3. Hội nhập quốc tế

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) đề ra nhiệm vụ cho công tác đối ngoại củng cố môi trường hòa bình tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trên sở đường lối, chủ trương nhiệm vụ đối ngoại ấy, Việt Nam đã triển khai các hoạt động đối ngoại theo hướng đẩy mạnh quan hệ với các nước láng giềng như Lào, Campuchia, các nước ASEAN, củng cố quan hệ với các nước bạn truyền thống chú trọng quan hệ với các nước lớn, các nước phát triển, các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế giới như Trung Quốc, Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc... Điển hình quan hệ “Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” với Trung Quốc năm 2008; quan hệ “Đối tác chiến lược” với Nhật Bản năm 2006, với Ấn Độ năm 2007, với Hàn Quốc Tây Ban Nha năm 2009, với Liên hiệp Vương quốc Anh Bắc Ireland năm 2010... Đây cũng thời kỳ ngành Công Thương tham mưu cho Đảng Chính phủ nhiều chính sách mở rộng quan hệ ngoại thương với những dấu ấn nổi bật, nhất trong đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Năm 1992, Liên tan rã. Thủ tướng Văn Kiệt chỉ đạo Bộ trưởng Bộ Thương mại Văn Triết tìm biện pháp mở rộng thị trường. Bộ Thương mại giao cho Phòng các tổ chức quốc tế, thuộc Vụ 2, nghiên cứu.

Sau một thời gian, Phòng đề xuất Việt Nam xin gia nhập Tổ chức Thuế quan Thương mại (GATT). Cuối năm 1994, Bộ trưởng Văn Triết thừa lệnh Chính phủ ký, nộp đơn Việt Nam xin gia nhập GATT. Cuối năm 1995, GATT được thay thế bằng Tổ chức Thương mại thế giới. Các đơn này đều do Bộ Thương mại soạn thảo, Chính phủ ủy quyền cho Bộ trưởng Văn Triết ký.

Để phục vụ cho đàm phán, năm 1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 31/1998/QĐ-TTg (được thay thế bởi Quyết định số 70/2002/QĐ-TTg ngày 06/6/2002), thành lập Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, với đại diện của các bộ, ngành. Chủ tịch Ủy ban Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Mạnh Cầm; Phó Chủ tịch Ủy ban Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển, Thứ trưởng Bộ Thương mại làm Tổng Thư kiêm Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ về kinh tế - thương mại quốc tế.

Năm 1995, ông Trần Đức Minh, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên làm trưởng đoàn Việt Nam đàm phán gia nhập WTO. Việc đàm phán khá cam go. Ta chưa kinh nghiệm, phải vừa học vừa làm, như cử đoàn sang Trung Quốc, Liên bang Nga học hỏi, nhờ chuyên gia Arthur Dunkel làm cố vấn.

Chuyện chuyên gia Arthur Dunkel làm cố vấn xuất phát từ việc Việt Nam vận động được Chính phủ Thụy Sỹ tài trợ cho một dự án mời chuyên gia Arthur Dunkel - nguyên Tổng Giám đốc GATT hai nhiệm kỳ làm cố vấn cho đoàn đàm phán Việt Nam. Mỗi năm, chuyên gia Arthur Dunkel cùng một cộng sự sang Nội hai lần. Ta xây dựng phương án đàm phán mời ông Arthur Dunkel ra Hạ Long đàm phán thử. Cứ như vậy cho đến khi ông qua đời tại Geneva năm 2005.

Đàm phán WTO còn khó chỗ, về bản chất mở cửa thị trường, thực hiện tự do hóa thương mại, trong khi Việt Nam nước đang phát triển, sức cạnh tranh trong công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ còn hạn chế, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện.

WTO yêu cầu nước xin gia nhập phải giải trình, minh bạch, cụ thể mọi chính sách trong hệ thống thương mại của mình để các nước thành viên WTO biết trả lời các câu hỏi họ đưa ra theo nguyên tắc “minh bạch hóa”. Quy trình làm việc của Đoàn ta là, các bộ, ngành thành viên Đoàn đàm phán cung cấp thông tin, Bộ Thương mại tổng hợp, dịch sang tiếng Anh, lập thành một bộ dày hơn 300 trang, gọi “Bị vong lục về chế độ ngoại thương Việt Nam”.

Sau giai đoạn minh bạch hóa, Đoàn Việt Nam bắt tay đàm phán song phương với trên 30 nước thành viên nhu cầu. Các cuộc đàm phán khá gay go, nhiều nước yêu cầu Việt Nam giảm thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng mở cửa thị trường dịch vụ.

Năm 1998, ông Trần Đức Minh được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Thương mại. Năm 1999, Thứ trưởng Trần Đức Minh được cử sang làm Phó Tổng Thư ASEAN, công việc đàm phán giao lại cho Thứ trưởng Lương Văn Tự.

Những dấu ấn nổi bật trong chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế:

- Ngày 18/11/1996, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 01-NQ/TW về mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại giai đoạn 1996 - 2000.

- Từ ngày 02/4 đến ngày 10/5/1997, kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật thương mại.

- Ngày 10/02/1998, Thủ tướng Chính phủ đã Quyết định số 31/1998/QĐ-TTg thành lập Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, giúp Thủ tướng trong việc chỉ đạo điều phối hoạt động của các bộ, ngành địa phương tham gia các hoạt động kinh tế - thương mại trong ASEAN, gia nhập APEC, Diễn đàn Hợp tác Á - Âu, chỉ đạo đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

- Ngày 12/3/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 15/1998/NĐ-CP, ban hành Danh mục hàng hóa của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN cho năm 1998.

- Từ ngày 21/4 đến ngày 20/5/1998, kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa X đã thông qua Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

- Ngày 08/7/1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 116/1998/QĐ-TTg về việc thành lập Đoàn đàm phán Chính phủ về kinh tế - thương mại quốc tế, do Thứ trưởng Bộ Thương mại làm trưởng đoàn.

- Ngày 27/10/2000, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg về Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu hàng hóa dịch vụ thời kỳ 2001 - 2010.

- Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế.

- Ngày 14/3/2002, Chính phủ ban hành Quyết định 37/2002/QĐ- TTg về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế.

- Ngày 25/5/2002, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam.

- Ngày 29/4/2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về việc chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.

- Ngày 20/8/2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.

- Ngày 05/02/2007, Hội nghị lần thứ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh bền vững khi Việt Nam thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới.

- Ngày 27/02/2007, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 16/2007/ NQ-CP, Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh bền vững khi Việt Nam thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới.

Các sự kiện mở rộng quan hệ đối ngoại:

- Ngày 28/7/1995: Gia nhập ASEAN.

- Năm 1996: Thực hiện CEPT/AFTA (sau này ATIGA).

- Ngày 01/3/1996, gia nhập Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM).

- Ngày 15/11/1998: Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC).

- Năm 1998 năm 2010: Đảm nhiệm chức Chủ tịch luân phiên ASEAN

APEC

Ngày 15/11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) (Ảnh: Thế Thuần - Thông tấn Việt Nam)

- Ngày 14/7/2000: kết Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (BTA).

- Tháng 10/2004: chủ nhà, chủ trì Hội nghị cấp cao Á - Âu lần thứ 5 (ASEM 5) thành công tốt đẹp.

- Tháng 7/2005: Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN -Trung Quốc chính thức hiệu lực.

- Năm 2006: Đảm nhiệm thành công vai trò chủ nhà APEC.

- Tháng 6/2007: Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN - Hàn Quốc hiệu lực.

- Tháng 01/2007: Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

- Tháng 4/2008: kết Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP).

- Tháng 12/2008: kết Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA).

- Tháng 01/2010: Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN - Ấn Độ hiệu lực.

- Tháng 01/2010: Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Ôxtrâylia - Niu Dilân (AANZFTA) hiệu lực.

- Tháng 5/2010: Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) hiệu lực.

Những cải cách về chính sách thương mại nổi bật:

- Áp dụng nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN): Không phân biệt đối xử giữa các đối tác thương mại.

- Cải cách minh bạch hóa các chính sách quản xuất, nhập khẩu hàng hóa.

- soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật trong nước phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong WTO, mở cửa thị trường hàng hóa dịch vụ trong các FTA.

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã đưa Việt Nam trở thành thành viên, đối tác tin cậy trong các khu vực mậu dịch tự do. Bên cạnh việc thúc đẩy tự do hóa thương mại hàng hóa thông qua bãi bỏ thuế quan hàng rào phi thuế quan, các FTA song phương đa phương Việt Nam tham gia trong những năm 1996 - 2010 còn nền tảng để Việt Nam tham gia các FTA thế hệ mới giai đoạn sau, với các cam kết tự do hóa thương mại trong nhiều lĩnh vực hơn, từ hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, cho đến sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, lao động, môi trường... Hội nhập kinh tế quốc tế cũng hội để Việt Nam đẩy mạnh quá trình đổi mới trong nước, nhất hoàn thiện thể chế một cách đồng bộ, gắn kết chặt chẽ với quá trình nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, của nền kinh tế, làm tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, để thể tham gia sâu hơn vào quá trình định hình cải cách các định chế, chế, cấu trúc khu vực quốc tế lợi cho ta.

hiệp định Việt - Mỹ 2001

Bộ trưởng Bộ Thương mại Khoan (trái) Đại diện Thương mại Mỹ Robert Zoellick Hiệp định Thương mại song phương, tháng 12/2001 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Bài diễn văn ngoại giao kiêm PR cho các thương hiệu Việt

Tháng 12/2001, trong bữa tiệc tổ chức tại Washington chào mừng việc trao đổi Thư phê chuẩn Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (BTA), ông Khoan lúc ấy Bộ trưởng Thương mại đã một bài diễn văn độc đáo.

Mở đầu bài diễn văn, ông Khoan nói: Last night, I had a dream! (Đêm qua tôi một giấc mơ).

Ngay lập tức khán phòng lặng ngắt như tờ, bởi người Mỹ không ai không biết câu nói quá nổi tiếng này của Martin Luther King - nhà hoạt động chống phân biệt chủng tộc Mỹ. Tất cả đều hồi hộp xem ông Khoan “mơ” cái gì.

Bộ trưởng Khoan nói tiếp: “Tôi được mời dự một bữa tiệc nơi đó, toàn bộ được lát bằng đá cẩm thạch nhập từ Việt Nam”. Nói đến đây ông mời đại diện các doanh nghiệp kinh doanh vật liệu xây dựng của Việt Nam đứng dậy chào.

Ông Khoan tiếp tục miêu tả về bữa tiệc đó bàn ghế, quần áo của khách dự tiệc đều nhập từ Việt Nam; còn món chính trên bàn tiệc basa, tráng miệng quả thanh long phê Buôn Ma Thuột. Sau mỗi tên sản phẩm, ông gọi đại diện của Việt Nam đứng dậy.

Khán phòng liên tục vỗ tay rào rào bài diễn văn ngoại giao độc đáo, kiêm PR cho các thương hiệu Việt một cách tài tình hiệu quả.

Nguồn: Theo Website của Sở Ngoại vụ tỉnh Phú Thọ.

*****

Trong 15 năm 1996 - 2010, Việt Nam trải qua những vấn đề hết sức khó khăn, từ cơn bão Linda năm 1997, khủng hoảng tài chính Đông Á 1997 - 1998, đến sự kiện khủng bố Tòa Tháp đôi, ngày 11/9/2001 Mỹ, bong bóng bất động sản toàn cầu những năm 2001 - 2003, bong bóng thị trường chứng khoán Việt Nam những năm 2005 - 2006, khủng hoảng kinh tế toàn cầu những năm 2008 - 2009...

Thời kỳ này, đất nước không còn phải đấu tranh quyết liệt cả về mặt tưởng luận để xác định những bước đi hình thành nên chế quản kinh tế mới. Thành tựu đổi mới trong 1/4 thế kỷ (1986 - 2010) đã đưa Việt Nam ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - hội (năm 1996), khỏi nhóm nước vùng lãnh thổ thu nhập thấp (năm 2008) đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển mức thu nhập trung bình (năm 2010). Đó những bằng chứng thuyết phục nhất về một hình kinh tế thị trường, sự tham gia của các thành phần kinh tế, nhưng vẫn đảm bảo định hướng hội chủ nghĩa Báo cáo chính trị các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đã đề ra: “dân giàu, nước mạnh, hội công bằng, văn minh”1 (Đại hội VII, năm 1991); “dân giàu, nước mạnh, hội công bằng, dân chủ, văn minh”2 (Đại hội IX, năm 2001); “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”3 (Đại hội X, năm 2006). Song đây lại thời kỳ đất nước đứng trước những thách thức nghiệt ngã, phải đảm bảo xử được xử chắc chắn nhiều mối quan hệ phức tạp, đan xen: giữa phát triển nhanh phát triển bền vững, giữa độc lập tự chủ hội nhập kinh tế quốc tế, giữa cạnh tranh hợp tác quốc tế, giữa tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu bảo vệ sản xuất trong nước, giữa phát triển lực lượng sản xuất hoàn thiện quan hệ sản xuất...

Trong bối cảnh chuyển đổi mạnh mẽ từ phát triển theo các chỉ tiêu với mệnh lệnh hành chính sang phát triển theo định hướng bằng chiến lược - quy hoạch - kế hoạch, ngành Công Thương đã tham mưu tổ chức xây dựng nhiều văn bản pháp luật, các chương trình, kế hoạch phát triển công nghiệp, thương mại hội nhập kinh tế quốc tế.

Điển hình cũng bước đột phá đó tham mưu, tổ chức đàm phán sớm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Gần 30 năm sau, nhìn lại sự kiện này, mới thấy hết sự táo bạo của Việt Nam lúc đó. Thời điểm ngày 04/01/1995, khi WTO chấp nhận đơn xin gia nhập của Việt Nam, tình hình kinh tế trong nước mới bước đầu thoát khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái, phải hơn 1 năm sau, tháng 7/1996, Đại hội VIII mới công bố: “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - hội nghiêm trọng kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc”4. Mặt khác, cán cân thương mại suốt những năm 1991 - 1995 luôn trong trạng thái nhập siêu, dao động trong khoảng 12,5% năm 1991 đến 49,7% năm 1995 trên tổng kim ngạch xuất khẩu. Điều đó nghĩa là, doanh nghiệp công nghiệp nhà nước với nhiều lợi thế về nền tảng sở vật chất kỹ thuật được tích lũy từ thời bao cấp, về tiếp cận đất đai, tín dụng... đang những đóng góp quan trọng vào sản lượng, giá trị công nghiệp. Nhưng từ đây cũng nảy sinh mối lo rằng, các doanh nghiệp này đang được “nuông chiều” hơn các thành phần kinh tế khác, nếu hội nhập, liệu đứng vững trong môi trường cạnh tranh bình đẳng với nguyên tắc đối xử quốc gia, không phân biệt đối xử giữa sản phẩm, dịch vụ của nhà cung cấp trong nước với sản phẩm, dịch vụ của nhà cung cấp nước ngoài? Liệu còn giữ được vai trò đầu tàu, trở thành một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước để ổn định kinh tế mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế - hội, khắc phục các khiếm khuyết của chế thị trường?

vậy, con đường đi đến quyết định đàm phán gia nhập WTO được trình bày hết sức thuyết phục cũng phải thật sự bản lĩnh mới thể vượt qua được sự nghi hoặc, e ngại về làm cách nào để Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế vẫn bảo đảm an ninh kinh tế, thị trường trong nước không bị thâu tóm, không bị mất quyền kiểm soát, doanh nghiệp trong nước trụ vững, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới! Sự dũng cảm đó dựa trên nguyên thể dùng ngay sức ép của hội nhập để sắp xếp, cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp vốn từng được “nuông chiều”, thực tiễn những năm sau đó đã chứng minh sự đúng đắn của nguyên này.

Gia nhập WTO, Việt Nam mở ra sân chơi toàn cầu với 149 nước vùng lãnh thổ. Theo đánh giá của Quốc hội nước ta, việc gia nhập WTO sở cho các hội nhập khác về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật an ninh - quốc phòng.

Từ điểm đột phá quyết tâm đưa Việt Nam hội nhập vào dòng chảy kinh tế thế giới, nơi mở rộng hội tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu, cũng nơi tiềm ẩn những nhân tố thể gây mất ổn định nền sản xuất trong nước; nơi dang rộng vòng tay liên kết, hợp tác hết sức đa dạng cho từng nhóm nước trình độ phát triển khác nhau, song cũng nơi hội thách thức đan xen nhau rất phức tạp, ngành Công Thương đã đóng góp vào việc thể chế hóa các chính sách kinh tế, theo hướng mở rộng quyền kinh doanh, khơi thông nguồn lực của hội để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, đủ sức ứng phó với những biến động từ bên ngoài. Bên cạnh đó, chủ động tham mưu cho Đảng Nhà nước công tác nội luật hóa cho phù hợp với các điều ước quốc tế, các hiệp định thương mại tự do song phương đa phương.

Luật thương mại năm 1997, 2005 đã thể hiện tính tiến bộ, sự tương thích với pháp luật thông lệ quốc tế. Các nguyên tắc đó gồm:

- Thương mại được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ bao gồm hoạt động mua bán hàng hóa cả hoạt động đầu tư, dịch vụ mua bán quyền sở hữu trí tuệ.

- Sự bình đẳng trước pháp luật của thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong hoạt động thương mại.

- Khẳng định quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại.

- Công nhận việc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại.

- Đề cao trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng.

- Công nhận giá trị pháp của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại.

Với quan điểm tiếp cận rộng mở của Luật thương mại năm 1997, 2005, cùng với Luật doanh nghiệp năm 2000, 2005 các văn bản pháp chức năng bảo vệ sự bình đẳng trong hoạt động sản xuất - kinh doanh cũng như quyền lợi người tiêu dùng như Luật cạnh tranh năm 2004, Quyết định số 1681/QĐ-BTM ngày 15/11/2004 Quyết định số 1249/QĐ-BTM ngày 31/7/2007 của Bộ trưởng Bộ Thương mại quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cấu tổ chức của Cục Quản thị trường, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010... đã thúc đẩy sự ra đời của các tầng lớp thương nhân mới. Tính đến đầu năm 2010, số doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp xây dựng 84,7 nghìn doanh nghiệp, chiếm 34% tổng số doanh nghiệp, gấp 5,7 lần năm 2000. Trong khi đó, các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực thương mại dịch vụ chiếm tỷ lệ cao nhất về số doanh nghiệp, vốn kinh doanh đứng thứ hai về kết quả hoạt động kinh doanh. Tại thời điểm ngày 01/01/2010, tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ 155,3 nghìn doanh nghiệp, chiếm 62,4% tổng số doanh nghiệp, gấp 6,5 lần năm 2000.

Những kết quả trên đã góp phần đưa tổng sản phẩm trong nước (tính theo giá so sánh năm 1994) năm 2010 đã gấp gần 2,02 lần năm 2000. Nếu tính bằng đôla Mỹ theo tỷ giá hối đoái thực tế bình quân hằng năm, tổng sản phẩm trong nước (GDP) đã tăng từ gần 31,2 tỉ USD năm 2000 lên trên 100,8 tỉ USD năm 2010, tức gấp 3,23 lần. Theo phân loại hiện nay của Ngân hàng Thế giới về thu nhập tính theo tổng thu nhập quốc gia (GNI), từ năm 2008, Việt Nam đã ra khỏi nhóm nước vùng lãnh thổ thu nhập thấp, bước vào nhóm nước vùng lãnh thổ thu nhập trung bình.

Bên cạnh sự phát triển của tầng lớp thương nhân mới, các hoạt động kinh tế được định hướng theo các chiến lược, quy hoạch nhằm phát triển các phân ngành công nghiệp trên sở phát huy tổng hợp nguồn lực của mọi khu vực kinh tế, theo hướng hình thành cân đối động, đảm bảo sự ưu tiên phát triển các ngành, vùng phù hợp với nguồn lực lợi thế trong từng thời kỳ, với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế bảo đảm tham gia một cách chủ động, hiệu quả vào liên kết công nghiệp hiệp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành với các tập đoàn đa quốc gia trên thế giới. Đồng thời, gắn chặt với phát triển dịch vụ, tạo động lực trực tiếp cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Công tác quản nhà nước về công nghiệp theo hướng chuyển mạnh sang chức năng thúc đẩy, phục vụ phát triển chính, hạn chế tối đa sử dụng các biện pháp hành chính vào sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, giảm dần các đầu mối quản ngành. Quy hoạch cũng sở để ngành Công Thương xây dựng các đề án phát triển các ngành công nghiệp, như nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp; phát triển công nghiệp chế biến; phát triển công nghiệp hỗ trợ, triển khai hiệu quả các đề án phát triển ngành phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn; đẩy mạnh các hoạt động khuyến công... Các quy hoạch, chiến lược thuộc ngành Công Thương trong thời kỳ này khá “đồ sộ”, vượt qua số lượng chiến lược, quy hoạch của bất cứ ngành nào.

Đây cũng thời kỳ khá thành công trong công tác cổ phần hóa, tái cấu một số doanh nghiệp nhà nước. Từ đó, tạo động lực thúc đẩy phát triển nhiều ngành, lĩnh vực công nghiệp, thương mại, khai thác, thu hút sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tạo điều kiện thuận lợi để góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sau cổ phần hóa, một số thương hiệu Việt đã vươn lên trở thành doanh nghiệp đầu ngành như Vinamilk, Nhựa Bình Minh,...

Kết quả, trong suốt 15 năm 1996 - 2010, nền kinh tế đã phát triển đúng hướng, tốc độ tăng của mỗi 5 năm khu vực công nghiệp - xây dựng thương mại - dịch vụ luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng của khu vực nông, lâm, thủy sản. Cụ thể, 5 năm 1996 - 2000, tăng trưởng khu vực công nghiệp - xây dựng thương mại - dịch vụ lần lượt 10,6% 5,75% so với 4,3% của nông, lâm, thủy sản. Tương tự, giai đoạn 2001 - 2005, tốc độ tăng của công nghiệp - xây dựng thương mại - dịch vụ lần lượt 10,25% 6,96% so với 3,83% của nông, lâm, thủy sản. Giai đoạn 2006 - 2010, tốc độ tăng của công nghiệp - xây dựng thương mại - dịch vụ lần lượt 7,94% 7,73% so với 3,34% của nông, lâm, thủy sản. Trong 15 năm, đóng góp của khu vực nông, lâm, thủy sản thu hẹp dần từ 25% năm 1996 giảm dần xuống còn 18,9% năm 2010, thì công nghiệp - xây dựng thương mại - dịch vụ liên tục những khu vực đóng góp chủ yếu vào tổng sản phẩm quốc dân, duy trì mức trên dưới 40% mỗi khu vực.

Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh năm 1994) năm 2010 đạt 795,1 nghìn tỉ đồng, gấp 4 lần năm 2000, bình quân trong 10 năm (2001 - 2010) tăng 14,9%/năm; trong đó khu vực nhà nước gấp 2,1 lần, bình quân tăng 7,8%/năm; khu vực ngoài nhà nước gấp 6,5 lần, bình quân tăng 20,5%/năm; khu vực vốn đầu nước ngoài gấp 4,7 lần, bình quân tăng 16,7%/năm. So với 10 năm (1991 - 2000) thì tốc độ tăng của ngành công nghiệp 10 năm 2001 - 2010 đã cao hơn 1,1% (14,9% so với 13,8%)5.

Dung lượng thị trường trong nước tăng nhanh. Giai đoạn 1996 - 2010, tổng mức lưu chuyển hàng hóa doanh thu dịch vụ tăng bình quân 20%/năm, đáp ứng bản nhu cầu của đại đa số người tiêu dùng. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa doanh thu dịch vụ 5 năm 2006 - 2010 đạt 5,1 triệu tỉ đồng, gấp 2,93 lần so với 5 năm 2001 - 2005. Thị trường thành thị trở thành trung tâm đầu mối giao lưu kinh tế với các hình thức tổ chức văn minh, hiện đại; trong khi thị trường nông thôn, miền núi từng bước phát triển ngày càng mở rộng. Cùng với hệ thống chợ truyền thống, số lượng các siêu thị đã tăng nhanh. Đặc biệt từ năm 1996 trở đi, không còn các cơn sốt do mất cân đối cung cầu gây ra. Nhờ sự tham gia của các thành phần kinh tế, sở thương mại được đầu mạnh mẽ, từ năm 1995 đến năm 2010, đầu cho ngành thương mại - dịch vụ chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu toàn hội. Số lượng chợ đến ngày 31/12 các năm 2008, 2009, 2010 (trước đó không thống kê) lần lượt 7.871 chợ, 8.495 chợ 8.528 chợ. Tương tự, số siêu thị giai đoạn 2008 - 2010 lần lượt 386, 451 571; số trung tâm thương mại lần lượt 72, 85 1016. Các nhà bán lẻ nước ngoài tham gia vào thị trường nội địa, trong đó những tập đoàn siêu thị quốc tế lớn như Metro, BigC, Parson, Zen Plaza, Diamond Plaza, Lotte Mart... góp phần làm cho hệ thống phân phối trong nước sự cạnh tranh lành mạnh. Trong khi các nhà bán lẻ trong nước ngày càng lớn mạnh, với sự tham gia của Saigon Co.op, Hapro Mart, Citi Mart, Intimex... chiếm tỷ trọng lớn tất cả các kênh phân phối.

Việc kết tích cực triển khai thực hiện nhiều hiệp định thương mại song phương với Mỹ, Nhật Bản, đa phương với ASEAN đa phương giữa ASEAN với Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, nhất việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã giúp doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu. Cứ sau mỗi 5 năm, kim ngạch xuất khẩu lại tăng gấp hơn 2 lần. Giai đoạn 2001 - 2005, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 110,81 tỉ USD, cao gấp 2,13 lần so với 51,82 tỉ USD của giai đoạn 1996 - 2000; giai đoạn 2006 - 2010 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 280,3 tỉ USD, cao gấp 2,53 lần so với 110,81 tỉ USD của giai đoạn 2001 - 20057. cấu hàng hóa xuất khẩu cấu thị trường xuất, nhập khẩu tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỷ trọng của các nhóm hàng đã qua chế biến tăng dần. Hàng nguyên liệu thô năm 1996 chiếm trên 70%, đến năm 2000 còn khoảng 60% năm 2010 còn 34,8% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hàng chế biến, trong đó cả hàng chế tạo, năm 1996 chỉ chiếm khoảng trên 20%, đến năm 2000 đã lên khoảng 40%, đến năm 2010 đạt 65,1%. Về thị trường, những năm 2000 trở về trước, xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào thị trường châu Á; từ năm 2001 trở đi, thị trường xuất khẩu đa dạng hơn, Bắc Mỹ châu Âu ngày càng chiếm tỷ trọng lớn về giá trị.

Đến năm 2010, Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu đưa “nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên 2 lần nhịp độ tăng GDP” đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - hội 2001 - 2010 (Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX).

Sự năng động của hoạt động công nghiệp thương mại góp phần quan trọng đưa đất nước băng qua những cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997 - 1998, khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 - 2009, vượt qua những “sốc” bong bóng bất động sản toàn cầu 2001 - 2003, bong bóng thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2005 - 2006, về đích với các chỉ số ấn tượng: Quy tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 838 nghìn tỉ đồng, gấp 2 lần so với năm 19958; tổng sản phẩm trong nước (tính theo giá so sánh năm 1994) năm 2010 đã gấp gần 2,02 lần năm 20009. Năm 2006, Việt Nam đã hoàn thành “Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) về xóa nghèo”, về đích trước gần 10 năm so với thời hạn năm 2015. Theo phân loại hiện nay của Ngân hàng Thế giới tính theo tổng thu nhập quốc gia (GNI), từ năm 2008, nước ta đã ra khỏi nhóm nước vùng lãnh thổ thu nhập thấp, bước vào nhóm nước vùng lãnh thổ thu nhập trung bình10. Năm 2010, Việt Nam đã đạt được thành công kép, đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000, đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển11.

Sự năng động của hoạt động công nghiệp thương mại cũng góp phần đưa con tàu Việt Nam cập bến, hoàn thành xuất sắc các chủ trương của Đại hội VIII, IX của Đảng gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; của Đại hội X gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức, biểu hiện sinh động nhất sự phát triển bền vững của công nghiệp chế biến. Tỷ trọng công nghiệp chế biến trong giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp thăng tiến mạnh từ 80,56% năm 1995 lên 90,02% năm 2010, trở thành động lực dẫn dắt sự tăng trưởng toàn ngành công nghiệp. Trong 10 năm cuối của thời kỳ, công nghiệp chế biến đã tạo nên 2 làn sóng chuyển dịch: từ năm 2000, chuyển dịch các ngành công nghiệp thâm dụng tài nguyên sang các ngành hàng thâm dụng lao động như dệt may, da giày; từ năm 2010, chuyển dịch các ngành công nghiệp thâm dụng lao động sang các ngành công nghiệp thâm dụng vốn như thép, hóa chất... để tạo nền tảng vững chắc cho làn sóng thứ ba: chuyển dịch từ các ngành thâm dụng vốn sang các ngành công nghiệp thâm dụng công nghệ, như điện tử, máy vi tính, sản phẩm quang học, máy móc công nghệ... cho giai đoạn sau này, bắt đầu từ năm 2016.

Những chính sách mở rộng hoạt động thương mại, từng bước thực hiện tự do hóa thương mại đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự lớn mạnh của tầng lớp thương nhân, tích lũy tiềm lực kinh nghiệm để trở thành đội ngũ doanh nhân toàn cầu, đủ sức tự bảo vệ trước những thách thức sức ép ngày càng lớn trong dòng chảy thương mại quốc tế.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.53, tr.199.

2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.120; t.65, tr.139; t.55, tr.311.

5. Xem Tổng cục Thống kê: Tình hình kinh tế - hội Việt Nam 10 năm 2001 - 2010, Sđd, tr.42, 43.

6. Xem Tổng cục Thống kê: Tình hình kinh tế - hội Việt Nam 15 năm đầu thế kỷ XXI, Sđd, tr.763-767.

7. Xem Tổng hợp số liệu từ Niên giám Thống các năm 1996 - 2010.

8. “20 năm đổi mới: Đạt được nhiều thành tựu kinh tế - hội”, Báo Nhân Dân bản điện tử, ngày 19/4/2006.

9. Xem Tổng cục Thống kê: Tình hình kinh tế - hội Việt Nam 10 năm 2001 - 2010, Sđd, tr.10.

10, 11. Xem Tổng cục Thống kê: Tình hình kinh tế - hội Việt Nam 10 năm 2001 - 2010, Sđd, tr.10.

3. Hội nhập quốc tế

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) đề ra nhiệm vụ cho công tác đối ngoại củng cố môi trường hòa bình tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trên sở đường lối, chủ trương nhiệm vụ đối ngoại ấy, Việt Nam đã triển khai các hoạt động đối ngoại theo hướng đẩy mạnh quan hệ với các nước láng giềng như Lào, Campuchia, các nước ASEAN, củng cố quan hệ với các nước bạn truyền thống chú trọng quan hệ với các nước lớn, các nước phát triển, các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế giới như Trung Quốc, Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc... Điển hình quan hệ “Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” với Trung Quốc năm 2008; quan hệ “Đối tác chiến lược” với Nhật Bản năm 2006, với Ấn Độ năm 2007, với Hàn Quốc Tây Ban Nha năm 2009, với Liên hiệp Vương quốc Anh Bắc Ireland năm 2010... Đây cũng thời kỳ ngành Công Thương tham mưu cho Đảng Chính phủ nhiều chính sách mở rộng quan hệ ngoại thương với những dấu ấn nổi bật, nhất trong đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Năm 1992, Liên tan rã. Thủ tướng Văn Kiệt chỉ đạo Bộ trưởng Bộ Thương mại Văn Triết tìm biện pháp mở rộng thị trường. Bộ Thương mại giao cho Phòng các tổ chức quốc tế, thuộc Vụ 2, nghiên cứu.

Sau một thời gian, Phòng đề xuất Việt Nam xin gia nhập Tổ chức Thuế quan Thương mại (GATT). Cuối năm 1994, Bộ trưởng Văn Triết thừa lệnh Chính phủ ký, nộp đơn Việt Nam xin gia nhập GATT. Cuối năm 1995, GATT được thay thế bằng Tổ chức Thương mại thế giới. Các đơn này đều do Bộ Thương mại soạn thảo, Chính phủ ủy quyền cho Bộ trưởng Văn Triết ký.

Để phục vụ cho đàm phán, năm 1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 31/1998/QĐ-TTg (được thay thế bởi Quyết định số 70/2002/QĐ-TTg ngày 06/6/2002), thành lập Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, với đại diện của các bộ, ngành. Chủ tịch Ủy ban Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Mạnh Cầm; Phó Chủ tịch Ủy ban Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển, Thứ trưởng Bộ Thương mại làm Tổng Thư kiêm Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ về kinh tế - thương mại quốc tế.

Năm 1995, ông Trần Đức Minh, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên làm trưởng đoàn Việt Nam đàm phán gia nhập WTO. Việc đàm phán khá cam go. Ta chưa kinh nghiệm, phải vừa học vừa làm, như cử đoàn sang Trung Quốc, Liên bang Nga học hỏi, nhờ chuyên gia Arthur Dunkel làm cố vấn.

Chuyện chuyên gia Arthur Dunkel làm cố vấn xuất phát từ việc Việt Nam vận động được Chính phủ Thụy Sỹ tài trợ cho một dự án mời chuyên gia Arthur Dunkel - nguyên Tổng Giám đốc GATT hai nhiệm kỳ làm cố vấn cho đoàn đàm phán Việt Nam. Mỗi năm, chuyên gia Arthur Dunkel cùng một cộng sự sang Nội hai lần. Ta xây dựng phương án đàm phán mời ông Arthur Dunkel ra Hạ Long đàm phán thử. Cứ như vậy cho đến khi ông qua đời tại Geneva năm 2005.

Đàm phán WTO còn khó chỗ, về bản chất mở cửa thị trường, thực hiện tự do hóa thương mại, trong khi Việt Nam nước đang phát triển, sức cạnh tranh trong công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ còn hạn chế, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện.

WTO yêu cầu nước xin gia nhập phải giải trình, minh bạch, cụ thể mọi chính sách trong hệ thống thương mại của mình để các nước thành viên WTO biết trả lời các câu hỏi họ đưa ra theo nguyên tắc “minh bạch hóa”. Quy trình làm việc của Đoàn ta là, các bộ, ngành thành viên Đoàn đàm phán cung cấp thông tin, Bộ Thương mại tổng hợp, dịch sang tiếng Anh, lập thành một bộ dày hơn 300 trang, gọi “Bị vong lục về chế độ ngoại thương Việt Nam”.

Sau giai đoạn minh bạch hóa, Đoàn Việt Nam bắt tay đàm phán song phương với trên 30 nước thành viên nhu cầu. Các cuộc đàm phán khá gay go, nhiều nước yêu cầu Việt Nam giảm thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng mở cửa thị trường dịch vụ.

Năm 1998, ông Trần Đức Minh được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Thương mại. Năm 1999, Thứ trưởng Trần Đức Minh được cử sang làm Phó Tổng Thư ASEAN, công việc đàm phán giao lại cho Thứ trưởng Lương Văn Tự.

Những dấu ấn nổi bật trong chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế:

- Ngày 18/11/1996, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 01-NQ/TW về mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại giai đoạn 1996 - 2000.

- Từ ngày 02/4 đến ngày 10/5/1997, kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật thương mại.

- Ngày 10/02/1998, Thủ tướng Chính phủ đã Quyết định số 31/1998/QĐ-TTg thành lập Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, giúp Thủ tướng trong việc chỉ đạo điều phối hoạt động của các bộ, ngành địa phương tham gia các hoạt động kinh tế - thương mại trong ASEAN, gia nhập APEC, Diễn đàn Hợp tác Á - Âu, chỉ đạo đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

- Ngày 12/3/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 15/1998/NĐ-CP, ban hành Danh mục hàng hóa của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN cho năm 1998.

- Từ ngày 21/4 đến ngày 20/5/1998, kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa X đã thông qua Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

- Ngày 08/7/1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 116/1998/QĐ-TTg về việc thành lập Đoàn đàm phán Chính phủ về kinh tế - thương mại quốc tế, do Thứ trưởng Bộ Thương mại làm trưởng đoàn.

- Ngày 27/10/2000, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg về Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu hàng hóa dịch vụ thời kỳ 2001 - 2010.

- Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế.

- Ngày 14/3/2002, Chính phủ ban hành Quyết định 37/2002/QĐ- TTg về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế.

- Ngày 25/5/2002, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam.

- Ngày 29/4/2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về việc chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.

- Ngày 20/8/2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.

- Ngày 05/02/2007, Hội nghị lần thứ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh bền vững khi Việt Nam thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới.

- Ngày 27/02/2007, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 16/2007/ NQ-CP, Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh bền vững khi Việt Nam thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới.

Các sự kiện mở rộng quan hệ đối ngoại:

- Ngày 28/7/1995: Gia nhập ASEAN.

- Năm 1996: Thực hiện CEPT/AFTA (sau này ATIGA).

- Ngày 01/3/1996, gia nhập Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM).

- Ngày 15/11/1998: Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC).

- Năm 1998 năm 2010: Đảm nhiệm chức Chủ tịch luân phiên ASEAN

APEC

Ngày 15/11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) (Ảnh: Thế Thuần - Thông tấn Việt Nam)

- Ngày 14/7/2000: kết Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (BTA).

- Tháng 10/2004: chủ nhà, chủ trì Hội nghị cấp cao Á - Âu lần thứ 5 (ASEM 5) thành công tốt đẹp.

- Tháng 7/2005: Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN -Trung Quốc chính thức hiệu lực.

- Năm 2006: Đảm nhiệm thành công vai trò chủ nhà APEC.

- Tháng 6/2007: Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN - Hàn Quốc hiệu lực.

- Tháng 01/2007: Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

- Tháng 4/2008: kết Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP).

- Tháng 12/2008: kết Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA).

- Tháng 01/2010: Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN - Ấn Độ hiệu lực.

- Tháng 01/2010: Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Ôxtrâylia - Niu Dilân (AANZFTA) hiệu lực.

- Tháng 5/2010: Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) hiệu lực.

Những cải cách về chính sách thương mại nổi bật:

- Áp dụng nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN): Không phân biệt đối xử giữa các đối tác thương mại.

- Cải cách minh bạch hóa các chính sách quản xuất, nhập khẩu hàng hóa.

- soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật trong nước phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong WTO, mở cửa thị trường hàng hóa dịch vụ trong các FTA.

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã đưa Việt Nam trở thành thành viên, đối tác tin cậy trong các khu vực mậu dịch tự do. Bên cạnh việc thúc đẩy tự do hóa thương mại hàng hóa thông qua bãi bỏ thuế quan hàng rào phi thuế quan, các FTA song phương đa phương Việt Nam tham gia trong những năm 1996 - 2010 còn nền tảng để Việt Nam tham gia các FTA thế hệ mới giai đoạn sau, với các cam kết tự do hóa thương mại trong nhiều lĩnh vực hơn, từ hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, cho đến sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, lao động, môi trường... Hội nhập kinh tế quốc tế cũng hội để Việt Nam đẩy mạnh quá trình đổi mới trong nước, nhất hoàn thiện thể chế một cách đồng bộ, gắn kết chặt chẽ với quá trình nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, của nền kinh tế, làm tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, để thể tham gia sâu hơn vào quá trình định hình cải cách các định chế, chế, cấu trúc khu vực quốc tế lợi cho ta.

hiệp định Việt - Mỹ 2001

Bộ trưởng Bộ Thương mại Khoan (trái) Đại diện Thương mại Mỹ Robert Zoellick Hiệp định Thương mại song phương, tháng 12/2001 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Bài diễn văn ngoại giao kiêm PR cho các thương hiệu Việt

Tháng 12/2001, trong bữa tiệc tổ chức tại Washington chào mừng việc trao đổi Thư phê chuẩn Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (BTA), ông Khoan lúc ấy Bộ trưởng Thương mại đã một bài diễn văn độc đáo.

Mở đầu bài diễn văn, ông Khoan nói: Last night, I had a dream! (Đêm qua tôi một giấc mơ).

Ngay lập tức khán phòng lặng ngắt như tờ, bởi người Mỹ không ai không biết câu nói quá nổi tiếng này của Martin Luther King - nhà hoạt động chống phân biệt chủng tộc Mỹ. Tất cả đều hồi hộp xem ông Khoan “mơ” cái gì.

Bộ trưởng Khoan nói tiếp: “Tôi được mời dự một bữa tiệc nơi đó, toàn bộ được lát bằng đá cẩm thạch nhập từ Việt Nam”. Nói đến đây ông mời đại diện các doanh nghiệp kinh doanh vật liệu xây dựng của Việt Nam đứng dậy chào.

Ông Khoan tiếp tục miêu tả về bữa tiệc đó bàn ghế, quần áo của khách dự tiệc đều nhập từ Việt Nam; còn món chính trên bàn tiệc basa, tráng miệng quả thanh long phê Buôn Ma Thuột. Sau mỗi tên sản phẩm, ông gọi đại diện của Việt Nam đứng dậy.

Khán phòng liên tục vỗ tay rào rào bài diễn văn ngoại giao độc đáo, kiêm PR cho các thương hiệu Việt một cách tài tình hiệu quả.

Nguồn: Theo Website của Sở Ngoại vụ tỉnh Phú Thọ.

*****

Trong 15 năm 1996 - 2010, Việt Nam trải qua những vấn đề hết sức khó khăn, từ cơn bão Linda năm 1997, khủng hoảng tài chính Đông Á 1997 - 1998, đến sự kiện khủng bố Tòa Tháp đôi, ngày 11/9/2001 Mỹ, bong bóng bất động sản toàn cầu những năm 2001 - 2003, bong bóng thị trường chứng khoán Việt Nam những năm 2005 - 2006, khủng hoảng kinh tế toàn cầu những năm 2008 - 2009...

Thời kỳ này, đất nước không còn phải đấu tranh quyết liệt cả về mặt tưởng luận để xác định những bước đi hình thành nên chế quản kinh tế mới. Thành tựu đổi mới trong 1/4 thế kỷ (1986 - 2010) đã đưa Việt Nam ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - hội (năm 1996), khỏi nhóm nước vùng lãnh thổ thu nhập thấp (năm 2008) đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển mức thu nhập trung bình (năm 2010). Đó những bằng chứng thuyết phục nhất về một hình kinh tế thị trường, sự tham gia của các thành phần kinh tế, nhưng vẫn đảm bảo định hướng hội chủ nghĩa Báo cáo chính trị các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đã đề ra: “dân giàu, nước mạnh, hội công bằng, văn minh”1 (Đại hội VII, năm 1991); “dân giàu, nước mạnh, hội công bằng, dân chủ, văn minh”2 (Đại hội IX, năm 2001); “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”3 (Đại hội X, năm 2006). Song đây lại thời kỳ đất nước đứng trước những thách thức nghiệt ngã, phải đảm bảo xử được xử chắc chắn nhiều mối quan hệ phức tạp, đan xen: giữa phát triển nhanh phát triển bền vững, giữa độc lập tự chủ hội nhập kinh tế quốc tế, giữa cạnh tranh hợp tác quốc tế, giữa tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu bảo vệ sản xuất trong nước, giữa phát triển lực lượng sản xuất hoàn thiện quan hệ sản xuất...

Trong bối cảnh chuyển đổi mạnh mẽ từ phát triển theo các chỉ tiêu với mệnh lệnh hành chính sang phát triển theo định hướng bằng chiến lược - quy hoạch - kế hoạch, ngành Công Thương đã tham mưu tổ chức xây dựng nhiều văn bản pháp luật, các chương trình, kế hoạch phát triển công nghiệp, thương mại hội nhập kinh tế quốc tế.

Điển hình cũng bước đột phá đó tham mưu, tổ chức đàm phán sớm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Gần 30 năm sau, nhìn lại sự kiện này, mới thấy hết sự táo bạo của Việt Nam lúc đó. Thời điểm ngày 04/01/1995, khi WTO chấp nhận đơn xin gia nhập của Việt Nam, tình hình kinh tế trong nước mới bước đầu thoát khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái, phải hơn 1 năm sau, tháng 7/1996, Đại hội VIII mới công bố: “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - hội nghiêm trọng kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc”4. Mặt khác, cán cân thương mại suốt những năm 1991 - 1995 luôn trong trạng thái nhập siêu, dao động trong khoảng 12,5% năm 1991 đến 49,7% năm 1995 trên tổng kim ngạch xuất khẩu. Điều đó nghĩa là, doanh nghiệp công nghiệp nhà nước với nhiều lợi thế về nền tảng sở vật chất kỹ thuật được tích lũy từ thời bao cấp, về tiếp cận đất đai, tín dụng... đang những đóng góp quan trọng vào sản lượng, giá trị công nghiệp. Nhưng từ đây cũng nảy sinh mối lo rằng, các doanh nghiệp này đang được “nuông chiều” hơn các thành phần kinh tế khác, nếu hội nhập, liệu đứng vững trong môi trường cạnh tranh bình đẳng với nguyên tắc đối xử quốc gia, không phân biệt đối xử giữa sản phẩm, dịch vụ của nhà cung cấp trong nước với sản phẩm, dịch vụ của nhà cung cấp nước ngoài? Liệu còn giữ được vai trò đầu tàu, trở thành một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước để ổn định kinh tế mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế - hội, khắc phục các khiếm khuyết của chế thị trường?

vậy, con đường đi đến quyết định đàm phán gia nhập WTO được trình bày hết sức thuyết phục cũng phải thật sự bản lĩnh mới thể vượt qua được sự nghi hoặc, e ngại về làm cách nào để Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế vẫn bảo đảm an ninh kinh tế, thị trường trong nước không bị thâu tóm, không bị mất quyền kiểm soát, doanh nghiệp trong nước trụ vững, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới! Sự dũng cảm đó dựa trên nguyên thể dùng ngay sức ép của hội nhập để sắp xếp, cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp vốn từng được “nuông chiều”, thực tiễn những năm sau đó đã chứng minh sự đúng đắn của nguyên này.

Gia nhập WTO, Việt Nam mở ra sân chơi toàn cầu với 149 nước vùng lãnh thổ. Theo đánh giá của Quốc hội nước ta, việc gia nhập WTO sở cho các hội nhập khác về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật an ninh - quốc phòng.

Từ điểm đột phá quyết tâm đưa Việt Nam hội nhập vào dòng chảy kinh tế thế giới, nơi mở rộng hội tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu, cũng nơi tiềm ẩn những nhân tố thể gây mất ổn định nền sản xuất trong nước; nơi dang rộng vòng tay liên kết, hợp tác hết sức đa dạng cho từng nhóm nước trình độ phát triển khác nhau, song cũng nơi hội thách thức đan xen nhau rất phức tạp, ngành Công Thương đã đóng góp vào việc thể chế hóa các chính sách kinh tế, theo hướng mở rộng quyền kinh doanh, khơi thông nguồn lực của hội để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, đủ sức ứng phó với những biến động từ bên ngoài. Bên cạnh đó, chủ động tham mưu cho Đảng Nhà nước công tác nội luật hóa cho phù hợp với các điều ước quốc tế, các hiệp định thương mại tự do song phương đa phương.

Luật thương mại năm 1997, 2005 đã thể hiện tính tiến bộ, sự tương thích với pháp luật thông lệ quốc tế. Các nguyên tắc đó gồm:

- Thương mại được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ bao gồm hoạt động mua bán hàng hóa cả hoạt động đầu tư, dịch vụ mua bán quyền sở hữu trí tuệ.

- Sự bình đẳng trước pháp luật của thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong hoạt động thương mại.

- Khẳng định quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại.

- Công nhận việc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại.

- Đề cao trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng.

- Công nhận giá trị pháp của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại.

Với quan điểm tiếp cận rộng mở của Luật thương mại năm 1997, 2005, cùng với Luật doanh nghiệp năm 2000, 2005 các văn bản pháp chức năng bảo vệ sự bình đẳng trong hoạt động sản xuất - kinh doanh cũng như quyền lợi người tiêu dùng như Luật cạnh tranh năm 2004, Quyết định số 1681/QĐ-BTM ngày 15/11/2004 Quyết định số 1249/QĐ-BTM ngày 31/7/2007 của Bộ trưởng Bộ Thương mại quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cấu tổ chức của Cục Quản thị trường, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010... đã thúc đẩy sự ra đời của các tầng lớp thương nhân mới. Tính đến đầu năm 2010, số doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp xây dựng 84,7 nghìn doanh nghiệp, chiếm 34% tổng số doanh nghiệp, gấp 5,7 lần năm 2000. Trong khi đó, các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực thương mại dịch vụ chiếm tỷ lệ cao nhất về số doanh nghiệp, vốn kinh doanh đứng thứ hai về kết quả hoạt động kinh doanh. Tại thời điểm ngày 01/01/2010, tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ 155,3 nghìn doanh nghiệp, chiếm 62,4% tổng số doanh nghiệp, gấp 6,5 lần năm 2000.

Những kết quả trên đã góp phần đưa tổng sản phẩm trong nước (tính theo giá so sánh năm 1994) năm 2010 đã gấp gần 2,02 lần năm 2000. Nếu tính bằng đôla Mỹ theo tỷ giá hối đoái thực tế bình quân hằng năm, tổng sản phẩm trong nước (GDP) đã tăng từ gần 31,2 tỉ USD năm 2000 lên trên 100,8 tỉ USD năm 2010, tức gấp 3,23 lần. Theo phân loại hiện nay của Ngân hàng Thế giới về thu nhập tính theo tổng thu nhập quốc gia (GNI), từ năm 2008, Việt Nam đã ra khỏi nhóm nước vùng lãnh thổ thu nhập thấp, bước vào nhóm nước vùng lãnh thổ thu nhập trung bình.

Bên cạnh sự phát triển của tầng lớp thương nhân mới, các hoạt động kinh tế được định hướng theo các chiến lược, quy hoạch nhằm phát triển các phân ngành công nghiệp trên sở phát huy tổng hợp nguồn lực của mọi khu vực kinh tế, theo hướng hình thành cân đối động, đảm bảo sự ưu tiên phát triển các ngành, vùng phù hợp với nguồn lực lợi thế trong từng thời kỳ, với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế bảo đảm tham gia một cách chủ động, hiệu quả vào liên kết công nghiệp hiệp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành với các tập đoàn đa quốc gia trên thế giới. Đồng thời, gắn chặt với phát triển dịch vụ, tạo động lực trực tiếp cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Công tác quản nhà nước về công nghiệp theo hướng chuyển mạnh sang chức năng thúc đẩy, phục vụ phát triển chính, hạn chế tối đa sử dụng các biện pháp hành chính vào sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, giảm dần các đầu mối quản ngành. Quy hoạch cũng sở để ngành Công Thương xây dựng các đề án phát triển các ngành công nghiệp, như nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp; phát triển công nghiệp chế biến; phát triển công nghiệp hỗ trợ, triển khai hiệu quả các đề án phát triển ngành phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn; đẩy mạnh các hoạt động khuyến công... Các quy hoạch, chiến lược thuộc ngành Công Thương trong thời kỳ này khá “đồ sộ”, vượt qua số lượng chiến lược, quy hoạch của bất cứ ngành nào.

Đây cũng thời kỳ khá thành công trong công tác cổ phần hóa, tái cấu một số doanh nghiệp nhà nước. Từ đó, tạo động lực thúc đẩy phát triển nhiều ngành, lĩnh vực công nghiệp, thương mại, khai thác, thu hút sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tạo điều kiện thuận lợi để góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sau cổ phần hóa, một số thương hiệu Việt đã vươn lên trở thành doanh nghiệp đầu ngành như Vinamilk, Nhựa Bình Minh,...

Kết quả, trong suốt 15 năm 1996 - 2010, nền kinh tế đã phát triển đúng hướng, tốc độ tăng của mỗi 5 năm khu vực công nghiệp - xây dựng thương mại - dịch vụ luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng của khu vực nông, lâm, thủy sản. Cụ thể, 5 năm 1996 - 2000, tăng trưởng khu vực công nghiệp - xây dựng thương mại - dịch vụ lần lượt 10,6% 5,75% so với 4,3% của nông, lâm, thủy sản. Tương tự, giai đoạn 2001 - 2005, tốc độ tăng của công nghiệp - xây dựng thương mại - dịch vụ lần lượt 10,25% 6,96% so với 3,83% của nông, lâm, thủy sản. Giai đoạn 2006 - 2010, tốc độ tăng của công nghiệp - xây dựng thương mại - dịch vụ lần lượt 7,94% 7,73% so với 3,34% của nông, lâm, thủy sản. Trong 15 năm, đóng góp của khu vực nông, lâm, thủy sản thu hẹp dần từ 25% năm 1996 giảm dần xuống còn 18,9% năm 2010, thì công nghiệp - xây dựng thương mại - dịch vụ liên tục những khu vực đóng góp chủ yếu vào tổng sản phẩm quốc dân, duy trì mức trên dưới 40% mỗi khu vực.

Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh năm 1994) năm 2010 đạt 795,1 nghìn tỉ đồng, gấp 4 lần năm 2000, bình quân trong 10 năm (2001 - 2010) tăng 14,9%/năm; trong đó khu vực nhà nước gấp 2,1 lần, bình quân tăng 7,8%/năm; khu vực ngoài nhà nước gấp 6,5 lần, bình quân tăng 20,5%/năm; khu vực vốn đầu nước ngoài gấp 4,7 lần, bình quân tăng 16,7%/năm. So với 10 năm (1991 - 2000) thì tốc độ tăng của ngành công nghiệp 10 năm 2001 - 2010 đã cao hơn 1,1% (14,9% so với 13,8%)5.

Dung lượng thị trường trong nước tăng nhanh. Giai đoạn 1996 - 2010, tổng mức lưu chuyển hàng hóa doanh thu dịch vụ tăng bình quân 20%/năm, đáp ứng bản nhu cầu của đại đa số người tiêu dùng. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa doanh thu dịch vụ 5 năm 2006 - 2010 đạt 5,1 triệu tỉ đồng, gấp 2,93 lần so với 5 năm 2001 - 2005. Thị trường thành thị trở thành trung tâm đầu mối giao lưu kinh tế với các hình thức tổ chức văn minh, hiện đại; trong khi thị trường nông thôn, miền núi từng bước phát triển ngày càng mở rộng. Cùng với hệ thống chợ truyền thống, số lượng các siêu thị đã tăng nhanh. Đặc biệt từ năm 1996 trở đi, không còn các cơn sốt do mất cân đối cung cầu gây ra. Nhờ sự tham gia của các thành phần kinh tế, sở thương mại được đầu mạnh mẽ, từ năm 1995 đến năm 2010, đầu cho ngành thương mại - dịch vụ chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu toàn hội. Số lượng chợ đến ngày 31/12 các năm 2008, 2009, 2010 (trước đó không thống kê) lần lượt 7.871 chợ, 8.495 chợ 8.528 chợ. Tương tự, số siêu thị giai đoạn 2008 - 2010 lần lượt 386, 451 571; số trung tâm thương mại lần lượt 72, 85 1016. Các nhà bán lẻ nước ngoài tham gia vào thị trường nội địa, trong đó những tập đoàn siêu thị quốc tế lớn như Metro, BigC, Parson, Zen Plaza, Diamond Plaza, Lotte Mart... góp phần làm cho hệ thống phân phối trong nước sự cạnh tranh lành mạnh. Trong khi các nhà bán lẻ trong nước ngày càng lớn mạnh, với sự tham gia của Saigon Co.op, Hapro Mart, Citi Mart, Intimex... chiếm tỷ trọng lớn tất cả các kênh phân phối.

Việc kết tích cực triển khai thực hiện nhiều hiệp định thương mại song phương với Mỹ, Nhật Bản, đa phương với ASEAN đa phương giữa ASEAN với Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, nhất việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã giúp doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu. Cứ sau mỗi 5 năm, kim ngạch xuất khẩu lại tăng gấp hơn 2 lần. Giai đoạn 2001 - 2005, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 110,81 tỉ USD, cao gấp 2,13 lần so với 51,82 tỉ USD của giai đoạn 1996 - 2000; giai đoạn 2006 - 2010 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 280,3 tỉ USD, cao gấp 2,53 lần so với 110,81 tỉ USD của giai đoạn 2001 - 20057. cấu hàng hóa xuất khẩu cấu thị trường xuất, nhập khẩu tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỷ trọng của các nhóm hàng đã qua chế biến tăng dần. Hàng nguyên liệu thô năm 1996 chiếm trên 70%, đến năm 2000 còn khoảng 60% năm 2010 còn 34,8% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hàng chế biến, trong đó cả hàng chế tạo, năm 1996 chỉ chiếm khoảng trên 20%, đến năm 2000 đã lên khoảng 40%, đến năm 2010 đạt 65,1%. Về thị trường, những năm 2000 trở về trước, xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào thị trường châu Á; từ năm 2001 trở đi, thị trường xuất khẩu đa dạng hơn, Bắc Mỹ châu Âu ngày càng chiếm tỷ trọng lớn về giá trị.

Đến năm 2010, Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu đưa “nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên 2 lần nhịp độ tăng GDP” đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - hội 2001 - 2010 (Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX).

Sự năng động của hoạt động công nghiệp thương mại góp phần quan trọng đưa đất nước băng qua những cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997 - 1998, khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 - 2009, vượt qua những “sốc” bong bóng bất động sản toàn cầu 2001 - 2003, bong bóng thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2005 - 2006, về đích với các chỉ số ấn tượng: Quy tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 838 nghìn tỉ đồng, gấp 2 lần so với năm 19958; tổng sản phẩm trong nước (tính theo giá so sánh năm 1994) năm 2010 đã gấp gần 2,02 lần năm 20009. Năm 2006, Việt Nam đã hoàn thành “Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) về xóa nghèo”, về đích trước gần 10 năm so với thời hạn năm 2015. Theo phân loại hiện nay của Ngân hàng Thế giới tính theo tổng thu nhập quốc gia (GNI), từ năm 2008, nước ta đã ra khỏi nhóm nước vùng lãnh thổ thu nhập thấp, bước vào nhóm nước vùng lãnh thổ thu nhập trung bình10. Năm 2010, Việt Nam đã đạt được thành công kép, đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000, đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển11.

Sự năng động của hoạt động công nghiệp thương mại cũng góp phần đưa con tàu Việt Nam cập bến, hoàn thành xuất sắc các chủ trương của Đại hội VIII, IX của Đảng gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; của Đại hội X gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức, biểu hiện sinh động nhất sự phát triển bền vững của công nghiệp chế biến. Tỷ trọng công nghiệp chế biến trong giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp thăng tiến mạnh từ 80,56% năm 1995 lên 90,02% năm 2010, trở thành động lực dẫn dắt sự tăng trưởng toàn ngành công nghiệp. Trong 10 năm cuối của thời kỳ, công nghiệp chế biến đã tạo nên 2 làn sóng chuyển dịch: từ năm 2000, chuyển dịch các ngành công nghiệp thâm dụng tài nguyên sang các ngành hàng thâm dụng lao động như dệt may, da giày; từ năm 2010, chuyển dịch các ngành công nghiệp thâm dụng lao động sang các ngành công nghiệp thâm dụng vốn như thép, hóa chất... để tạo nền tảng vững chắc cho làn sóng thứ ba: chuyển dịch từ các ngành thâm dụng vốn sang các ngành công nghiệp thâm dụng công nghệ, như điện tử, máy vi tính, sản phẩm quang học, máy móc công nghệ... cho giai đoạn sau này, bắt đầu từ năm 2016.

Những chính sách mở rộng hoạt động thương mại, từng bước thực hiện tự do hóa thương mại đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự lớn mạnh của tầng lớp thương nhân, tích lũy tiềm lực kinh nghiệm để trở thành đội ngũ doanh nhân toàn cầu, đủ sức tự bảo vệ trước những thách thức sức ép ngày càng lớn trong dòng chảy thương mại quốc tế.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.53, tr.199.

2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.120; t.65, tr.139; t.55, tr.311.

5. Xem Tổng cục Thống kê: Tình hình kinh tế - hội Việt Nam 10 năm 2001 - 2010, Sđd, tr.42, 43.

6. Xem Tổng cục Thống kê: Tình hình kinh tế - hội Việt Nam 15 năm đầu thế kỷ XXI, Sđd, tr.763-767.

7. Xem Tổng hợp số liệu từ Niên giám Thống các năm 1996 - 2010.

8. “20 năm đổi mới: Đạt được nhiều thành tựu kinh tế - hội”, Báo Nhân Dân bản điện tử, ngày 19/4/2006.

9. Xem Tổng cục Thống kê: Tình hình kinh tế - hội Việt Nam 10 năm 2001 - 2010, Sđd, tr.10.

10, 11. Xem Tổng cục Thống kê: Tình hình kinh tế - hội Việt Nam 10 năm 2001 - 2010, Sđd, tr.10.

2. Hoạt động ngoại thương

Vào thời điểm khủng hoảng tiền tệ Đông Á 1997 - 1998, hoạt động ngoại thương nước ta bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tăng trưởng xuất khẩu đang từ hai con số giảm xuống còn 1,9% năm 1998. Nhưng đây cũng là năm chính sách xuất, nhập khẩu có bước đột phá mạnh mẽ, với Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua, bán hàng hóa với nước ngoài.

Nghị định số 57/1998/NĐ-CP đã xóa bỏ nhiều rào cản trước đó như chế độ giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu, tạo môi trường pháp lý thông thoáng, bình đẳng hơn, tạo ra sự chuyển biến về chất cho cơ chế xuất - nhập khẩu, tôn trọng quyền kinh doanh và quyền tự chủ của doanh nghiệp, giảm thiểu cơ chế xin - cho, hầu hết hàng hóa được làm thủ tục xuất, nhập khẩu trực tiếp tại hải quan, chỉ chịu sự điều tiết về thuế; đối với biện pháp phi thuế chỉ còn áp dụng đối với một số lượng rất ít mặt hàng. Hàng hóa xuất khẩu theo hạn ngạch chỉ có hai mặt hàng là gạo và hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường có hạn ngạch (theo hạn ngạch của nước ngoài). Các hàng hóa khác nhập khẩu không bị áp dụng hạn ngạch.

bảng 65

Nhờ khai thông vấn đề quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu, xóa bỏ giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu, tháo bỏ các rào cản, tăng cường các biện pháp khuyến khích, đặc biệt là các biện pháp tài chính, nên số lượng các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất, nhập khẩu tăng lên nhanh chóng qua các thời kỳ. Năm 1998 có 2.800 đơn vị trực tiếp xuất, nhập khẩu, nhưng đến năm 2000 đã có khoảng trên 12.000 doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia, trong đó có các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn FDI. Kim ngạch xuất khẩu năm 1999 đã tăng 23,3% so với năm 1998, năm 2000 tăng 25,4% so với năm 1999.

Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu và cơ cấu thị trường xuất, nhập khẩu tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỷ trọng của các nhóm hàng đã qua chế biến tăng dần. Hàng nguyên liệu thô năm 1996 chiếm trên 70%, đến năm 2000 còn khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hàng chế biến, trong đó có cả hàng chế tạo, năm 1996 chỉ chiếm khoảng trên 20%, đến năm 2000 đã lên khoảng 40%. Đồng thời, có sự gia tăng nhanh chóng của những mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dầu thô, gạo, hàng điện tử, máy tính, hàng dệt may, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ, thủy sản, cà phê, hạt điều... Năm 1996, có hai mặt hàng dầu thô và dệt may vượt mức 1 tỉ USD, đến năm 2000 đã có 4 mặt hàng vượt qua mức 1 tỉ USD là dầu thô, hàng may mặc, giày dép và thủy sản. Xuất khẩu bình quân đầu người năm 2000 đạt 184,2 USD, đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước có nền ngoại thương kém phát triển.

Thị trường xuất khẩu được mở rộng và chuyển hướng tích cực. Từ chỗ chỉ tập trung vào thị trường Đông Âu những năm 1986 - 1991 đã chuyển sang thị trường các nước Đông Nam Á và EU, tỷ trọng thị trường EU tăng nhanh trong giai đoạn 1996 - 2000. Năm 1996, xuất khẩu sang thị trường ASEAN đạt 1.177,5 triệu USD, chiếm 24,4%, đến năm 2000 đạt 2.619 triệu USD, chiếm 18%. Ngược lại, xuất khẩu sang thị trường EU đã tăng từ 16,1% năm 1996 (1.174,6 triệu USD) lên 19,6% năm 2000 (2.845,1 triệu USD). Quan hệ buôn bán với các nước châu Đại Dương được mở rộng. Năm 1996, xuất khẩu sang Ôxtrâylia mới đạt 64,8 triệu USD, đến năm 2000 đã vượt ngưỡng 1 tỉ USD (1.272,5 triệu USD)1.

Ba năm sau khi Nghị định số 57/NĐ-CP ra đời, với sự tham mưu, đề xuất của Bộ Thương mại, Chính phủ ban hành Nghị định số 44/2001/ NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/1998/NĐ-CP và Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 04/4/2001 về cơ chế quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2001 - 2005 (được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 150/2003/QĐ-TTg ngày 22/7/2003; được gia hạn bởi Quyết định số 323/2005/QĐ-TTg ngày 07/12/2005). Nghị định số 44/2001/NĐ-CP và Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg đã tạo một cơ chế quản lý xuất, nhập khẩu rõ ràng, minh bạch, ổn định trong thời gian 5 năm, với 3 danh mục: hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; hàng xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại và hàng xuất khẩu, nhập khẩu theo các quy định quản lý chuyên ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạch định kế hoạch sản xuất - kinh doanh; cho công tác quản lý nhà nước, công bố rõ ràng lộ trình bãi bỏ giấy phép của Bộ Thương mại.

May Sông Hồng

Nghị định số 57/1998/NĐ-CP và Nghị định số 44/2001/NĐ-CP đã tạo quyền chủ động cho các chủ thể tham gia xuất, nhập khẩu, từ chỗ phải có giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu với những điều kiện rất chặt chẽ về vốn lưu động, về loại hình kinh doanh, sản xuất, về kinh tế quốc doanh hay ngoài quốc doanh... đến chỗ mọi thương nhân Việt Nam đều có quyền xuất, nhập khẩu không cần giấy phép, mở rộng quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu cho doanh nghiệp FDI, của chi nhánh công ty nước ngoài, huy động các thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu.

Ngày 23/01/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2006/NĐ- CP quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, bao gồm xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu; các hoạt động ủy thác và nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu, đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa, thay thế cho Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 44/2001/NĐ-CP ngày 02/8/2001) của Chính phủ. Quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu của doanh nghiệp theo nghị định này được mở rộng hơn nữa, cho phép thương nhân được xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu, gia công, đại lý mua, bán hàng hóa theo quy định và trong phạm vi Nghị định số 12/2006/NĐ-CP không phụ thuộc vào ngành hàng, ngành nghề ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Bên cạnh đó, Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg đã điều chỉnh lại danh mục hàng hóa cấm xuất, cấm nhập cho phù hợp hơn, loại bỏ ngay một số hàng nhập khẩu ra ngoài danh mục hàng nhập khẩu có giấy phép, đồng thời xác định lộ trình loại bỏ giấy phép đối với các mặt hàng nhập khẩu thời kỳ 2001 - 2005. Xác định các nguyên tắc quản lý hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo quản lý chuyên ngành; áp dụng các biện pháp quản lý mới phù hợp với quy định của Tổ chức Thương mại thế giới, như: hạn ngạch thuế quan, thuế chống phá giá, chống trợ cấp...

Những chính sách ấy đã tác động tích cực đến hoạt động ngoại thương, trước hết được thể hiện ở kim ngạch xuất, nhập khẩu những năm 2001 - 2010. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2010 đạt gần 157 tỉ USD, gấp trên 5,2 lần năm 2000, trong đó xuất khẩu đạt 72,2 tỉ USD, gấp trên 5 lần; nhập khẩu 84,8 tỉ USD, gấp gần 5,4 lần. Trong những năm 2001 - 2010, bình quân mỗi năm, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng 18%, trong đó xuất khẩu tăng 17,4%; nhập khẩu tăng 18,4%. Với kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân mỗi năm 17,4%, gấp gần 2,4 lần tốc độ tăng GDP, đất nước đã hoàn thành mục tiêu đưa “nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên hai lần nhịp độ tăng GDP” đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 (Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX). Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu bình quân đầu người năm 2010 đã gấp 4,3 lần năm 2001, trong 10 năm 2001 - 2010 bình quân tăng 17,4%/năm2.

bảng 66

bảng 67

bảng 68

Cơ cấu hàng xuất khẩu chuyển biến rõ rệt. Hàng thô hoặc sơ chế giảm dần từ 53,3% năm 2001 xuống còn 34,8% năm 2010; hàng chế biến tăng dần từ 46,7% năm 2001 lên 65,1% năm 2010.

Hàng nhập khẩu được kiểm soát tốt, cơ cấu nhập khẩu lành mạnh, chủ yếu là tư liệu sản xuất, nguyên phụ liệu phục vụ làm hàng xuất khẩu như máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, nhiên liệu, vật liệu, phụ liệu; trong khi hàng tiêu dùng chỉ chiếm dưới 10% tổng kim ngạch nhập khẩu.

Thanh long Việt Nam lên đường sang Mỹ

Sau thời gian đàm phán và kiểm tra trên thực địa, ngày 30/7/2008, Tham tán thương mại Việt Nam tại Mỹ, ông Ngô Văn Thoan gửi công văn về nước thông báo phía Mỹ đã cho phép nhập khẩu trái thanh long của Việt Nam vào thị trường nước này.

Trước đó, Cục Kiểm dịch động thực vật (APHIS) thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ đã nghiên cứu, phân tích trong phòng thí nghiệm, cử các đoàn kiểm tra thực tế từ khâu gieo trồng, thu hoạch, bảo quản đối với trái thanh long và các phương tiện kỹ thuật được sử dụng kiểm dịch tại Việt Nam.

Kết quả điều tra được APHIS thông báo rộng rãi để lấy ý kiến công chúng Mỹ từ ngày 09/5 đến ngày 08/7/2008, đúng 60 ngày theo quy định của luật pháp Mỹ.

Ngoài những quy định chung về kiểm dịch thực vật, các lô hàng thanh long Việt Nam nhập vào Mỹ phải đảm bảo ba tiêu chuẩn riêng của APHIS.

Một là, thanh long được đưa qua chiếu xạ với liều lượng hấp thụ tối thiểu 400 gray.

Hai là, mỗi lô hàng thanh long đều phải có giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật do Cơ quan bảo vệ thực vật quốc gia của Việt Nam (NPPO) cấp và ghi rõ đã được kiểm dịch và xử lý chiếu xạ theo quy định (hoặc lô hàng sẽ được chiếu xạ tại cảng đến trên lãnh thổ Mỹ).

Ba là, các quy định trên chỉ áp dụng cho các lô hàng thương mại.

Thương vụ Việt Nam tại Mỹ cũng cho biết, qua làm việc, APHIS cho rằng họ có thể xem xét và cho phép cùng một lúc ba hoặc bốn loại trái cây có bản chất và đặc tính tương tự, chứ không nhất thiết phải làm từng loại như đã làm với thanh long.

Xuất khẩu thanh long sang thị trường Mỹ cần phải đạt được các chỉ tiêu sau:

- Thanh long phải được chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn “GlobalGAP”.

- Cơ sở đóng gói thanh long xuất khẩu phải đạt chuẩn.

- Giống thanh long được phép xuất khẩu sang thị trường Mỹ là thanh long ruột trắng và ruột đỏ.

- Trọng lượng trái thanh long tương đối nhỏ hơn các thị trường khác, khoảng 300 - 350g/quả.

- Tất cả lô hàng thanh long từ Việt Nam khi xuất khẩu vào Mỹ phải đạt các điều kiện về chuẩn kỹ thuật và nguồn gốc xuất xứ: Mã số vùng trồng + Mã số cơ sở đóng gói + Mã số nhà máy xử lý chiếu xạ.

- Thanh long xuất khẩu sang Mỹ cần phải tuân thủ Hiệp định SPS - Hiệp định Vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và các chất tồn dư khác ở dưới mức cho phép, không có các loại sâu bệnh thuộc đối tượng dịch hại mà Mỹ quan tâm (đặc biệt là ruồi đục quả).

Nguồn: Thông tin truyền thông Phát triển nông nghiệp - nông thôn và Trung tâm xúc tiến thương mại, Du lịch và Đầu tư Đồng Tháp.


1. Niên giám Thống kê các năm 1996 - 2000.

2. Xem Tổng cục Thống kê: Số liệu thống kê Việt Nam 10 năm đầu thế kỷ XXI, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2011, tr.71.

KẾT LUẬN

Trong hành trình 65 năm (1945 - 2010), ngành Công Thương đã từng bước xây dựng hai trụ cột cơ bản là công nghiệp và thương mại, tạo ra nền tảng hạ tầng kinh tế - kỹ thuật căn bản cho công cuộc kiến thiết nền kinh tế.

Từ buổi đầu thành lập, ngay trong lòng các cuộc kháng chiến, qua mưa bom bão đạn, các hoạt động công nghiệp, thương mại đã gây dựng nên những cơ sở ban đầu cho công nghiệp hóa, thúc đẩy các ngành kinh tế quốc dân phát triển, đáp ứng nhu cầu đời sống nhân dân, góp phần giải quyết hậu cần tại chỗ, tạo điều kiện cho cuộc kháng chiến đi tới thắng lợi cuối cùng.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chính phủ đã xây dựng Nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo tại Chiêm Hóa (Tuyên Quang) - cái nôi của ngành Cơ khí Việt Nam; bắt tay hình thành ngành Công nghiệp khai khoáng với các hoạt động ở các mỏ than Làng Cẩm, Quán Triều, Khe Bố, Phấn Mễ, Minh Khai, Đầm Đùn; các mỏ thiếc, mỏ chì - kẽm, mỏ apatít; sản xuất thành công nhiều loại hóa chất cơ bản, thiết yếu...

Với chính sách thương mại mềm dẻo, linh hoạt “nắm hàng chính, nắm thị trường chính, nắm bán buôn là chính”, thương nghiệp quốc doanh đã tận dụng mạng lưới thương nhân để điều hòa giá cả trên thị trường. Cán bộ mậu dịch sinh hoạt thường kỳ để cung cấp các thông tin quân sự, kinh tế, chính trị mới, nhằm định hướng, hỗ trợ hoạt động kinh doanh của thương nhân, nên đã thúc đẩy sản xuất, đảm bảo cung cấp hàng hóa cần thiết cho công cuộc kháng chiến, đời sống nhân dân, cũng như bình ổn giá cả, chống đầu cơ, lũng đoạn thị trường.

Bên cạnh đó, Bộ Kinh tế đã mở lớp đào tạo, đặt nền móng cho xây dựng một đội ngũ quản lý ngành. Năm 1948, đã mở hai khóa đào tạo cán bộ quản lý kinh tế. Các học viên tốt nghiệp được bổ sung về Bộ Kinh tế hoặc về các địa phương. Có thể xem hai khóa học này là nơi tạo nguồn cán bộ khung quý báu cho hoạt động quản lý kinh tế của Chính phủ. Nhiều học viên sau này đã có những đóng góp lớn, giữ chức vụ quan trọng trong các cơ quan quản lý kinh tế của Nhà nước tại Trung ương và địa phương.

Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, hoạt động công nghiệp, thương mại tuy gặp nhiều khó khăn do bị đánh phá ác liệt, nhưng ở miền Bắc đã hình thành hàng loạt cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại như cơ khí, chế biến nông sản, dệt may, chế biến gỗ, sản xuất giấy, hệ thống hợp tác xã mua bán... nhờ đó đã tự túc được một phần đáng kể các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, cung cấp lượng lớn nông cụ, các loại vũ khí thô sơ cho quân đội.

Không chỉ xây dựng hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, hàng vạn công nhân viên ngành Công Thương còn trực tiếp tham gia vào công cuộc giải phóng đất nước.

Trong những năm tháng leo thang ác liệt nhất trên bầu trời miền Bắc, không quân Mỹ ném bom vào các thành phố lớn, các trung tâm công nghiệp và thương mại thì cán bộ, công nhân viên ngành Công Thương phân tán về các địa phương, lấy đơn vị tỉnh làm địa bàn xây dựng công nghiệp, thương mại. Địch nhằm vào các ngành công nghiệp nền tảng làm mục tiêu đánh phá ác liệt, thì cán bộ, công nhân ngành Điện, ngành Than, Xăng dầu, Luyện kim... nêu cao khẩu hiệu “giữ vững dòng điện như mạch máu”, “quý xăng như máu”, “chắc tay búa, vững tay súng”... Khắp các địa phương, xí nghiệp, nhà máy công trường dấy lên phong trào “tay búa, tay súng”, “toàn dân chi viện chiến trường”, “vì miền Nam ruột thịt”, “tất cả vì sự sống của con đường”, “một cân hàng Chính phủ là một cân vàng vào Nam”, “đầu đội tọa độ, chân đạp thủy lôi, không phút nghỉ ngơi, đưa hàng ra phía trước”... Hàng vạn cán bộ, công nhân viên ngành trực tiếp tham gia vào chiến trường miền Nam; riêng ngành Than có gần 2.000 thợ mỏ tập hợp thành Binh đoàn Than. Trong những năm tháng chiến tranh, nhiều cán bộ, công nhân, người lao động ngành Công Thương đã anh dũng hy sinh. Tiêu biểu là Đội trưởng Đội bảo vệ Trương Xuân Lợi, Đội phó Đội bảo vệ Lê Xuân Ba của Tổng kho Xăng dầu Đức Giang; liệt sĩ Mạc Văn Cầu, liệt sĩ Nguyễn Văn Mậu của Tổng kho Xăng dầu Thượng Lý; Đại đội trưởng tự vệ, Anh hùng Lực lượng vũ trang, liệt sĩ Đặng Bá Hát của Than Hòn Gai; Chi cục Vận tải khu IV có 26 cán bộ, công nhân viên hy sinh trong khi chuyển hàng nội thương vào Nam...

Công Thương cũng là ngành đi đầu trong khôi phục hoạt động sản xuất - kinh doanh sau chiến tranh. Năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”, với phương châm tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, dựa vào sức mình là chính, ngành Công Thương đã di chuyển nhiều cơ sở công nghiệp kháng chiến về địa điểm mới; tiếp quản, khôi phục và mở rộng một số cơ sở công nghiệp cũ; xây dựng nhiều nhà máy mới, mà những cái tên còn vang vọng đến giờ: Khu Công nghiệp Thượng Đình, Nhà máy Cơ khí Hà Nội, Nhà máy Dệt Nam Định, Mỏ than Hòn Gai, Mỏ thiếc Tĩnh Túc, Nhà máy Ximăng Hải Phòng, Xí nghiệp Sửa chữa xe lửa Gia Lâm, Nhà máy Diêm Thống nhất... Từ đó, bước đầu hình thành nền công nghiệp hiện đại với cơ cấu khá hoàn chỉnh, bao gồm các ngành công nghiệp chế tạo tư liệu và sản xuất hàng tiêu dùng.

Năm 1973, khi đế quốc Mỹ chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, các cơ sở sản xuất điện, than, gang thép, chế tạo máy công cụ, phân bón, hóa chất, cao su, công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm... nhanh chóng được khôi phục và mở rộng, tiếp tục duy trì và phát triển nguồn lực của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa cho công cuộc thống nhất đất nước. Sau năm 1975, nhiệm vụ quan trọng nhất là hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục sản xuất, xây dựng đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngành Công Thương đã tham mưu cho Đảng và Nhà nước xác định những công trình trọng điểm nhằm hình thành một nền công nghiệp tự chủ, với cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường, cơ cấu công nghiệp hoàn chỉnh hơn. Điển hình là xúc tiến việc tìm kiếm và khai thác dầu mỏ trên lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam, tiến tới hình thành một nền công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh, bao gồm cả thăm dò, khai thác, vận chuyển, lọc dầu, hóa dầu, cơ khí phục vụ ngành Dầu khí; xây hệ thống điện 110 kV đầu tiên ở miền Bắc, xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại, xây dựng Tổng sơ đồ phát triển điện năng giai đoạn 1; khôi phục và mở rộng Nhà máy Cơ khí Hà Nội, Nhà máy Phân Đạm Hà Bắc, Supe Phốtphát Lâm Thao, thành lập Nhà máy Luyện cán thép Gia Sàng, Nhà máy Cán thép Lưu Xá; khôi phục và mở rộng các nhà máy điện, ximăng, dệt may, da giày, hóa chất, chất tẩy rửa, chế biến thực phẩm... ở các tỉnh phía Nam.

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, ngành Công Thương kịp thời điều chỉnh cơ cấu, hướng tới xây dựng một nền công nghiệp, thương mại, kinh tế đối ngoại độc lập, tự chủ; tập trung thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách Nhà nước về quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào thị trường trong nước và quốc tế; tham mưu và tổ chức xây dựng nhiều văn bản pháp luật, các chương trình, kế hoạch phát triển công nghiệp, thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế. Các quy hoạch, chiến lược không chỉ tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng dài hạn, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mà còn làm thay đổi căn bản công tác quản lý nhà nước về công nghiệp, thương mại theo hướng chuyển mạnh sang chức năng thúc đẩy, phục vụ phát triển là chính, hạn chế tối đa sử dụng các biện pháp hành chính vào sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, giảm dần các đầu mối quản lý ngành.

Trên chặng đường dài từ một nước xuất phát điểm thấp, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia có nền công nghiệp thuộc vào nhóm các quốc gia có năng lực cạnh tranh toàn cầu ở mức trung bình cao, có nền thương mại phát triển, đủ sức hỗ trợ nền sản xuất trong nước từng bước tham gia ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Trong hành trình bền bỉ ấy, bên cạnh những dấu ấn, thành tựu nổi bật, cũng có những sai lầm, vấp váp, nhưng thành công hay thất bại, cũng để lại cho ngành Công Thương và nền kinh tế những bài học kinh nghiệm quý báu.

Thứ nhất, nắm vững chủ trương, vận dụng sáng tạo đường lối cách mạng của Đảng qua từng thời kỳ vào phát triển của ngành và nền kinh tế.

Một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 03/9/1945, tại Bắc Bộ phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ. Người nêu ra 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó nhiệm vụ đầu tiên là “... nhân dân đang đói... Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống”1. Từ chủ trương “phải làm thế nào cho họ sống”, chỉ 2 ngày sau, ngành Công Thương đã cụ thể hóa thành “Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời số 7, ngày 05/9/1945”. Sắc lệnh số 7 cho phép việc buôn bán và chuyên chở thóc gạo trong toàn hạt Bắc Bộ Việt Nam được hoàn toàn tự do. Những ai tích trữ thóc gạo, mưu sự đầu cơ, nếu phương hại đến nền kinh tế, sẽ bị nghiêm phạt theo quân luật. Hơn 1 tháng sau, cũng theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc dân Kinh tế, ngày 09/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh cấm xuất khẩu thóc, gạo, ngô, đỗ, các chế phẩm thuộc về ngũ cốc. Tiếp đó, ngày 15/11/1945, Bộ Quốc dân Kinh tế ban hành Nghị định số 41-BKT khuyến khích tận dụng đất đai, trồng màu cứu đói; tổ chức sản xuất nông cụ cho phát triển nông nghiệp; phối hợp với Bộ Canh nông dùng nguồn đất công cộng tăng gia sản xuất.

Từ năm 1945, đất nước trải qua nhiều biến động; quá trình phát triển của ngành Công Thương cũng biến động theo chu kỳ, có thể thấy nhiều điểm tương đồng của các chu kỳ này - tất nhiên có sự thay đổi về cấp độ theo tính chất, yêu cầu của từng giai đoạn cụ thể.

Đó là cách tổ chức kinh tế thời chiến 1946 - 1954 và 1965 - 1975, là cuộc cải tạo công thương nghiệp 1958 - 1960 và 1975 - 1980, hay các thời kỳ khôi phục kinh tế 1955 - 1957, 1973 - 1975 và 1975 - 1985. Cùng điều kiện chiến tranh, cùng thực hiện chủ trương đảm bảo cho nhu cầu kháng chiến, giai đoạn 1946 - 1954 thương nghiệp quốc doanh hợp tác với thương nhân như cánh tay nối dài của mình, mở các tuyến đi vào vùng địch, cấp giấy phép cho họ ra vào vùng tạm chiếm để bán nông lâm sản, mua những mặt hàng dùng cho quân đội như thuốc tây, các hóa chất, thuốc nổ, nguyên liệu quốc phòng...; giai đoạn 1965 - 1975, mậu dịch quốc doanh sử dụng hợp tác xã như cánh tay nối dài, chuyển các hoạt động ở những điểm cố định sang hoạt động lưu động, bám sát các tuyến đường giao thông mới mở phục vụ quân đội, các cơ sở sản xuất từ thành thị về di tản, các nơi có dân cư sơ tán để phục vụ. Xã viên hợp tác xã mua bán là những chiến sĩ vận chuyển, áp tải hàng hóa đi qua các trọng điểm đánh phá ác liệt, và cũng là người đưa hàng hóa tới tận các chiến hào, mâm pháo cho bộ đội, dân quân. Nhiều xã viên đã anh dũng hy sinh khi đang trên đường làm nhiệm vụ.

Tương tự, cùng chủ trương khuyến khích tiểu thủ công nghiệp phục vụ kháng chiến, giai đoạn 1946 - 1954, các hoạt động thường là hỗ trợ về vốn, cử cán bộ đi trực tiếp gặp các cơ sở sản xuất để phổ biến các kỹ thuật sản xuất mới; giai đoạn 1965 - 1975 tiểu thủ công nghiệp nhận được sự hỗ trợ ở mức cao hơn, bài bản hơn: hỗ trợ vốn lưu động dưới dạng cung cấp nguyên vật liệu, mậu dịch quốc doanh đặt hàng, cung cấp nguyên vật liệu, bao tiêu sản phẩm; bảo đảm nguồn điện, nâng cao năng lực chế tạo, sửa chữa sản xuất cơ khí, xây các trạm thủy điện nhỏ, trang bị máy hơi nước, hướng dẫn kỹ thuật, đào tạo, cung cấp cán bộ, hướng dẫn làm kế hoạch, giúp đỡ kinh nghiệm quản lý...

Thời kỳ đổi mới đòi hỏi các cấp, các ngành phải nhanh chóng thể chế hóa chủ trương chuyển từ sản xuất theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa sang mô hình kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, phát triển kinh tế nhiều thành phần. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991), lần đầu tiên xuất hiện cụm từ “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”2; vận dụng sáng tạo chủ trương được xác định tại Đại hội VI, coi “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”3, trong những năm cuối thập kỷ 1980 các bộ quản lý ngành Công Thương đã tham mưu, biên soạn trình Chính phủ nhiều văn bản pháp quy hiện thực hóa chủ trương này. Cụ thể:

- Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng giao quyền tự chủ cho các xí nghiệp quốc doanh, xóa bỏ hệ thống chỉ tiêu hướng dẫn. Xí nghiệp quốc doanh chỉ thực hiện nhiệm vụ sản xuất những sản phẩm với số lượng tương ứng với phần vật tư mà Nhà nước cung ứng, ngoài ra, sản xuất cái gì, bán cho các thành phần kinh tế khác hoàn toàn thuộc quyền quyết định của xí nghiệp.

- Quyết định số 231/HĐBT ngày 31/12/1987 của Hội đồng Bộ trưởng cho phép tổ chức kinh doanh vật tư bán vật tư theo giá thỏa thuận đối với những loại vật tư ngoài danh mục Nhà nước định giá. Đặc biệt, các tổ chức kinh doanh vật tư được trực tiếp quan hệ với các tổ chức và tư nhân trong và ngoài nước trong phạm vi nhiệm vụ được Nhà nước giao để liên doanh, liên kết chủ động tạo thêm nguồn vật tư, vay và sử dụng ngoại tệ, ký hợp đồng mua, bán vật tư, đại lý mua, bán vật tư.

- Quyết định số 193/HĐBT ngày 23/12/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về kinh doanh thương mại và dịch vụ ở thị trường trong nước; trong đó, Nhà nước bảo hộ các hoạt động kinh doanh hợp pháp của các tổ chức, cá nhân; mọi hàng hóa đều được tự do lưu thông, trừ những mặt hàng cấm và những mặt hàng đòi hỏi phải tuân thủ những điều kiện nhất định mới được phép kinh doanh.

- Nghị định số 64/HĐBT ngày 10/6/1989 khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất hàng xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu. Bên cạnh các tổ chức kinh doanh xuất, nhập khẩu chuyên nghiệp của Nhà nước, các cơ sở sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu thuộc thành phần kinh tế tập thể, công tư hợp doanh, tư doanh và cá thể được tùy ý lựa chọn tổ chức xuất, nhập khẩu quốc doanh để ủy thác bán hàng xuất khẩu theo giá cả thỏa thuận.

Mặc dù ra đời trong bối cảnh vẫn còn những băn khoăn, e ngại nền kinh tế nhiều thành phần có dẫn đến hạn chế vai trò của xí nghiệp quốc doanh, mâu thuẫn với mô hình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, song các văn bản nói trên được triển khai trong thực tiễn đã tạo hành lang pháp lý cho các tổ chức kinh tế quốc doanh chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, hoạt động ổn định, giữ vững vai trò chủ đạo trên thị trường có sự tham gia của các thành phần kinh tế.

Thực tiễn triển khai các văn bản nói trên cũng góp phần vào kho tàng lý luận về kinh tế tư nhân, quyền sở hữu tư liệu trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, và là một trong những nhân tố thúc đẩy hai đạo luật: Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Từ đó, xác định lại phạm vi hoạt động của doanh nghiệp nhà nước với Quyết định số 90/TTg, 91/TTg trong cùng ngày 07/3/1994. Quyết định số 90/TTg quy định rõ ba điều kiện thành lập mới doanh nghiệp nhà nước. Thứ nhất, chỉ thành lập mới những doanh nghiệp nhà nước trong những ngành then chốt, những lĩnh vực mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, những lĩnh vực có nhu cầu của thị trường nhưng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa có điều kiện đầu tư phát triển. Thứ hai, không thành lập thêm những doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều năng lực kinh doanh cùng ngành đang hoạt động cùng một địa bàn (kể cả năng lực ngoài quốc doanh). Thứ ba, kể từ tháng 3/1994, tất cả các doanh nghiệp nhà nước thành lập mới phải có mức vốn pháp định ít nhất bằng 5 lần mức vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn cùng ngành nghề.

Với cách tiếp cận cởi mở của Quyết định số 217/HĐBT, Quyết định số 231/HĐBT, Quyết định số 193/HĐBT, Nghị định số 64/HĐBT ta có thể thấy, tình hình công nghiệp và thương mại có chu kỳ vận động mới với hình thức cao hơn. Trong những năm đầu đổi mới, ngành Công Thương có những tham mưu, đề xuất táo bạo, quyết đoán, một phần do tích lũy được những kinh nghiệm quý báu trong suốt chặng đường phát triển của mình. Trước đó 3 - 4 thập kỷ, theo đề nghị của các bộ quản lý ngành Công Thương, năm 1947, đã có Sắc lệnh số 29B/SL cho phép tư nhân được xuất, nhập khẩu mọi hàng hóa, trừ những mặt hàng cấm và mặt hàng do Chính phủ trực tiếp đảm nhận xuất, nhập khẩu; năm 1948 có Sắc lệnh số 104/SL quy định hoạt động của doanh nghiệp quốc gia (nay gọi là doanh nghiệp nhà nước) theo nguyên tắc tự lập, không sử dụng ngân sách nhà nước; năm 1950 có Sắc lệnh số 06/SL cho phép thành lập các công ty công tư hợp doanh, trong đó Chính phủ hợp vốn với tư nhân để kinh doanh; năm 1951 có Sắc lệnh số 49/SL quy định nguyên tắc “nội thương được tự do”; năm 1956 có Nghị định số 708/TTg ban hành Điều lệ tạm thời về các xí nghiệp tư nhân, trong đó nêu nguyên tắc: Tài sản của xí nghiệp được pháp luật bảo hộ. Quyền quản lý kinh doanh thuộc người bỏ vốn. Về các vấn đề có quan hệ đến quyền lợi giữa chủ xí nghiệp và người làm công, hai bên thương lượng mà giải quyết theo luật...

Đất nước mở cửa hội nhập, kinh tế nhiều thành phần phát triển, thị trường tiêu thụ ngày càng phong phú với những quan hệ cung - cầu trong nước, song phương, đa phương phức tạp, nhu cầu bảo vệ các chủ thể trong nền kinh tế thị trường được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Nhà nước có chính sách bảo hộ quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng”. Đảng cũng nhấn mạnh: “Hạn chế độc quyền kinh doanh, không để lợi dụng địa vị độc quyền để duy trì đặc quyền, đặc lợi, lũng đoạn thị trường”4; “Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh”5; “Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường dịch vụ”6.

Thể chế hóa các chủ trương, đường lối này, Luật cạnh tranh năm 2004 được ban hành kịp thời điều chỉnh những hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Luật cạnh tranh năm 2004 là một công cụ bảo đảm nhu cầu kiểm soát độc quyền, đặc biệt là khi mở cửa thị trường để hội nhập kinh tế quốc tế; trong đó, các công cụ chính yếu là ngăn chặn các thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; thỏa thuận hạn chế, kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hóa, dịch vụ; hoặc các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, tập trung kinh tế. Thông qua đó, bảo vệ quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. Đồng thời, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 và Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 - bước ngoặt lớn đối với hệ thống pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam với những ràng buộc về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong việc thực hiện hợp đồng theo mẫu, bảo hành hàng hóa, linh kiện, phụ kiện, thu hồi hàng hóa khuyết tật, bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra, và nhất là trách nhiệm bảo mật thông tin của người tiêu dùng.

Sự vận dụng sáng tạo đường lối cách mạng của Đảng qua từng thời kỳ vào phát triển của ngành và nền kinh tế còn được ngành Công Thương thể hiện ở việc tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành các chính sách trong đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh lương thực quốc gia; thành lập các tập đoàn, tổng công ty trong lĩnh vực phụ trách nhằm thúc đẩy tích tụ và tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh, cũng như thực hiện chủ trương xóa bỏ dần chế độ bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản...

Thứ hai, nắm chắc và quyết tâm thực hiện nhiệm vụ chính của ngành là xây dựng hạ tầng cơ sở vật chất - kỹ thuật đồng bộ cho nền kinh tế, làm nền tảng cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong buổi đầu xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, ngành Công Thương được Chủ tịch Hồ Chí Minh tín nhiệm trao cho: “Bộ Kinh tế phải có quyền hạn rộng rãi, thống nhất mạnh mẽ mới có thể điều khiển được một cách có hiệu quả việc chấn hưng kinh tế của quốc gia”7.

Trong bối cảnh Chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp lan vào toàn cõi Đông Dương, hoạt động công nghiệp và thương mại nước ta sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 gần như tê liệt; hàng loạt cơ sở công nghiệp vốn do quân đội Nhật chiếm đóng trước đó đã bị lực lượng Đồng minh không kích; lưu thông hàng hóa nội địa ách tắc, xuất khẩu và nhập khẩu đình đốn khi các tuyến đường sắt, đường bộ, các cảng Hải Phòng, Sài Gòn bị phá hủy nghiêm trọng, ngành Công Thương bắt tay vào kiến thiết hạ tầng kinh tế từ đống tro tàn. Theo đề nghị của Bộ Quốc dân Kinh tế, Chính phủ ban hành các sắc lệnh hủy bỏ những đạo luật và nghị định của Toàn quyền Pháp giữ độc quyền tìm kiếm và khai thác mỏ ở các khu vực trên đất Việt Nam, giành lại quyền tìm mỏ cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; mở lại hàng loạt mỏ than và mỏ kim loại, khuyến khích các doanh nghiệp người Việt Nam tham gia hoạt động khai khoáng; đốc thúc sửa chữa, khôi phục hoạt động một số nhà máy lớn như Nhà máy Cơ khí Trường Thi (thành phố Vinh), Nhà máy Giấy Đáp Cầu (Bắc Ninh).

Những cơ sở công nghiệp đầu tiên này sau một năm hoạt động đã tạo nên cuộc di chuyển hào hùng cuối năm 1946 lên chiến khu Việt Bắc với hàng vạn tấn máy móc, nguyên vật liệu, cùng hàng vạn cán bộ, công nhân. Trong khói lửa 9 năm trường kỳ kháng chiến, Việt Bắc trở thành cái nôi của nhiều ngành công nghiệp. Thời gian này có khá nhiều điều thú vị, như Nha Khoáng chất và Kỹ nghệ Việt Nam thuộc Bộ Kinh tế quốc gia được giao phụ trách cả lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, chịu trách nhiệm tổ chức sản xuất vũ khí. Đến năm 1949, cả nước có khoảng 130 xưởng sản xuất vũ khí, 21 cơ sở quân dược, 20 cơ sở sản xuất quân nhu và hàng chục xí nghiệp sản xuất xà phòng, giấy, vải sợi,... Sản xuất được một số loại vũ khí lớn như SKZ, ống phun bom, súng cối 60 mm và 120 mm,... Các ngành tiểu thủ công nghiệp cũng phát triển mạnh, đã tự túc được một phần thuốc men, vải mặc và dụng cụ sản xuất cho nhân dân.

Một điều thú vị khác, với sự vận động của Bộ Kinh tế quốc gia, những người dân làng Bưởi (Hà Nội) di cư ra các vùng kháng chiến được tập hợp lại trong các xưởng sản xuất giấy, họ cũng là lứa công nhân nòng cốt ngành Giấy - một nhu cầu thiết yếu trong sản xuất, đời sống và kháng chiến, phục vụ cho học sinh, các cơ quan Chính phủ và dùng trong in tiền.

Từ những cơ sở công nghiệp nhỏ bé, từ những chi điếm mậu dịch, chi điếm ngoại thương trên chiến khu Việt Bắc, từ những xưởng cơ khí, dệt may ở bưng biền Đồng Tháp, Chiến khu R huyền thoại Tây Ninh, nền kinh tế đã từng bước hình thành nhiều ngành công nghiệp chủ lực: Điện lực, khai khoáng, chế biến dầu khí, luyện kim, hóa chất, cơ khí chế tạo, ôtô, xe máy, dệt may, da giày, chế biến nông sản... với những công trình trọng điểm có ý nghĩa chiến lược cho phát triển nền kinh tế nhiều năm sau đó, như: Đường dây 500 kV mạch 1, Nhà máy Thủy điện Sơn La, Supe Phốtphát Lâm Thao, Giấy Bãi Bằng, Ximăng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, Hà Tiên, Apatít Lào Cai, Khí - Điện - Đạm Cà Mau, Lọc dầu Dung Quất... Cơ cấu công nghiệp phát triển hoàn chỉnh hơn, những cơ sở của các ngành công nghiệp nặng quan trọng liên tục mở rộng về số lượng và phát triển về quy mô, đồng thời năng lực một số ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm được phát huy mạnh mẽ.

Sự vững mạnh của hạ tầng kinh tế - kỹ thuật đồng bộ không chỉ giúp nền kinh tế từng bước hướng đến một nền sản xuất lớn, hiện đại, tương đối độc lập, tự chủ trong bối cảnh chiến tranh và hòa bình đan xen nhau trong suốt những năm 1946 - 1975, xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn, chi viện đắc lực cho chiến trường miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước, mà còn là điều kiện thuận lợi trong chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với sự tham gia của các thành phần kinh tế; cũng như đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu công nghiệp gắn với đổi mới căn bản công nghệ; và hấp dẫn, thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, theo các nghị quyết Đại hội Đảng, ngành Công Thương nhanh chóng xây dựng các chính sách nhằm tăng cường tiềm lực cơ sở vật chất - kỹ thuật đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bao gồm: kết cấu hạ tầng kinh tế, công nghiệp sản xuất, công nghiệp công nghệ cao, nền nông nghiệp hàng hóa lớn. Trải dài trên mảnh đất hình chữ S, hàng vạn công trình của các khu công nghiệp, khu công nghệ cao được xây dựng lên. Ánh sáng và tiếng máy giòn giã suốt ngày đêm không ngừng nghỉ của Thủy điện Hòa Bình, Thủy điện Sơn La, Đường ống khí Nam Côn Sơn, Liên doanh Việt - Nga Vietsovpetro, Nhà máy Cơ khí Hà Nội, Cao su Đà Nẵng, Hóa chất cơ bản miền Nam, Supe Phốtphát Lâm Thao... đang dần dần hiện thực hóa ước nguyện xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cũng là giấc mơ, khát vọng của các thế hệ người Việt Nam.

Sức vươn lên nhanh chóng của hạ tầng thương mại đã mở ra cho dòng chảy lưu thông hàng hóa. Ngay cả trong thời kỳ chiến tranh phá hoại trên bầu trời miền Bắc vẫn không ngăn chặn nổi nguồn chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam, nhờ thương nghiệp quốc doanh khéo léo chuyển các hoạt động giao dịch thương mại từ những điểm cố định sang hoạt động lưu động, bám sát những nơi có nhu cầu mới phát sinh để phục vụ, các điểm bán lẻ mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán không ngừng mở rộng. Hay trong những năm khôi phục đất nước sau chiến tranh (1975 - 1985), những khó khăn dồn dập cùng lúc làm cho nền kinh tế mất cân đối cung cầu nghiêm trọng, ngân sách nhà nước bội chi tiền mặt, lạm phát tăng cao, nhưng các ngành Nội thương, Ngoại thương, Vật tư vẫn nỗ lực tập trung cao độ nguồn hàng phục vụ cho sản xuất và đời sống. Ngành đã tham mưu cho Đảng, Chính phủ ban hành nhiều chính sách hay, cách làm tốt nhằm tăng tỷ trọng thu mua trong tổng sản lượng hàng hóa, kích thích sản xuất và xuất khẩu, thu hẹp cán cân thương mại. Kinh nghiệm phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh qua hai cuộc kháng chiến đã giúp ngành nhanh chóng bắt nhịp cùng sự nghiệp đổi mới, hệ thống bán buôn, bán lẻ với nhiều hình thức đa dạng bao phủ rộng khắp, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến biên giới, hải đảo; đến 224 quốc gia và vùng lãnh thổ mà Việt Nam có quan hệ kinh tế - thương mại. Tăng trưởng bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ liên tục trên dưới 10% mỗi năm. Mặc dù từ năm 1996 có sự chuyển dịch hạ tầng thương mại từ truyền thống sang hiện đại, các siêu thị và trung tâm thương mại có mặt ở khắp 6 vùng kinh tế trong cả nước, nhưng tỷ trọng hàng Việt Nam chi phối trên tất cả các kênh phân phối. Đồng thời, phát triển được các thương hiệu phân phối trong nước đủ khả năng để cạnh tranh với các thương hiệu nước ngoài.

Hoạt động ngoại thương có sự phát triển vượt bậc. Trong 25 năm đổi mới, tăng trưởng xuất khẩu bình quân năm đạt mức 2 con số: 5 năm 1986 - 1990 tăng bình quân 28%/năm; 5 năm 1991 - 1995 tăng bình quân 17,8%/năm; 5 năm 1996 - 2000 tăng bình quân 22,4%/năm; 5 năm 2001 - 2005 tăng bình quân 17,9%/năm và 5 năm 2006 – 2010 tăng bình quân 18,2%/năm. Xuất khẩu bình quân đầu người năm 2010 đạt trên 830 USD, gấp 65,3 lần năm 1986 (12,6 USD).

Thứ ba, bảo đảm hiệu quả, hiệu lực của quản lý nhà nước.

Trong từng giai đoạn lịch sử, các bộ quản lý ngành Công Thương luôn bám sát nhiệm vụ được giao, chủ động đề xuất với Chính phủ về cơ cấu tổ chức, bộ máy, chức năng của mình để đảm bảo thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước một cách hữu hiệu nhất. Những năm đầu thành lập có hàng loạt sắc lệnh của Chính phủ về thành lập mới, điều chỉnh nhiệm vụ của các đơn vị thuộc ngành Công Thương. Những sắc lệnh thành lập mới, bổ sung nhiệm vụ đã giúp ngành Công Thương quản lý tốt hơn hoạt động kinh tế theo hướng xây dựng nền kinh tế tự cung, tự cấp của ta, phá hoại kinh tế của địch, đánh bại chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của thực dân Pháp. Điển hình là việc chuyển chế độ hoạt động hành chính của Nha Tiếp tế sang chế độ “doanh nghiệp quốc gia” của Cục Tiếp tế vận tải giúp Cục chủ động, linh hoạt hơn trong thu mua theo giá thị trường 3 mặt hàng gạo, muối và vải cho bộ đội và cơ quan Chính phủ. Cục cũng được chủ động hơn trong phối hợp với tư thương mua hàng từ vùng bị tạm chiếm của Pháp; thậm chí tư thương còn móc nối mua hàng từ Thái Lan, Hồng Kông (Trung Quốc) những mặt hàng phục vụ kháng chiến cho Cục như các loại hóa chất phục vụ công nghiệp quốc phòng, in ấn, y tế, máy móc cho thông tin liên lạc...

Trong những năm thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch hóa, các bộ quản lý ngành vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước vừa thực hiện nhiệm vụ bộ chủ quản thì hoạt động quản lý nhà nước không thực sự hoàn toàn chủ động, mà chủ yếu tham gia với tư cách là một hợp phần trong tổng thể kế hoạch hằng năm và kế hoạch 5 năm của toàn nền kinh tế do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước chịu trách nhiệm chính. Hoạt động quản lý nhà nước mang dấu ấn nhất của ngành là xác định những công trình trọng điểm thuộc lĩnh vực phụ trách, xây dựng và kiện toàn các chỉ tiêu định mức kinh tế - kỹ thuật; phân bổ kế hoạch và doanh số bán lẻ cho các hệ thống thương nghiệp; nghiên cứu tình hình thị trường ngoài nước, các chính sách kinh tế, chính sách mậu dịch, biện pháp ngoại thương; thực hiện các kế hoạch dự trữ vật tư...

Trong thời kỳ đổi mới, sau khi bỏ chế độ bộ chủ quản, ngành Công Thương có điều kiện tập trung vào các chức năng chính của quản lý nhà nước, gồm trình Chính phủ các dự án văn bản quy phạm pháp luật; trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển tổng thể; chiến lược, quy hoạch ngành và lĩnh vực; quy hoạch vùng, lãnh thổ, các chương trình phát triển, chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình kinh tế - kỹ thuật, các dự án quan trọng; phê duyệt chiến lược, quy hoạch, các chương trình phát triển các ngành và lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý; xây dựng tiêu chuẩn, ban hành quy trình, quy chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý; quản lý hoạt động của các văn phòng, chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam, tổng hợp tình hình, kế hoạch xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông hàng hóa và dịch vụ - thương mại trong phạm vi cả nước...

Thực tiễn quản lý nhà nước ngành Công Thương qua hai cuộc kháng chiến cho tới thời kỳ đổi mới cho thấy, công tác quản lý nhà nước là nghệ thuật “cân bằng động” giữa hai thực thể luôn song hành cùng nhau là Nhà nước và thị trường; trong đó, có việc xác định rõ vai trò của Nhà nước - vai trò của thị trường; thể chế hóa vai trò của Nhà nước - vai trò của thị trường; và điều hành mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong thực tiễn. Trong thời kỳ kế hoạch hóa nền kinh tế, việc nhấn mạnh vai trò của Nhà nước đã làm “lu mờ” vai trò của thị trường khiến cho việc quản lý “cồng kềnh”, “chồng chéo”, đôi khi các chính sách bị “biến dạng” khi đi vào thực tiễn; công tác quản lý thường “vật lộn” với công tác điều hành, hết sức căng thẳng, mà hiệu quả quản lý nhà nước không cao.

Từ Đại hội VI của Đảng, thị trường từng bước được thừa nhận là một trong những nhân tố “điều hành” nền kinh tế, bên cạnh vai trò “cầm cân nảy mực” của Nhà nước. Từ đây, ngành Công Thương chủ động tham mưu, xây dựng các khung khổ pháp luật theo hướng tạo môi trường thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế phát triển, cạnh tranh lành mạnh; sử dụng các công cụ quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển theo ngành và lãnh thổ, cung ứng dịch vụ công một cách minh bạch, nhằm điều tiết và khơi dậy các nguồn lực xã hội. Nhờ vậy, công tác quản lý và điều hành của ngành thuận lợi, có nhiều đóng góp quan trọng trong đảm bảo các cân đối vĩ mô, đảm bảo tổng cung, kích thích tổng cầu, góp phần kiềm chế sau những năm bùng nổ siêu lạm phát 1986 - 1989; hình thành tầng lớp thương nhân mới, tích lũy đủ kinh nghiệm, bản lĩnh và trí tuệ để hội nhập thành công trong dòng chảy thương mại quốc tế.

Thứ tư, công nghiệp hóa phải hướng đến giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp.

Từ Đại hội III, Đảng ta luôn xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ trung tâm này được Đảng, Nhà nước giao trọng trách cho ngành Công Thương.

Qua mỗi kỳ Đại hội Đảng, nội dung công nghiệp hóa dần được hoàn thiện. Từ Đại hội III đến Đại hội X, vấn đề công nghiệp hóa nông nghiệp luôn được nhắc đến, được lồng trong nội dung chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; trong đó, từ Đại hội V đến Đại hội X, vấn đề công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn luôn trở thành vấn đề nóng bỏng. Sở dĩ công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn nhận được sự quan tâm đặc biệt bởi thực chất của quá trình công nghiệp hóa chính là việc thực hiện đồng bộ 3 nội dung: (1) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế; (2) Giải phóng lực lượng sản xuất; (3) Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật. Với một nước đi lên từ nền sản xuất nông nghiệp, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cực kỳ quan trọng. Công nghiệp hóa nông nghiệp tạo ra năng suất lao động cao, tăng nhanh sản lượng lương thực, thực phẩm. Đây là mấu chốt làm cho cung về nông sản và cầu về tư liệu sản xuất nông nghiệp tăng lên. Từ đó, giải phóng một lượng lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, dẫn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Bộ ba: chuyển dịch cơ cấu kinh tế - giải phóng lực lượng sản xuất - xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật đòi hỏi phải thực hiện đồng thời mới thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp hóa. Trong những năm 60 - 80 của thế kỷ XX, ta mới thực hiện được nội dung xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật. Đây là thời kỳ triển khai mô hình công nghiệp hóa theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Tất cả nguồn lực tiến hành công nghiệp dựa vào ngân sách nhà nước và viện trợ từ bên ngoài, không phát huy được nguồn lực xã hội, tức là lực lượng sản xuất tiềm năng từ người dân gần như chưa được giải phóng. Cũng do dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu, nên công nghiệp hóa theo mô hình này không căn cứ vào các mối quan hệ kinh tế tiền - hàng, giá cả - giá trị, không lấy hiệu quả kinh tế - xã hội để xây dựng phương án đầu tư, lựa chọn công nghệ. Rốt cuộc, đồng vốn bỏ ra nhiều, hiệu quả không cao, chưa kể những thất thoát, lãng phí.

Trong kế hoạch 5 năm 1981 - 1985 có sự điều chỉnh cơ cấu ngành công nghiệp. Từ “ưu tiên công nghiệp nặng” trong những năm 1960 - 1970, đến năm 1979, với sự cải cách quản lý kinh tế, khởi đầu từ Hội nghị Trung ương 6 khóa IV, đã chuyển sang chú ý hơn đến công nghiệp hàng tiêu dùng, nên đến năm 1985 đã khắc phục được phần nào sự mất cân đối trước đó. Năm 1980, cơ cấu công nghiệp nhóm A/nhóm B là 37,8%/62,2%, đến năm 1985 đã chuyển thành 31,4%/68,6%. Nhưng đây là sự chuyển dịch “từ trên xuống” chưa phải sự “bùng nổ” từ dưới lên do sự tham gia của các thành phần kinh tế, nên sự chuyển dịch ấy chưa được coi là bền vững.

Cuối những năm 1980, bộ ba: chuyển dịch cơ cấu kinh tế - giải phóng lực lượng sản xuất - xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật bắt đầu phát huy tác dụng nhờ tính đồng thời. Các quy hoạch, kế hoạch, chương trình của ngành Công Thương đều tính đến sự phát triển theo ngành và vùng lãnh thổ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp và sự tham gia của các thành phần kinh tế. Xét về số lượng, ngành Công Thương dẫn đầu về quy hoạch. Từ năm 2001 đến năm 2010, ngành đã xây dựng 51 quy hoạch công nghiệp, trong đó có 31 quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm công nghiệp và 20 quy hoạch theo vùng lãnh thổ. Về thương mại, xây dựng 16 quy hoạch, trong đó có 4 quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm, 12 quy hoạch theo vùng lãnh thổ8.

Điều quan trọng hơn, các quy hoạch đã chú ý đến yêu cầu phát triển đồng bộ và sự liên kết, phối hợp với các ngành có liên quan như Kế hoạch - Đầu tư, Tài chính, Giao thông vận tải, Khoa học và Công nghệ, Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Lao động - Thương binh và Xã hội,... Đồng thời, chuyển dần việc điều hành kế hoạch từ can thiệp vi mô sang duy trì các cân đối vĩ mô. Do vậy, quy hoạch phát triển công nghiệp, thương mại thực sự trở thành một trong những công cụ quản lý nhà nước, tập hợp trong mình bộ ba: chuyển dịch cơ cấu kinh tế - giải phóng lực lượng sản xuất - xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ năm, phát triển thương mại cần tập trung vào bảo đảm các cân đối lớn, cán cân thương mại.

Phát triển thương mại không chỉ để trở thành trụ cột phát triển trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà còn là phương thức bảo đảm an ninh kinh tế, chủ động ứng phó với các tình huống biến động lớn, đột xuất có thể xảy ra từ bên ngoài.

Bảo đảm các cân đối lớn cho sản xuất, tiêu dùng là nhu cầu của mọi nhà nước. Thương mại - khâu kết nối thiết yếu giữa sản xuất và tiêu dùng, vừa là khâu để thực hiện giá trị hàng hóa, vừa là khâu tạo ra giá trị gia tăng cho hàng hóa thông qua lưu thông, phân phối. Do đó, thương mại đóng vai trò quan trọng trong định hướng, dẫn dắt và kích thích sản xuất.

Trong thời kỳ thực hiện theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa, thương mại chủ yếu thực hiện chức năng phục vụ và (gián tiếp) chỉ huy. Để phục vụ, thương mại tính toán các thông số về dân số ở khu vực thành thị và nông thôn, số cán bộ, công nhân viên, nhu cầu bình quân của mỗi người để lên kế hoạch mỗi năm phải thu mua bao nhiêu tấn thóc, bao nhiêu tấn thịt lợn, bao nhiêu mét vải, bao nhiêu bát ăn cơm, bao nhiêu xe đạp... Để (gián tiếp) chỉ huy, thương mại sẽ lên kế hoạch phân bổ bao nhiêu tấn sắt thép, bao nhiêu tấn phân bón, bao nhiêu lít xăng dầu... cho các xí nghiệp quốc doanh tương ứng với số lượng, chủng loại sản phẩm làm ra; tính toán số lượng vật tư sản xuất ở trong nước đáp ứng bao nhiêu phần trăm và số lượng, mặt hàng phải nhập khẩu, từ những thị trường nào.

Tuy nhiên, do giá bán ra và mua vào thấp, nên cung luôn không đủ đáp ứng cầu. Giá thu mua thấp nên không kích thích sản xuất, giá bán ra thấp nên tạo ra cầu giả (những mặt hàng bán bằng tem phiếu không có nhu cầu cũng mua, không mua thì hết hạn). Vì cung không đủ cầu nên thông số “nhu cầu thông thường của mỗi người” cũng không thể tính toán theo thông thường được nữa, buộc phải hạn chế.

Với cách mua vào và bán ra như trên, nhìn chung không có “người tiêu dùng” đúng nghĩa. Xí nghiệp quốc doanh được giao (đầu vào) máy móc, thiết bị, nguyên liệu, năng lượng để sản xuất ra sản phẩm và giao nộp (đầu ra) cho thương mại. Thương mại lại phân phối những sản phẩm này theo kế hoạch cho những địa chỉ quy định. Như vậy, cả đầu vào, đầu ra của sản xuất đều thụ động, nên nằm ở khâu trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng, nhưng thương mại không nắm giữ đầy đủ chức năng định hướng, dẫn dắt và kích thích sản xuất, chỉ cố gắng bảo đảm cung - cầu ở mức có giới hạn. Các cân đối lớn về năng lượng, sắt thép, hóa chất... mặc dù nhận được sự viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, cũng thường xuyên thiếu hụt. Cảnh tượng xí nghiệp quốc doanh xếp hàng chờ được cung ứng vật tư cho sản xuất khá phổ biến, nhất là giai đoạn đất nước căng mình khắc phục hậu quả chiến tranh 1975 - 1985.

Bước vào thời kỳ đổi mới, thương mại khởi động thực hiện vai trò vốn có của nó. Điều thuận lợi là, với sự tham gia vào sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế, bao gồm cả thương nhân có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), sản lượng hàng hóa, dịch vụ tăng lên, cơ bản đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Thị trường trong nước được tổ chức thành một thể thống nhất, thông suốt; thị trường trong nước và nước ngoài thông nhau ở mức độ nhất định, các chỉ số thương mại như tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ, xuất nhập khẩu có mức tăng 1,5 - 2,0 lần so với mức tăng GDP. Tuy nhiên, thị trường không tự điều chỉnh, không tự đảm bảo các cân đối lớn, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ, điều tiết của Nhà nước. Mặt khác, chúng ta đã bắt đầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới với việc gia nhập ASEAN và thực hiện CEPT/AFTA từ năm 1996 (sau này là ATIGA); các FTA song phương, đa phương tạo ra các “sân chơi” mở cho Việt Nam, cho các đối tác, các tập đoàn đa quốc gia, nhưng sức ép, mức độ cạnh tranh khốc liệt hơn, dẫn đến yêu cầu đất nước phải có chiến lược phát triển thị trường trong nước, nước ngoài để khai thác tốt cơ hội, giảm thiểu rủi ro và tổn thương.

Trong 10 năm 1986 - 1995, thị trường thương mại phát triển không đồng đều. Ở trong nước, khu vực nông thôn tập trung 70% dân số, nhưng sức mua kém, đặc biệt là các vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. Hạ tầng thương mại truyền thống phát triển tự phát, hạ tầng thương mại hiện đại còn sơ khai, chưa hình thành được kênh phân phối hiệu quả. Với thị trường nước ngoài, chủ yếu là thị trường Đông Âu, các nước Đông Nam Á và mới bắt đầu thâm nhập thị trường EU, tỷ trọng nhập siêu còn lớn.

Trong bối cảnh đó, ngành Công Thương tập trung vào thể chế hóa chủ trương các kỳ Đại hội Đảng, các kỳ Hội nghị Trung ương về thương mại, nhất là Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/01/1996 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là Luật thương mại năm 1997 và năm 2005, Luật cạnh tranh năm 2004, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010; Pháp lệnh về chống bán phá giá, Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam; các nghị định về phát triển mạng lưới chợ, phát triển thương mại miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc, các hoạt động xúc tiến thương mại, hội chợ triển lãm, logistics, mua bán hàng hóa của thương nhân FDI tại Việt Nam... Đồng thời, xây dựng và tổ chức thực hiện các đề án tổ chức thị trường trong nước, phát triển thương mại trong nước; các quy hoạch phát triển mạng lưới chợ, quy hoạch các khu kinh tế cửa khẩu phía Bắc, phía Tây, phía Tây Nam, các vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Trung, miền Nam; chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa...

Các hoạt động trên đã khơi dậy các nguồn lực từ bên trong và bên ngoài, nguồn lực của Nhà nước và nhân dân, tập trung vào kết cấu hạ tầng thương mại, hình thành cấu trúc thị trường trong nước thống nhất trên cơ sở đặc thù và thế mạnh từng vùng, từng địa phương, thúc đẩy hình thành các thương nhân lớn; phát triển mạnh thương mại đầu vào trên cơ sở kích thích các cơ sở sản xuất nguyên liệu, bước đầu hình thành ngành công nghiệp hỗ trợ, hạn chế phụ thuộc vào thị trường thế giới; hỗ trợ các thương nhân vừa và nhỏ để nhanh chóng định hình các kênh phân phối trong nước, đa dạng hóa mặt hàng và thị trường xuất khẩu ở nước ngoài, góp phần bảo đảm các cân đối lớn cho nền kinh tế, nhất là các loại vật tư chiến lược cho sản xuất phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Ra đời khi chính quyền cách mạng non trẻ đang đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, ngành Công Thương đã bám sát tình hình, thực tiễn, vận dụng sáng tạo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền hoàn toàn độc lập của nước nhà, thì giới Công - Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng”9.

Trong 65 năm (1945 - 2010), trải qua các giai đoạn lịch sử với nhiều lần thay đổi cơ cấu, tổ chức và tên gọi, ngành Công Thương luôn có những đóng góp quan trọng vào sự lớn mạnh của đất nước trong công cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ở mỗi giai đoạn phát triển, ngành Công Thương luôn kịp thời tham mưu cho Đảng và Chính phủ nhiều chính sách quan trọng trong sự phát triển của ngành và nền kinh tế; từng bước xây dựng được hạ tầng cơ sở vật chất - kỹ thuật đồng bộ cho nền kinh tế, làm nền tảng thu hút sự đầu tư trong và ngoài nước vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong chuỗi các sự kiện tiêu biểu, những vấn đề cốt lõi của ngành luôn gắn liền với lịch sử cách mạng của đất nước, vận mệnh của dân tộc; đồng thời, làm nổi bật những đặc điểm, truyền thống quý báu của ngành Công Thương, xứng đáng là một trụ cột quan trọng của nền kinh tế, đi đầu trong phát triển sản xuất - kinh doanh, chuyển đổi cơ chế quản lý, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

Những bài học kinh nghiệm quý báu ghi nhận từ lịch sử hình thành, phát triển của ngành có ý nghĩa thiết thực, đóng góp vào kho tàng lý luận về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.6-7.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.139.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.737.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.55, tr.381.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.263.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.65, tr.277.

7. Sắc lệnh số 12/SL của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

8. Xem Bộ Công Thương: “Một số vấn đề kinh tế vĩ mô trong chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn 2011 - 2020”, 2011, tr.78-79.

9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.53.

Danh mục

Tùy chỉnh