2. Vượt qua giai đoạn suy thoái

Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng khẳng định: đường lối xây dựng nền kinh tế hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới nước ta “Đẩy mạnh công nghiệp hóa hội chủ nghĩa, xây dựng sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hội chủ nghĩa”1. Trên sở đó, phương hướng nhiệm vụ của ngành Công Thương trong kế hoạch phát triển công nghiệp 5 năm 1976 - 1980 được cụ thể hóa chỉ rõ.

Đối với một số phân ngành chủ chốt trong công nghiệp nặng:

khí: Nhanh chóng xây dựng lớn mạnh để từng bước cung cấp máy móc, công cụ, phụ tùng, thiết bị lẻ thiết bị toàn bộ cho các ngành kinh tế quốc dân. Trong kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, hoàn thành sớm quy hoạch khí trong cả nước, ổn định phương hướng sản xuất cho từng nghiệp, trên sở thực hiện chuyên môn hóa đẩy mạnh hiệp tác hóa giữa khí chung khí chuyên ngành, khí quốc phòng khí dân dụng, khí quốc doanh khí hợp tác xã, khí chế tạo khí sửa chữa. Sắp xếp, cải tạo mở rộng những nghiệp hiện để khai thác hết tiềm lực. Đồng thời tập trung sức xây dựng một số nghiệp mới quan trọng nhằm hoàn chỉnh từng bước ngành khí, xây dựng lực lượng khí cho các ngành quan trọng các địa phương. Cung cấp đủ công cụ thường công cụ cải tiến với chất lượng tốt; bảo đảm phần lớn nhu cầu sửa chữa phụ tùng; sản xuất nhiều máy móc, thiết bị đáp ứng từng phần nhu cầu của các ngành kinh tế.

Điện Việt Trì

Nhà máy điện Việt Trì lắp thêm 7, 8 ống khói 2 cao 60 m trong đợt mở rộng quy năm 1978 (Ảnh: Trần Nguyên Hợi)

Năng lượng: Phát triển sớm năng lượng, đón trước được nhu cầu; xúc tiến nghiên cứu để khai thác sử dụng được nhiều dạng năng lượng.

Ngành Điện: Phương hướng bản kết hợp thủy điện với nhiệt điện; hết sức coi trọng thủy điện, kết hợp quy lớn với quy vừa nhỏ. Xây dựng lưới điện cân đối với nguồn điện. Mở rộng một số nhà máy điện xây dựng một số nhà máy mới, chú trọng xây dựng nhiều trạm thủy điện nhỏ trung du miền núi, nhất Tây Nguyên.

Ngành Than: Đẩy mạnh sản xuất than để đáp ứng nhu cầu trước mắt tăng nhanh sản lượng trong kế hoạch sau. Triệt để phát huy các mỏ cũ, xây dựng nhanh nhiều mỏ mới. Chú trọng phát triển công nghiệp chế biến than; tăng cường lực lượng khí để chế tạo được từng phần thiết bị phụ tùng khai thác hầm lộ thiên.

Ngành Dầu khí: Triển khai mạnh việc tìm kiếm, thăm dầu mỏ khí đốt trên đất liền ngoài biển; tạo điều kiện xây dựng nhanh công nghiệp dầu khí. Khẩn trương chuẩn bị để sớm khởi công xây dựng sở lọc dầu chế biến dầu.

Luyện kim: Phát triển cân đối từng bước với sản xuất khí, bảo đảm được yêu cầu xây dựng bản. Tiến lên sản xuất cho được một khối lượng lớn kim loại đen, kim loại màu một phần kim loại quý, hiếm. Hoàn thành xây dựng mở rộng các sở luyện thép hiện có, xây dựng nhiều thép điện trong các nhà máy khí, chuẩn bị xây dựng sở luyện thép cỡ lớn. Mở rộng sản xuất thiếc, tạo điều kiện khởi công các sở luyện kim màu khác. Tập trung làm tốt công tác tìm kiếm những nguồn quặng mới.

Hóa chất: Phát triển toàn diện hóa chất hóa chất hữu cơ. Kết hợp quy lớn với quy vừa nhỏ; chú trọng liên hợp sản xuất, hình thành những khu công nghiệp hóa chất hợp lý, vừa đạt hiệu quả kinh tế cao, vừa bảo vệ được môi trường. Phát triển phân bón hóa học các hóa chất khác phục vụ sản xuất nông nghiệp. Sớm khởi công xây dựng sở sợi nhân tạo, các nhà máy xút một số nhà máy hóa chất bản. Phát triển hóa dược đáp ứng nhu cầu về thuốc chữa bệnh của nhân dân; tích cực chế biến các sản phẩm từ cao su, hương liệu, tinh dầu...

Đối với công nghiệp nhẹ

Nhiệm vụ bản sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ đời sống vật chất văn hóa của nhân dân; bảo đảm nâng cao thu nhập thực tế của người lao động; tạo điều kiện cho Nhà nước đẩy mạnh phân công lao động hội; cung cấp nhiều hàng hóa cho xuất khẩu. Tận dụng mọi năng lực sản xuất, mọi hình thức tổ chức để sản xuất được ngày càng nhiều sản phẩm với giá thành hạ, chủng loại phong phú, chất lượng cao, sớm chấm dứt tình trạng thiếu hàng tiêu dùng thiết yếu.

Trước hết, tập trung sức phát triển những ngành thuộc nhu cầu đời sống bản, gồm: dệt, da, may mặc, giấy, đồ gỗ, đồ dùng gia đình, đồ dùng học sinh, dụng cụ y tế, dụng cụ nhà trẻ, thể dục thể thao, văn hóa phẩm. Trong kế hoạch 5 năm, phấn đấu bảo đảm cho mọi gia đình đều mức vải mặc vừa phải, hàng tiêu dùng thông dụng.

Đối với những sở sản xuất hàng xuất khẩu, đầu trang bị hiện đại, cung cấp đủ nguyên liệu, tăng cường quản kinh tế, kỹ thuật, bảo đảm làm ra sản phẩm đạt trình độ quốc tế.

Trước mắt, cần nhanh chóng nắm chắc lực lượng công nghiệp nhẹ trong cả nước, tổ chức lại, phân công phối hợp theo hướng sản xuất lớn hội chủ nghĩa, kết hợp quy lớn với quy vừa nhỏ, trung ương với địa phương, quốc doanh với tập thể thể. Cải tiến kỹ thuật mở rộng năng lực sản xuất của những sở sẵn có, đồng thời cố gắng xây dựng thêm một số sở mới.

Đối với thủ công nghiệp tiểu công nghiệp

Ra sức phục hồi phát triển thủ công nghiệp tiểu công nghiệp, chú ý những nghề thủ công cổ truyền mỹ nghệ. Trong đó, quan trọng nhất bằng mọi cách sớm tạo ra nguồn nguyên liệu vững chắc trong nước, đồng thời kế hoạch nhập khẩu một số nguyên liệu cần thiết để tận dụng lực lượng lao động công suất thiết bị, bảo đảm nhu cầu thiết yếu của nhân dân tạo thêm hàng xuất khẩu.

Triển khai các nhiệm vụ trọng tâm nêu trên, các bộ quản ngành Công Thương đã nghiên cứu tổ chức lại sản xuất công nghiệp, phân bố lại lực lượng sản xuất, tổ chức nghiên cứu quy hoạch phát triển dài hạn của các phân ngành công nghiệp, lập kế hoạch, tham mưu đề xuất đầu nhiều công trình công nghiệp quan trọng. Trong 10 năm 1976 - 1985, tỷ trọng đầu vào ngành Công nghiệp chiếm trên 40% tổng vốn đầu vào khu vực sản xuất vật chất, tốc độ tăng đầu cho công nghiệp cao hơn mức tăng đầu bình quân của toàn bộ khu vực sản xuất vật chất. Trong đó, đầu cho nhóm A trên 70% nhóm B gần 30%.

Trong thời kỳ này, nhiều công trình tương đối lớn được xây dựng như các nhà máy Sợi Nội, Vinh, Huế, Nha Trang; các nhà máy Đường Lam Sơn, La Ngà; các nhà máy Giấy Bãi Bằng, Tân Mai... Giá trị tài sản ngành công nghiệp được tăng lên đáng kể: giai đoạn 1976 - 1980 tăng thêm 13 tỉ đồng, bằng 35% giá trị tài sản cố định mới tăng thêm thuộc khu vực sản xuất vật chất; giai đoạn 1981 - 1985 tăng 18,6 tỉ đồng, bằng 440% tổng giá trị tài sản cố định thuộc khu vực này2.

Do kết quả cải tạo hội chủ nghĩa đối với công nghiệp bản doanh miền Nam đầu xây dựng mới của Nhà nước, số lượng sở công nghiệp quốc doanh công hợp doanh trong cả nước đã tăng thêm đáng kể, hơn 1.000 sở trong vòng 10 năm, từ 2.021 nghiệp năm 1976 lên 2.627 nghiệp năm 1980 3.220 nghiệp năm 1985. Trong đó, chủ yếu các nghiệp nhóm A đã từ 1.076 năm 1976 tăng lên 1.458 năm 1980 1.851 sở năm 1985, nghiệp nhóm B đã từ 945 tăng lên 1.080 1.369 sở. Năm 1985 số nghiệp do trung ương quản 748 sở địa phương quản 2.472 sở. Ngành nhiều nghiệp nhất lương thực, thực phẩm, 634 sở, địa phương nhiều nghiệp nhất Hậu Giang, 164 sở.

Giấy Bãi Bằng

Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười cùng đại diện Vương quốc Thụy Điển cắt băng khánh thành Nhà máy Giấy Bãi Bằng, ngày 26/11/1982 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Nhà máy Giấy Bãi Bằng: Công trình hữu nghị Việt Nam - Thụy Điển

Bằng những nỗ lực lớn trong công tác ngoại giao của Chính phủ Việt Nam sự thiện chí, giúp đỡ của Chính phủ Thụy Điển, ngày 20/8/1974, dự án xây dựng một nhà máy sản xuất giấy bột giấy Bãi Bằng trị giá gần 2,7 tỷ cơron đã được kết.

Sau gần 8 năm khẩn trương xây dựng, ngày 26/11/1982, Nhà máy Giấy Bãi Bằng đã chính thức khánh thành.

Nhớ về những ngày đầu Nhà máy mới thành lập, Anh hùng Lao động Trần Ngọc Quế - Nguyên lãnh đạo Công ty Giấy Bãi Bằng chia sẻ: “Ngay sau khi khánh thành, Giấy Bãi Bằng đã nhanh chóng bước vào sản xuất. Bắt đầu từ đây, mỗi cán bộ, công nhân Nhà máy lại sát cánh cùng các chuyên gia, thực hiện chuyển giao kiến thức. Trong giai đoạn này, các chuyên gia Thụy Điển từ Tổng giám đốc đến trưởng ca quản người điều hành trực tiếp. Trước đó, đã nhiều đoàn được cử sang đào tạo tại Thụy Điển nhưng với tinh thần khiêm tốn, học hỏi khi trở về họ vẫn cùng đội ngũ cán bộ kỹ thuật lắng nghe tiếp thu kiến thức kinh nghiệm thực hành sản xuất từ các chuyên gia với mong muốn nhanh chóng làm chủ được các thiết bị công nghệ. Vào thời điểm ấy, mỗi cán bộ đảng viên của Nhà máy thực sự những người gương mẫu trong việc bám máy trực tiếp theo dõi vận hành các thiết bị trong dây chuyền sản xuất giấy bột giấy”.

Nguồn: Website của Tổng Công ty Giấy Việt Nam.

Trong 10 năm 1976 - 1985, sản xuất công nghiệp chia thành hai giai đoạn rệt.

Giai đoạn 1976 - 1980: kết quả sản xuất không tương xứng với sức lao động vốn đầu bỏ ra. Trong khi vốn đầu của Nhà nước, số nghiệp quốc doanh tăng đều qua các năm chiếm tỷ trọng cao nhất trong khu vực sản xuất vật chất thì giá trị tổng sản lượng công nghiệp mức độ tăng không tương xứng, tăng trong 3 năm đầu, lên cao nhất vào năm 1978, sau đó suy thoái trong 2 năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ II.

Do đó, tất cả các mục tiêu do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đề ra đều không đạt. Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu công nghiệp của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980): giá trị sản lượng khí đạt 80%; sản lượng điện đạt 3.680 triệu kWh, đạt 73,6%; than đạt 52%; khai thác gỗ tròn 1,577 triệu m3, đạt 45%; vải mặc 182 triệu mét, đạt 40,4%; đánh bắt biển 399 nghìn tấn, đạt 39,9%; giấy, bìa 48,3 nghìn tấn, đạt 37%; ximăng 641 nghìn tấn, đạt 32%; phân bón hóa học 367 nghìn tấn, đạt 28%; sản lượng thép 62,5 nghìn tấn, đạt 25%3.

bảng 35

bảng 36

bảng 37

Sản phẩm công nghiệp tính bình quân đầu người giai đoạn 1976 - 1980 cũng cho thấy bức tranh tương tự, sụt giảm vào những năm cuối kỳ của kế hoạch 5 năm.

Giai đoạn 1981 - 1985: Sản xuất công nghiệp vượt qua thời kỳ suy thoái khủng hoảng, bắt đầu bước phát triển đều đặn, ràng, năm sau cao hơn năm trước. Nếu trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980), giá trị tổng sản lượng công nghiệp cả nước tăng trong 3 năm đầu đạt giá trị cao nhất trong năm 1978 (64,1 tỉ đồng), sau đó giảm liên tục cho đến năm 1980 chỉ còn 55,7 tỉ đồng; thì sang kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981 - 1985), giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng liên tục từ năm 1981, đến năm 1985 đạt giá trị cao nhất (101,3 tỉ đồng) so với cả giai đoạn 1976 - 1985. Tốc độ tăng bình quân/năm trong kế hoạch 5 năm 1976 - 1980: 3,3%; tốc độ tăng bình quân/năm trong kế hoạch 5 năm 1981 - 1985: 13,37%, đã kéo tốc độ tăng bình quân/năm trong 10 năm 1976 - 1985 lên 8,2%.

Giai đoạn này, giá trị sản xuất công nghiệp sự phát triển liên tục, năm sau cao hơn năm trước cả công nghiệp quốc doanh ngoài quốc doanh. Xét về cấu, giai đoạn 1976 - 1980 sự khác biệt với giai đoạn 1981 - 1985. thể thấy, giai đoạn 1976 - 1980, công nghiệp quốc doanh chiếm trên 60%, công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm dưới 40%, đến giai đoạn 1981 - 1985, công nghiệp quốc doanh vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn, nhưng giảm xuống dưới 60%, trong khi công nghiệp ngoài quốc doanh vươn lên trên 40%. cấu giữa công nghiệp trung ương công nghiệp địa phương cũng sự thay đổi mạnh mẽ. Giai đoạn 1976 - 1980, công nghiệp trung ương chiếm trên 40% công nghiệp địa phương chiếm trên 50%; đến giai đoạn 1981 - 1985, khoảng cách này giãn rộng ra, công nghiệp trung ương giảm xuống dưới 40%, còn công nghiệp địa phương chiếm trên 60%.

Thành tựu những năm 1981 - 1985 kết quả của sự đầu sở vật chất trong suốt 10 năm, đặc biệt trong kế hoạch 5 năm lần thứ III đã “hoàn thành mấy trăm công trình tương đối lớn hàng nghìn công trình vừa nhỏ, trong đó một số sở quan trọng về điện, dầu khí, ximăng, khí, dệt, đường, thủy lợi, giao thông...”4, cộng hưởng với những cải cách quản kinh tế, tuy phần dặt, khởi đầu từ Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (năm 1979) mở ra những cải tiến quản trong khu vực công nghiệp theo Quyết định số 25-CP, 26-CP ngày 21/01/1981 của Hội đồng Chính phủ Quyết định số 146-HĐBT ngày 25/8/1982 của Hội đồng Bộ trưởng, đã phát huy mạnh mẽ quyền chủ động sản xuất - kinh doanh quyền tự chủ tài chính của nghiệp, làm cho các nghiệp quốc doanh trở nên năng động, sản xuất công nghiệp được “bung ra”, cấu công nghiệp được điều chỉnh theo hướng đẩy mạnh hơn các ngành Công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng.

bảng 38


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr. 524.

2. Xem Bộ Công nghiệp: 60 năm Công nghiệp Việt Nam, Nxb. Lao động, Nội, 2005, tr.103.

3. Xem Bộ Công Thương: lược Lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr. 197.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr. 348.

2. Vượt qua giai đoạn suy thoái

Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng khẳng định: đường lối xây dựng nền kinh tế hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới nước ta “Đẩy mạnh công nghiệp hóa hội chủ nghĩa, xây dựng sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hội chủ nghĩa”1. Trên sở đó, phương hướng nhiệm vụ của ngành Công Thương trong kế hoạch phát triển công nghiệp 5 năm 1976 - 1980 được cụ thể hóa chỉ rõ.

Đối với một số phân ngành chủ chốt trong công nghiệp nặng:

khí: Nhanh chóng xây dựng lớn mạnh để từng bước cung cấp máy móc, công cụ, phụ tùng, thiết bị lẻ thiết bị toàn bộ cho các ngành kinh tế quốc dân. Trong kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, hoàn thành sớm quy hoạch khí trong cả nước, ổn định phương hướng sản xuất cho từng nghiệp, trên sở thực hiện chuyên môn hóa đẩy mạnh hiệp tác hóa giữa khí chung khí chuyên ngành, khí quốc phòng khí dân dụng, khí quốc doanh khí hợp tác xã, khí chế tạo khí sửa chữa. Sắp xếp, cải tạo mở rộng những nghiệp hiện để khai thác hết tiềm lực. Đồng thời tập trung sức xây dựng một số nghiệp mới quan trọng nhằm hoàn chỉnh từng bước ngành khí, xây dựng lực lượng khí cho các ngành quan trọng các địa phương. Cung cấp đủ công cụ thường công cụ cải tiến với chất lượng tốt; bảo đảm phần lớn nhu cầu sửa chữa phụ tùng; sản xuất nhiều máy móc, thiết bị đáp ứng từng phần nhu cầu của các ngành kinh tế.

Điện Việt Trì

Nhà máy điện Việt Trì lắp thêm 7, 8 ống khói 2 cao 60 m trong đợt mở rộng quy năm 1978 (Ảnh: Trần Nguyên Hợi)

Năng lượng: Phát triển sớm năng lượng, đón trước được nhu cầu; xúc tiến nghiên cứu để khai thác sử dụng được nhiều dạng năng lượng.

Ngành Điện: Phương hướng bản kết hợp thủy điện với nhiệt điện; hết sức coi trọng thủy điện, kết hợp quy lớn với quy vừa nhỏ. Xây dựng lưới điện cân đối với nguồn điện. Mở rộng một số nhà máy điện xây dựng một số nhà máy mới, chú trọng xây dựng nhiều trạm thủy điện nhỏ trung du miền núi, nhất Tây Nguyên.

Ngành Than: Đẩy mạnh sản xuất than để đáp ứng nhu cầu trước mắt tăng nhanh sản lượng trong kế hoạch sau. Triệt để phát huy các mỏ cũ, xây dựng nhanh nhiều mỏ mới. Chú trọng phát triển công nghiệp chế biến than; tăng cường lực lượng khí để chế tạo được từng phần thiết bị phụ tùng khai thác hầm lộ thiên.

Ngành Dầu khí: Triển khai mạnh việc tìm kiếm, thăm dầu mỏ khí đốt trên đất liền ngoài biển; tạo điều kiện xây dựng nhanh công nghiệp dầu khí. Khẩn trương chuẩn bị để sớm khởi công xây dựng sở lọc dầu chế biến dầu.

Luyện kim: Phát triển cân đối từng bước với sản xuất khí, bảo đảm được yêu cầu xây dựng bản. Tiến lên sản xuất cho được một khối lượng lớn kim loại đen, kim loại màu một phần kim loại quý, hiếm. Hoàn thành xây dựng mở rộng các sở luyện thép hiện có, xây dựng nhiều thép điện trong các nhà máy khí, chuẩn bị xây dựng sở luyện thép cỡ lớn. Mở rộng sản xuất thiếc, tạo điều kiện khởi công các sở luyện kim màu khác. Tập trung làm tốt công tác tìm kiếm những nguồn quặng mới.

Hóa chất: Phát triển toàn diện hóa chất hóa chất hữu cơ. Kết hợp quy lớn với quy vừa nhỏ; chú trọng liên hợp sản xuất, hình thành những khu công nghiệp hóa chất hợp lý, vừa đạt hiệu quả kinh tế cao, vừa bảo vệ được môi trường. Phát triển phân bón hóa học các hóa chất khác phục vụ sản xuất nông nghiệp. Sớm khởi công xây dựng sở sợi nhân tạo, các nhà máy xút một số nhà máy hóa chất bản. Phát triển hóa dược đáp ứng nhu cầu về thuốc chữa bệnh của nhân dân; tích cực chế biến các sản phẩm từ cao su, hương liệu, tinh dầu...

Đối với công nghiệp nhẹ

Nhiệm vụ bản sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ đời sống vật chất văn hóa của nhân dân; bảo đảm nâng cao thu nhập thực tế của người lao động; tạo điều kiện cho Nhà nước đẩy mạnh phân công lao động hội; cung cấp nhiều hàng hóa cho xuất khẩu. Tận dụng mọi năng lực sản xuất, mọi hình thức tổ chức để sản xuất được ngày càng nhiều sản phẩm với giá thành hạ, chủng loại phong phú, chất lượng cao, sớm chấm dứt tình trạng thiếu hàng tiêu dùng thiết yếu.

Trước hết, tập trung sức phát triển những ngành thuộc nhu cầu đời sống bản, gồm: dệt, da, may mặc, giấy, đồ gỗ, đồ dùng gia đình, đồ dùng học sinh, dụng cụ y tế, dụng cụ nhà trẻ, thể dục thể thao, văn hóa phẩm. Trong kế hoạch 5 năm, phấn đấu bảo đảm cho mọi gia đình đều mức vải mặc vừa phải, hàng tiêu dùng thông dụng.

Đối với những sở sản xuất hàng xuất khẩu, đầu trang bị hiện đại, cung cấp đủ nguyên liệu, tăng cường quản kinh tế, kỹ thuật, bảo đảm làm ra sản phẩm đạt trình độ quốc tế.

Trước mắt, cần nhanh chóng nắm chắc lực lượng công nghiệp nhẹ trong cả nước, tổ chức lại, phân công phối hợp theo hướng sản xuất lớn hội chủ nghĩa, kết hợp quy lớn với quy vừa nhỏ, trung ương với địa phương, quốc doanh với tập thể thể. Cải tiến kỹ thuật mở rộng năng lực sản xuất của những sở sẵn có, đồng thời cố gắng xây dựng thêm một số sở mới.

Đối với thủ công nghiệp tiểu công nghiệp

Ra sức phục hồi phát triển thủ công nghiệp tiểu công nghiệp, chú ý những nghề thủ công cổ truyền mỹ nghệ. Trong đó, quan trọng nhất bằng mọi cách sớm tạo ra nguồn nguyên liệu vững chắc trong nước, đồng thời kế hoạch nhập khẩu một số nguyên liệu cần thiết để tận dụng lực lượng lao động công suất thiết bị, bảo đảm nhu cầu thiết yếu của nhân dân tạo thêm hàng xuất khẩu.

Triển khai các nhiệm vụ trọng tâm nêu trên, các bộ quản ngành Công Thương đã nghiên cứu tổ chức lại sản xuất công nghiệp, phân bố lại lực lượng sản xuất, tổ chức nghiên cứu quy hoạch phát triển dài hạn của các phân ngành công nghiệp, lập kế hoạch, tham mưu đề xuất đầu nhiều công trình công nghiệp quan trọng. Trong 10 năm 1976 - 1985, tỷ trọng đầu vào ngành Công nghiệp chiếm trên 40% tổng vốn đầu vào khu vực sản xuất vật chất, tốc độ tăng đầu cho công nghiệp cao hơn mức tăng đầu bình quân của toàn bộ khu vực sản xuất vật chất. Trong đó, đầu cho nhóm A trên 70% nhóm B gần 30%.

Trong thời kỳ này, nhiều công trình tương đối lớn được xây dựng như các nhà máy Sợi Nội, Vinh, Huế, Nha Trang; các nhà máy Đường Lam Sơn, La Ngà; các nhà máy Giấy Bãi Bằng, Tân Mai... Giá trị tài sản ngành công nghiệp được tăng lên đáng kể: giai đoạn 1976 - 1980 tăng thêm 13 tỉ đồng, bằng 35% giá trị tài sản cố định mới tăng thêm thuộc khu vực sản xuất vật chất; giai đoạn 1981 - 1985 tăng 18,6 tỉ đồng, bằng 440% tổng giá trị tài sản cố định thuộc khu vực này2.

Do kết quả cải tạo hội chủ nghĩa đối với công nghiệp bản doanh miền Nam đầu xây dựng mới của Nhà nước, số lượng sở công nghiệp quốc doanh công hợp doanh trong cả nước đã tăng thêm đáng kể, hơn 1.000 sở trong vòng 10 năm, từ 2.021 nghiệp năm 1976 lên 2.627 nghiệp năm 1980 3.220 nghiệp năm 1985. Trong đó, chủ yếu các nghiệp nhóm A đã từ 1.076 năm 1976 tăng lên 1.458 năm 1980 1.851 sở năm 1985, nghiệp nhóm B đã từ 945 tăng lên 1.080 1.369 sở. Năm 1985 số nghiệp do trung ương quản 748 sở địa phương quản 2.472 sở. Ngành nhiều nghiệp nhất lương thực, thực phẩm, 634 sở, địa phương nhiều nghiệp nhất Hậu Giang, 164 sở.

Giấy Bãi Bằng

Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười cùng đại diện Vương quốc Thụy Điển cắt băng khánh thành Nhà máy Giấy Bãi Bằng, ngày 26/11/1982 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Nhà máy Giấy Bãi Bằng: Công trình hữu nghị Việt Nam - Thụy Điển

Bằng những nỗ lực lớn trong công tác ngoại giao của Chính phủ Việt Nam sự thiện chí, giúp đỡ của Chính phủ Thụy Điển, ngày 20/8/1974, dự án xây dựng một nhà máy sản xuất giấy bột giấy Bãi Bằng trị giá gần 2,7 tỷ cơron đã được kết.

Sau gần 8 năm khẩn trương xây dựng, ngày 26/11/1982, Nhà máy Giấy Bãi Bằng đã chính thức khánh thành.

Nhớ về những ngày đầu Nhà máy mới thành lập, Anh hùng Lao động Trần Ngọc Quế - Nguyên lãnh đạo Công ty Giấy Bãi Bằng chia sẻ: “Ngay sau khi khánh thành, Giấy Bãi Bằng đã nhanh chóng bước vào sản xuất. Bắt đầu từ đây, mỗi cán bộ, công nhân Nhà máy lại sát cánh cùng các chuyên gia, thực hiện chuyển giao kiến thức. Trong giai đoạn này, các chuyên gia Thụy Điển từ Tổng giám đốc đến trưởng ca quản người điều hành trực tiếp. Trước đó, đã nhiều đoàn được cử sang đào tạo tại Thụy Điển nhưng với tinh thần khiêm tốn, học hỏi khi trở về họ vẫn cùng đội ngũ cán bộ kỹ thuật lắng nghe tiếp thu kiến thức kinh nghiệm thực hành sản xuất từ các chuyên gia với mong muốn nhanh chóng làm chủ được các thiết bị công nghệ. Vào thời điểm ấy, mỗi cán bộ đảng viên của Nhà máy thực sự những người gương mẫu trong việc bám máy trực tiếp theo dõi vận hành các thiết bị trong dây chuyền sản xuất giấy bột giấy”.

Nguồn: Website của Tổng Công ty Giấy Việt Nam.

Trong 10 năm 1976 - 1985, sản xuất công nghiệp chia thành hai giai đoạn rệt.

Giai đoạn 1976 - 1980: kết quả sản xuất không tương xứng với sức lao động vốn đầu bỏ ra. Trong khi vốn đầu của Nhà nước, số nghiệp quốc doanh tăng đều qua các năm chiếm tỷ trọng cao nhất trong khu vực sản xuất vật chất thì giá trị tổng sản lượng công nghiệp mức độ tăng không tương xứng, tăng trong 3 năm đầu, lên cao nhất vào năm 1978, sau đó suy thoái trong 2 năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ II.

Do đó, tất cả các mục tiêu do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đề ra đều không đạt. Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu công nghiệp của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980): giá trị sản lượng khí đạt 80%; sản lượng điện đạt 3.680 triệu kWh, đạt 73,6%; than đạt 52%; khai thác gỗ tròn 1,577 triệu m3, đạt 45%; vải mặc 182 triệu mét, đạt 40,4%; đánh bắt biển 399 nghìn tấn, đạt 39,9%; giấy, bìa 48,3 nghìn tấn, đạt 37%; ximăng 641 nghìn tấn, đạt 32%; phân bón hóa học 367 nghìn tấn, đạt 28%; sản lượng thép 62,5 nghìn tấn, đạt 25%3.

bảng 35

bảng 36

bảng 37

Sản phẩm công nghiệp tính bình quân đầu người giai đoạn 1976 - 1980 cũng cho thấy bức tranh tương tự, sụt giảm vào những năm cuối kỳ của kế hoạch 5 năm.

Giai đoạn 1981 - 1985: Sản xuất công nghiệp vượt qua thời kỳ suy thoái khủng hoảng, bắt đầu bước phát triển đều đặn, ràng, năm sau cao hơn năm trước. Nếu trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980), giá trị tổng sản lượng công nghiệp cả nước tăng trong 3 năm đầu đạt giá trị cao nhất trong năm 1978 (64,1 tỉ đồng), sau đó giảm liên tục cho đến năm 1980 chỉ còn 55,7 tỉ đồng; thì sang kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981 - 1985), giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng liên tục từ năm 1981, đến năm 1985 đạt giá trị cao nhất (101,3 tỉ đồng) so với cả giai đoạn 1976 - 1985. Tốc độ tăng bình quân/năm trong kế hoạch 5 năm 1976 - 1980: 3,3%; tốc độ tăng bình quân/năm trong kế hoạch 5 năm 1981 - 1985: 13,37%, đã kéo tốc độ tăng bình quân/năm trong 10 năm 1976 - 1985 lên 8,2%.

Giai đoạn này, giá trị sản xuất công nghiệp sự phát triển liên tục, năm sau cao hơn năm trước cả công nghiệp quốc doanh ngoài quốc doanh. Xét về cấu, giai đoạn 1976 - 1980 sự khác biệt với giai đoạn 1981 - 1985. thể thấy, giai đoạn 1976 - 1980, công nghiệp quốc doanh chiếm trên 60%, công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm dưới 40%, đến giai đoạn 1981 - 1985, công nghiệp quốc doanh vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn, nhưng giảm xuống dưới 60%, trong khi công nghiệp ngoài quốc doanh vươn lên trên 40%. cấu giữa công nghiệp trung ương công nghiệp địa phương cũng sự thay đổi mạnh mẽ. Giai đoạn 1976 - 1980, công nghiệp trung ương chiếm trên 40% công nghiệp địa phương chiếm trên 50%; đến giai đoạn 1981 - 1985, khoảng cách này giãn rộng ra, công nghiệp trung ương giảm xuống dưới 40%, còn công nghiệp địa phương chiếm trên 60%.

Thành tựu những năm 1981 - 1985 kết quả của sự đầu sở vật chất trong suốt 10 năm, đặc biệt trong kế hoạch 5 năm lần thứ III đã “hoàn thành mấy trăm công trình tương đối lớn hàng nghìn công trình vừa nhỏ, trong đó một số sở quan trọng về điện, dầu khí, ximăng, khí, dệt, đường, thủy lợi, giao thông...”4, cộng hưởng với những cải cách quản kinh tế, tuy phần dặt, khởi đầu từ Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (năm 1979) mở ra những cải tiến quản trong khu vực công nghiệp theo Quyết định số 25-CP, 26-CP ngày 21/01/1981 của Hội đồng Chính phủ Quyết định số 146-HĐBT ngày 25/8/1982 của Hội đồng Bộ trưởng, đã phát huy mạnh mẽ quyền chủ động sản xuất - kinh doanh quyền tự chủ tài chính của nghiệp, làm cho các nghiệp quốc doanh trở nên năng động, sản xuất công nghiệp được “bung ra”, cấu công nghiệp được điều chỉnh theo hướng đẩy mạnh hơn các ngành Công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng.

bảng 38


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr. 524.

2. Xem Bộ Công nghiệp: 60 năm Công nghiệp Việt Nam, Nxb. Lao động, Nội, 2005, tr.103.

3. Xem Bộ Công Thương: lược Lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr. 197.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr. 348.

1. Cải tạo công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp

Ngày 29/9/1975, Hội nghị Trung ương lần thứ 24 ra Nghị quyết số 247-NQ/TW về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, khi bàn về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, Nghị quyết yêu cầu “Phải xóa bỏ tư bản mại bản bằng cách quốc hữu hóa cơ sở kinh tế của họ, biến thành sở hữu toàn dân do Nhà nước quản lý. Đối với kinh tế tư sản dân tộc, thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng hình thức công tư hợp doanh, bắt đầu từ những cơ sở sản xuất và kinh doanh quan trọng”1.

Ngày 15/7/1976, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 254-NQ/TW “Về những công tác trước mắt ở miền Nam”, trong đó đặt vấn đề “Thành lập Ban cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở Trung ương”2. Ngày 25/9/1976, Chính phủ ra Tuyên bố về chính sách đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam.

cửa hàng kinh doanh

Công cuộc cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam được tiến hành thông qua các hình thức quốc hữu hóa và chuyển thành xí nghiệp quốc doanh đối với các xí nghiệp công quản và xí nghiệp tư sản mại bản, tư sản bỏ chạy ra nước ngoài; thành lập xí nghiệp công tư hợp doanh; thành lập xí nghiệp, hợp tác xã. Tính đến hết năm 1978, chúng ta đã căn bản hoàn thành việc chuyển các cơ sở tư bản tư doanh trong các ngành công thương nghiệp và dịch vụ quan trọng thành xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh và các hình thức cải tạo xã hội chủ nghĩa khác3.

Cụ thể, đã chuyển quyền sở hữu và quản lý 1.500 xí nghiệp tư bản tư doanh loại lớn và vừa, sắp xếp, tổ chức lại thành 650 xí nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh với 130 nghìn công nhân và người lao động, chiếm 70% số công nhân, người lao động trong các xí nghiệp tư bản tư doanh. Có 64 công nhân được cử làm giám đốc các xí nghiệp công tư hợp doanh do các tỉnh, thành phố quản lý, hơn 100 công nhân làm quản đốc trong các xí nghiệp do Trung ương quản lý. Giá trị sản xuất công nghiệp của các xí nghiệp quốc doanh công tư hợp doanh chiếm 70% tổng sản lượng công nghiệp miền Nam.

Trong tiểu thủ công nghiệp, đã thành lập trên 500 hợp tác xã và 5.000 tổ hợp tác với trên 250 nghìn lao động. Riêng Thành phố Hồ Chí Minh có 144 hợp tác xã với 27.634 lao động và 1.964 tổ hợp tác với 75.284 lao động, chiếm 71% tổng số lao động thủ công nghiệp của Thành phố. Các tỉnh khác có số thợ thủ công được tổ chức lại chiếm khoảng 40%. Tới cuối năm 1985, số cơ sở tiểu thủ công nghiệp miền Nam đã có 2.937 hợp tác xã chuyên nghiệp, 10.124 tổ sản xuất chuyên nghiệp, 3.162 hợp tác xã nông nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, 529 hợp tác xã kiêm và 920 hộ tư nhân cá thể4.

Nhưng theo đánh giá, ta mới chỉ xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ trong công nghiệp mà chưa xác lập một cách thực chất quan hệ sản xuất mới.

Ngày 17/6/1980, Thông báo số 14-TB/TW về ý kiến của Ban Bí thư kết luận Hội nghị ngày 28 - 31/3/1980 bàn về cải tạo công thương nghiệp tư doanh ở miền Nam, đã đánh giá kết quả chủ yếu đạt được là “Bảo đảm cho Nhà nước làm chủ được các ngành kinh tế then chốt, bước đầu tổ chức và sắp xếp lại sản xuất và lưu thông theo kế hoạch Nhà nước”5; song hạn chế là “đã có phần nóng vội trong việc đề ra chủ trương hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa trong hai năm 1977 - 1978”6.


1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36, tr. 431, 222.

3. “Kết quả cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng công thương nghiệp ở các tỉnh, thành phố miền Nam”, báo Nhân Dân, số 8976, ngày 04/01/1979, tr.2.

4. Xem Bộ Công Thương: Sơ lược Lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.194.

5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.41, tr.137, 139.

3. Sự phát triển một số ngành công nghiệp chủ yếu

a) Ngành Cơ khí

Ngày 21/6/1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 62- HĐBT về việc thành lập Ban Cơ khí của Chính phủ. Ban Cơ khí Chính phủ có nhiệm vụ giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trên ba lĩnh vực, gồm: nghiên cứu chiến lược phát triển cơ khí dài hạn theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước; nghiên cứu chính sách phát triển ngành Cơ khí trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định; và thanh tra, kiểm tra các bộ, các ngành và các địa phương trong việc chấp hành chiến lược, chính sách phát triển cơ khí ở ngành và địa phương.

Trưởng ban Cơ khí của Chính phủ là Bộ trưởng Bộ Cơ khí và Luyện kim. Phó Trưởng ban gồm một Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật nhà nước; một Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước; một Thứ trưởng Bộ Cơ khí và Luyện kim. Các ủy viên gồm: Thứ trưởng Bộ Mỏ và Than; Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải; Thứ trưởng Bộ Xây dựng; Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp; Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Hóa chất.

Nhiệt điện Phả Lại 1983 Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại cho chạy thử đồng bộ không tải Tổ máy số 1, đạt các thông số kỹ thuật, ngày 19/10/1983 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam) Bộ Cơ khí 1985 Bộ trưởng Bộ Cơ khí và Luyện kim Nguyễn Văn Kha cùng Đại sứ Liên Xô Saplin thăm nơi sản xuất trong Nhà máy Diesel Sông Công tại lễ bàn giao đợt 1 nhà máy, ngày 04/11/19851 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Về hoạt động, việc tổ chức, sắp xếp lại và phân công sản xuất trong toàn quốc được tiến hành theo hướng chuyên môn hóa, kết hợp năng lực cơ khí của quốc doanh trung ương với cơ khí địa phương, cơ khí quốc phòng, cơ khí hợp tác xã và lực lượng cơ khí tư nhân. Nhiều sản phẩm cơ khí đã giảm được chi phí sản xuất và có chất lượng tốt hơn, vì các chi tiết và bộ phận được chế tạo hàng loạt ở các xí nghiệp khác nhau theo nguyên tắc chuyên môn hóa sản xuất.

Việc bổ sung thiết bị, cải tạo mở rộng nhiều nhà máy cơ khí của các ngành, việc xây dựng mới các cơ sở cơ khí phục vụ nông nghiệp ở các tỉnh và huyện miền Nam, các xưởng bảo dưỡng, sửa chữa ôtô, tàu, thuyền đánh cá đã tăng thêm năng lực cơ khí ngành và cơ khí địa phương. Chúng ta cũng hoàn thành xây dựng và đưa vào sản xuất toàn bộ hoặc từng phần Nhà máy Cơ khí Hà Nội mở rộng, Cụm cơ khí Gò Đầm, Nhà máy Cơ khí trung tâm Cẩm Phả, Nhà máy Khí cụ điện, Nhà máy Xe đạp Xuân Hòa. Năm 1976, khánh thành Nhà máy Dụng cụ số 1 (Hà Nội) do Liên Xô giúp xây dựng. Nhà máy được xây dựng từ trong thời kỳ chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ, đã có 3 dây chuyền chính hoạt động là bàn ren, ta rô, mũi khoan. Đến thời điểm này, Nhà máy sản xuất được 80 chủng loại sản phẩm với nhiều loại quy cách, kích thước khác nhau, phục vụ ngành Cơ khí cả nước.

Các sản phẩm chủ yếu của ngành Cơ khí được sản xuất hàng loạt để phục vụ nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm này là thiết bị toàn bộ cho xưởng cơ khí huyện, máy kéo bông sen, máy công tác theo sau máy kéo, máy bơm thủy lợi, tàu hút bùn, bơm thuốc trừ sâu, xe cải tiến, công cụ cầm tay trong nông, lâm, ngư nghiệp, tàu đánh cá, trong đó có loại tàu 400 sức ngựa, xà lan, rơ moóc, toa xe lửa, phụ tùng ô tô, máy kéo... cũng tăng lên với tốc độ cao. Một sự kiện nổi bật thời gian này là 4 nhà máy cơ khí (VIKYNO, VINAPRO ở Biên Hòa, Đồng Nai, Trần Hưng Đạo ở Hà Nội và Nhà máy Cơ khí nông nghiệp Hà Sơn Bình) đã hợp tác chế tạo thành công máy cày tay Bông sen, phục vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp.

Để phục vụ cho xây dựng cơ bản và sản xuất vật liệu xây dựng, ta đã sản xuất được thiết bị toàn bộ cho các nhà máy ximăng công suất 5.000 - 10.000 - 20.000 tấn/năm, các nhà máy gạch 7 - 20 triệu viên/năm, sản xuất hàng loạt máy trộn bêtông, máy trộn vữa... Việc sản xuất máy móc, công cụ cho công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm cũng được đẩy mạnh với việc sản xuất hàng loạt thiết bị toàn bộ cho các nhà máy đường, nhà máy xay xát gạo, nhà máy chế biến màu, nhà máy giấy, nhà máy dệt, xưởng thủy tinh... của công nghiệp địa phương. Các máy móc thông dụng như động cơ diesel, động cơ điện, máy biến thế, máy cắt gọt kim loại... hằng năm đều tăng với nhịp độ cao từ 30 - 60%. Chúng ta đã bắt đầu sản xuất được một số linh kiện điện tử để lắp ráp và sửa chữa các thiết bị điện tử.

ngăn sông Đà

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng thả viên đá tượng trưng mở đầu cho ngày hội ngăn sông Đà đợt 2 tại công trường xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình, ngày 09/01/1986 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

b) Ngành Điện

Ngày 22/11/1981, Quyết nghị số 1236-NQ/TVQHK6 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chia Bộ Điện và Than thành 2 bộ: Bộ Điện lực, Bộ Mỏ và Than. Ngày 26/9/1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 105/HĐBT thành lập Ban Năng lượng của Chính phủ, có nhiệm vụ giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nghiên cứu chiến lược và chính sách phát triển năng lượng nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng trong toàn quốc; điều hòa, phối hợp, đôn đốc các ngành nghiên cứu chiến lược, chính sách phát triển và sử dụng các dạng năng lượng của từng ngành; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các chiến lược và chính sách; thẩm tra các đề án, chính sách thuộc về năng lượng trước khi trình Hội đồng Bộ trưởng. Trưởng ban Năng lượng là đồng chí Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười. Thứ trưởng Bộ Điện lực làm Phó Trưởng ban Thường trực; Thứ trưởng Bộ Mỏ và Than là Ủy viên.

Về hoạt động, những năm đầu đất nước thống nhất, việc tiếp quản các cơ sở điện lực được tiến hành nhanh gọn, đồng bộ với các ngành khác. Ngày 01/5/1975, ngành đã tiếp nhận hệ thống điện miền Nam từ chính quyền Sài Gòn - một dấu ấn khởi điểm cho việc quản lý thống nhất toàn hệ thống Điện Việt Nam.

Trong 10 năm 1976 - 1985, hệ thống điện đã tăng thêm công suất nhờ huy động thêm các máy phát của các ngành và địa phương, thực hiện các biện pháp cải tiến kỹ thuật. Việc xây dựng các cụm phát điện mới và hệ thống truyền tải điện phục vụ thủy lợi ở đồng bằng sông Cửu Long được hoàn thành và phát huy tác dụng. Thời gian này, ta xây dựng và hoàn thành nhiều công trình điện, tiêu biểu là Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình khởi công từ năm 1973, được đầu tư thêm vốn xây dựng và hoàn thành vào năm 1977; khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình năm 1979, đến năm 1983 tiến hành ngăn sông Đà đợt 1; xây dựng Nhiệt điện Phả Lại năm 1980, gồm 4 tổ máy, tổng công suất lắp đặt 440 MW, hiện đại nhất trong hệ thống điện miền Bắc lúc đó. Từ năm 1983 đến năm 1985 lần lượt đưa 3 tổ máy, tổng công suất 330 MW vào vận hành... Công suất lắp đặt toàn hệ thống điện cả nước năm 1985 đạt 1.666,5 MW, trong đó, nhiệt điện 856 MW; riêng miền Bắc, công suất lắp đặt nhiệt điện đạt 658 MW, gấp 2,5 lần so với năm 1975.

Sản lượng điện phát ra năm 1985 đạt 5,23 tỷ kWh, gấp 1,44 lần năm 1980 và gấp 1,7 lần năm 1976. Giai đoạn 1981 - 1985, ngành Điện thực hiện Tổng sơ đồ phát triển điện giai đoạn I và hoàn thành nhiều công trình lớn, mang tầm chiến lược quốc gia về nguồn và lưới điện, như xây dựng tuyến đường dây 220 kV đầu tiên của Việt Nam: Hà Đông - Hòa Bình (khởi công năm 1979, hoàn thành 1981). Tính đến năm 1985, lưới điện đã phủ trên 90% số huyện và trên 60% số xã trong cả nước.

Năng lượng tái tạo: Những nghiên cứu đầu tiên ở thập niên 1980

Theo TS. Ngô Đức Lâm, nguyên Cục trưởng Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường Công nghiệp - Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương), ngay từ thập kỷ 80 của thế kỷ XX, chúng ta đã bắt đầu nghiên cứu năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Thời điểm quy hoạch Tổng sơ đồ-1 (1981 - 1985), khi nguồn điện Việt Nam chủ yếu là thủy điện và nhiệt điện than, Bộ Điện lực đã đề xuất và được Chính phủ cho phép nghiên cứu năng lượng mới, năng lượng tái tạo bằng một Chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước, mang mã số 10-A. Chủ nhiệm Chương trình là kỹ sư Vũ Đình Bông, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học - Kỹ thuật Điện; Tổng thư ký Chương trình là Phó Vụ trưởng Vụ Kỹ thuật - Bộ Điện lực, TS. Ngô Đức Lâm. Năm 1986, Bộ Điện lực tổ chức sơ kết 2 năm thực hiện Chương trình, do Bộ trưởng Phạm Khai chủ trì, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tới dự. Tại Hội nghị, TS. Ngô Đức Lâm báo cáo kết quả nghiên cứu năng lượng mới và năng lượng tái tạo trên ba mặt. Thứ nhất, về nghiên cứu cơ bản; Viện cùng với Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia đã tập hợp kết quả đo đạc tại nhiều địa phương, lập được bản đồ về tiềm năng năng lượng tái tạo gió và mặt trời ở một số địa phương chính. Qua đó đánh giá Việt Nam là nước có tiềm năng lớn về năng lượng gió, năng lượng mặt trời. Đây là tài liệu quý cho việc nghiên cứu phát triển năng lượng tái tạo sau này. Tuy nhiên, theo TS. Ngô Đức Lâm, do kinh phí có hạn, nhất là công nghệ đo đạc lạc hậu nên số liệu chưa thật chính xác. Thứ hai, về công nghệ: Đối với năng lượng gió, kỹ sư Đinh Hùng đã thiết kế chế tạo thành công động cơ gió phát điện cỡ nhỏ, quy mô gia đình, thích hợp với các vùng xa xôi, chưa có lưới điện. Thực tế đã lắp đặt thí điểm ở một số địa phương, được hoan nghênh. Với năng lượng mặt trời, kỹ sư Lê Văn Khánh và đồng sự đã nghiên cứu thành công quy trình lắp ráp tấm panel quang điện - P.V. Tuy nhiên chưa chế tạo được mà phải nhập P.V. Trên thực tế đã triển khai lắp ráp được nhiều mô đun P.V cho gia đình ở nông thôn và miền núi dùng cho thắp sáng, nghe đài và cũng để thắp sáng cho đường sá cũng như các phao dẫn đường cho tàu bè vùng biển Hải Phòng. Thứ ba, về đào tạo, hợp tác quốc tế. Sản phẩm nghiên cứu của Chương trình 10-A được phổ biến, đã góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở một số địa phương. Chương trình cũng mở ra cơ hội hợp tác quốc tế. Viện Nghiên cứu Khoa học - Kỹ thuật Điện có quan hệ hợp tác với Nhật Bản, Trung Quốc trong lĩnh vực năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Năm 1987, TS. Ngô Đức Lâm, được điều động làm Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học - Kỹ thuật Điện, đảm nhiệm việc nghiên cứu năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Năm 1990, Viện Nghiên cứu Khoa học - Kỹ thuật Điện hợp nhất với Viện Quy hoạch Điện thành Viện Nghiên cứu Năng lượng. TS. Trần Quốc Cường, Viện trưởng quyết định thành lập Trung tâm Nghiên cứu năng lượng mới, năng lượng tái tạo, do TS. Ngô Đức Lâm làm Giám đốc. Đây là Trung tâm đầu tiên nghiên cứu về năng lượng mới và năng lượng tái tạo ở Việt Nam. Năm 1991, Chương trình 10-A chuyển sang Bộ Giáo dục và Đào tạo, mang mã số 52-C, do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Trần Hồng Quân làm Chủ nhiệm. Mặc dù khoa học kỹ thuật còn hạn chế, song những nghiên cứu đầu tiên về năng lượng mới, năng lượng tái tạo từ những năm 1980 đã đặt những viên gạch đầu tiên cho hướng đi mới của Việt Nam, giúp Việt Nam phát triển nhanh chóng công suất nguồn của các dạng năng lượng sạch sau này, và tự tin tuyên bố đưa phát thải ròng về “zero” vào năm 2050.

c) Ngành Than

Đã khôi phục xong các mỏ bị đánh phá, trang bị thêm nhiều máy móc thiết bị khai thác, vận chuyển và chế biến than hiện đại. Do nhu cầu về than rất lớn nên ta đã xây dựng thêm nhiều mỏ nhỏ để đưa nhanh vào sản xuất ở các địa phương. Việc xây dựng các mỏ than lớn có công suất 1 - 3 triệu tấn/năm cũng được tiến hành khẩn trương để có thể đưa vào sản xuất từng phần bắt đầu từ cuối của kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980).

TBT Lê Duẩn Tổng Bí thư Lê Duẩn, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Leonid Ilyich Brezhnev ký Hiệp ước hữu nghị Việt - Xô tại Điện Kremli, Thủ đô Mátxcơva, ngày 04/11/1978 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

d) Ngành Dầu khí

Đã thăm dò và chuẩn bị cho việc khai thác khí đốt và dầu mỏ. Giai đoạn này có nhiều sự kiện quan trọng liên quan đến phát triển về mặt tổ chức và thăm dò, phát hiện ra dòng dầu khí công nghiệp.

Ngày 03/9/1975, Tổng cục Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam (Tổng cục Dầu khí Việt Nam) được thành lập theo Quyết định số 170/CP của Hội đồng Chính phủ. Ngày 09/9/1977, Chính phủ ra Quyết định số 251/CP thành lập Công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam, gọi tắt là Petrovietnam, trực thuộc Tổng cục Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam.

Ngày 03/7/1980, tại Điện Kremli (Mátxcơva), dưới sự chứng kiến của hai Tổng Bí thư Lê Duẩn và Leonid Ilyich Brezhnev, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước Việt Nam Nguyễn Lam và Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước Liên Xô Nikolai Baibakov đã ký Hiệp định giữa Chính phủ hai nước về việc hợp tác tiến hành thăm dò địa chất và khai thác dầu, khí ở thềm lục địa phía Nam Việt Nam. Hiệp định gồm

sáu điều, thể hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản coi như là Hiệp định khung mở đường cho một Hiệp định cụ thể tiếp theo để triển khai công việc thăm dò địa chất và khai thác dầu, khí ở thềm lục địa phía Nam Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ngày 19/4/1981, dòng khí công nghiệp đầu tiên tại Giếng khoan 61 mỏ Tiền Hải C (trầm tích Mioxen, hệ tầng Tiên Hưng, chiều sâu 1146 - 1156) với lưu lượng 100.000 m3/ngày đêm đã được đưa vào buồng đốt tuốcbin nhiệt điện tại Tiền Hải phát ra dòng điện công suất 10 MW hòa lưới quốc gia. Đây là dấu mốc quan trọng đánh dấu lần đầu tiên ngành Dầu khí Việt Nam được ghi tên trên bản đồ dầu khí thế giới, mở ra triển vọng to lớn trên hành trình tìm kiếm, khai thác nguồn tài nguyên làm giàu cho đất nước và tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam.

tàu khoan Tàu khoan Mikhail Mirchink nhận dòng dầu công nghiệp từ tầng trầm tích của mỏ Bạch Hổ (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Ngày 19/6/1981, tại Mátxcơva, Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Trần Quỳnh và Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Konstantin Katushev đã ký Hiệp định về việc thành lập Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro, tiến hành thăm dò địa chất và khai thác dầu và khí ở thềm lục địa phía nam Việt Nam. Ngày 25/12/1983, tàu Mikhail Mirchin đã khoan giếng thăm dò BH-5 đầu tiên tại Mỏ Bạch Hổ và 5 tháng sau, tức ngày 25/5/1984, đã phát hiện ra dòng dầu công nghiệp đầu tiên. Liên tục sau đó mỏ Rồng được phát hiện vào ngày 21/6/1985 và mỏ Đại Hùng được phát hiện vào ngày 18/7/1988, mở ra giai đoạn mới cho sự phát triển của ngành Công nghiệp dầu khí Việt Nam.

đ) Ngành Luyện kim

Các lò cao của Khu Gang thép Thái Nguyên đã khôi phục xong, các xưởng cán thép Lưu Xá, Gia Sàng đã lắp đặt xong thiết bị và đi vào sản xuất, các xưởng cán thép miền Nam đã được khôi phục và đi vào sản xuất. Nhiều nhà máy cơ khí được trang bị thêm để sản xuất thép đúc và thép hợp kim. Sản xuất thiếc, crôm đều tăng hơn trước.

e) Ngành Hóa chất

Có các sản phẩm chính là phân bón hóa học, axít, xút, lốp và săm xe đạp. Sản lượng các loại phân bón hóa học được tăng lên nhiều nhờ mở rộng Nhà máy Supe Phốtphát Lâm Thao. Nhà máy Phân đạm Hà Bắc bị máy bay Mỹ ném bom phá hoại, làm cho hơn 30 công trình chủ yếu bị hư hỏng nặng. Đầu năm 1975, nhà máy được khởi công xây dựng lại và khánh thành vào ngày 30/10/1977. Thời điểm này, đây là nhà máy phân đạm lớn nhất Việt Nam, hằng năm sản xuất 10 nghìn tấn urê phục vụ sản xuất nông nghiệp và sản xuất nhiều mặt hàng khác. Ngành Chế biến cao su cũng được tăng thêm năng lực sản xuất để mở rộng chế tạo săm lốp ôtô, xe đạp, các mặt hàng cao su. Công nghiệp địa phương, tiểu thủ công nghiệp nhiều nơi đã sản xuất được xà phòng, keo dán, phèn chua, mực in, thuốc bảo quản gỗ và các hóa chất thông thường.

phó thủ tướng Đỗ Mười

f) Ngành sản xuất hàng tiêu dùng

Được phát triển theo hướng chuyển mạnh sang sử dụng các sản phẩm của nông, lâm, ngư nghiệp và các loại nguyên liệu, vật liệu trong nước kể cả tận dụng phế liệu, phế phẩm, giảm bớt nhập khẩu, đồng thời, chúng ta cũng phát triển công nghiệp địa phương và tiểu thủ công nghiệp, thực hiện khai thác nguồn nguyên liệu địa phương và xuất khẩu.

công nhân sữa

Đối với sản xuất công nghiệp thực phẩm, nhiều tỉnh và huyện đã xây dựng các nhà máy xay xát gạo công suất 15 - 30 tấn bằng thiết bị trong nước. Nhiều xưởng chế biến hoa màu được xây dựng ở các địa phương có nhiều ngô, khoai, sắn... Các thành phố và trung tâm công nghiệp được tăng thêm năng lực sản xuất mì sợi, bánh mì. Công nghiệp đường cũng phát triển hơn trước, nhờ đưa vào sản xuất nhiều cơ sở đường địa phương công suất 50 - 100 tấn mía/ngày. Để tận dụng nguyên liệu, các nhà máy đã bổ sung thiết bị để trở thành những xí nghiệp liên hợp đường - rượu - giấy. Công nghiệp chế biến chè, thuốc lá, dầu thực vật, mì chính, đồ hộp, đông lạnh... đều phát triển với tốc độ cao, đặc biệt với các sản phẩm xuất khẩu như chè, thuốc lá, tôm cá đóng hộp đông lạnh, có nhiều mặt hàng tăng gấp 2 - 3 lần. Trong khu vực tiểu thủ công nghiệp cũng phát triển chế biến thực phẩm theo kỹ thuật truyền thống bằng các nguyên liệu nông sản địa phương, nhằm phục vụ cho bữa ăn hằng ngày của nhân dân.

Ngành Dệt đã tăng thêm công suất nhờ việc đưa vào sản xuất Liên hợp Dệt Vĩnh Phú, cải tạo và tổ chức lại lực lượng dệt của tư nhân ở miền Nam và khôi phục nghề dệt thủ công truyền thống, đưa công suất dệt vải lên tới 400 triệu m/năm. Các cơ sở dệt kim, dệt lụa, thảm len, dệt đay và thảm đay... cũng được mở rộng. Các nghề cói, may mặc, thêu ren... đều phát triển. Chúng ta đã khẩn trương xây dựng thêm các nhà máy kéo sợi bông, sợi đay và đổi mới trang thiết bị máy móc ở nhiều nhà máy dệt và các cơ sở dệt thủ công.

Công nghiệp giấy và chế biến gỗ đã được tăng thêm năng lực sản xuất nhờ khôi phục lại nhiều cơ sở sản xuất ở miền Nam, xúc tiến việc xây lắp Nhà máy Giấy Bãi Bằng ở Vĩnh Phú, phát triển nhiều cơ sở nhỏ ở địa phương để sản xuất giấy từ bã mía, đay, rơm rạ... Các nhà máy gia công gỗ xẻ, gỗ ván sàn, gỗ dán và ván ép được trang bị thêm; đã đưa thêm được 3 nhà máy mới vào sản xuất.

Công nghiệp đồ sứ và thủy tinh đã phát triển theo hướng mở rộng cơ sở nguyên liệu và xây dựng thêm các cơ sở vừa và nhỏ ở các tỉnh và huyện, các cơ sở sản xuất đồ thủy tinh cỡ vừa ở các tỉnh ven biển.

Đã đưa vào sản xuất ở Xí nghiệp men sứ Hải Dương, Xí nghiệp khai thác cao lanh Vĩnh Phú, Lào Cai, Lâm Đồng; hoàn thành xây dựng Nhà máy Thủy tinh Hải Hưng, mở rộng Nhà máy Bóng đèn, Phích nước Rạng Đông; Nhà máy Phích nước Thành phố Hồ Chí Minh.

nữ công nhân

Các nữ công nhân nhà máy sản xuất xe đạp xí nghiệp quốc doanh ở Hà Nội đầu năm 1980 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Đồng thời, việc sản xuất hàng tiêu dùng có nhu cầu phổ thông được đẩy mạnh; đã tăng thêm năng lực sản xuất xe đạp và phụ tùng xe đạp, quạt điện và bóng đèn điện, máy may, đồng hồ, máy thu thanh và thu hình, đồ dùng học tập và đồ chơi trẻ em...


1. Nhà máy do Liên Xô giúp ta xây dựng là trung tâm chế tạo động cơ lớn nhất Việt Nam bấy giờ, mỗi năm sản xuất 2.000 động cơ 55 mã lực và 255 tấn phụ tùng.

Danh mục

Tùy chỉnh