1. Tình hình miền Bắc sau Hội nghị Giơnevơ

Sau Hội nghị Giơnevơ năm 1954, miền Bắc Việt Nam hoàn toàn được giải phóng, nhưng chế độ thực dân nửa phong kiến những năm tháng chiến tranh đã để lại cho Việt Nam một nền kinh tế lạc hậu, bị tàn phá nặng nề, với hai cụm từ đặc trưng: “hoang tàn” “xơ xác”.

Trong công nghiệp, phần lớn nhà máy, nghiệp không hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng. Nguyên liệu, nhiên liệu, máy móc thiếu nghiêm trọng. Gần 50% kho tàng, công sở bị phá hoại. Tại Nội, Hải Phòng, khi ta vào tiếp quản, chỉ nhà máy điện nhà máy nước hoạt động.

Thương nghiệp bị đình đốn, các hoạt động đầu cơ, nâng giá, kinh doanh trái phép gây lũng đoạn thị trường diễn ra phổ biến. Nhà nước mới chỉ nắm khoảng 40% khối lượng hàng hóa bán buôn 22% hàng hóa bán lẻ. Sản xuất ngừng trệ, lưu thông phân phối khó khăn, hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng.

Tại Hội nghị chính trị đặc biệt (ngày 27/3/1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về cảnh tượng của miền Bắc lúc đó như sau: “Chiến tranh xâm lược của thực dân đã làm cho kinh tế nước ta kiệt quệ. 1/7 ruộng đất bị bỏ hoang, 1/3 ruộng đất không nước tưới để cày cấy, các công trình thủy lợi đều bị phá hủy, 1/4 số trâu bị bắn giết. Hàng chục vạn nóc nhà, hàng trăm thị trấn lớn nhỏ bị đốt trụi. Số nhà máy đã ít ỏi lại đều bị giặc tàn phá, máy móc bị tháo dỡ mang đi, sản xuất bị bế tắc. Đường sá, cầu cống, xe cộ phần lớn bị phá hoại. thành phố, hàng chục vạn công nhân thất nghiệp. Nạn đói đe dọa khắp nơi. Tóm lại một cảnh tượng hoang tàn, xác”1.

Trong bối cảnh đó, công cuộc khôi phục kinh tế sau chiến tranh càng trở nên cấp bách hơn. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa II (tháng 7/1954), Tổng thư Trường Chinh đã nêu rất nhiều nội dung cấp bách cần phải làm để phục hồi, phát triển kinh tế:

- “Nhiệm vụ của chúng ta là: phục hồi phát triển sản xuất nông nghiệp, phục hồi phát triển công thương nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng nền tài chính vững chắc để đạt tới ổn định vật giá, ổn định tiền tệ”2.

- “Trong điều kiện nước ta hiện nay, một mặt Chính phủ cần phục hồi sở công nghiệp đã tạo điều kiện xây dựng thêm. Mặt khác phải nắm vững chính sách bảo hộ, khuyến khích các nhà công thương nghiệp; động viên họ bỏ vốn kinh doanh, góp phần vào việc xây dựng phát triển kinh tế quốc dân. Một điều cần đặc biệt chú ý phải phục hồi khuyến khích tiểu thủ công nghiệp thành thị nông thôn”3.

- “Việc trao đổi hàng hóa bây giờ không phải chỉ trong phạm vi nước ta, còn phải mở rộng ra với các nước”4.

- “Để đảm bảo cung cấp cho nhân dân giữ vững giá cả, mậu dịch quốc doanh cần mua lương thực để cung cấp cho các thành thị, tổ chức thêm nhiều ngành, bán nhiều hàng hóa hơn nữa, ra sức mở mang xuất khẩu lâm thổ sản, nhập khẩu các thứ hàng công nghiệp cần thiết”5.

- “Phải theo đà phát triển của mậu dịch, yêu cầu của quần chúng khả năng lãnh đạo tổ chức hợp tác cung tiêu để cải thiện đời sống cho nhân dân giúp mậu dịch quốc doanh đóng được vai trò của trong việc khuyến khích sản xuất, giữ vững giá cả lãnh đạo nhà buôn”6.

công thương toàn quốc Cuộc họp mặt các nhà công thương toàn quốc để phổ biến kế hoạch nhà nước năm 1956 tại Nhà hát lớn Nội, ngày 20 - 21/01/1956 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Sau năm 1954, cách mạng Việt Nam cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, đó xây dựng chủ nghĩa hội miền Bắc với các kế hoạch 3 năm lần thứ nhất (1955 - 1957), 3 năm lần thứ hai (1958 - 1960), 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước.

Thời kỳ này, cùng với việc tập trung cao độ nguồn lực sản xuất kinh doanh vào tay kinh tế nhà nước đã mở đường cho hình kinh tế kế hoạch hóa; chế quản cung cấp cho cả người dân, doanh nghiệp, bao gồm cung cấp liệu sản xuất, máy móc thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu, bao tiêu toàn bộ hàng nông sản công nghệ; cung cấp hàng hóa thiết yếu cho người dân cũng mở đường cho chế bao cấp thương nghiệp (nội thương, ngoại thương) mắt xích trung tâm trong bao cấp từ đầu vào, cho đến sản xuất, bao tiêu đầu ra, phân phối đến người tiêu dùng.


1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.273.

2, 3, 4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.206, 208, 208, 209.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.209.

1. Tình hình miền Bắc sau Hội nghị Giơnevơ

Sau Hội nghị Giơnevơ năm 1954, miền Bắc Việt Nam hoàn toàn được giải phóng, nhưng chế độ thực dân nửa phong kiến những năm tháng chiến tranh đã để lại cho Việt Nam một nền kinh tế lạc hậu, bị tàn phá nặng nề, với hai cụm từ đặc trưng: “hoang tàn” “xơ xác”.

Trong công nghiệp, phần lớn nhà máy, nghiệp không hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng. Nguyên liệu, nhiên liệu, máy móc thiếu nghiêm trọng. Gần 50% kho tàng, công sở bị phá hoại. Tại Nội, Hải Phòng, khi ta vào tiếp quản, chỉ nhà máy điện nhà máy nước hoạt động.

Thương nghiệp bị đình đốn, các hoạt động đầu cơ, nâng giá, kinh doanh trái phép gây lũng đoạn thị trường diễn ra phổ biến. Nhà nước mới chỉ nắm khoảng 40% khối lượng hàng hóa bán buôn 22% hàng hóa bán lẻ. Sản xuất ngừng trệ, lưu thông phân phối khó khăn, hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng.

Tại Hội nghị chính trị đặc biệt (ngày 27/3/1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về cảnh tượng của miền Bắc lúc đó như sau: “Chiến tranh xâm lược của thực dân đã làm cho kinh tế nước ta kiệt quệ. 1/7 ruộng đất bị bỏ hoang, 1/3 ruộng đất không nước tưới để cày cấy, các công trình thủy lợi đều bị phá hủy, 1/4 số trâu bị bắn giết. Hàng chục vạn nóc nhà, hàng trăm thị trấn lớn nhỏ bị đốt trụi. Số nhà máy đã ít ỏi lại đều bị giặc tàn phá, máy móc bị tháo dỡ mang đi, sản xuất bị bế tắc. Đường sá, cầu cống, xe cộ phần lớn bị phá hoại. thành phố, hàng chục vạn công nhân thất nghiệp. Nạn đói đe dọa khắp nơi. Tóm lại một cảnh tượng hoang tàn, xác”1.

Trong bối cảnh đó, công cuộc khôi phục kinh tế sau chiến tranh càng trở nên cấp bách hơn. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa II (tháng 7/1954), Tổng thư Trường Chinh đã nêu rất nhiều nội dung cấp bách cần phải làm để phục hồi, phát triển kinh tế:

- “Nhiệm vụ của chúng ta là: phục hồi phát triển sản xuất nông nghiệp, phục hồi phát triển công thương nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng nền tài chính vững chắc để đạt tới ổn định vật giá, ổn định tiền tệ”2.

- “Trong điều kiện nước ta hiện nay, một mặt Chính phủ cần phục hồi sở công nghiệp đã tạo điều kiện xây dựng thêm. Mặt khác phải nắm vững chính sách bảo hộ, khuyến khích các nhà công thương nghiệp; động viên họ bỏ vốn kinh doanh, góp phần vào việc xây dựng phát triển kinh tế quốc dân. Một điều cần đặc biệt chú ý phải phục hồi khuyến khích tiểu thủ công nghiệp thành thị nông thôn”3.

- “Việc trao đổi hàng hóa bây giờ không phải chỉ trong phạm vi nước ta, còn phải mở rộng ra với các nước”4.

- “Để đảm bảo cung cấp cho nhân dân giữ vững giá cả, mậu dịch quốc doanh cần mua lương thực để cung cấp cho các thành thị, tổ chức thêm nhiều ngành, bán nhiều hàng hóa hơn nữa, ra sức mở mang xuất khẩu lâm thổ sản, nhập khẩu các thứ hàng công nghiệp cần thiết”5.

- “Phải theo đà phát triển của mậu dịch, yêu cầu của quần chúng khả năng lãnh đạo tổ chức hợp tác cung tiêu để cải thiện đời sống cho nhân dân giúp mậu dịch quốc doanh đóng được vai trò của trong việc khuyến khích sản xuất, giữ vững giá cả lãnh đạo nhà buôn”6.

công thương toàn quốc Cuộc họp mặt các nhà công thương toàn quốc để phổ biến kế hoạch nhà nước năm 1956 tại Nhà hát lớn Nội, ngày 20 - 21/01/1956 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Sau năm 1954, cách mạng Việt Nam cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, đó xây dựng chủ nghĩa hội miền Bắc với các kế hoạch 3 năm lần thứ nhất (1955 - 1957), 3 năm lần thứ hai (1958 - 1960), 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước.

Thời kỳ này, cùng với việc tập trung cao độ nguồn lực sản xuất kinh doanh vào tay kinh tế nhà nước đã mở đường cho hình kinh tế kế hoạch hóa; chế quản cung cấp cho cả người dân, doanh nghiệp, bao gồm cung cấp liệu sản xuất, máy móc thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu, bao tiêu toàn bộ hàng nông sản công nghệ; cung cấp hàng hóa thiết yếu cho người dân cũng mở đường cho chế bao cấp thương nghiệp (nội thương, ngoại thương) mắt xích trung tâm trong bao cấp từ đầu vào, cho đến sản xuất, bao tiêu đầu ra, phân phối đến người tiêu dùng.


1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.273.

2, 3, 4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.206, 208, 208, 209.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.209.

I- BỐI CẢNH LỊCH SỬ, HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ NGÀNH CÔNG THƯƠNG

1. Tình hình miền Bắc sau Hội nghị Giơnevơ

công thương toàn quốc

Cuộc họp mặt các nhà công thương toàn quốc để phổ biến kế hoạch nhà nước năm 1956 tại Nhà hát lớn Hà Nội, ngày 20 - 21/01/1956 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

2. Hệ thống tổ chức và quản lý ngành Công Thương

quầy hàng đồ chơi Quầy hàng đồ chơi trẻ em tại Bách hóa Tổng hợp Hà Nội dịp Tết Trung thu, tháng 10/1960 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

3. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

2. Hệ thống tổ chức và quản lý ngành Công Thương

Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, ngành Công Thương cùng với các ngành khác thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế sau chiến tranh và cải tạo phát triển kinh tế, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất công nghiệp, thương mại. Hoạt động công nghiệp, thương mại ngày càng thể hiện rõ vị trí, vai trò có ý nghĩa quyết định trong nền kinh tế; trong đó, tập trung vào các lĩnh vực sau:

- Khôi phục và xây dựng công nghiệp theo hướng hiện đại, quan tâm đến cân đối cơ cấu hoàn chỉnh giữa công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ.

- Chú trọng đặc biệt tới ngành năng lượng (điện và than).

- Phát triển công nghiệp địa phương, tiểu thủ công nghiệp phục vụ nông nghiệp.

- Phát triển mạng lưới mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán.

- Thu mua và cung cấp hàng hóa để điều tiết thị trường.

- Cung ứng nguyên, nhiên liệu và giúp đỡ về trang bị kỹ thuật, gia công, bao tiêu sản phẩm hàng hóa cho các cơ sở tiểu thủ công nghiệp.

- Tăng cường đấu tranh chống đầu cơ về kinh tế.

Đây cũng là thời kỳ hệ thống tổ chức của ngành Công Thương có nhiều thay đổi:

- Ngày 21/7/1955, thành lập Cục Điện lực trực thuộc Bộ Công Thương, đặt dấu mốc pháp lý về hoạt động chỉ đạo, quản lý của cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách về lĩnh vực điện lực.

quầy hàng đồ chơi

Quầy hàng đồ chơi trẻ em tại Bách hóa Tổng hợp Hà Nội dịp Tết Trung thu, tháng 10/1960 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

- Tháng 9/1955, Bộ Công Thương tách ra thành Bộ Công nghiệp (Bộ trưởng Lê Thanh Nghị) và Bộ Thương nghiệp (Bộ trưởng Phan Anh).

- Năm 1958, Bộ Thương nghiệp tách ra thành Bộ Nội thương (Bộ trưởng Đỗ Mười) và Bộ Ngoại thương (Bộ trưởng Phan Anh).

- Năm 1960, Bộ Công nghiệp tách ra thành Bộ Công nghiệp nặng (Bộ trưởng Nguyễn Văn Trân) và Bộ Công nghiệp nhẹ (Bộ trưởng Kha Vạng Cân).

- Đến năm 1960, hệ thống tổ chức và quản lý ngành Công Thương gồm có 4 bộ: Bộ Công nghiệp nặng, Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Nội thương và Bộ Ngoại thương.

- Điểm đáng ghi nhớ trong giai đoạn này là năm 1955, Nha Khoáng sản và Kỹ nghệ đổi thành Sở Địa chất thuộc Bộ Công Thương, năm 1957 đổi thành Cục Địa chất, thuộc Bộ Công nghiệp; đến năm 1960, cùng với việc tách Bộ Công nghiệp thành Bộ Công nghiệp nặng và Bộ Công nghiệp nhẹ, Tổng cục Địa chất và Tổng cục Vật tư được thành lập, trực thuộc Hội đồng Chính phủ.

Từ tháng 7/1960 đến năm 1961, ông Lê Văn Đức giữ chức vụ Tổng Cục trưởng Tổng cục Địa chất, từ năm 1962 đến năm 1979, ông Nguyễn Văn Điệp là Tổng Cục trưởng.

Danh mục

Tùy chỉnh