trợ thời hạn cho một số sở thật sự cần thiết.

Sự chuyển hướng đầu công nghiệp phát triển của các thành phần kinh tế, sản xuất công nghiệp trong 10 năm đầu thực hiện đổi mới (1986 - 1995) sự phát triển mạnh mẽ, thời kỳ 5 năm sau cao hơn thời kỳ 5 năm trước.

Về tăng trưởng, giá trị sản xuất công nghiệp liên tục tăng trưởng khá. Tính theo giá so sánh năm 1994, giá trị sản xuất công nghiệp từ 39,7 tỉ đồng năm 1985, tăng lên 52,9 tỉ đồng năm 1990 đạt 103,4 tỉ đồng năm 1995. Tính bình quân, thời kỳ 1986 - 1990, chỉ số phát triển công nghiệp tăng 5,9%/năm; thời kỳ 1991 - 1995 tăng 13,7%/năm, gấp 2,3 lần thời kỳ 1986 - 19907.

Bảng 43: Danh mục các ngành ưu tiên từ Đại hội III đến Đại hội VII của Đảng

bảng 43

Nguồn: Tổng hợp số liệu của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ III, IV, V, VI, VII của Đảng.

Dung Quất 1995 Thủ tướng Văn Kiệt xem xét quy hoạch tổng thể dự án xây dựng thành phố Vạn Tường Khu công nghiệp lọc hóa dầu Dung Quất, tháng 7/1995 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Về sản phẩm, các sản phẩm công nghiệp chủ yếu sức cạnh tranh tiêu thụ tốt hơn. Nhiều mặt hàng chế biến đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước xuất khẩu tăng dần như dệt may, da giày, một số sản phẩm khí, điện tử, điện gia dụng, đồ gỗ, quạt điện. Đặc biệt, ta đã bắt đầu sản phẩm dầu thô với sản lượng 41 nghìn tấn năm 1986, năm 1987 tăng gấp 7 lần, đạt 280 nghìn tấn; năm 1988 688 nghìn tấn; từ năm 1989, sản lượng dầu thô khai thác được tính bằng đơn vị triệu tấn: 1,52 triệu tấn. Các sản phẩm công nghiệp nhìn chung đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, xuất khẩu phục vụ sản xuất, nhất sản xuất nông nghiệp.

Về cấu, tốc độ tăng trưởng cao của công nghiệp thúc đẩy chuyển dịch cấu chung của nền kinh tế. Sự đóng góp của công nghiệp tiến sát ngưỡng chỉ tiêu đề ra trong Chiến lược ổn định phát triển kinh tế - hội đến năm 2000.

Thực tế, sản xuất công nghiệp giai đoạn 1991 - 1995 tăng trưởng ấn tượng, bình quân 13,7%/năm, nhưng đây cũng những năm đầu của thời kỳ đổi mới, các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển, “bung” ra rất mạnh, song chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ. Nếu năm 1986, dịch vụ chỉ chiếm 16,1% trong GDP (do kinh tế nhân chưa “bung” ra), đến năm 1990 đã đạt 37,7%, năm 1995 đạt 44,07%.

bảng 44

bảng 45

cấu các thành phần kinh tế trong sản xuất công nghiệp cũng sự dịch chuyển đáng kể. Bên cạnh kinh tế nhân trong nước, năm 1987, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Luật đầu nước ngoài tại Việt Nam; đã thu hút tạo ra một lực lượng doanh nghiệp FDI hùng hậu về vốn kỹ thuật, cùng với kinh tế nhân trong nước làm thay đổi cấu giá trị sản xuất công nghiệp của kinh tế quốc doanh.

Giá trị sản xuất trong khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm dần về tỷ trọng, từ 56,5% năm 1985 xuống 50,4% năm 1995. Điều này không nghĩa sản xuất của doanh nghiệp nhà nước co lại, biểu hiện của sự “bung” ra của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Khu vực kinh tế nhân chiếm tỷ trọng khá cao trong những năm đầu đổi mới, nhưng sau khi sự tham gia của khu vực FDI đã giảm mạnh về tỷ trọng, từ 41,4% năm 1990 xuống còn 24,6% năm 1995. Riêng khu vực FDI từ khi xuất hiện đã liên tục tăng trưởng mức cao, bình quân trên 23%/năm giai đoạn 1991 - 1995, đến năm 1995 đã vượt kinh tế nhân trong nước, chiếm 25,1% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. Khu vực kinh tế này ngày càng những đóng góp quan trọng vào sản xuất công nghiệp.

bảng 46

bảng 47

Mặc vậy, xét về tốc độ tăng trưởng, khu vực nhà nước nhân trong nước sự tăng trưởng đồng đều hơn trong suốt giai đoạn 1991 - 1995, bình quân trên 10%/năm, trong khi khu vực FDI tăng tốc mạnh những năm 1991, 1992 với trên 40%, sau đó giảm xuống trên 10% những năm 1993, 1994 xuống dưới 10% năm 1995.

Hoạt động của khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh rất đa dạng, tập trung chủ yếu vào các mặt hàng phục vụ sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng thực phẩm, góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu về lương thực, thực phẩm hàng tiêu dùng Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đề ra. Những sản phẩm các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đóng góp nhiều nhất cho công nghiệp bao gồm: quần áo may sẵn; giày, dép da, giày vải; gỗ xẻ; chiếu cói; thảm đay; vải màn sợi bông; khăn mặt, khăn tay; chè chế biến; gạo, ngô xay xát; dầu thực phẩm; sứ công nghiệp; nông cụ cầm tay; xe cải tiến; máy tuốt lúa không động cơ; quạt điện...

Sản xuất công nghiệp tăng mạnh, chuyển dịch sang đầu sản xuất hàng công nghiệp chế biến, phù hợp với xu hướng thị trường định hướng công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Điều này thể hiện trong cấu các mặt hàng xuất khẩu.

bảng 48

Bảng 50 cho thấy tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu tăng nhanh, trong khi hàng nông, lâm, thủy sản mặc kim ngạch tuyệt đối tăng nhưng tỷ trọng giảm 11% trong 10 năm.

Trong những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới, do hậu quả nặng nề nhiều năm của chế bao cấp, nên khi thực sự chuyển sang kinh doanh trên thị trường, nhiều nghiệp công nghiệp quốc doanh lần đầu tiên phải đối mặt với những thử thách gay gắt: vốn liếng thiếu hụt, hàng hóa đọng, lao động dôi dư, sản xuất đình đốn, không ít nghiệp phá sản... Nhưng, với bản lĩnh kiên cường, nhiều nghiệp đã phấn đấu vượt qua cơn khủng hoảng về thị trường tiêu thụ để vực dậy vào cuối năm 1989. Trong sự cạnh tranh đó, nhiều doanh nghiệp quốc doanh ngoài quốc doanh năng động, sáng tạo, phát triển tốt đã tạo nên bức tranh đa dạng với nhiều điểm sáng, góp phần tạo nên một cấu kinh tế mới, đặt niềm tin vững chắc vào sự phát triển ổn định của một nền kinh tế sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, điển hình như Nhà máy Bột ngọt Tân Bình (VIFON), Nhà máy khí Quang Trung (Ninh Bình), Nhà máy Bánh kẹo Hải Hà, Nhà máy Dệt kim Đông Xuân, Công ty May Việt Tiến, Liên hiệp Thực phẩm vi sinh Nội, Công ty Cổ phần Việt Nam Kỹ nghệ Súc sản (VISSAN),...

Nền công nghiệp Việt Nam trong 10 năm đổi mới (1986 - 1995) đã bước đầu hình thành một cấu công nghiệp tương đối hoàn chỉnh, sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, đặc biệt công nghiệp gia đình đã hình thành bước đầu phát triển. Công nghiệp hóa đã góp phần làm biến đổi bộ mặt đất nước. Các nhà máy đã mọc lên khắp các địa phương, kể cả miền núi, nơi trước đây chưa hề biết công nghiệp gì. Trên đồng ruộng đã xuất hiện hàng vạn cây số đường dây điện cao thế, hàng nghìn trạm bơm thủy lợi, điện đã được các gia đình sử dụng phổ biến trong sản xuất sinh hoạt. Công nghiệp nặng đã chế tạo được máy động lực, máy công cụ, thiết bị lẻ một số thiết bị toàn bộ cỡ nhỏ trang bị cho các ngành kinh tế quốc dân. Công nghiệp nhẹ đã sản xuất được nhiều mặt hàng tiêu dùng phục vụ cho đời sống xuất khẩu. Một đội ngũ lao động, công nhân cán bộ khoa học - kỹ thuật công nghiệp trên 3 triệu người đã được đào tạo, bồi dưỡng khá tốt...

Các ngành công nghiệp đã góp phần ổn định nâng cao đời sống nhân dân, phát huy tác dụng đối với các ngành kinh tế quốc dân, đặc biệt đối với nông nghiệp. Ngành khí đã hàng chục mặt hàng phục vụ nông nghiệp. Hằng năm, ngành Năng lượng đã dành cho nông nghiệp hàng triệu kilôoátgiờ điện hàng triệu tấn than. Ngành Hóa chất đã đưa về đồng ruộng hàng triệu tấn phân hóa học. Các ngành công nghiệp nhẹ cũng đã cung cấp cho nông dân những mặt hàng thiết yếu về ăn, mặc, ở, tiêu dùng, đi lại, học tập, chữa bệnh... Ngoài ra, nhiều nghiệp chế biến nông sản được xây dựng, góp phần mở rộng giá trị sử dụng nâng cao giá trị của hàng hóa nông sản.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.355.

2. Bộ Công Thương: Ngành Công Thương Việt Nam sau 25 năm đổi mới (Lưu hành nội bộ), Nội, 2012, tr.17.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.91.

4, 5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.135, 164, 163.

7. Xem Tổng cục Thống kê: Công nghiệp Việt Nam 20 năm đổi mới phát triển, Sđd, tr.85.

II- CÔNG NGHIỆP

Xi măng Hà Tiên

Từ năm 1985, Nhà máy Liên hợp Ximăng Hà Tiên được tiếp tục mở rộng theo công nghệ hiện đại của Pháp; đến năm 1991, dây chuyền sản xuất clinker theo phương pháp khô của Nhà máy được hình thành (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Dung Quất 1995

Thủ tướng Võ Văn Kiệt xem xét quy hoạch tổng thể dự án xây dựng thành phố Vạn Tường và Khu công nghiệp lọc hóa dầu Dung Quất, tháng 7/1995 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

dòng khí 1995

Lễ đón dòng khí đầu tiên vào bờ, ngày 17/4/1995 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

2. Cải tiến quản lý công nghiệp

Những năm 1986 - 1990 là giai đoạn giao thời giữa hai cơ chế cũ và mới. Từng bộ phận của cơ chế cũ được xóa bỏ, từng bước hình thành cơ chế mới. Điều đó đã tạo ra động lực mới cho sự tăng trưởng của nền kinh tế cũng như sản xuất công nghiệp trong nửa đầu thập kỷ 1990. Sự đổi mới trong giai đoạn này chủ yếu là từng bước mở rộng quyền tự chủ cho doanh nghiệp nhà nước đi đôi với khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần.

sản xuất giấy Sản xuất giấy xuất khẩu tại Xí nghiệp Liên hợp giấy Vĩnh Phú (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Trên tinh thần đó, nhiều cơ chế, chính sách mới được xác lập, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển lực lượng sản xuất và điều chỉnh có hiệu quả cơ cấu kinh tế, cơ cấu công nghiệp. Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành các chính sách đổi mới kế hoạch hóa và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đối với xí nghiệp quốc doanh đã giao quyền tự chủ cho các xí nghiệp quốc doanh, xóa bỏ hệ thống chỉ tiêu kế hoạch, kể cả chỉ tiêu thu mua công nghiệp, chỉ để lại duy nhất hai chỉ tiêu là giá trị sản lượng và các khoản nộp ngân sách. Ngân sách cũng đã khắc phục được những bất cập của Quyết định số 76/HĐBT ngày 26/6/1986 của Hội đồng Bộ trưởng về việc ban hành các bản quy định tạm thời về bảo đảm quyền tự chủ sản xuất - kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở. Theo Quyết định số 76/HĐBT, mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh - xã hội của xí nghiệp phải được phản ánh trong một kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính - xã hội thống nhất theo kế hoạch 5 năm và kế hoạch hằng năm. Các đơn vị sản xuất quốc doanh phải lấy các định mức kinh tế - kỹ thuật được cấp có thẩm quyền quy định làm căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch, xét duyệt và hoàn thành kế hoạch. Kế hoạch toàn diện của xí nghiệp phải bao gồm các bộ phận kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; vật tư - kỹ thuật, vận tải; lao động, tiền lương; đầu tư xây dựng cơ bản; khoa học - kỹ thuật; giá thành; tài chính, tín dụng; đời sống xã hội,... được thể hiện bằng hệ thống các chỉ tiêu hiện vật và giá trị. Đối với những sản phẩm chủ yếu quy định trong nhiệm vụ của xí nghiệp và thuộc danh mục sản phẩm trọng yếu cho nhu cầu sản xuất, đời sống, quốc phòng và xuất khẩu, thì xí nghiệp phải đạt kế hoạch sản xuất theo yêu cầu của Nhà nước, Nhà nước giao nhiệm vụ sản xuất và chỉ định các tổ chức tiêu thụ, xí nghiệp cùng các tổ chức tiêu thụ được chỉ định ký hợp đồng kinh tế, xác định quy cách, chủng loại và cơ cấu mặt hàng cụ thể, thời hạn giao hàng. Ngay cả với các sản phẩm không thuộc chỉ tiêu pháp lệnh được giao, nếu xí nghiệp sản xuất bằng các nguồn vật tư tự cân đối nhưng cũng phải đăng ký mặt hàng với ngành chủ quản và báo cáo cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp. Sản phẩm do xí nghiệp sản xuất thêm phải tiêu thụ thông qua hợp đồng kinh tế ký kết với tổ chức kinh doanh vật tư hoặc thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, trước hết các tổ chức quốc doanh.

Từ khi có Quyết định số 217/HĐBT, các chỉ tiêu, kế hoạch theo Quyết định số 76/HĐBT được bãi bỏ. Xí nghiệp có quyền tự chủ xây dựng và thực hiện kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của mình, có quyền mở rộng các hoạt động giao hoặc nhận gia công cho các đơn vị khác, tổ chức dịch vụ kỹ thuật, bảo hành, sửa chữa cho các sản phẩm của mình cũng như cung ứng linh kiện thay thế cho sản phẩm do xí nghiệp làm ra. Xí nghiệp chỉ thực hiện nhiệm vụ sản xuất những sản phẩm với số lượng tương ứng với phần vật tư mà Nhà nước cung ứng, ngoài ra, sản xuất cái gì, bán cho ai hoàn toàn thuộc quyền quyết định của xí nghiệp.

Cùng với việc đổi mới kinh tế quốc doanh, Nhà nước có nhiều chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Ngày 29/12/1987, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được thông qua. Đây được coi là bước ngoặt lịch sử, là văn bản pháp lý quan trọng nhất chính thức hóa việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Các quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản và thu nhập hợp pháp của đối tác nước ngoài được Nhà nước bảo hộ, khẳng định trong Luật: “Trong quá trình đầu tư vào Việt Nam, vốn và tài sản của các tổ chức, cá nhân nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hóa”.

Luật cũng cho phép các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam được chuyển ra nước ngoài lợi nhuận thu được trong quá trình kinh doanh, những khoản tiền trả cho việc cung cấp kỹ thuật hoặc dịch vụ, tiền gốc và lãi của các khoản cho vay trong quá trình hoạt động, vốn đầu tư và các khoản tiền, tài sản khác.

Một điểm nhấn khác của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 là cho phép nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp sở hữu 100% vốn. Điều khoản này thể hiện cam kết Việt Nam coi trọng lợi ích của nhà đầu tư. Đây cũng là nội dung hấp dẫn nhất bởi lúc đó, các nước có nền kinh tế mở hơn như: Thái Lan, Inđônêxia và các nước trong khu vực cũng chưa có loại hình doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.

Năm 1988 - năm đầu thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã cấp phép cho 37 dự án, với tổng vốn đăng ký 366 triệu USD; năm 1989 cấp phép cho 70 dự án, số vốn 539 triệu USD, tăng 89,2% về số dự án và 47,3% về vốn đăng ký; năm 1990 cấp phép cho 111 dự án, tổng vốn đăng ký 803 triệu USD, tương đương với số dự án và bằng 88% số vốn của hai năm 1988, 1989 cộng lại.

xưởng dệt Xưởng dệt PP, PE của Công ty Caps Texvina (Khu công nghiệp Thụy Vân, Phú Thọ), 100% vốn đầu tư của Hàn Quốc (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Đối với kinh tế ngoài quốc doanh trong nước, năm 1988 có hai nghị định về kinh tế tư nhân và kinh tế gia đình được ban hành. Nghị định số 27/HĐBT ngày 09/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành bản quy định về chính sách đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải. Trong đó, Nhà nước công nhận sự tồn tại và các tác dụng tích cực lâu dài của các thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân của Việt Nam; tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế này hoạt động, phát triển trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải với quy mô, ngành nghề thích hợp. Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản và thu nhập hợp pháp của các đơn vị kinh tế và của công dân thuộc các thành phần kinh tế này. Mọi hành vi xâm phạm các quyền đó đều bị xử lý theo pháp luật. Doanh nghiệp tư nhân có quyền dùng ngoại tệ thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mình để hợp đồng với tổ chức xuất, nhập khẩu của Nhà nước đặt mua nguyên liệu, vật tư, thiết bị từ nước ngoài; nhận vật tư, thiết bị, ngoại tệ của thân nhân ở nước ngoài gửi về, không hạn chế về số lượng và được ưu đãi về chính sách thuế; được quyền bán vàng cho ngân hàng lấy ngoại tệ. Đây là điểm khá cởi mở ở thời điểm đó, bởi hơn một năm sau, đến tháng 5/1989, Hội đồng Bộ trưởng mới cho phép tư nhân được tự do kinh doanh vàng, bạc, đá quý. Doanh nghiệp tư nhân cũng được quyền ký gửi vàng để vay ngoại tệ nhập khẩu vật tư, thiết bị cho sản xuất; tự do tiêu thụ các sản phẩm ngoài hợp đồng mua vật tư - bán sản phẩm, hoặc gia công với các tổ chức kinh doanh của Nhà nước...

hộ kinh tế Tổng Bí thư Đỗ Mười thăm một hộ làm kinh tế giỏi ở thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, tháng 9/1994 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Ngày 09/3/1988, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 29/HĐBT ban hành bản quy định về chính sách đối với kinh tế gia đình trong hoạt động sản xuất và dịch vụ sản xuất. Trong đó, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong các chính sách kinh tế, nhằm khuyến khích kinh tế gia đình phát triển trong các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ sản xuất.

Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản và thu nhập hợp pháp của những người làm kinh tế gia đình. Mọi hành vi xâm phạm các quyền đó đều bị xử lý theo pháp luật. Những người làm kinh tế gia đình trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải không phải xin cấp đăng ký kinh doanh và được thực hiện nhiều quyền sau đây:

- Mua nguyên liệu trong nước để sản xuất, mua vật tư, thiết bị lẻ của Nhà nước.

- Được nhận gia công đặt hàng của các tổ chức kinh doanh của Nhà nước (công ty vật tư, xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, công ty thương nghiệp), các đơn vị kinh tế tập thể và thành phần kinh tế khác.

- Tự do tiêu thụ các sản phẩm ngoài mức hợp đồng mua vật tư, bán sản phẩm hoặc gia công đặt hàng với các tổ chức kinh doanh của Nhà nước, với các đơn vị kinh tế tập thể.

- Tự do tiêu thụ các sản phẩm khác làm ra theo chính sách lưu thông hàng hóa của Nhà nước.

- Ký hợp đồng với bất cứ đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu hoặc đơn vị kinh doanh xuất, nhập khẩu nào để bán các sản phẩm xuất khẩu do gia đình làm ra, mua lại vật tư để tái sản xuất, kể cả vật tư nhập khẩu.

- Tự chọn ngân hàng để mở tài khoản, được rút tiền mặt từ tài khoản của mình ở ngân hàng; được vay vốn của ngân hàng để phát triển kinh tế gia đình theo các quy định của ngân hàng; được nhận ngoại tệ của người thân ở nước ngoài gửi về qua Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam để phục vụ sản xuất.

- Được miễn mọi loại thuế kinh doanh.

Tiếp đó, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 15/7/1988 về đổi mới chính sách và cơ chế quản lý đối với các cơ sở sản xuất thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Trong đó, Bộ Chính trị ghi nhận lực lượng sản xuất ngoài quốc doanh đã “cung cấp một phần quan trọng sản phẩm tiêu dùng, sản phẩm xuất khẩu và đáp ứng một phần đáng kể tư liệu sản xuất cho nhiều ngành kinh tế. Gần 2 triệu lao động chuyên sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, làm công nghiệp xây dựng, vận tải và hàng chục vạn lao động tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp ở nông thôn đã tạo ra 60% giá trị công nghiệp địa phương”1. Đây là bước tiến căn bản cho thấy Đảng đã nhận ra rằng, khi kinh tế ngoài quốc doanh không được thừa nhận, nó vẫn phát triển dưới nhiều hình thức, vừa không khai thác hết được lợi ích cho nền kinh tế, vừa không quản lý được, làm thất thu ngân sách nhà nước, thậm chí có thể làm biến chất những cán bộ quản lý lợi dụng sự không thừa nhận của pháp luật để ăn chia với các hoạt động kinh tế ngầm. Từ đó, Đảng ta kịp thời có chủ trương: “Nhà nước có chính sách và biện pháp cụ thể bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các cơ sở sản xuất thuộc tất cả các thành phần kinh tế”2; “bằng luật pháp và các chính sách quản lý kinh tế cụ thể, nhất là các chính sách thuế đúng đắn, Nhà nước tác động tích cực vào quá trình hình thành và phát triển các ngành, nghề cần thiết”3; “Nhà nước bảo đảm quyền tự quản của các cơ sở sản xuất tập thể, công tư hợp doanh, cá thể, tiểu chủ và của các xí nghiệp tư bản tư doanh; xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm, chức năng của hệ thống cơ quan chính quyền các cấp, của các cơ quan quản lý ngành kinh tế kỹ thuật cũng như của các cơ quan có liên quan vừa bảo đảm tôn trọng các nguyên tắc tự quản của các cơ sở sản xuất, vừa bảo đảm sự kiểm tra, kiểm soát đúng đắn của Nhà nước”4.

Năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành hai luật góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tư nhân. Luật công ty, cho phép mọi công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế, tổ chức xã hội có quyền góp vốn đầu tư hoặc tham gia thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần; Luật doanh nghiệp tư nhân, với sự công nhận của Nhà nước: “sự tồn tại lâu dài và phát triển của doanh nghiệp tư nhân, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của doanh nghiệp tư nhân với các doanh nghiệp khác và tính sinh lợi hợp pháp của việc kinh doanh. Trong khuôn khổ pháp luật, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh”.

Sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp FDI cũng đặt ra bài toán phát triển doanh nghiệp nhà nước theo hướng thúc đẩy tích tụ và tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng thời thực hiện chủ trương xóa bỏ dần chế độ bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự phân biệt doanh nghiệp Trung ương, doanh nghiệp địa phương cũng như tăng cường vai trò quản lý nhà nước. Đổi mới xí nghiệp quốc doanh (sau này gọi là doanh nghiệp nhà nước) là một trong những nội dung quan trọng của quá trình đổi mới kinh tế được thực hiện từng bước với các biện pháp thích hợp.

Năm 1994, Chính phủ có hai quyết định thành lập Tổng Công ty 90 và Tổng Công ty 91. Quyết định số 90-TTg ngày 07/3/1994 về tiếp tục sắp xếp doanh nghiệp nhà nước nhằm sắp xếp, thành lập và đăng ký lại các liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty (gọi chung là tổng công ty). Các tổng công ty nhà nước được xem xét thành lập và đăng ký lại khi có đủ các điều kiện: có ít nhất 5 đơn vị thành viên quan hệ với nhau về công nghệ, tài chính, chương trình đầu tư phát triển, dịch vụ về cung ứng, vận chuyển, tiêu thụ, thông tin, đào tạo; toàn tổng công ty có vốn pháp định trên 500 tỉ đồng, đối với một số tổng công ty trong những ngành đặc thù thì vốn pháp định có thể thấp hơn nhưng không được ít hơn 100 tỉ đồng.

Quyết định số 90-TTg cũng nêu rõ 3 điều kiện thành lập mới doanh nghiệp nhà nước. Thứ nhất, chỉ thành lập mới những doanh nghiệp nhà nước trong những ngành then chốt, những lĩnh vực mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, những lĩnh vực có nhu cầu của thị trường nhưng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa có điều kiện đầu tư phát triển. Dành ưu tiên các nguồn vốn cho yêu cầu đổi mới công nghệ và mở rộng năng lực của những doanh nghiệp hiện đang hoạt động, nhất là những doanh nghiệp nhà nước có yêu cầu phát triển. Thứ hai, không thành lập thêm những doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều năng lực kinh doanh cùng ngành đang hoạt động cùng một địa bàn. Thứ ba, kể từ tháng 3/1994, tất cả các doanh nghiệp nhà nước thành lập mới phải có mức vốn pháp định ít nhất bằng 5 lần mức vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn cùng ngành nghề.

Quyết định số 91-TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh, nêu nguyên tắc: Tập đoàn phải có 7 doanh nghiệp thành viên trở lên và có vốn pháp định ít nhất là 1.000 tỉ đồng; tập đoàn có thể hoạt động kinh doanh đa ngành, song nhất thiết phải có định hướng ngành chủ đạo, mỗi tập đoàn được tổ chức công ty tài chính để huy động vốn, điều hòa vốn phục vụ cho yêu cầu phát triển của nội bộ tập đoàn hoặc liên doanh với các đơn vị kinh tế khác. Vào thời điểm năm 1994, tập đoàn kinh doanh là hình thức tổ chức doanh nghiệp còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Vì vậy, các nhóm doanh nghiệp được thành lập theo Quyết định số 91-TTg chưa được gọi là tập đoàn ngay, mà được gọi chung là các Tổng Công ty 91. Đến năm 2006, một số Tổng Công ty 91 bắt đầu chuyển thành các tập đoàn, số còn lại vẫn giữ tên tổng công ty.

Danh sách Tổng Công ty 91

1. Tập đoàn Dệt May Việt Nam

2. Tập đoàn Bảo Việt

3. Tập đoàn Điện lực Việt Nam

4. Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam

3. Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam

6. Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam

7. Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam

8. Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam

9. Tập đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt Nam

10. Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội

11. Tổng Công ty Tàu thủy Việt Nam

12. Tổng Công ty Sông Đà

13. Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam

14. Tổng Công ty Thép Việt Nam

15. Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam

16. Tổng Công ty Lương thực miền Bắc

17. Tổng Công ty Lương thực miền Nam

18. Tổng Công ty Giấy Việt Nam

19. Tổng Công ty Hàng không Việt Nam

20. Tổng Công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam

21. Tổng Công ty Cà phê Việt Nam

22. Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam


1, 2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.49, tr.319-320, 325, 322, 325-326.

Danh mục

Tùy chỉnh