2. Hệ thống tổ chức quản

Đầu năm 1965, trong bối cảnh từ một nửa nước chiến tranh, một nửa nước hòa bình đã chuyển sang cả nước chiến tranh; miền Nam đã tiền tuyến lớn, miền Bắc phải trở thành hậu phương lớn, ngành Công Thương chủ động xây dựng kế hoạch đảm nhiệm trọng trách công nghiệp hóa hội chủ nghĩa, phục vụ sản xuất, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong điều kiện chiến tranh, tập trung vào những nội dung sau:

- Xây dựng sở vật chất kỹ thuật cho công nghiệp hóa; bảo vệ khôi phục sở sản xuất công nghiệp, quan tâm đến cân đối cấu hoàn chỉnh giữa công nghiệp nặng công nghiệp nhẹ.

- Chú trọng đặc biệt tới phát triển ngành khí, Năng lượng (điện than).

- Phát triển công nghiệp địa phương, tiểu thủ công nghiệp phục vụ nông nghiệp; chú trọng các sở khí nhỏ, sản xuất phương tiện vận tải, nông cụ, sản xuất vôi, ximăng, chế biến thực phẩm hàng tiêu dùng.

- Phát triển mạng lưới mậu dịch quốc doanh hợp tác mua bán.

- Tập trung nắm các nguồn hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu về sản xuất, xây dựng, quốc phòng, đời sống nhân dân; thúc đẩy xuất khẩu tăng nhanh lực lượng dự trữ của Nhà nước.

- Chi viện cho miền Nam.

Về bộ máy tổ chức, đến năm 1960, quản ngành Công Thương 4 bộ: Công nghiệp nặng, Công nghiệp nhẹ, Nội thương, Ngoại thương. Hệ thống này được duy trì cho đến tháng 8/1969, Bộ Công nghiệp nặng được chia thành: Bộ Điện Than (Bộ trưởng Nguyễn Hữu Mai) được thành lập, Bộ khí Luyện kim (Bộ trưởng Đinh Đức Thiện) được thành lập, Bộ Lương thực Thực phẩm (Bộ trưởng Ngô Minh Loan) được thành lập trên sở hợp nhất Tổng cục Lương thực với ngành Công nghiệp chế biến thực phẩm tách từ Bộ Công nghiệp nhẹ ra; Bộ Vật được thành lập trên sở Tổng cục Vật (Bộ trưởng Trần Danh Tuyên).

Đồng thời, Tổng cục Hóa chất được thành lập. Ông Nguyễn Chấn làm Tổng Cục trưởng từ tháng 8/1969 đến năm 1973. Ông Tự được bổ nhiệm làm Tổng Cục trưởng từ năm 1973 đến năm 1981.

Các quan từng trực thuộc ngành Công Thương

1. Tổng cục Hải quan

Ngày 27/02/1960, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 03-CP về Điều lệ Hải quan, trong đó quy định Sở Hải quan trực thuộc Bộ Ngoại thương nhiệm vụ “thực hiện chính sách quản ngoại thương, quản ngoại hối của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.

Ngày 17/6/1962, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 490/ TTg/QĐ-TCCB đổi tên Sở Hải quan trung ương thành Cục Hải quan, thuộc Bộ Ngoại thương.

Giai đoạn này, Hải quan Việt Nam được xác định công cụ bảo đảm thực hiện đúng đắn chế độ Nhà nước độc quyền ngoại thương, ngoại hối, thi hành chính sách thuế quan (thu thuế hàng hóa phi mậu dịch) tiếp nhận hàng hóa viện trợ chống buôn lậu qua biên giới.

Sau khi thống nhất đất nước, Hải quan triển khai hoạt động trên địa bàn cả nước từ tuyến biên giới phía Bắc đến tuyến biên giới phía Tây Nam, các cảng biển, sân bay quốc tế, bưu cục ngoại dịch, trạm chở hàng. Do yêu cầu quản tập trung thống nhất, ngày 05/3/1979 Chính phủ đã ban hành Quyết định số 80/CP, theo đó tổ chức Hải quan các tỉnh miền Bắc chuyển về trực thuộc Cục Hải quan thuộc Bộ Ngoại thương.

Đến ngày 30/8/1984, Hội đồng Nhà nước ban hành Nghị quyết số 547/NQ/HĐNN7 phê chuẩn thành lập Tổng cục Hải quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng.

2. Tổng cục Dự trữ nhà nước

Ngày 18/10/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 165/CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy của Tổng cục Vật tư, trực thuộc Hội đồng Chính phủ.

Năm 1965, Thủ tướng Chính phủ quyết định chuyển giao nhiệm vụ dự trữ muối từ Tổng cục Vật sang Bộ Nội thương.

Năm 1969, Bộ Vật được thành lập trên sở Tổng cục Vật tư. Ngày 24/01/1970, Bộ Vật ban hành Quyết định số 45/VT-QĐ về chức năng, nhiệm vụ tổ chức bộ máy của Cục Dự trữ vật nhà nước: quan Cục 6 phòng nghiệp vụ; các đơn vị trực thuộc các tổng kho dự trữ, Đội xe vận tải 29-3 giải thể các ban vật liên tỉnh.

Ngày 03/8/1972, Bộ Nội thương đã ban hành Quyết định số 42 NT/QĐ1 về tổ chức bộ máy của Cục Quản dự trữ thuộc Bộ Nội thương, các địa phương thành lập 7 tổng kho liên tỉnh, dưới các tổng kho các cụm kho trực tiếp quản các kho hàng.

Ngày 18/02/1984, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 31/HĐBT về việc thành lập Cục Quản dự trữ vật nhà nước, thuộc Hội đồng Bộ trưởng trên sở Cục Dự trữ vật nhà nước thuộc Bộ Vật sáp nhập các cục quản dự trữ nhà nước các bộ, tổng cục.

3. Đại học Ngoại thương

Theo đề nghị của Bộ Ngoại giao Bộ Ngoại thương ngày 14/8/1967, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 123/CP chia Trường Cán bộ Ngoại giao - Ngoại thương thành Trường Ngoại giao (trực thuộc Bộ Ngoại giao) Trường Ngoại thương (trực thuộc Bộ Ngoại thương). Tên hiệu chính thức của Trường Đại học Ngoại thương bắt đầu từ đây.

Trong thời gian này, Trường Đại học Ngoại thương còn 4 khóa sinh viên (từ khóa 3 đến khóa 6), còn sinh viên khóa 1 khóa 2 đã tốt nghiệp ra trường.

Năm 1968, lần đầu tiên Trường Đại học Ngoại thương chính thức Hiệu trưởng ông Lưu Văn Đạt Phó Hiệu trưởng ông Văn Ngọ. Một vài năm trước đó, Ban Giám hiệu chỉ chức Phó Hiệu trưởng. Ngoài một số phòng chức năng, Trường đã các đơn vị chuyên môn như Khoa Nghiệp vụ Ngoại thương, Khoa Ngoại ngữ, Khoa Tại chức Bộ môn Chính trị.

Công tác đào tạo bắt đầu tăng quy đa dạng hóa loại hình đào tạo. Trước đây, mỗi khóa chỉ tuyển trên dưới 50 sinh viên, đầu những năm 1970 trở đi, quy mỗi khóa đã tăng lên 75 - 100 sinh viên. Ngoài việc đào tạo sinh viên hệ chính quy, Trường còn mở rộng đào tạo hệ tại chức phát triển hình thức bồi dưỡng cán bộ.

Năm 1984, Trường Đại học Ngoại thương chuyển từ Bộ Ngoại thương sang Bộ Đại học Trung học chuyên nghiệp (nay Bộ Giáo dục Đào tạo).

2. Hệ thống tổ chức quản

Đầu năm 1965, trong bối cảnh từ một nửa nước chiến tranh, một nửa nước hòa bình đã chuyển sang cả nước chiến tranh; miền Nam đã tiền tuyến lớn, miền Bắc phải trở thành hậu phương lớn, ngành Công Thương chủ động xây dựng kế hoạch đảm nhiệm trọng trách công nghiệp hóa hội chủ nghĩa, phục vụ sản xuất, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong điều kiện chiến tranh, tập trung vào những nội dung sau:

- Xây dựng sở vật chất kỹ thuật cho công nghiệp hóa; bảo vệ khôi phục sở sản xuất công nghiệp, quan tâm đến cân đối cấu hoàn chỉnh giữa công nghiệp nặng công nghiệp nhẹ.

- Chú trọng đặc biệt tới phát triển ngành khí, Năng lượng (điện than).

- Phát triển công nghiệp địa phương, tiểu thủ công nghiệp phục vụ nông nghiệp; chú trọng các sở khí nhỏ, sản xuất phương tiện vận tải, nông cụ, sản xuất vôi, ximăng, chế biến thực phẩm hàng tiêu dùng.

- Phát triển mạng lưới mậu dịch quốc doanh hợp tác mua bán.

- Tập trung nắm các nguồn hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu về sản xuất, xây dựng, quốc phòng, đời sống nhân dân; thúc đẩy xuất khẩu tăng nhanh lực lượng dự trữ của Nhà nước.

- Chi viện cho miền Nam.

Về bộ máy tổ chức, đến năm 1960, quản ngành Công Thương 4 bộ: Công nghiệp nặng, Công nghiệp nhẹ, Nội thương, Ngoại thương. Hệ thống này được duy trì cho đến tháng 8/1969, Bộ Công nghiệp nặng được chia thành: Bộ Điện Than (Bộ trưởng Nguyễn Hữu Mai) được thành lập, Bộ khí Luyện kim (Bộ trưởng Đinh Đức Thiện) được thành lập, Bộ Lương thực Thực phẩm (Bộ trưởng Ngô Minh Loan) được thành lập trên sở hợp nhất Tổng cục Lương thực với ngành Công nghiệp chế biến thực phẩm tách từ Bộ Công nghiệp nhẹ ra; Bộ Vật được thành lập trên sở Tổng cục Vật (Bộ trưởng Trần Danh Tuyên).

Đồng thời, Tổng cục Hóa chất được thành lập. Ông Nguyễn Chấn làm Tổng Cục trưởng từ tháng 8/1969 đến năm 1973. Ông Tự được bổ nhiệm làm Tổng Cục trưởng từ năm 1973 đến năm 1981.

Các quan từng trực thuộc ngành Công Thương

1. Tổng cục Hải quan

Ngày 27/02/1960, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 03-CP về Điều lệ Hải quan, trong đó quy định Sở Hải quan trực thuộc Bộ Ngoại thương nhiệm vụ “thực hiện chính sách quản ngoại thương, quản ngoại hối của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.

Ngày 17/6/1962, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 490/ TTg/QĐ-TCCB đổi tên Sở Hải quan trung ương thành Cục Hải quan, thuộc Bộ Ngoại thương.

Giai đoạn này, Hải quan Việt Nam được xác định công cụ bảo đảm thực hiện đúng đắn chế độ Nhà nước độc quyền ngoại thương, ngoại hối, thi hành chính sách thuế quan (thu thuế hàng hóa phi mậu dịch) tiếp nhận hàng hóa viện trợ chống buôn lậu qua biên giới.

Sau khi thống nhất đất nước, Hải quan triển khai hoạt động trên địa bàn cả nước từ tuyến biên giới phía Bắc đến tuyến biên giới phía Tây Nam, các cảng biển, sân bay quốc tế, bưu cục ngoại dịch, trạm chở hàng. Do yêu cầu quản tập trung thống nhất, ngày 05/3/1979 Chính phủ đã ban hành Quyết định số 80/CP, theo đó tổ chức Hải quan các tỉnh miền Bắc chuyển về trực thuộc Cục Hải quan thuộc Bộ Ngoại thương.

Đến ngày 30/8/1984, Hội đồng Nhà nước ban hành Nghị quyết số 547/NQ/HĐNN7 phê chuẩn thành lập Tổng cục Hải quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng.

2. Tổng cục Dự trữ nhà nước

Ngày 18/10/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 165/CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy của Tổng cục Vật tư, trực thuộc Hội đồng Chính phủ.

Năm 1965, Thủ tướng Chính phủ quyết định chuyển giao nhiệm vụ dự trữ muối từ Tổng cục Vật sang Bộ Nội thương.

Năm 1969, Bộ Vật được thành lập trên sở Tổng cục Vật tư. Ngày 24/01/1970, Bộ Vật ban hành Quyết định số 45/VT-QĐ về chức năng, nhiệm vụ tổ chức bộ máy của Cục Dự trữ vật nhà nước: quan Cục 6 phòng nghiệp vụ; các đơn vị trực thuộc các tổng kho dự trữ, Đội xe vận tải 29-3 giải thể các ban vật liên tỉnh.

Ngày 03/8/1972, Bộ Nội thương đã ban hành Quyết định số 42 NT/QĐ1 về tổ chức bộ máy của Cục Quản dự trữ thuộc Bộ Nội thương, các địa phương thành lập 7 tổng kho liên tỉnh, dưới các tổng kho các cụm kho trực tiếp quản các kho hàng.

Ngày 18/02/1984, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 31/HĐBT về việc thành lập Cục Quản dự trữ vật nhà nước, thuộc Hội đồng Bộ trưởng trên sở Cục Dự trữ vật nhà nước thuộc Bộ Vật sáp nhập các cục quản dự trữ nhà nước các bộ, tổng cục.

3. Đại học Ngoại thương

Theo đề nghị của Bộ Ngoại giao Bộ Ngoại thương ngày 14/8/1967, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 123/CP chia Trường Cán bộ Ngoại giao - Ngoại thương thành Trường Ngoại giao (trực thuộc Bộ Ngoại giao) Trường Ngoại thương (trực thuộc Bộ Ngoại thương). Tên hiệu chính thức của Trường Đại học Ngoại thương bắt đầu từ đây.

Trong thời gian này, Trường Đại học Ngoại thương còn 4 khóa sinh viên (từ khóa 3 đến khóa 6), còn sinh viên khóa 1 khóa 2 đã tốt nghiệp ra trường.

Năm 1968, lần đầu tiên Trường Đại học Ngoại thương chính thức Hiệu trưởng ông Lưu Văn Đạt Phó Hiệu trưởng ông Văn Ngọ. Một vài năm trước đó, Ban Giám hiệu chỉ chức Phó Hiệu trưởng. Ngoài một số phòng chức năng, Trường đã các đơn vị chuyên môn như Khoa Nghiệp vụ Ngoại thương, Khoa Ngoại ngữ, Khoa Tại chức Bộ môn Chính trị.

Công tác đào tạo bắt đầu tăng quy đa dạng hóa loại hình đào tạo. Trước đây, mỗi khóa chỉ tuyển trên dưới 50 sinh viên, đầu những năm 1970 trở đi, quy mỗi khóa đã tăng lên 75 - 100 sinh viên. Ngoài việc đào tạo sinh viên hệ chính quy, Trường còn mở rộng đào tạo hệ tại chức phát triển hình thức bồi dưỡng cán bộ.

Năm 1984, Trường Đại học Ngoại thương chuyển từ Bộ Ngoại thương sang Bộ Đại học Trung học chuyên nghiệp (nay Bộ Giáo dục Đào tạo).

I- BỐI CẢNH LỊCH SỬ, HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ NGÀNH CÔNG THƯƠNG

1. Chuyển hướng kinh tế miền Bắc

Sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ (tháng 8/1964), Mỹ chính thức gây ra cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc lần thứ nhất kéo dài từ ngày 07/02/1965 đến ngày 01/01/1968, lần thứ hai từ ngày 06/4/1972 đến ngày 30/12/1972.

Trong hai lần đánh phá miền Bắc, không quân và hải quân Mỹ đã ném bom, bắn phá liên tục với cường độ ngày càng tăng. Mục tiêu của các chiến dịch phá hoại đường không nhằm phá hủy hệ thống giao thông, các cơ sở công nghiệp và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam.

Để phù hợp với tình hình mới, tháng 01/1965, Hội đồng Quốc phòng đã họp, đề ra nhiệm vụ tăng cường công tác phòng thủ, trị an, sẵn sàng chiến đấu. Từ ngày 25 đến ngày 27/3/1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III họp Hội nghị lần thứ 11 (đặc biệt) về tình hình và nhiệm vụ cấp bách; quyết định chuyển hướng kinh tế miền Bắc từ thời bình sang thời chiến. Tinh thần và nội dung của sự chuyển hướng này không chỉ để phù hợp với tình hình thời chiến, mà còn nhằm “phù hợp với phương hướng về lâu dài của công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và chú ý đúng mức các yêu cầu về đời sống của nhân dân”1. Hướng phát triển công nghiệp trong giai đoạn mới là:

Thứ nhất, xây dựng nền kinh tế miền Bắc vững mạnh, trở thành hậu phương lớn, chi viện đắc lực cho chiến trường miền Nam.

Thứ hai, di chuyển nhanh chóng các cơ sở sản xuất và kho tàng về nơi sơ tán, bảo vệ an toàn xí nghiệp, duy trì sản xuất trong mọi tình huống, cải tiến công tác tổ chức sản xuất công nghiệp phù hợp với tình hình có chiến tranh, kết hợp sản xuất và chiến đấu, đảm bảo cung cấp các hàng hóa tiêu dùng thiết yếu và duy trì đời sống nhân dân không bị đảo lộn trong chiến tranh.

Thứ ba, khẩn trương xây dựng và phát triển mạng lưới công nghiệp địa phương về các vùng hậu phương trung du và miền núi, phân bố lại sản xuất công nghiệp để gắn với nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ, gắn công nghiệp với nông nghiệp và với các ngành kinh tế quốc dân khác, gắn kinh tế với quốc phòng. Mỗi vùng, miền, mỗi tỉnh có khả năng tự giải quyết phần lớn những nhu cầu ăn, mặc, ở, học, bảo vệ sức khỏe, hàng phục vụ sản xuất, hàng tiêu dùng thiết yếu. Đây cũng là động lực cho việc sáp nhập một số tỉnh, nhằm bảo đảm mỗi tỉnh có đủ cơ cấu kinh tế, điều kiện tự nhiên giải quyết những vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế, bảo vệ sản xuất của mình trong điều kiện chống chiến tranh phá hoại. Nghị quyết số 111-NQ/TW, Nghị quyết số 112-NQ/TW, Nghị quyết số 113-NQ/TW trong cùng ngày 08/4/1965 đã hợp nhất tỉnh Nam Định và Hà Nam; Thái Nguyên và Bắc Kạn; Hà Đông và Sơn Tây2.

Thứ tư, tạm dừng kiến thiết những công trình công nghiệp lớn, xây dựng những xí nghiệp cỡ vừa và cỡ nhỏ, đáp ứng yêu cầu an ninh - quốc phòng và phục vụ đời sống nhân dân.

Đây cũng là những năm tháng mà mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung và cơ chế bao cấp ngày càng bộc lộ sức ỳ của nó. Việc áp dụng kế hoạch hóa mệnh lệnh cứng nhắc trong sản xuất đã hạn chế quyền tự chủ và sự năng động của cơ sở.

Ở cấp vĩ mô, đã có những nỗ lực cải tiến mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung như kết hợp giữa chỉ tiêu hướng dẫn của Nhà nước và kế hoạch từ cơ sở, sau đó mới trở thành chỉ tiêu pháp lệnh. Tuy nhiên, đó vẫn là kế hoạch mang tính pháp lệnh, xí nghiệp muốn thay đổi vẫn phải thông qua cơ chế “xin - cho” mới được phép thay đổi. Thời kỳ xuất hiện nhiều xí nghiệp “hoàn thành kế hoạch” sau khi xin “điều chỉnh chỉ tiêu” - một hoạt động nở rộ vào quý II, quý III hằng năm.

Ở cấp vi mô, Chính phủ cho phép xí nghiệp quốc doanh tính lại giá thành hợp lý cho xí nghiệp, xác định giá bán buôn xí nghiệp, giá bán buôn công nghiệp, lãi định mức của xí nghiệp để có căn cứ phân phối lợi nhuận, nhưng chưa đủ để xí nghiệp quốc doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Bởi lẽ, giá trị vật tư mà Nhà nước “bán” cho xí nghiệp, cũng như giá mà Nhà nước “thu mua” của xí nghiệp không phản ánh quan hệ cung - cầu (mua cũng rẻ mà bán cũng rẻ) chủ yếu do Nhà nước đặt ra và quyết định.

Với những nhược điểm trên, mô hình kinh tế kế hoạch hóa đã dần dần biến thành cơ chế kế hoạch hóa hành chính tập trung; và cơ chế bao cấp đã trở thành cơ chế quan liêu, bao cấp. Đồng thời, chiến tranh đã khiến một nguồn lực lớn từ sản xuất, nhập khẩu hướng tới bảo đảm quốc phòng và các công trình phục vụ quốc phòng.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.111.

2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.140-145.

3. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

Năm 1965, không quân và hải quân Mỹ tăng cường đánh phá miền Bắc. Đảng ta quyết định chuyển toàn bộ hoạt động của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến nhằm bảo đảm có đủ sức mạnh làm tròn vai trò, nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Các trường đại học, trung cấp sơ tán khỏi các khu đô thị để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học. Trường Cán bộ Ngoại giao - Ngoại thương sơ tán về thôn Thù Lâm, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Khi sơ tán lên Phổ Yên chỉ có khóa 2 và khóa 3 Ngoại thương và Ngoại giao cùng sơ tán theo trường, riêng khóa 1 chiêu sinh từ Trường Kinh tế - Tài chính, chuẩn bị tốt nghiệp nên được phân công tất cả về các tổng công ty xuất nhập khẩu (thuộc Bộ Ngoại thương) để thực tập và ôn thi tốt nghiệp. Bắt đầu khóa 5 (1966 - 1967), Trường Cán bộ Ngoại giao - Ngoại thương được tách ra thành 2 trường: Trường Ngoại giao và Trường Ngoại thương. Khi chia tách thành 2 trường, Trường Ngoại thương chuyển về xã Hồng Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Với phương châm đào tạo “học đi đôi với hành”, Trường dành hẳn 1 học kỳ để sinh viên đi thực tập nghiệp vụ tại các tổng công ty xuất nhập khẩu và các đơn vị trực thuộc Bộ Ngoại thương. Tuy nhiên, do ngành Ngoại thương thời đó chưa thực sự là “buôn bán quốc tế”, theo những luật lệ và luật chơi của thị trường, chủ yếu là đi xin và tiếp nhận viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa. Xuất, nhập khẩu với vài thị trường tư bản chủ nghĩa, kim ngạch nhỏ bé chủ yếu qua thị trường Hồng Kông. Vì vậy, nghiệp vụ ngoại thương mà các giáo viên tiếp nhận được từ các công ty xuất nhập khẩu cũng không nhiều.

Để đào tạo nguồn nhân lực có trình độ đại học, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 182/CP ngày 03/9/1965, mở hệ đại học tại Trường Thương nghiệp Trung ương. Trường triển khai đào tạo đại học trong điều kiện có chiến tranh, phải đi sơ tán về nhiều nơi. Ngày 15/6/1966, một số lớp và bộ môn đi sơ tán về thôn Đục Khê, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây. Ngày 16/5/1967, Trường sơ tán về 5 xã Phú Cường, Hùng Cường, Đức Hợp, Mai Động, Phú Thịnh (thuộc huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên). Ở nơi sơ tán, Trường đã thực hiện “giảng dạy và sẵn sàng chiến đấu”, “đảm bảo an toàn tuyệt đối” cho cán bộ, giáo viên, công nhân viên và sinh viên. Cuối năm 1968, khi chiến tranh phá hoại bằng đường không lần thứ nhất chấm dứt, giáo viên và học viên trở về Hà Nội. Đến tháng 4/1972, cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai bắt đầu, một bộ phận cán bộ, giáo viên và sinh viên của Trường sơ tán về huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây. Ngày 10/7/1972, Trường sơ tán về các xã Thạch Đồng và Hoàng Xá (huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ). Từ khi trường sơ tán về Hà Tây, Phú Thọ, việc giảng dạy, học tập phải phân tán ở nhiều thôn, xã, có thời gian phải chia thành lớp nhỏ nên đã gặp rất nhiều khó khăn trong giảng dạy và học tập.

Tình hình của các trường trung cấp kỹ thuật, nghiệp vụ thương mại cũng tương tự. Năm 1966, Trường Trung cao Cơ điện (nay là Đại học Công nghiệp Hà Nội) đổi tên thành Trường Trung học Cơ khí I. Trong thời gian chiến tranh, Trường sơ tán lên tỉnh Vĩnh Phúc. Mặc dù phải đi sơ tán nhiều nơi, việc học tập, nghiên cứu và thực hành hết sức khó khăn, nhưng với tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai”, các trường đại học, trung cấp thuộc các bộ quản lý ngành Công Thương đã hoàn thành chỉ tiêu đào tạo và nghiên cứu. Mỗi năm cung cấp hàng vạn cán bộ, kỹ sư, công nhân kỹ thuật, mậu dịch viên... cho các ngành kinh tế. Đặc biệt, cán bộ, giáo viên và học viên các trường thực hiện tốt nhiều nhiệm vụ đột xuất của thời chiến, như lớp Công nghệ phẩm 4, Trường Thương nghiệp Trung ương đã tham gia cứu hàng bị máy bay địch đánh phá tại tổng kho Đức Giang trong trận Điện Biên Phủ trên không 12 ngày đêm; năm 1973, đang trong thời gian chuẩn bị thi tốt nghiệp, lớp Kỹ thuật ăn uống 4 được Bộ Nội thương điều động phục vụ cho việc trình Quốc thư của các nước Á - Phi với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại tỉnh Quảng Trị, và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, được biểu dương khen thưởng...

Trong giai đoạn này, có một số trường được xây dựng ở chiến trường miền Nam, như Trường Nghiệp vụ thương nghiệp Trung Trung Bộ, thành lập ngày 27/3/1973, thuộc Ban Kinh tế Khu V, đóng tại thôn Nước Oa, xã Trà Tân, huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam. Lúc bấy giờ Trường có nhiệm vụ đào tạo cán bộ phục vụ hậu cần cho công cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam và chuẩn bị đội ngũ cán bộ thương nghiệp tham gia công tác tại các tỉnh Khu V sau khi chiến tranh kết thúc. Ngày 29/3/1975, thành phố Đà Nẵng được hoàn toàn giải phóng, Trường được chuyển về đóng tại phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng và tiếp tục sự nghiệp đào tạo cán bộ thương nghiệp cho các tỉnh khu vực miền Trung.

Danh mục

Tùy chỉnh