1. Những chủ trương và chính sách chung của Đảng và Chính phủ
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ vào ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó nhiệm vụ “chống giặc đói” là nhiệm vụ hàng đầu. Chính phủ ban hành nhiều văn bản, giao Bộ Kinh tế Quốc gia thực hiện ngay các biện pháp đồng bộ nhằm khắc phục tình trạng thiếu lương thực, khơi dòng chảy lương thực thông suốt giữa các vùng, miền, như: xóa bỏ các hạn chế trong buôn bán, chuyên chở thóc gạo giữa các vùng, miền; cấm xuất khẩu các loại ngũ cốc và chế phẩm từ ngũ cốc, cấm sử dụng ngũ cốc vào các việc không cần thiết như nấu rượu... Đồng thời, Chính phủ cũng cử một ủy ban chuyên trách giúp đảm bảo và đốc thúc việc chuyên chở lương thực từ Nam Bộ và Trung Bộ ra Bắc Bộ.
Chỉ trong vòng ba tháng cuối năm 1945, đã có hàng nghìn tấn gạo được chuyển và phân phối kịp thời về các địa phương tại Bắc Bộ để cứu đói. Đây được xem là một kỳ tích, nhất là trong bối cảnh quân đội viễn chinh Pháp đã quay trở lại xâm lược Nam Bộ từ cuối tháng 9/1945 khiến việc chuyên chở lương thực giữa các vùng, miền gặp nhiều trắc trở.
Mặt khác, Bộ Kinh tế Quốc gia cũng trực tiếp động viên nhiều chủ doanh nghiệp cấp tốc sản xuất thêm nông cụ và bán không lấy lãi cho nông dân, thậm chí không tính công sản xuất mà chỉ tính chi phí nguyên liệu nhằm khắc phục tình trạng thiếu trâu bò trong sản xuất nông nghiệp. Trong vòng một năm, hoạt động sản xuất nông nghiệp đã đạt được nhiều kết quả lớn, góp phần quyết định giải quyết nạn đói.
Đồng thời, Chính phủ rất coi trọng việc khôi phục sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại nhằm tiến tới xây dựng nền kinh tế tự chủ của dân tộc. Chính phủ chủ trương phát triển hoạt động công nghiệp và thương mại. Phát huy lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước của giới công thương trong nước, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nhân dốc sức kiến thiết nền kinh tế và tham gia bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, Chính phủ cũng cố gắng không gây những xáo trộn không cần thiết, tạo điều kiện cho phép giới tư bản Pháp, Nhật nói riêng và tư bản nước ngoài nói chung duy trì công việc kinh doanh như cũ trong khung khổ pháp luật của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong Tuần lễ Vàng1, ngày 18/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành thời gian gặp thân mật 30 nhà công thương Hà Nội - đại diện cho giới công thương Việt Nam. Đây cũng là giới chức xã hội đầu tiên được Người tiếp tại Phủ Chủ tịch. Tại buổi gặp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò của giới công thương trong sự nghiệp xây dựng lại đất nước sau gần 80 năm dưới ách cai trị của thực dân Pháp. Người cũng phân tích sâu sắc, biện chứng mối quan hệ giữa dân giàu - nước mạnh. Sau cuộc gặp này, Chính phủ được giới công thương Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung ủng hộ rất lớn về vật chất, qua đó giảm bớt khó khăn về tài chính cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp thân mật 30 nhà công thương Hà Nội, đại diện cho giới công thương Việt Nam, tại Phủ Chủ tịch, ngày 18/9/1945 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Ngay sau đó, Sắc lệnh số 36/SL ngày 22/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được ban hành nhằm bãi bỏ tất cả các nghiệp đoàn vốn chủ yếu bảo vệ lợi ích độc quyền kinh doanh của một nhóm nhỏ doanh nghiệp dưới thời chính quyền thuộc địa, như nghiệp đoàn: Nông sản và Lâm sản, Kỹ nghệ, Khoáng sản, Thương mại,... Đến ngày 02/10/1945, Bộ Quốc dân Kinh tế ra Nghị định cho phép các nhà kinh doanh có quyền tự do khai trương, mở rộng, nhượng lại hay di chuyển cơ sở kinh doanh2, qua đó xóa bỏ quy chế ngặt nghèo của chính quyền cai trị trước đây trong việc kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh.
Tiếp tục khẳng định vai trò, sứ mệnh quan trọng của giới công thương, ngày 13/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho giới công thương Việt Nam. Trong thư, có đoạn viết: “Được tin giới công thương đã đoàn kết lại thành “Công - Thương cứu quốc đoàn” và gia nhập vào Mặt trận Việt Minh, tôi rất vui mừng. Hiện nay, “Công - Thương cứu quốc đoàn” đương hoạt động để làm nhiều việc ích quốc lợi dân, tôi rất hoan nghênh và mong đợi nhiều kết quả tốt. Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền hoàn toàn độc lập của nước nhà, thì giới Công - Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng”3. Về trách nhiệm của các cơ quan công quyền đối với sự phát triển của giới công thương, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp giới công thương trong công cuộc kiến thiết...”4.
Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc với định hướng chiến lược nước ta cần phải vừa chiến đấu, vừa xây dựng kinh tế để vượt qua các khó khăn. Hai nhiệm vụ này quan trọng ngang nhau và để phát triển kinh tế thì cần tập trung khôi phục sản xuất công nghiệp, cho tư nhân góp vốn kinh doanh các nhà máy, khai mỏ, khuyến khích giới công thương mở hợp tác xã, mở hội cổ phần tham gia kiến thiết lại nước nhà5.
Nhiều lĩnh vực công nghiệp và thương mại dần được phục hồi, các doanh nhân tổ chức huy động vốn lập công ty kinh doanh mới, trong đó, có nhiều công ty có quy mô vốn lớn như Thái Bình Thương hội tại Hà Nội với số vốn 1 triệu đồng Đông Dương, Hải Việt Công ty tại Hải Phòng với số vốn 500.000 đồng Đông Dương...6. Điều này đã minh chứng các chủ trương và giải pháp mở mang kinh tế, phục hồi công thương nghiệp của Chính phủ ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 phù hợp với yêu cầu của đất nước, được các nhà kinh doanh trong giới công thương hưởng ứng nhằm góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập.
Trước nguy cơ chiến tranh hiện hữu, ngay từ tháng 3/1946, Chính phủ đã chủ trương bí mật di chuyển dần các máy móc, thiết bị, vật tư nguyên liệu sản xuất từ các đô thị, vùng công nghiệp quan trọng như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn - Chợ Lớn... về các khu vực an toàn, nhằm chuẩn bị cơ sở vật chất cho công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Chính phủ gấp rút sửa chữa, khôi phục các nhà máy lớn, trong đó có Nhà máy Giấy Đáp Cầu (Bắc Ninh) và lập các ủy ban thuộc Nhà nước để trông coi và tổ chức sản xuất (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Bộ Kinh tế được giao nhiệm vụ phối hợp với các đơn vị nghiên cứu, tính toán kỹ lưỡng những loại máy móc, vật tư sản xuất cần thiết và có thể di chuyển được, những gì cần ưu tiên chuyển trước và những gì có thể di chuyển cuối cùng mà vẫn đảm bảo duy trì hoạt động sản xuất. Đồng thời, Nha Tiếp tế trực tiếp thực hiện nhiệm vụ thu mua, vận chuyển và dự trữ hàng vạn tấn thóc gạo về các khu an toàn.
Một đội công tác đặc biệt được thành lập nhằm nghiên cứu tình hình kinh tế các địa phương mà Chính phủ dự kiến thiết lập thành căn cứ địa để đánh giá khả năng tự cấp tự túc, các nguồn lực kinh tế sẵn có, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ.
Theo thời gian, cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược lần thứ hai ngày càng cam go, ác liệt. Mặc dù bận nhiều công việc trong lãnh đạo kháng chiến, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành nhiều thời gian quan tâm đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của giới công thương. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên đánh giá cao, khuyến khích những thành tích đạt được của các đơn vị, xí nghiệp sản xuất, cơ sở thương mại. Đồng thời, Chính phủ cũng thực hiện hàng loạt giải pháp nhằm phát triển sản xuất công nghiệp, đảm bảo việc cung ứng hàng hóa cho kháng chiến và đời sống nhân dân diễn ra hiệu quả, cũng như đấu tranh kinh tế thắng lợi với địch.
Trong Tuần lễ Vàng, các tầng lớp nhân dân, trong đó có giới công thương đã quyên góp được 20 triệu đồng và 370 kg vàng (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)Sự kiện Tuần lễ Vàng
Khi nhắc đến sự kiện Tuần lễ Vàng, bà Hoàng Thị Minh Hồ, vợ của nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô, chủ hiệu buôn tơ lụa nổi tiếng Phúc Lợi ở 48 Hàng Ngang (Hà Nội) xúc động kể lại: “Vợ chồng tôi cảm kích trước bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào cả nước khi cụ nói về trách nhiệm của người dân trước quốc gia non trẻ, nên ngay trong ngày đầu tiên vợ chồng tôi đã ủng hộ 117 lạng vàng”. Tổng cộng từ khi được giác ngộ, gia đình nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô đã ủng hộ Việt Minh, Chính phủ lâm thời 5.147 lạng vàng.
Nhà tư sản Nguyễn Sơn Hà chuyên sản xuất sơn cũng rất tích cực đóng góp tiền vàng, ông còn vận động các nhà tư sản khác và mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Trong lần ủng hộ đầu tiên, gia đình ông đã hiến tặng toàn bộ số nữ trang của gia đình nặng 10,5 kg vàng. Ngoài ra, còn rất nhiều nhà tư sản khác như ông Ngô Tử Hạ, ông Tống Minh Phương, bà Vương Thị Lai, ông Đỗ Đình Thiện...
Có một điều rất đáng khâm phục đó là các nhà tư sản đều biết rõ âm mưu của thực dân Pháp muốn quay lại chiếm Việt Nam và chắc chắn công việc kinh doanh của họ sẽ bị gây khó dễ nhưng họ vẫn chấp nhận. Trước tấm lòng vì nước của giới công thương Việt Nam, ngày 13/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư động viên, cổ vũ giới công thương tham gia công cuộc xây dựng đất nước và ngày này đã trở thành “Ngày Doanh nhân Việt Nam” hiện nay.
1. Tuần lễ Vàng là sự kiện do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động, bắt đầu từ ngày 17/9/1945 đến ngày 24/9/1945 nhằm kêu gọi sự ủng hộ của nhân dân, nhất là tầng lớp thương nhân, chung tay đóng góp vào ngân sách quốc gia, giúp tháo gỡ khó khăn về mặt tài chính của đất nước.
2. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 2, ngày 06/10/1945, tr.25.
3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.53.
5. Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, t.3, tr.44.
6. Xem Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Kinh tế học, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000 (Tập 1: 1945 - 1954), Sđd, tr.160.
1. Những chủ trương và chính sách chung của Đảng và Chính phủ
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ vào ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó nhiệm vụ “chống giặc đói” là nhiệm vụ hàng đầu. Chính phủ ban hành nhiều văn bản, giao Bộ Kinh tế Quốc gia thực hiện ngay các biện pháp đồng bộ nhằm khắc phục tình trạng thiếu lương thực, khơi dòng chảy lương thực thông suốt giữa các vùng, miền, như: xóa bỏ các hạn chế trong buôn bán, chuyên chở thóc gạo giữa các vùng, miền; cấm xuất khẩu các loại ngũ cốc và chế phẩm từ ngũ cốc, cấm sử dụng ngũ cốc vào các việc không cần thiết như nấu rượu... Đồng thời, Chính phủ cũng cử một ủy ban chuyên trách giúp đảm bảo và đốc thúc việc chuyên chở lương thực từ Nam Bộ và Trung Bộ ra Bắc Bộ.
Chỉ trong vòng ba tháng cuối năm 1945, đã có hàng nghìn tấn gạo được chuyển và phân phối kịp thời về các địa phương tại Bắc Bộ để cứu đói. Đây được xem là một kỳ tích, nhất là trong bối cảnh quân đội viễn chinh Pháp đã quay trở lại xâm lược Nam Bộ từ cuối tháng 9/1945 khiến việc chuyên chở lương thực giữa các vùng, miền gặp nhiều trắc trở.
Mặt khác, Bộ Kinh tế Quốc gia cũng trực tiếp động viên nhiều chủ doanh nghiệp cấp tốc sản xuất thêm nông cụ và bán không lấy lãi cho nông dân, thậm chí không tính công sản xuất mà chỉ tính chi phí nguyên liệu nhằm khắc phục tình trạng thiếu trâu bò trong sản xuất nông nghiệp. Trong vòng một năm, hoạt động sản xuất nông nghiệp đã đạt được nhiều kết quả lớn, góp phần quyết định giải quyết nạn đói.
Đồng thời, Chính phủ rất coi trọng việc khôi phục sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại nhằm tiến tới xây dựng nền kinh tế tự chủ của dân tộc. Chính phủ chủ trương phát triển hoạt động công nghiệp và thương mại. Phát huy lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước của giới công thương trong nước, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nhân dốc sức kiến thiết nền kinh tế và tham gia bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, Chính phủ cũng cố gắng không gây những xáo trộn không cần thiết, tạo điều kiện cho phép giới tư bản Pháp, Nhật nói riêng và tư bản nước ngoài nói chung duy trì công việc kinh doanh như cũ trong khung khổ pháp luật của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong Tuần lễ Vàng1, ngày 18/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành thời gian gặp thân mật 30 nhà công thương Hà Nội - đại diện cho giới công thương Việt Nam. Đây cũng là giới chức xã hội đầu tiên được Người tiếp tại Phủ Chủ tịch. Tại buổi gặp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò của giới công thương trong sự nghiệp xây dựng lại đất nước sau gần 80 năm dưới ách cai trị của thực dân Pháp. Người cũng phân tích sâu sắc, biện chứng mối quan hệ giữa dân giàu - nước mạnh. Sau cuộc gặp này, Chính phủ được giới công thương Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung ủng hộ rất lớn về vật chất, qua đó giảm bớt khó khăn về tài chính cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp thân mật 30 nhà công thương Hà Nội, đại diện cho giới công thương Việt Nam, tại Phủ Chủ tịch, ngày 18/9/1945 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Ngay sau đó, Sắc lệnh số 36/SL ngày 22/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được ban hành nhằm bãi bỏ tất cả các nghiệp đoàn vốn chủ yếu bảo vệ lợi ích độc quyền kinh doanh của một nhóm nhỏ doanh nghiệp dưới thời chính quyền thuộc địa, như nghiệp đoàn: Nông sản và Lâm sản, Kỹ nghệ, Khoáng sản, Thương mại,... Đến ngày 02/10/1945, Bộ Quốc dân Kinh tế ra Nghị định cho phép các nhà kinh doanh có quyền tự do khai trương, mở rộng, nhượng lại hay di chuyển cơ sở kinh doanh2, qua đó xóa bỏ quy chế ngặt nghèo của chính quyền cai trị trước đây trong việc kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh.
Tiếp tục khẳng định vai trò, sứ mệnh quan trọng của giới công thương, ngày 13/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho giới công thương Việt Nam. Trong thư, có đoạn viết: “Được tin giới công thương đã đoàn kết lại thành “Công - Thương cứu quốc đoàn” và gia nhập vào Mặt trận Việt Minh, tôi rất vui mừng. Hiện nay, “Công - Thương cứu quốc đoàn” đương hoạt động để làm nhiều việc ích quốc lợi dân, tôi rất hoan nghênh và mong đợi nhiều kết quả tốt. Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền hoàn toàn độc lập của nước nhà, thì giới Công - Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng”3. Về trách nhiệm của các cơ quan công quyền đối với sự phát triển của giới công thương, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp giới công thương trong công cuộc kiến thiết...”4.
Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc với định hướng chiến lược nước ta cần phải vừa chiến đấu, vừa xây dựng kinh tế để vượt qua các khó khăn. Hai nhiệm vụ này quan trọng ngang nhau và để phát triển kinh tế thì cần tập trung khôi phục sản xuất công nghiệp, cho tư nhân góp vốn kinh doanh các nhà máy, khai mỏ, khuyến khích giới công thương mở hợp tác xã, mở hội cổ phần tham gia kiến thiết lại nước nhà5.
Nhiều lĩnh vực công nghiệp và thương mại dần được phục hồi, các doanh nhân tổ chức huy động vốn lập công ty kinh doanh mới, trong đó, có nhiều công ty có quy mô vốn lớn như Thái Bình Thương hội tại Hà Nội với số vốn 1 triệu đồng Đông Dương, Hải Việt Công ty tại Hải Phòng với số vốn 500.000 đồng Đông Dương...6. Điều này đã minh chứng các chủ trương và giải pháp mở mang kinh tế, phục hồi công thương nghiệp của Chính phủ ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 phù hợp với yêu cầu của đất nước, được các nhà kinh doanh trong giới công thương hưởng ứng nhằm góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập.
Trước nguy cơ chiến tranh hiện hữu, ngay từ tháng 3/1946, Chính phủ đã chủ trương bí mật di chuyển dần các máy móc, thiết bị, vật tư nguyên liệu sản xuất từ các đô thị, vùng công nghiệp quan trọng như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn - Chợ Lớn... về các khu vực an toàn, nhằm chuẩn bị cơ sở vật chất cho công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Chính phủ gấp rút sửa chữa, khôi phục các nhà máy lớn, trong đó có Nhà máy Giấy Đáp Cầu (Bắc Ninh) và lập các ủy ban thuộc Nhà nước để trông coi và tổ chức sản xuất (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Bộ Kinh tế được giao nhiệm vụ phối hợp với các đơn vị nghiên cứu, tính toán kỹ lưỡng những loại máy móc, vật tư sản xuất cần thiết và có thể di chuyển được, những gì cần ưu tiên chuyển trước và những gì có thể di chuyển cuối cùng mà vẫn đảm bảo duy trì hoạt động sản xuất. Đồng thời, Nha Tiếp tế trực tiếp thực hiện nhiệm vụ thu mua, vận chuyển và dự trữ hàng vạn tấn thóc gạo về các khu an toàn.
Một đội công tác đặc biệt được thành lập nhằm nghiên cứu tình hình kinh tế các địa phương mà Chính phủ dự kiến thiết lập thành căn cứ địa để đánh giá khả năng tự cấp tự túc, các nguồn lực kinh tế sẵn có, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ.
Theo thời gian, cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược lần thứ hai ngày càng cam go, ác liệt. Mặc dù bận nhiều công việc trong lãnh đạo kháng chiến, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành nhiều thời gian quan tâm đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của giới công thương. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên đánh giá cao, khuyến khích những thành tích đạt được của các đơn vị, xí nghiệp sản xuất, cơ sở thương mại. Đồng thời, Chính phủ cũng thực hiện hàng loạt giải pháp nhằm phát triển sản xuất công nghiệp, đảm bảo việc cung ứng hàng hóa cho kháng chiến và đời sống nhân dân diễn ra hiệu quả, cũng như đấu tranh kinh tế thắng lợi với địch.
Trong Tuần lễ Vàng, các tầng lớp nhân dân, trong đó có giới công thương đã quyên góp được 20 triệu đồng và 370 kg vàng (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)Sự kiện Tuần lễ Vàng
Khi nhắc đến sự kiện Tuần lễ Vàng, bà Hoàng Thị Minh Hồ, vợ của nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô, chủ hiệu buôn tơ lụa nổi tiếng Phúc Lợi ở 48 Hàng Ngang (Hà Nội) xúc động kể lại: “Vợ chồng tôi cảm kích trước bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào cả nước khi cụ nói về trách nhiệm của người dân trước quốc gia non trẻ, nên ngay trong ngày đầu tiên vợ chồng tôi đã ủng hộ 117 lạng vàng”. Tổng cộng từ khi được giác ngộ, gia đình nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô đã ủng hộ Việt Minh, Chính phủ lâm thời 5.147 lạng vàng.
Nhà tư sản Nguyễn Sơn Hà chuyên sản xuất sơn cũng rất tích cực đóng góp tiền vàng, ông còn vận động các nhà tư sản khác và mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Trong lần ủng hộ đầu tiên, gia đình ông đã hiến tặng toàn bộ số nữ trang của gia đình nặng 10,5 kg vàng. Ngoài ra, còn rất nhiều nhà tư sản khác như ông Ngô Tử Hạ, ông Tống Minh Phương, bà Vương Thị Lai, ông Đỗ Đình Thiện...
Có một điều rất đáng khâm phục đó là các nhà tư sản đều biết rõ âm mưu của thực dân Pháp muốn quay lại chiếm Việt Nam và chắc chắn công việc kinh doanh của họ sẽ bị gây khó dễ nhưng họ vẫn chấp nhận. Trước tấm lòng vì nước của giới công thương Việt Nam, ngày 13/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư động viên, cổ vũ giới công thương tham gia công cuộc xây dựng đất nước và ngày này đã trở thành “Ngày Doanh nhân Việt Nam” hiện nay.
1. Tuần lễ Vàng là sự kiện do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động, bắt đầu từ ngày 17/9/1945 đến ngày 24/9/1945 nhằm kêu gọi sự ủng hộ của nhân dân, nhất là tầng lớp thương nhân, chung tay đóng góp vào ngân sách quốc gia, giúp tháo gỡ khó khăn về mặt tài chính của đất nước.
2. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 2, ngày 06/10/1945, tr.25.
3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.53.
5. Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, t.3, tr.44.
6. Xem Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Kinh tế học, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000 (Tập 1: 1945 - 1954), Sđd, tr.160.
II. Những chủ trương và biện pháp khôi phục, phát triển sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại (19/8/1945 - 19/12/1946)
Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp thân mật 30 nhà công thương Hà Nội, đại diện cho giới công thương Việt Nam, tại Phủ Chủ tịch, ngày 18/9/1945 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam) Chính phủ gấp rút sửa chữa, khôi phục các nhà máy lớn, trong đó có Nhà máy Giấy Đáp Cầu (Bắc Ninh) và lập các ủy ban thuộc Nhà nước để trông coi và tổ chức sản xuất (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)