1. Những khó khăn giải pháp

Thắng lợi trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao chiến thắng Điện Biên Phủ của quân dân ta đã buộc thực dân Pháp phải Hiệp định đình chỉ chiến sự Việt Nam, Lào, Campuchia, tại Giơnevơ vào ngày 21/7/1954, lập lại hòa bình tại Đông Dương.

Theo Hiệp định Giơnevơ, Việt Nam tạm thời chia làm hai miền Nam, Bắc, phân chia bởi tuyến 17, để hai bên tập kết lực lượng quân sự, giải quyết các vấn đề sau chiến tranh. Quân đội Pháp tại miền Bắc sẽ rút vào tạm đóng miền Nam rồi sẽ rút hoàn toàn khỏi Việt Nam. Việc rút quân được thực hiện theo từng khu vực trong những khoảng thời gian được thoả thuận. miền Bắc, một số khu vực trở thành vùng tập kết, chuyển quân của quân đội Pháp như Nội với thời gian chuyển quân 80 ngày, Hải Phòng với thời gian tập kết lên tới 300 ngày.

Tuy nhiên, việc buộc thực dân Pháp vừa bại trận nhưng vẫn còn lực lượng quân sự đông đảo trên lãnh thổ Việt Nam vẫn âm mưu kéo dài sự thống trị của họ Đông Dương thực hiện Hiệp định một cách nghiêm túc nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp.

Bờ Hiền Lương Khẩu hiệu đặt bên bờ bắc cầu Hiền Lương trong những năm tháng đất nước bị chia cắt (Ảnh: LIFE)

Trên mặt trận kinh tế, ba nhiệm vụ cấp bách được đặt ra đối với Bộ Công Thương, gồm: tiếp tục duy trì hoạt động kinh tế diễn ra bình thường tại vùng tự do, chuẩn bị các nguồn lực cần thiết phục vụ việc tiếp quản Thủ đô Nội, xác định phương hướng hòa nhập nền kinh tế tại vùng tự do với vùng mới được giải phóng (vùng tạm bị địch chiếm trước đây) thành một nền kinh tế duy nhất, hoàn chỉnh. Các nhiệm vụ này cần được giải quyết chỉ trong vòng chưa đến 100 ngày để đảm bảo việc tiếp quản Nội nói riêng các khu vực khác diễn ra thuận lợi.

Khó khăn lớn nhất nổi lên việc phải xây dựng được chính sách giá phù hợp, làm sở cho việc thống nhất giá cả giữa vùng tự do vùng mới được giải phóng trong bối cảnh giá cả giữa hai vùng sự chênh lệch mạnh.

Khi Hiệp định Giơnevơ bắt đầu được thi hành, ranh giới quân sự giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm được xóa bỏ, toàn bộ các hạn chế trước đây về giao thương, di chuyển được dỡ bỏ. Ngay lập tức, lượng lớn hàng hóa giá rẻ tại vùng tạm bị địch chiếm tràn sang vùng tự do, khiến giá hàng hóa trên vùng tự do sụt giảm mạnh. Điều này một mặt lợi cho người tiêu dùng, mặt khác ảnh hưởng tiêu cực nhất định đến sự hoạt động của các sở sản xuất, tiểu thủ công nghiệp trong vùng tự do. Giới thương nhân vùng tự do cũng chịu ảnh hưởng mạnh khi vừa mới gom thu mua hàng hôm qua thì hôm sau giá hàng hóa đã tụt xuống thấp hơn.

Khó khăn lớn thứ hai lượng hàng hóa dự trữ thiết yếu Sở Mậu dịch nắm giữ lúc này còn lại tương đối ít. Các mặt hàng thực phẩm, gạo nói chung đã được huy động sử dụng gần hết trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954. Một số mặt hàng như muối lại nằm tại các kho dự trữ sâu trong vùng rừng núi nhằm đảm bảo an toàn trong kháng chiến, khiến việc vận chuyển ra khu vực mới giải phóng gặp nhiều khó khăn. Các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng tương đối dồi dào hơn, nhưng một số mặt hàng như vải sợi được đánh giá không phù hợp với người tiêu dùng thành thị trong vùng mới giải phóng, đồng thời, phát sinh thêm nhu cầu phải chuẩn bị một số mặt hàng mới từ trước đến nay hệ thống mậu dịch của ta gần như không hoặc không dự trữ số lượng lớn, điển hình xăng dầu than đá.

Đối với xăng dầu, từ trước đến nay, nhu cầu nhiên liệu vốn do lực lượng hậu cần quân đội tự đảm bảo để phục vụ các hoạt động quân sự, nhưng Sở Mậu dịch nay sẽ phải đảm bảo cung ứng nhiên liệu cho nhu cầu dân sự tại các khu vực thành thị. Đối với than đá, nhu cầu sử dụng dự kiến mức rất lớn do mức tiêu thụ cao của các nhà máy, sở kinh doanh, tiếp đến các phương tiện vận tải như tàu hỏa, tàu thủy, cũng như sinh hoạt của nhân dân. Đặc biệt, phải đảm bảo cung ứng liên tục than cho các nhà máy điện. Các mỏ than tại vùng tự do quy nhỏ, sản lượng thấp quy cách chất lượng không đáp ứng; các mỏ than lớn tại Hòn Gai lại nằm trong khu vực tập kết 300 ngày của quân đội Pháp.

Khó khăn lớn thứ ba Sở Mậu dịch chưa mạng lưới sở phân phối, hệ thống kho hàng tại các khu vực mới được giải phóng; đồng thời, đội ngũ cán bộ hệ thống mậu dịch phần lớn chỉ hoạt động khu vực nông thôn, miền núi chưa kinh nghiệm quản hoạt động thương mại khu vực đô thị. sở cách mạng một số nơi còn yếu mỏng, chính quyền sở chưa được thiết lập, nên hoạt động điều phối thương mại, quản sản xuất trong những ngày đầu tiếp quản vùng mới giải phóng dự kiến gặp nhiều khó khăn.

Trong khi đó, lợi dụng thời gian tập kết, quân đội Pháp, các thế lực phản động cũng như giới bản Pháp ngấm ngầm phá hoại triệt để các sở vật chất, tháo gỡ máy móc, di chuyển vật hàng hóa, tài liệu quý... nhằm làm cho miền Bắc trở nên trống rỗng, liệt hoàn toàn khi chúng rút đi. Điển hình, giới chủ Nhà máy Điện Yên Phụ tại Nội hạn chế nhập thêm than, sử dụng cạn kiệt than trong kho dự trữ nhằm gây mất điện thành phố sau ngày giải phóng. Tại Nhà máy Dệt Nam Định, giới chủ âm mưu tháo gỡ toàn bộ các máy móc quan trọng vật sản xuất để chuyển vào miền Nam. Nguy hiểm hơn, địch tăng cường tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng Chính phủ đối với công chức, trí thức, học sinh, sinh viên, sản, tiểu thương với những luận điệu như “tư sản, tiểu thương không được buôn bán”, “học sinh, sinh viên không được đi học”... cưỡng ép công nhân, viên chức đồng bào di vào Nam. Điều này gây ra tâm hoang mang trong một bộ phận dân chúng sinh sống tại vùng tạm bị địch chiếm.

Việc thiếu hụt hàng hóa, vật sản xuất cũng như biến động giá lớn sẽ khiến các hoạt động kinh tế bị đình trệ, đời sống nhân dân bị xáo trộn, ảnh hưởng xấu đến uy tín của chính quyền cách mạng.

Nhằm giải quyết các khó khăn này, Bộ Công Thương đề xuất phải chủ động can thiệp, thống nhất giá trên thị trường sử dụng giá vùng tự do làm sở để điều chỉnh giá trên vùng mới được giải phóng. Bởi lẽ, nếu để giá hàng hóa trên thị trường giữa vùng tự do vùng mới được giải phóng tự điều chỉnh thì hậu quả sẽ khôn lường, ảnh hưởng tiêu cực lâu dài. Trước tiên gây mất ổn định sản xuất kinh doanh trong vùng tự do. Thời gian đầu, giá cả sẽ giảm, nhưng đến khi lượng hàng tồn trong vùng mới được giải phóng cạn kiệt thì sẽ dẫn đến tình trạng đầu cơ, thao túng giá khiến giá cả tăng mạnh.

Tại sao phải sử dụng giá hàng hóa vùng tự do vốn mức cao hơn so với vùng mới được giải phóng làm sở để điều chỉnh giá toàn nền kinh tế không phải ngược lại? Do nền kinh tế vùng mới được giải phóng tuy phát triển mức độ nhất định, nhưng về bản chất vẫn nền kinh tế phục vụ chiến tranh. Nguồn hàng hóa dồi dào, nhưng hầu như đến từ bên ngoài không phải bằng hoạt động xuất, nhập khẩu bình thường, bằng viện trợ những hoạt động đầu tiền tệ.

Chợ Đồng Xuân 1954 Toàn cảnh mặt trước chợ Đồng Xuân năm 1954 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

vậy, nền kinh tế này sẽ nhanh chóng rối loạn, tự sụp đổ khi các nguồn lực bên ngoài bị rút đi. Trong khi đó, nền kinh tế của vùng tự do tuy nghèo nàn, kém phát triển hơn do chiến tranh, nhưng bản tự chủ, đáp ứng được các nhu cầu của nhân dân. Trong điều kiện hòa bình, sẽ phát triển nhanh, tiến tới hình thành một nền kinh tế độc lập, vững mạnh.

Việc dùng giá của vùng tự do để điều chỉnh, nâng giá hàng hóa tại vùng mới được giải phóng sẽ giúp kích thích hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp vốn bị đình đốn thời gian dài không cạnh tranh được với hàng nhập khẩu giá rẻ. Mặt khác, nếu dùng giá của vùng mới được giải phóng để điều chỉnh, kéo giá của vùng tự do xuống thì ta phải lượng hàng hóa dự trữ rất lớn để sẵn sàng can thiệp thị trường. Việc điều chỉnh giá được áp dụng trước đối với các mặt hàng nông nghiệp nhằm phục hồi nông nghiệp, nhất tại các vùng “trắng” giáp ranh giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm trước đây. Từ đó làm “cơ sở của việc cải thiện đời sống nhân dân”1. Các mặt hàng công nghiệp sẽ được điều chỉnh giá vào ngày 01/01/1955, tức gần ba tháng sau ngày ta tiếp quản Nội.

Đồng thời, Bộ Công Thương đề xuất gom mua tối đa hàng hóa nhằm vừa giữ giá vùng tự do để duy trì nền kinh tế tại đây vận hành bình thường, vừa tăng cường nguồn hàng hóa, vật dự trữ cần thiết cho hệ thống mậu dịch chuẩn bị tiếp quản Thủ đô cũng như các vùng mới được giải phóng. Các chủ trương này được Đảng Chính phủ chấp thuận; việc triển khai được thực hiện tuyệt đối mật, kỹ lưỡng trong các khâu nhằm tránh tình trạng đầu hưởng chênh lệch giữa giá giá mới, thiếu hụt hàng hóa rối loạn thị trường khi các thương nhân còn nắm lượng hàng tồn kho rất lớn.

Tuy nhiên, do cảng Hải Phòng nằm trong vùng tập kết 300 ngày của quân đội Pháp, nên địch đã tìm nhiều cách ngăn chặn việc chuyển hàng từ Hải Phòng về Nội bằng đường xe lửa, nhằm gây tình trạng thiếu hụt hàng hóa trên thị trường. Một số hãng buôn đã lợi dụng điều này để găm hàng, đầu cơ. Điều này buộc Bộ Công Thương phải điều chỉnh kế hoạch, cho phép Sở Mậu dịch thu mua các hàng công nghiệp từ các thương nhân đang chào bán. Nhưng số lượng hàng giới thương nhân chủ động bán cho Sở Mậu dịch trong giai đoạn này tương đối ít họ bắt đầu đẩy giá lên để trục lợi, buộc ta phải các biện pháp điều chỉnh bằng mệnh lệnh hành chính công cụ thuế khi chính thức điều chính giá các mặt hàng công nghiệp vào đầu năm 1955.

Song song với việc chuẩn bị hàng hóa công tác kiện toàn đội ngũ cán bộ tham gia quá trình tiếp quản Nội. Các cán bộ tham gia nhiệm vụ lịch sử này đều được tuyển chọn kỹ lưỡng với yêu cầu trình độ chuyên môn, uy tín cao. Các đoàn công tác đều phải tham gia khóa tập huấn “8 chính sách, 10 điều kỷ luật” về tiếp quản, tập huấn nghiệp vụ, tác phong của người cán bộ quản kinh tế hoạt động trên địa bàn thành thị, thái độ giao tiếp với người dân, tinh thần cảnh giác, đấu tranh với các thủ đoạn lũng đoạn kinh tế của bọn đầu cơ, buôn lậu.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.295.

1. Những khó khăn giải pháp

Thắng lợi trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao chiến thắng Điện Biên Phủ của quân dân ta đã buộc thực dân Pháp phải Hiệp định đình chỉ chiến sự Việt Nam, Lào, Campuchia, tại Giơnevơ vào ngày 21/7/1954, lập lại hòa bình tại Đông Dương.

Theo Hiệp định Giơnevơ, Việt Nam tạm thời chia làm hai miền Nam, Bắc, phân chia bởi tuyến 17, để hai bên tập kết lực lượng quân sự, giải quyết các vấn đề sau chiến tranh. Quân đội Pháp tại miền Bắc sẽ rút vào tạm đóng miền Nam rồi sẽ rút hoàn toàn khỏi Việt Nam. Việc rút quân được thực hiện theo từng khu vực trong những khoảng thời gian được thoả thuận. miền Bắc, một số khu vực trở thành vùng tập kết, chuyển quân của quân đội Pháp như Nội với thời gian chuyển quân 80 ngày, Hải Phòng với thời gian tập kết lên tới 300 ngày.

Tuy nhiên, việc buộc thực dân Pháp vừa bại trận nhưng vẫn còn lực lượng quân sự đông đảo trên lãnh thổ Việt Nam vẫn âm mưu kéo dài sự thống trị của họ Đông Dương thực hiện Hiệp định một cách nghiêm túc nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp.

Bờ Hiền Lương Khẩu hiệu đặt bên bờ bắc cầu Hiền Lương trong những năm tháng đất nước bị chia cắt (Ảnh: LIFE)

Trên mặt trận kinh tế, ba nhiệm vụ cấp bách được đặt ra đối với Bộ Công Thương, gồm: tiếp tục duy trì hoạt động kinh tế diễn ra bình thường tại vùng tự do, chuẩn bị các nguồn lực cần thiết phục vụ việc tiếp quản Thủ đô Nội, xác định phương hướng hòa nhập nền kinh tế tại vùng tự do với vùng mới được giải phóng (vùng tạm bị địch chiếm trước đây) thành một nền kinh tế duy nhất, hoàn chỉnh. Các nhiệm vụ này cần được giải quyết chỉ trong vòng chưa đến 100 ngày để đảm bảo việc tiếp quản Nội nói riêng các khu vực khác diễn ra thuận lợi.

Khó khăn lớn nhất nổi lên việc phải xây dựng được chính sách giá phù hợp, làm sở cho việc thống nhất giá cả giữa vùng tự do vùng mới được giải phóng trong bối cảnh giá cả giữa hai vùng sự chênh lệch mạnh.

Khi Hiệp định Giơnevơ bắt đầu được thi hành, ranh giới quân sự giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm được xóa bỏ, toàn bộ các hạn chế trước đây về giao thương, di chuyển được dỡ bỏ. Ngay lập tức, lượng lớn hàng hóa giá rẻ tại vùng tạm bị địch chiếm tràn sang vùng tự do, khiến giá hàng hóa trên vùng tự do sụt giảm mạnh. Điều này một mặt lợi cho người tiêu dùng, mặt khác ảnh hưởng tiêu cực nhất định đến sự hoạt động của các sở sản xuất, tiểu thủ công nghiệp trong vùng tự do. Giới thương nhân vùng tự do cũng chịu ảnh hưởng mạnh khi vừa mới gom thu mua hàng hôm qua thì hôm sau giá hàng hóa đã tụt xuống thấp hơn.

Khó khăn lớn thứ hai lượng hàng hóa dự trữ thiết yếu Sở Mậu dịch nắm giữ lúc này còn lại tương đối ít. Các mặt hàng thực phẩm, gạo nói chung đã được huy động sử dụng gần hết trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954. Một số mặt hàng như muối lại nằm tại các kho dự trữ sâu trong vùng rừng núi nhằm đảm bảo an toàn trong kháng chiến, khiến việc vận chuyển ra khu vực mới giải phóng gặp nhiều khó khăn. Các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng tương đối dồi dào hơn, nhưng một số mặt hàng như vải sợi được đánh giá không phù hợp với người tiêu dùng thành thị trong vùng mới giải phóng, đồng thời, phát sinh thêm nhu cầu phải chuẩn bị một số mặt hàng mới từ trước đến nay hệ thống mậu dịch của ta gần như không hoặc không dự trữ số lượng lớn, điển hình xăng dầu than đá.

Đối với xăng dầu, từ trước đến nay, nhu cầu nhiên liệu vốn do lực lượng hậu cần quân đội tự đảm bảo để phục vụ các hoạt động quân sự, nhưng Sở Mậu dịch nay sẽ phải đảm bảo cung ứng nhiên liệu cho nhu cầu dân sự tại các khu vực thành thị. Đối với than đá, nhu cầu sử dụng dự kiến mức rất lớn do mức tiêu thụ cao của các nhà máy, sở kinh doanh, tiếp đến các phương tiện vận tải như tàu hỏa, tàu thủy, cũng như sinh hoạt của nhân dân. Đặc biệt, phải đảm bảo cung ứng liên tục than cho các nhà máy điện. Các mỏ than tại vùng tự do quy nhỏ, sản lượng thấp quy cách chất lượng không đáp ứng; các mỏ than lớn tại Hòn Gai lại nằm trong khu vực tập kết 300 ngày của quân đội Pháp.

Khó khăn lớn thứ ba Sở Mậu dịch chưa mạng lưới sở phân phối, hệ thống kho hàng tại các khu vực mới được giải phóng; đồng thời, đội ngũ cán bộ hệ thống mậu dịch phần lớn chỉ hoạt động khu vực nông thôn, miền núi chưa kinh nghiệm quản hoạt động thương mại khu vực đô thị. sở cách mạng một số nơi còn yếu mỏng, chính quyền sở chưa được thiết lập, nên hoạt động điều phối thương mại, quản sản xuất trong những ngày đầu tiếp quản vùng mới giải phóng dự kiến gặp nhiều khó khăn.

Trong khi đó, lợi dụng thời gian tập kết, quân đội Pháp, các thế lực phản động cũng như giới bản Pháp ngấm ngầm phá hoại triệt để các sở vật chất, tháo gỡ máy móc, di chuyển vật hàng hóa, tài liệu quý... nhằm làm cho miền Bắc trở nên trống rỗng, liệt hoàn toàn khi chúng rút đi. Điển hình, giới chủ Nhà máy Điện Yên Phụ tại Nội hạn chế nhập thêm than, sử dụng cạn kiệt than trong kho dự trữ nhằm gây mất điện thành phố sau ngày giải phóng. Tại Nhà máy Dệt Nam Định, giới chủ âm mưu tháo gỡ toàn bộ các máy móc quan trọng vật sản xuất để chuyển vào miền Nam. Nguy hiểm hơn, địch tăng cường tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng Chính phủ đối với công chức, trí thức, học sinh, sinh viên, sản, tiểu thương với những luận điệu như “tư sản, tiểu thương không được buôn bán”, “học sinh, sinh viên không được đi học”... cưỡng ép công nhân, viên chức đồng bào di vào Nam. Điều này gây ra tâm hoang mang trong một bộ phận dân chúng sinh sống tại vùng tạm bị địch chiếm.

Việc thiếu hụt hàng hóa, vật sản xuất cũng như biến động giá lớn sẽ khiến các hoạt động kinh tế bị đình trệ, đời sống nhân dân bị xáo trộn, ảnh hưởng xấu đến uy tín của chính quyền cách mạng.

Nhằm giải quyết các khó khăn này, Bộ Công Thương đề xuất phải chủ động can thiệp, thống nhất giá trên thị trường sử dụng giá vùng tự do làm sở để điều chỉnh giá trên vùng mới được giải phóng. Bởi lẽ, nếu để giá hàng hóa trên thị trường giữa vùng tự do vùng mới được giải phóng tự điều chỉnh thì hậu quả sẽ khôn lường, ảnh hưởng tiêu cực lâu dài. Trước tiên gây mất ổn định sản xuất kinh doanh trong vùng tự do. Thời gian đầu, giá cả sẽ giảm, nhưng đến khi lượng hàng tồn trong vùng mới được giải phóng cạn kiệt thì sẽ dẫn đến tình trạng đầu cơ, thao túng giá khiến giá cả tăng mạnh.

Tại sao phải sử dụng giá hàng hóa vùng tự do vốn mức cao hơn so với vùng mới được giải phóng làm sở để điều chỉnh giá toàn nền kinh tế không phải ngược lại? Do nền kinh tế vùng mới được giải phóng tuy phát triển mức độ nhất định, nhưng về bản chất vẫn nền kinh tế phục vụ chiến tranh. Nguồn hàng hóa dồi dào, nhưng hầu như đến từ bên ngoài không phải bằng hoạt động xuất, nhập khẩu bình thường, bằng viện trợ những hoạt động đầu tiền tệ.

Chợ Đồng Xuân 1954 Toàn cảnh mặt trước chợ Đồng Xuân năm 1954 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

vậy, nền kinh tế này sẽ nhanh chóng rối loạn, tự sụp đổ khi các nguồn lực bên ngoài bị rút đi. Trong khi đó, nền kinh tế của vùng tự do tuy nghèo nàn, kém phát triển hơn do chiến tranh, nhưng bản tự chủ, đáp ứng được các nhu cầu của nhân dân. Trong điều kiện hòa bình, sẽ phát triển nhanh, tiến tới hình thành một nền kinh tế độc lập, vững mạnh.

Việc dùng giá của vùng tự do để điều chỉnh, nâng giá hàng hóa tại vùng mới được giải phóng sẽ giúp kích thích hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp vốn bị đình đốn thời gian dài không cạnh tranh được với hàng nhập khẩu giá rẻ. Mặt khác, nếu dùng giá của vùng mới được giải phóng để điều chỉnh, kéo giá của vùng tự do xuống thì ta phải lượng hàng hóa dự trữ rất lớn để sẵn sàng can thiệp thị trường. Việc điều chỉnh giá được áp dụng trước đối với các mặt hàng nông nghiệp nhằm phục hồi nông nghiệp, nhất tại các vùng “trắng” giáp ranh giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm trước đây. Từ đó làm “cơ sở của việc cải thiện đời sống nhân dân”1. Các mặt hàng công nghiệp sẽ được điều chỉnh giá vào ngày 01/01/1955, tức gần ba tháng sau ngày ta tiếp quản Nội.

Đồng thời, Bộ Công Thương đề xuất gom mua tối đa hàng hóa nhằm vừa giữ giá vùng tự do để duy trì nền kinh tế tại đây vận hành bình thường, vừa tăng cường nguồn hàng hóa, vật dự trữ cần thiết cho hệ thống mậu dịch chuẩn bị tiếp quản Thủ đô cũng như các vùng mới được giải phóng. Các chủ trương này được Đảng Chính phủ chấp thuận; việc triển khai được thực hiện tuyệt đối mật, kỹ lưỡng trong các khâu nhằm tránh tình trạng đầu hưởng chênh lệch giữa giá giá mới, thiếu hụt hàng hóa rối loạn thị trường khi các thương nhân còn nắm lượng hàng tồn kho rất lớn.

Tuy nhiên, do cảng Hải Phòng nằm trong vùng tập kết 300 ngày của quân đội Pháp, nên địch đã tìm nhiều cách ngăn chặn việc chuyển hàng từ Hải Phòng về Nội bằng đường xe lửa, nhằm gây tình trạng thiếu hụt hàng hóa trên thị trường. Một số hãng buôn đã lợi dụng điều này để găm hàng, đầu cơ. Điều này buộc Bộ Công Thương phải điều chỉnh kế hoạch, cho phép Sở Mậu dịch thu mua các hàng công nghiệp từ các thương nhân đang chào bán. Nhưng số lượng hàng giới thương nhân chủ động bán cho Sở Mậu dịch trong giai đoạn này tương đối ít họ bắt đầu đẩy giá lên để trục lợi, buộc ta phải các biện pháp điều chỉnh bằng mệnh lệnh hành chính công cụ thuế khi chính thức điều chính giá các mặt hàng công nghiệp vào đầu năm 1955.

Song song với việc chuẩn bị hàng hóa công tác kiện toàn đội ngũ cán bộ tham gia quá trình tiếp quản Nội. Các cán bộ tham gia nhiệm vụ lịch sử này đều được tuyển chọn kỹ lưỡng với yêu cầu trình độ chuyên môn, uy tín cao. Các đoàn công tác đều phải tham gia khóa tập huấn “8 chính sách, 10 điều kỷ luật” về tiếp quản, tập huấn nghiệp vụ, tác phong của người cán bộ quản kinh tế hoạt động trên địa bàn thành thị, thái độ giao tiếp với người dân, tinh thần cảnh giác, đấu tranh với các thủ đoạn lũng đoạn kinh tế của bọn đầu cơ, buôn lậu.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.295.

VI- CHUẨN BỊ TIẾP QUẢN THỦ ĐÔ

Bờ Hiền Lương Khẩu hiệu đặt bên bờ bắc cầu Hiền Lương trong những năm tháng đất nước bị chia cắt (Ảnh: LIFE) chợ Đồng Xuân 1954 Toàn cảnh mặt trước chợ Đồng Xuân năm 1954 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam) mậu dịch Mậu dịch quốc doanh mở cửa, hoạt động kinh tế trở lại ngay sau ngày giải phóng Thủ đô (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

2. Chuẩn bị hàng hóa

Sở Mậu dịch khẩn trương tổ chức hàng loạt trạm thu mua dọc các đường ranh giới giữa vùng tự do và vùng tạm bị địch chiếm trước đây, với nhiệm vụ gom mua càng nhiều càng tốt các loại hàng hóa thiết yếu như lương thực, chất đốt... được chuyển từ vùng mới được giải phóng vào vùng tự do. Giải pháp này nhanh chóng phát huy tác dụng, đà giảm của giá hàng hóa tại vùng tự do được chặn đứng, hoạt động sản xuất kinh doanh tại vùng tự do diễn ra như bình thường.

Mặt khác, Bộ Công Thương tổ chức các đoàn cán bộ bí mật vào Hà Nội để đàm phán mua lại hàng tồn kho của các hãng buôn đang cần bán thu hồi vốn trước khi di tản vào miền Nam, lên kế hoạch bố trí các điểm bán hàng thuận lợi, cũng như chuẩn bị cho công tác quản lý các hoạt động kinh tế tại Thủ đô sau này. Đồng thời, phối hợp với các đơn vị cùng vào tiếp quản để giải thích, tuyên truyền với quần chúng nhân dân về các chính sách quản lý kinh tế của ta, nhằm ổn định các hoạt động kinh tế tại vùng mới được giải phóng.

Qua thương lượng và tích cực vận động, một số hãng buôn của người Việt và người nước ngoài đồng ý cho tận dụng cơ sở kinh doanh, kho hàng sẵn có của họ để cán bộ mậu dịch thiết lập các điểm bán hàng cho nhân dân.

Theo Hiệp định Giơnevơ, những vùng nông thôn tại đồng bằng sông Hồng là nơi được ta tiếp quản sớm. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai điều chỉnh giá các mặt hàng nông sản, cũng như công tác chuẩn bị hàng hóa phục vụ tiếp quản Hà Nội.

Sở Mậu dịch đã tổ chức thu mua thóc gạo từ các tỉnh Hà Nam, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên... và thu mua muối tại Nam Định, với giá mua vào trong thời gian đầu cao hơn giá thị trường ở một mức được tính toán kỹ, nhằm khuyến khích nông dân bán trực tiếp cho hệ thống mậu dịch, nhưng các thương nhân không thể trục lợi để gom mua lúa rồi bán lại cho ta. Sở Mậu dịch cũng bố trí phương tiện để đảm bảo việc thu mua, vận chuyển hàng diễn ra thông suốt và liên tục.

Khi giá thị trường đã lên ngang giá thu mua của hệ thống mậu dịch, ta lại điều chỉnh giá thu mua lên cao thêm mức nữa. Cứ như vậy cho đến khi giá thóc gạo lên tới mức giá dự kiến điều chỉnh và lượng thu mua trong kho dự trữ mậu dịch đáp ứng đủ thì ta ngưng thu mua và giá trên thị trường biến động quanh ngưỡng giá này.

Kết quả là, Sở Mậu dịch gom mua được hàng chục vạn tấn thóc gạo; nông dân phấn khởi, đẩy mạnh hoạt động canh tác trở lại; giá thị trường tăng lên theo đúng dự kiến mà giới thương lái không trục lợi được. Hoạt động điều chỉnh giá sản phẩm nông nghiệp đã giúp Bộ Công Thương thu nhiều kinh nghiệm quý giá cho việc điều chỉnh giá sản phẩm công nghiệp trong năm 1955.

Đối với mặt hàng than, Bộ Công Thương chỉ đạo các mỏ khai thác tại vùng tự do nỗ lực tăng sản lượng nhằm đáp ứng thêm một phần nhu cầu tại vùng mới được giải phóng. Điển hình, cán bộ và công nhân mỏ than Quán Triều (Thái Nguyên) đã phát động phong trào thi đua sản xuất, tăng cường thời gian làm việc, thêm ca khai thác, giúp nâng sản lượng khai thác lên hơn 1.300 tấn chỉ trong vòng 1 tháng để chuyển về Hà Nội.

Đồng thời, nhiều cán bộ mậu dịch được cử tìm kiếm, liên hệ với các hãng kinh doanh than tại Hà Nội để ký hợp đồng mua. Thay vì chỉ đặt cọc, Sở Mậu dịch chủ động đề nghị thanh toán trước một phần hợp đồng bằng tiền Đông Dương, tiền Việt Nam hoặc thậm chí bằng hàng lâm, thổ sản có giá trị cao, nhằm khuyến khích các hãng kinh doanh nghiêm túc thực hiện hợp đồng trong bối cảnh thị trường có nhiều biến động. Sau ngày 10/10/1954, các hãng buôn đều chuyển giao đầy đủ than chất lượng tốt theo hợp đồng và Sở Mậu dịch thanh toán nhanh gọn cho họ.

Qua nắm bắt tình hình, Bộ Công Thương cũng biết được Công ty Than Hòn Gai của Pháp vốn nằm trong khu vực tập kết 300 ngày vẫn có nhu cầu tiêu thụ sản phẩm; trong khi đó, Công ty Xe lửa Đông Dương (cũng thuộc Pháp) với nhiều cơ sở tại các vùng đã được ta giải phóng cần than chạy tàu để có doanh thu. Đồng thời, Chính phủ Pháp muốn có một biểu thị thiện chí với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bộ Công Thương đã tận dụng điều này để đề xuất mua than từ Công ty Than Hòn Gai dựa trên nhu cầu vận hành hệ thống đường sắt của Công ty Xe lửa Đông Dương. Đề xuất này được phía Pháp chấp thuận và thực hiện nghiêm túc, đảm bảo việc vận chuyển lượng lớn than về Hà Nội.

Tương tự, Việt Nam cũng yêu cầu phía Pháp đảm bảo duy trì việc vận chuyển xăng dầu từ Hải Phòng về Hà Nội diễn ra như bình thường. Đặc biệt, lực lượng công nhân yêu nước tại Sở Dầu Thượng Lý đã đấu tranh quyết liệt trước âm mưu tháo gỡ, phá hủy các trang thiết bị, máy móc tại kho, bể chứa dầu của giới chủ Pháp, kiên quyết yêu cầu phải tiếp tục thực hiện các hợp đồng cung ứng nhiên liệu cho các đơn vị tại Hà Nội như bình thường trong suốt thời gian quân đội Pháp còn tập kết tại Hải Phòng. Hoạt động đấu tranh này không chỉ góp phần duy trì các hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra bình thường sau ngày giải phóng, mà còn tạo điều kiện cơ sở vật chất cần thiết để ngành Xăng dầu Việt Nam ra đời.

Bằng nhiều biện pháp kết hợp, một lượng lớn hàng hóa tiêu dùng, vật tư sản xuất cần thiết như vải các loại, dầu hỏa, sợi dệt... cũng được Sở Mậu dịch thu mua với mức giá phù hợp. Hầu hết hàng hóa này lại nằm sẵn tại các kho ở Hà Nội, cho phép Sở Mậu dịch tổ chức bán hàng ra cho nhân dân ngay khi tiếp quản.

Ngày 10/10/1954, cả Hà Nội nhộn nhịp, ngập trong rừng cờ, hoa, biểu ngữ. Hàng vạn người dân tràn ra đường chào đón đoàn quân chiến thắng trở về sau 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Theo sau các lực lượng vũ trang là các cán bộ mậu dịch. Sở Mậu dịch tổ chức ngay việc bán những mặt hàng dân sinh thiết yếu như gạo, muối, chất đốt...; nhân dân lại phấn khởi khi đêm xuống thì ánh điện vẫn bừng sáng trên toàn thành phố, xóa đi tâm lý lo lắng người Pháp sẽ cắt điện sau khi rút đi. Hôm sau, các khu chợ, cửa hàng kinh doanh, nhà máy, các cơ sở sản xuất cũng mở cửa hoạt động trở lại ngay trong bầu không khí hân hoan, nhân dân càng thêm tin tưởng vào chính quyền cách mạng. Sau đó vài ngày, ba công ty quốc doanh gồm Công ty Lương thực, Công ty Bách hóa và Công ty Lâm thổ sản được thành lập để thúc đẩy việc lưu thông hàng hóa, cung ứng ra thị trường nhiều loại hàng hóa hơn, góp phần đảm bảo đời sống cho nhân dân. Nhiều nhà quan sát quốc tế ngạc nhiên vì hiếm có thủ đô của một quốc gia được giải phóng sau một cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài mà được tiếp quản trọn vẹn, các hoạt động kinh tế - xã hội vẫn diễn ra bình thường.

mậu dịch Mậu dịch quốc doanh mở cửa, hoạt động kinh tế trở lại ngay sau ngày giải phóng Thủ đô (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Nhà máy Điện Yên Phụ những ngày tiếp quản Thủ đô

Trước khi lực lượng cách mạng tiến vào tiếp quản Nhà máy Điện Yên Phụ, thực dân Pháp từng tuyên truyền rằng Việt Minh sẽ không thể tự quản lý nổi nhà máy điện lớn nhất miền Bắc, chỉ sau vài ba ngày nhà máy sẽ bị tê liệt, Hà Nội sẽ bị chìm trong bóng đêm. Giới chủ Pháp đã âm mưu di tản các thiết bị, phụ tùng và sử dụng cạn kiệt nguồn than dự trữ làm cho nhà máy phải ngừng hoạt động, hòng gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng xấu đến đời sống của người dân. Đông đảo công nhân nhà máy đã kiên quyết đấu tranh bảo vệ thiết bị, yêu cầu tăng lượng than dự trữ, đòi giới chủ tiếp tục mua than như bình thường. Nhân viên kỹ thuật người Pháp cũng được vận động đứng về phía công nhân, tham gia bảo vệ nhà máy. Hoạt động đấu tranh đã giúp nhà máy duy trì được lượng than dự trữ lên đến 4.000 tấn, đủ để phát điện trong vòng 32 ngày. Khi các đơn vị ta đến tiếp quản, Nhà máy Đèn Bờ Hồ và Nhà máy Điện Yên Phụ vẫn hoạt động.

Chia sẻ về thời kỳ tiếp quản ngành điện tại Hà Nội tháng 10/1954, ông Trịnh Trọng Thực, nguyên Vụ trưởng Vụ Kỹ thuật Bộ Điện và Than - Phó ban tiếp quản Nhà máy Đèn Bờ Hồ cho biết: “Khi vào Nhà máy Điện Yên Phụ, tôi phát hiện ra những chiếc rotor, tuốcbin hỏng đang nằm chờ để đưa về Pháp sửa chữa. Vì lý do nào đó, nên các quản đốc Pháp đã vội vàng đưa chúng vào hoạt động trong lúc hơi chưa sấy khô đủ độ ở bộ quá nhiệt của lò hơi. Tôi đã nói điều đó với những đốc công người Pháp. Họ hết sức ngạc nhiên về kinh nghiệm nghề điện của cán bộ Việt Minh khi vào tiếp quản Thủ đô, chứ không chỉ là “những sĩ quan quân đội trá hình” vào tiếp quản như họ đã nghĩ trước kia”.

Ngày 21/12/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm Nhà máy Điện Yên Phụ và Nhà máy Đèn Bờ Hồ. Ở cả hai nơi, Người đã thăm hỏi sức khỏe, tình hình công tác và sinh hoạt của anh chị em cán bộ, công nhân viên, khen ngợi ngành điện đã sản xuất điện đều, đảm bảo cho sinh hoạt của người dân trong thời kỳ toàn quốc kháng chiến cũng như lúc giải phóng Thủ đô. Người căn dặn: “Nhà máy này bây giờ là của nhân dân, của Chính phủ, của các cô, các chú. Các cô, các chú là chủ thì phải gìn giữ nhà máy làm cho nó phát triển hơn nữa”. Người còn căn dặn cán bộ, công nhân viên Nhà máy điện phải đoàn kết, thi đua, tiết kiệm. Trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải đoàn kết, thi đua nhằm tăng năng suất, tiết kiệm nguyên liệu, vật liệu. Ngày 21/12/1954 trở thành dấu mốc quan trọng và được chọn làm ngày truyền thống ngành điện Việt Nam.

công nhân điện Yên Phụ Công nhân Nhà máy điện Yên Phụ ký đơn đấu tranh yêu cầu không được mang máy móc vào miền Nam (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

*****

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do, dân chủ cho dân tộc Việt Nam sau hơn 80 năm chịu cảnh nô dịch của thực dân Pháp và phátxít Nhật.

Bên cạnh những thuận lợi, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn khi tiếp quản một nền kinh tế kiệt quệ, công nghiệp gần như bị tê liệt, thương mại bị suy giảm bởi chính sách khai thác, bóc lột cạn kiệt của thực dân Pháp và phátxít Nhật, cũng như bởi chiến tranh, thiên tai liên miên. Đồng thời, thực dân Pháp nhanh chóng quay trở lại, quyết tâm xâm lược Việt Nam một lần nữa. Chính phủ nói chung, Bộ Kinh tế nói riêng đã nhanh chóng đưa ra các giải pháp toàn diện, kịp thời, thích ứng với từng hoàn cảnh để giải quyết hàng loạt khó khăn.

Trong giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến ngày toàn quốc kháng chiến (ngày 19/12/1946), những mục tiêu chính của Bộ Kinh tế là giải quyết tình trạng thiếu lương thực, khuyến khích giới công thương phục hồi hoạt động sản xuất và giao thương trên cả nước, chuẩn bị tiềm lực kinh tế, sẵn sàng cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Các chính sách điều hành, quản lý đều mang tinh thần cởi mở, linh hoạt nhằm phát huy cao độ lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước của giới công thương trong nước. Đặc biệt, ta cho phép giới tư bản nước ngoài, bao gồm cả giới tư bản Pháp tiếp tục duy trì công việc kinh doanh. Chỉ trong thời gian ngắn, tình trạng thiếu lương thực đã được giải quyết triệt để, hoạt động sản xuất được khôi phục phần nào và giao thương hàng hóa giữa các vùng được khơi thông.

Ngay khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, nền kinh tế được định hướng trở thành nền kinh tế tự cấp, tự túc nhằm tự giải quyết các nhu cầu cho công cuộc kháng chiến mà không phải phụ thuộc vào các nguồn lực từ bên ngoài, là sự kết hợp giữa kháng chiến và kiến quốc, kiến quốc để có sức mạnh kháng chiến và kháng chiến để tiêu diệt địch, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.

Xuyên suốt cuộc kháng chiến, công tác quản lý nhà nước về kinh tế của Bộ Kinh tế (sau này là Bộ Công Thương) tập trung thực hiện ba nhiệm vụ chính: cơ bản đảm bảo đời sống của các tầng lớp nhân dân; đáp ứng nhu cầu của công cuộc kháng chiến, đặc biệt là về vật lực cho lực lượng vũ trang, cơ quan nhà nước và doanh nghiệp quốc doanh; bước đầu xây dựng một số nhân tố của nền kinh tế dân chủ mới. Phương thức lãnh đạo, quản lý được Bộ Kinh tế đề cao tính linh hoạt, cơ cấu bộ máy được tổ chức nhỏ gọn.

Theo đó, các hoạt động sản xuất công nghiệp dân dụng trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến được định hướng tập trung vào các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế thời chiến, gồm cơ khí, khai thác than, hóa chất, dệt may và giấy. Mặc dù đối mặt với chiến tranh khốc liệt, thiếu hụt nhiều nguồn lực, nhưng hoạt động sản xuất vẫn được duy trì và từng bước mở rộng, thậm chí một số lĩnh vực công nghiệp nặng như luyện kim bắt đầu hình thành.

Các ngành tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng thiết yếu như kéo sợi, dệt vải, đan lát, rèn... được đặc biệt quan tâm phát triển. Nhiều chính sách, giải pháp khuyến công được triển khai như cung cấp tín dụng ưu đãi, hỗ trợ nguyên vật liệu, phổ biến kỹ thuật... Qua đó, nhiều nghề truyền thống được vực dậy và phát triển, giúp đáp ứng tốt nhu cầu kháng chiến, cải thiện đời sống nhân dân trong vùng tự do.

Trong lĩnh vực thương mại, Bộ Kinh tế chủ trương tạo mọi điều kiện thuận lợi và hợp tác với thương nhân để duy trì, phát triển các luồng lưu thông hàng hóa giữa các vùng, giữa các liên khu, giúp đáp ứng tốt yêu cầu tiếp tế cho bộ đội, cán bộ cũng như ổn định sinh hoạt của nhân dân. Với những giải pháp sáng tạo, phù hợp với thực tiễn, Bộ Kinh tế đã giải quyết thành công vấn đề bình ổn giá, điều hòa thị trường, triệt để ngăn chặn đột biến giá trong bối cảnh sản xuất phân tán, thị trường bị chia cắt phức tạp giữa vùng tự do và vùng tạm bị địch chiếm, khả năng kinh tế mỗi vùng mỗi khác. Qua đó, góp phần tích cực xây dựng nền kinh tế kháng chiến có khả năng tự cấp, tự túc về mọi mặt.

Đặc biệt, năm 1952, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký Hiệp định thương mại với Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đây được xem là hiệp định thương mại quốc tế đầu tiên của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng bắt đầu xúc tiến quan hệ ngoại thương với Liên Xô, cũng như mở rộng quan hệ thương mại với các nước xã hội chủ nghĩa, đặt nền móng cho sự hợp tác giữa Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa trong những năm sau này.

Đối với hoạt động bao vây, đấu tranh kinh tế với địch, tuy có một số nhược điểm trong công tác thi hành và cách tiếp cận vào những năm đầu của cuộc kháng chiến, nhưng Bộ Kinh tế đã điều chỉnh kịp thời, khéo léo khai thác triệt để những điểm yếu trong nền kinh tế vùng tạm bị địch chiếm để bổ sung sức mạnh cho nền kinh tế vùng tự do, góp phần tích cực trong việc giành thắng lợi cuối cùng của quân và dân ta.

Một vấn đề rất mới trong giai đoạn này cũng được Bộ Kinh tế tích cực triển khai là thường xuyên đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ dưới nhiều hình thức đa dạng, từ vừa học, vừa làm đến các lớp đào tạo chính quy chuyên sâu, góp phần đáp ứng những yêu cầu phức tạp của cuộc kháng chiến, cũng như tạo nguồn nhân lực quan trọng cho quá trình tái thiết nền kinh tế sau chiến tranh. Công cuộc kháng chiến đã tôi luyện đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế với nhiều bài học kinh nghiệm quý giá. Cụ thể:

Thứ nhất, để đạt được mục tiêu, các giải pháp phải luôn linh hoạt gắn với thực tiễn. Điều này đã được minh chứng qua việc chúng ta sáng tạo tổ chức sản xuất công nghiệp theo hình thức phân tán, quy mô nhỏ, cơ động cao trong những ngày đầu chiến tranh, rồi mới dần hình thành các cơ sở sản xuất cố định, quy mô lớn. Hay việc xoay chuyển cách tiếp cận từ bao vây sang đấu tranh kinh tế với địch theo diễn biến cuộc chiến và theo đặc điểm giao thương hàng hóa giữa vùng tự do với vùng tạm bị địch chiếm.

Thứ hai, các chính sách, giải pháp điều hành kinh tế cần có phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp. Đơn cử, kể từ sau năm 1950, khi ta phối hợp đồng bộ chính sách giá, chính sách lưu thông hàng hóa, chính sách tiền tệ và các kế hoạch quân sự với nhau thì tình trạng đột biến giá kéo dài đã được giải quyết dứt điểm.
Thứ ba, việc kết hợp hài hòa giữa “bàn tay hữu hình” của Nhà nước với “bàn tay vô hình” của thị trường vừa đảm bảo hài hòa lợi ích cho người dân, vừa đảm bảo duy trì động lực phát triển thị trường. Điều này được minh chứng qua việc mậu dịch quốc doanh tận dụng hệ thống thương nhân để chống đột biến giá, điều hòa thị trường hiệu quả mà Nhà nước không cần dự trữ quá nhiều hàng hóa.

Thứ tư, việc xây dựng chính sách cần tôn trọng quy luật thị trường và cầu thị, sẵn sàng sửa sai nhằm tạo sự đồng thuận xã hội, giúp phát huy hiệu quả mọi nguồn lực cùng tham gia phát triển kinh tế, tránh tình trạng duy ý chí như tình trạng áp đặt giá thu mua thóc gạo không theo quy luật thị trường, gây tác dụng ngược trong những tháng đầu năm 1949.

Sau chín năm, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi. Chín năm kháng chiến là chín năm tự lực xây dựng nền công nghiệp, phát triển hoạt động thương mại, với những thắng lợi kinh tế quan trọng của nhân dân ta. Qua đó, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng thành công một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đặt nền móng căn bản cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trong giai đoạn sau này.

Danh mục

Tùy chỉnh