3. Tình hình phát triển một số ngành công nghiệp

a) Ngành Điện

thể chia hoạt động thành hai giai đoạn với những dấu ấn nổi bật:

Giai đoạn 1996 - 2005:

- Năm 1997, đã hoàn thành lắp đặt đưa vào vận hành các tổ máy tuốcbin khí công suất 145 MW tại Phú Mỹ 2.1. Từ năm 1999, đã lần lượt xây dựng đưa vào vận hành các nhà máy điện tuốcbin khí chu trình hỗn hợp công suất lớn, hiện đại, công nghệ tiên tiến, hiệu suất mức độ tự động hóa cao, sử dụng nhiên liệu chính khí thiên nhiên từ các bể dầu khí Cửu Long, Nam Côn Sơn như: Nhà máy Điện Rịa (390 MW), Trung tâm Điện lực Phú Mỹ với tổng công suất 3.890 MW.

- Năm 2002, khánh thành Nhà máy Thủy điện Ialy (720 MW), công trình thủy điện lớn nhất khu vực miền Trung Tây Nguyên. Đây cũng công trình duy nhất Việt Nam hệ thống cáp dầu với cấp điện áp 500 kV. Sản lượng điện bình quân theo thiết kế 3 tỉ 680 triệu kWh/năm. Phần lớn các hạng mục của công trình được xây dựng ngầm trong lòng núi.

- Luật điện lực năm 2004 chính thức được ban hành đã tạo ra khung sở pháp chung cho quá trình cải cách cấu trúc lại ngành điện, tạo hành lang cho việc từng bước thành lập thị trường điện cạnh tranh với mục đích thu hút đầu nhân giảm đầu nhà nước trong lĩnh vực năng lượng, nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành Điện phát triển một thị trường điện cạnh tranh, minh bạch, công bằng không phân biệt đối xử. Luật cũng quy định về các hoạt động điện lực lập kế hoạch đầu phát triển điện lực, sản xuất điện, truyền tải, phân phối bán lẻ điện.

- Ngày 10/4/2005, Trung tâm Điện lực Phú Mỹ được khánh thành với 6 nhà máy điện tổng công suất 3.890 MW, lớn gấp 2 lần Thủy điện Hòa Bình; trong đó, EVN đầu xây dựng Nhà máy Phú Mỹ 1,

thủy điện Ialy

Thủy điện Ialy được khởi công xây dựng ngày 01/11/1993 khánh thành ngày 27/4/2002 (Ảnh: EVN)

Phú Mỹ 2.1, Phú Mỹ 2.1 mở rộng Phú Mỹ 4; các nhà máy Phú Mỹ 3, Phú Mỹ 2.2 do các nhà đầu nước ngoài đầu theo hình thức BOT. Đây công trình quan trọng ghi nhận sự phát triển vượt bậc của ngành Công nghiệp điện lực Việt Nam. Đồng thời, qua việc tham gia xây dựng công trình, lực lượng vấn xây dựng điện của ngành đã bước đầu tiếp cận được công nghệ hiện đại chủ động trong công tác vấn thiết kế nhà máy điện chạy khí.

- Ngày 19/10/2005, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã Quyết định số 258/2005/QĐ-TTg thành lập Cục Điều tiết điện lực (ERAV) thuộc Bộ Công nghiệp (nay Bộ Công Thương). Cục Điều tiết điện lực giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện chức năng điều tiết hoạt động điện lực thị trường điện lực, nhằm góp phần cung cấp điện an toàn, ổn định, chất lượng, sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả bảo đảm tính công bằng, minh bạch, đúng quy định của pháp luật.

- Ngày 02/12/2005, Thủy điện Sơn La - công trình thủy điện lớn nhất Việt Nam Đông Nam Á được khởi công xây dựng, với tổng công suất thiết kế 2.400 MW, sản lượng điện trung bình hằng năm 10,2 tỉ kWh. Tổng mức đầu 36.933 tỉ đồng, đập chính của Thủy điện Sơn La cao 138,1 m, chiều dài đập 961 m. Ngày 17/12/2010, tổ máy số 1 Nhà máy Thủy điện Sơn La đã hòa thành công vào điện lưới quốc gia.

- Ngày 23/12/2012, EVN tổ chức Lễ khánh thành công trình Nhà máy Thủy điện Sơn La, về đích sớm 3 năm so với Nghị quyết của Quốc hội, làm lợi cho đất nước hàng chục nghìn tỉ đồng. Đây công trình đa mục tiêu, ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

- Sản lượng điện tăng mạnh, từ 16,9 tỉ kWh năm 1996 lên 26,7 tỉ kWh năm 2000 52,1 tỉ kWh năm 2005. Tổng công suất nguồn năm 2005 đạt trên 10.500 MW.

Giai đoạn 2006 - 2010:

- Ngày 26/01/2006, Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 26/2006/ QĐ-TTg phê duyệt lộ trình, các điều kiện hình thành phát triển các cấp độ thị trường điện tại Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu từng bước phát triển thị trường điện cạnh tranh, thu hút vốn đầu tư, nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh, thị trường điện lực tại Việt Nam sẽ được hình thành phát triển qua ba cấp độ: Cấp độ 1 (2005 - 2014): Thị trường phát điện cạnh tranh; Cấp độ 2 (2015 - 2022): Thị trường bán buôn điện cạnh tranh; Cấp độ 3 (từ sau năm 2022): Thị trường bán lẻ điện cạnh tranh.

- Ngày 22/6/2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 147/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn Điện lực Việt Nam, với ba lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính điện năng, viễn thông công cộng khí điện lực. Ngày 22/6/2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 148/2006/ QĐ-TTg về việc thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Ngày 17/12/2006, Tập đoàn Điện lực Việt Nam chính thức ra mắt, đánh dấu một bước ngoặt trọng đại, đưa ngành Điện nhanh chóng trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh, kinh doanh đa ngành nghề, đa sở hữu, trình độ công nghệ, quản hiện đại, chuyên môn hóa cao hội nhập quốc tế hiệu quả.

- Ngày 31/12/2007, Hội đồng quản trị Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam đã ban hành Quyết định số 1182/QÐ-EVN-HÐQT về việc thành lập Công ty Mua bán điện (EPTC), với nhiệm vụ chính lập kế hoạch, đàm phán, thực hiện các hợp đồng mua bán điện; thỏa thuận, kết thiết kế kỹ thuật, quản hệ thống đo đếm điện năng phục vụ mua bán điện; tham gia vận hành thị trường điện nội bộ cạnh tranh... Công ty Mua bán điện đã đang tự hoàn thiện, tiến hành nghiên cứu, đổi mới, đào tạo chuẩn bị các điều kiện tối ưu, sẵn sàng cho các cấp độ tiếp theo của thị trường điện hoạt động kinh doanh trong thời gian tới.

- Ngày 04/7/2008, Tổng Công ty Truyền tải điện quốc gia (EVNNPT) được thành lập với hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, do EVN sở hữu 100% vốn, gồm 4 công ty truyền tải điện 1, 2, 3, 4 3 ban quản dự án các công trình điện miền Bắc, miền Trung, miền Nam. EVNNPT trách nhiệm đầu tư, tổ chức vận hành quản hệ thống truyền tải điện từ 220 kV đến 500 kV của hệ thống điện quốc gia. Mục tiêu chính cung cấp dịch vụ truyền tải điện an toàn, liên tục, ổn định tin cậy; bảo đảm cung ứng điện cho các hoạt động kinh tế, chính trị, hội an ninh quốc phòng cho đất nước; sản xuất - kinh doanh hiệu quả, bảo toàn phát triển nguồn vốn được giao.

- Đến cuối năm 2009, cả nước 100% số huyện điện lưới quốc gia điện tại chỗ; 97,57% số hộ dân nông thôn sử dụng điện lưới quốc gia, vượt trước một năm so với mục tiêu của Chính phủ đề ra trong Chiến lược Phát triển năng lượng quốc gia.

- Tháng 4/2010, 5 tổng công ty điện lực đã ra mắt chính thức đi vào hoạt động. Đó là: Tổng Công ty Điện lực miền Bắc (EVNNPC); Tổng Công ty Điện lực miền Nam (EVNSPC), Tổng Công ty Điện lực miền Trung (EVNCPC), Tổng Công ty Điện lực Thành phố Nội (EVNHANOI), Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh (EVNHCMC). Đây bước ngoặt mới, giúp hoàn thiện cấu tổ chức, hình quản lý, nâng cao quản trị doanh nghiệp, tạo đà cho sự phát triển trong sản xuất - kinh doanh của các đơn vị ngành Điện.

- Ngày 25/6/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 975/QĐ-TTg chuyển Công ty mẹ - Tập đoàn Điện lực Việt Nam thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu. Tên gọi sau khi chuyển đổi là: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), tổ chức hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp, các quy định pháp luật liên quan Điều lệ tổ chức hoạt động do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tại thời điểm chuyển đổi, vốn điều lệ của EVN 110 nghìn tỉ đồng; ngành nghề kinh doanh chính là: sản xuất, điều độ, mua, bán buôn điện năng; xuất, nhập khẩu điện năng; đầu quản vốn đầu các dự án điện. Đây bước chuyển đổi quan trọng theo đúng lộ trình cam kết của Việt Nam với tổ chức WTO.

- Xây dựng đưa vào vận hành các trung tâm điện lực: Vĩnh Tân, Duyên Hải, Hải Phòng, Quảng Ninh,...

- Nhằm đảm bảo đẩy nhanh tiến độ các công trình điện đáp ứng nhu cầu điện ngày càng cao, EVN đã được Chính phủ cho phép áp dụng chế, chính sách đặc thù đối với các công trình điện. Cụ thể, các dự án thủy điện đang xây dựng khởi công xây dựng trong giai đoạn 2006 - 2010 được thực hiện theo các chế, chính sách quy định tại các văn bản của Chính phủ: Công văn số 797/CP-CN ngày 17/6/2003 Công văn số 400/CP-CN ngày 26/3/2004. Tiếp đến, 14 dự án xây dựng điện cấp bách giai đoạn 2006 - 2010 giai đoạn sau năm 2010 được tiếp tục áp dụng chế này theo Quyết định số 1195/QĐ-TTg ngày 09/11/2005 của Chính phủ. Sau thời gian ngắn áp dụng, các chế này đã thể hiện tính ưu việt, đạt được hiệu quả cao trong các dự án đầu xây dựng.

Giai đoạn 2006 - 2010, hệ thống điện lớn mạnh không ngừng, các nguồn điện ngày càng đa dạng: thủy điện, nhiệt điện than, nhiệt điện khí...; phát triển đồng bộ lưới truyền tải hệ thống lưới điện phân phối. Lĩnh vực dịch vụ điện từng bước được hoàn thiện nhiều đổi mới. Năm 2010, sản lượng điện đạt 97,3 tỉ kWh, tăng gần gấp 2 lần so với năm 2005. Việc đưa điện về nông thôn được thực hiện tốt. Đến năm 2010, cả nước 100% số huyện điện. Tổng công suất lắp đặt năm 2010 đạt trên 20.000 MW, tăng 3,2 lần so với năm 2000.

b) Ngành Than

Các đơn vị ngành Than (Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Tổng Công ty Đông Bắc) đã đẩy nhanh tốc độ phát triển một cách bền vững để đáp ứng nhu cầu sử dụng than trong nước ngày càng tăng cao, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, ổn định kinh tế phát triển kinh tế - hội. Nếu năm 1996, sản lượng than khai thác mới đạt 9,8 triệu tấn; thì đến năm 2005, sản lượng than nguyên khai đạt trên 34 triệu tấn, tăng 2,93 lần so với năm 2000 tăng 3,47 lần so với năm 1996. Năm 2010, sản lượng khai thác đạt 43,5 triệu tấn, gấp 1,28 lần năm 2005. Điều ấn tượng hơn, chỉ riêng Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, năm 2010 đã tiêu thụ được 42 triệu tấn, trong đó xuất khẩu đạt gần 19 triệu tấn, với giá trị xuất khẩu than khoáng sản lên đến 1,4 tỉ USD.

Đầu những năm 2000, ngành Than bắt đầu tăng tốc đổi mới công nghệ khai thác, nhất trong lĩnh vực khai thác hầm lò, tập trung vào giới hóa, chống nhằm nâng cao năng suất lao động.

Năm 2002, Công ty Than Khe Chàm áp dụng thử nghiệm công nghệ giới hóa khai thác sử dụng máy khấu than kết hợp chống bằng giá thủy lực di động. Sản lượng cao nhất đạt 22.300 tấn/tháng, năng suất lao động trung bình đạt 5,16 tấn/công - ca. Từ thành công của chợ giới hóa này, năm 2005, Công ty nghiên cứu áp dụng thử nghiệm chợ giới hóa đồng bộ sử dụng máy khấu combai với giàn chống tự hành.

Kết quả đạt được sản lượng năng suất của chợ giới hóa đồng bộ đạt được cao hơn 1,5 - 2,5 lần so với chợ chống cột thủy lực đơn hoặc giá thủy lực di động. Cụ thể công suất chợ đạt 380.000 tấn/năm, năng suất lao động đạt 7 - 14 tấn/công - ca, trung bình 10,5 tấn/công - ca.

Than Vàng Danh

Máy khấu than giàn chống tự hành Vinaalta được áp dụng tại chợ của Công ty cổ phần Than Vàng Danh (Ảnh: Vinacomin)

Năm 2007, Công ty Than Vàng Danh triển khai áp dụng thử nghiệm công nghệ giới hóa khai thác bằng máy combai khấu than giàn chống tự hành VINAALTA trên sở kết quả nghiên cứu đề tài cấp Nhà nước. Kết quả triển khai giai đoạn đầu khá tốt, sản lượng tăng 1,62 lần, năng suất lao động tăng 3,6 lần, tỷ lệ thu hồi than hạ trần tăng 12,6% so với chợ chống giữ bằng giá thủy lực di động, trong cùng một điều kiện.

Năm 2008, Công ty Than Mạo Khê Công ty Than Hồng Thái đưa vào áp dụng thử nghiệm công nghệ giới hóa bằng hệ thống khai thác cột dài theo độ dốc, chống giữ bằng tổ hợp giàn chống 2ANSH, khấu gương bằng máy bào than, công suất khai thác năng suất lao động cao hơn 1,5 - 2 lần, chi phí mét chuẩn bị thấp hơn 7 lần tổn thất công nghệ giảm hơn 2 lần so với đồ công nghệ khai thác dọc vỉa phân tầng, chống giữ bằng giá thủy lực di động.

Năm 2010, Công ty Than Nam Mẫu áp dụng công nghệ giới hóa khai thác vỉa dày. Sản lượng khai thác tăng 1,5 - 1,8 lần so với chợ chống giá khung thủy lực di động, tháng đạt tới 36.000 tấn, số công nhân giảm 1,5 - 2 lần so với chợ thủ công, nên năng suất lao động chợ giới hóa tăng 1,5 - 2,5 lần so với chợ thủ công: năng suất lao động chợ giới hóa đạt 9 - 14 tấn/công - ca trong khi năng suất lao động tại chợ chống cột thủy lực đơn hoặc giá thủy lực di động chỉ 2,5 - 5 tấn/công - ca.

thể nói, cho đến năm 2010, vấn đề công nghệ giới hóa khai thác cho điều kiện vỉa mỏng dốc đứng, vỉa dày, dốc thoải đến nghiêng về bản đã được giải quyết, tiếp tục hoàn thiện nhân rộng đại trà.

Một số dấu mốc quan trọng của TKV giai đoạn 1996 - 2010:

- Tháng 11/1996: Ngành Than đón nhận Huân chương Sao Vàng do nhiều thành tích trong 50 năm xây dựng bảo vệ Tổ quốc.

- Theo Nghị định số 27/CP của Chính phủ, từ năm 1996 bắt đầu quá trình tách các mỏ than, nhà máy tuyển than, nhà máy khí ra khỏi các công ty than 2 cấp vùng Hòn Gai, Cẩm Phả, Uông để trở thành doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập của Tổng Công ty Than Việt Nam, đã góp phần tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất - kinh doanh, giải phóng tối đa năng lực sản xuất, tạo nên cấu tổ chức bản của TKV.

- Tháng 12/1997: Than Việt Nam đạt 10,7 triệu tấn than thương phẩm, hoàn thành vượt mức sản lượng của năm 2000 do Đại hội lần thứ VIII của Đảng giao cho ngành Than (10 triệu tấn).

- Năm 1998: Tự sản xuất thuốc nổ ANFO chịu nước dùng cho các mỏ lộ thiên thay cho thuốc nổ nhập ngoại.

- Tháng 5/1999: Đại hội công nhân viên chức Tổng Công ty Than Việt Nam quyết định điều chỉnh giảm sản xuất than theo nhu cầu thị trường, giải quyết thành công quan hệ cung - cầu do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực.

- Năm 1999: Thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp sản xuất than đầu tiên nghiệp Than Cẩm Phả thuộc Công ty Than Quảng Ninh (nay Công ty Than Hạ Long).

- Quỹ Môi trường than Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 669/TCCB ngày 14/4/1999 của Tổng Công ty Than Việt Nam. Nhờ đó, các hoạt động bảo vệ môi trường trong khai thác than - khoáng sản đã từng bước đi vào nền nếp, kế hoạch, đi vào chiều sâu, giải quyết được nhiều vấn đề môi trường vùng mỏ.

- Năm 2000: Tổng Công ty Than Việt Nam di chuyển hết sở vật chất kỹ thuật (nhà sàng, kho than, kho vật tư, đường sắt, nhà máy khí) ra khỏi trung tâm thành phố Hạ Long, chuyển cảng than Hòn Gai thành cảng vật - du lịch, nhường chỗ cho phát triển đô thị bảo vệ môi trường.

- Tháng 5/2001: Tổng Công ty khí năng lượng Mỏ sáp nhập vào Tổng Công ty Than Việt Nam.

- Tháng 4/2002: Khởi công xây dựng Nhà máy Điện Na Dương - Nhà máy nhiệt điện đầu tiên của Tập đoàn.

- Tháng 10/2002: Thành lập Trung tâm An toàn mỏ thực hiện chức năng nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, kiểm định... về lĩnh vực an toàn trong toàn ngành.

- Tháng 8/2003: Xuất xưởng xe tải KRAZ đầu tiên được lắp ráp tại Việt Nam.

- Tháng 12/2003: Đạt 18,8 triệu tấn than thương phẩm, vượt chỉ tiêu sản lượng của năm 2005 do Đại hội IX của Đảng đề ra cho ngành Than (15 triệu tấn).

- Tháng 12/2004: Đạt 24,7 triệu tấn than thương phẩm (trong đó xuất khẩu 10,5 triệu tấn), đạt mục tiêu quy hoạch của năm 2010 (23 - 24 triệu tấn).

- Ngày 06/01/2005: Tổng Công ty Than Việt Nam được Chủ tịch nước quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới.

- Ngày 08/8/2005: Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 198/2005/QĐ-TTg Quyết định số 199/2005/QĐ-TTg tổ chức lại Tổng Công ty Than Việt Nam các đơn vị thành viên thành lập Tập đoàn Than Việt Nam, hoạt động theo hình công ty mẹ - công ty con.

- Ngày 26/12/2005: Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 345/2005/QĐ-TTg thành lập Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam trên sở Tập đoàn Than Việt Nam Tổng Công ty Khoáng sản Việt Nam. Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam bắt đầu hoạt động từ ngày 01/01/2006.

- Ngày 09/10/2006: Cổ phiếu của Công ty cổ phần Than Cọc Sáu, Đèo Nai, Cao Sơn, Tu tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán Nội đã thu hút nhiều nhà đầu trong nước nước ngoài. Tập đoàn đã hoàn thành việc chuyển đổi sang hoạt động theo hình công ty mẹ - công ty con, chuyển phần lớn các công ty sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp.

- Năm 2010: Doanh thu đạt 69,6 nghìn tỉ đồng, đảm bảo đủ việc làm cho trên 132 nghìn công nhân viên chức lao động.

- Ngày 25/6/2010, Thủ tướng Chính phủ quyết định chuyển công ty mẹ Tập đoàn TKV thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.

c) Công nghiệp khai thác bôxít - alumin - nhôm

Đại hội IX (tháng 4/2001) của Đảng đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - hội 2001 - 2010, trong đó xác định một số định hướng phát triển cho vùng Tây Nguyên “Khai thác chế biến quặng bôxít”1. Đến Đại hội X (tháng 4/2006), Đảng ta tiếp tục xác định: “Nhà nước tập trung đầu hoặc hỗ trợ đầu để phát triển những sản phẩm quan trọng của nền kinh tế, như: lọc hoá dầu, khai thác quặng luyện thép, phân bón, hoá chất, ximăng, khai thác bôxít sản xuất alumin”2. Từ năm 2001 đến năm 2010, Bộ Chính trị đã nhiều lần bàn ra các nghị quyết, kết luận để lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng ngành Công nghiệp bôxít, alumin, nhôm, phục vụ phát triển kinh tế đất nước nói chung, góp phần phát triển kinh tế - hội Tây Nguyên nói riêng. Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 01/11/2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 167/2007/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng quặng bôxít giai đoạn 2007 - 2015, xét đến năm 2025. Chính phủ đã giao Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam đơn vị kinh nghiệm trong khai thác khoáng sản làm chủ đầu thực hiện hai dự án chủ trì đàm phán với các đối tác nước ngoài năng lực để hợp tác phát triển kết cấu hạ tầng đầu xây dựng ngành Công nghiệp bôxít - alumin - nhôm. Năm 2008, đã khởi công xây dựng Nhà máy sản xuất alumin Tân Rai, năm 2010 khởi công Nhà máy sản xuất alumin Nhân do Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam làm chủ đầu tư. Tổ hợp Nhà máy alumin Tân Rai công suất thiết kế 650.000 tấn alumin/năm, bao gồm 3 hợp phần khai thác mỏ, nhà máy tuyển nhà máy alumin. Tổ hợp Nhà máy alumina Nhân (tương tự như Tân Rai) 3 nhà máy: Nhà máy alumin 650.000 tấn alumin/năm; Nhà máy nhiệt điện sử dụng than công suất 30 MW (2 tổ máy x 15 MW) Nhà máy khí hóa than cấp nhiệt để nung hydrat chế biến thành alumin. Đồng thời, một nhà máy điện phân nhôm của chủ đầu Công ty trách nhiệm hữu hạn Luyện kim Trần Hồng Quân, công suất thiết kế đến năm 2020 450.000 tấn nhôm/năm, được xây dựng tại khu công nghiệp Nhân Cơ, huyện Đăk R’lấp, tỉnh Đắk Nông. Theo đánh giá của Tổng hội Địa chất Việt Nam, trữ lượng công nghiệp của bôxít của Việt Nam trên 7 tỉ tấn, đứng vào hàng thứ 3 về trữ lượng bôxít trên thế giới; trong đó, trữ lượng quặng bôxít laterít Nhân khoảng 4 tỉ tấn, còn trữ lượng tại Bảo Lộc khoảng 500 triệu tấn.

d) Ngành Dầu khí

Thành tựu quan trọng của ngành giai đoạn này phát hiện, đưa vào khai thác hiệu quả các giếng dầu, chế biến dầu khí phát triển ngành Công nghiệp khí.

Về khai thác chế biến dầu khí: Phát hiện đưa vào khai thác các mỏ tử đen, tử vàng, ngừ vàng, tử trắng, tử nâu, Nam rồng đồi mồi, Nam trung tâm rồng. Sản lượng khai thác từ năm 1996 đến năm 2010 đạt 232,32 triệu tấn dầu, bằng 82% tổng sản lượng khai thác từ khi tấn dầu đầu tiên năm 1986 đến năm 2010. Đặc biệt, từ năm 2006, Việt Nam khai thác tấn dầu đầu tiên nước ngoài. Đó PM 304, diện tích 10.260 km2, nằm trên thềm lục địa phía Đông bán đảo Malaixia, thuộc bể trầm tích Malay - Thổ Chu. Hợp đồng PSC PM-304 gồm các bên Petrofac 30% Nhà điều hành; Petronas Carigali 30%; Kufpec 25% PIDC 15% (năm 2006). Dòng dầu đầu tiên từ mỏ Cendor, PM 304 Malaixia đã được khai thác vào ngày 23/9/2006, sản lượng khai thác tháng 11/2006 12.000 thùng/ngày (≈ 1.622 tấn/ngày).

- Năm 2008, Công ty Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) được thành lập đã đóng vai trò trụ cột trong ngành Hóa dầu Việt Nam. Sản phẩm của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất bao gồm xăng A92 A95; nhiên liệu phản lực JET A1, nhựa đường, dầu ôtô diesel, dầu FO, khí ga hóa lỏng LPG, nhựa Polypropylene (PP). Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất hạt nhựa Polypropylene, BSR đã đưa ra chiến lược sản xuất xuất bán ra thị trường các chủng loại sản phẩm hạt nhựa Polypropylene mới như màng BOPP, F-5110, F-6070, Fiber, Cast Film PP tự phân hủy trong thời gian đến. Ngày 30/5/2010, dự án Nhà máy Lọc dầu Dung Quất chính thức được bàn giao từ tổ hợp TPC sang cho chủ đầu tư, kết thúc giai đoạn xây dựng, vận hành chạy thử nghiệm thu nhà máy.

Trong công nghiệp khí: Phát triển mạnh với ba hệ thống đường ống dẫn khí các bể Cửu Long, Nam Côn Sơn Malay - Thổ Chu, với nhiều bước tiến quan trọng:

- Ngày 20/3/1996, Thủ tướng Văn Kiệt chỉ đạo Chương trình Khí 1996 - 2000, đồng ý để PetroVietnam tham gia Dự án sản xuất phân đạm trong tổ hợp điện - đạm với các đối tác nước ngoài, sử dụng khí đồng hành mỏ Bạch Hổ, tiến hành lập báo cáo khả thi.

- Nhà máy sản xuất khí hóa lỏng (LPG) Dinh Cố đầu tiên của Việt Nam được khởi công xây dựng vào ngày 04/10/1997.

- Ngày 03/7/1999, Nhà máy được Hội đồng nghiệm thu Nhà nước nghiệm thu cho phép đưa vào sử dụng.

- Ngày 09/7/1999, Nhà máy Xử khí Dinh Cố chính thức vận hành. Đây nhà máy xử khí đầu tiên của Việt Nam ứng dụng, chuyển giao các công nghệ hiện đại trong đầu xây dựng công trình khí với các thiết bị kỹ thuật hiện đại được chọn mua từ những nước trình độ khoa học tiên tiến như Turbo Expander, hệ thống điều khiển DCS...

- Ngày 27/3/2001, dự án Nhà máy Đạm Phú Mỹ được khởi công. Đến ngày 15/12/2004, Nhà máy chính thức khánh thành. Dự án được đánh giá rất thành công. Lần đầu tiên một công trình trọng điểm nằm trong chương trình khí - điện - đạm của Nhà nước đạt được cả ba mục tiêu: chất lượng, tiến độ hiệu quả. Nhà máy Đạm Phú Mỹ sử dụng các công nghệ tiên tiến sản xuất amoniac của Hãng Haldor Topsoe (Đan Mạch) sản xuất ure của SnamProgetti (Italia), thiết bị hiện đại của các nước G7 EU theo tiêu chuẩn quốc tế, khi chạy thử đã ra được sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng đạt công suất thiết kế. Tiến độ xây dựng được hoàn thành trong 34 tháng. Chi phí đầu 380 triệu USD, so với tổng dự toán được duyệt 445 triệu USD, tiết kiệm được 65 triệu USD; so với hạn mức đầu 486 triệu USD thì tiết kiệm được 106 triệu USD. Chỉ sau 5 năm, Nhà máy đã thu hồi vốn trả hết nợ vốn vay.

Dinh Cố

Nhà máy Khí hóa lỏng Dinh Cố (Bà Rịa - Vũng Tàu) phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

- Ngày 04/4/2007, từ rừng U Minh hạ, tuốcbin 1 Nhà máy Điện Mau 1 đã hòa lưới điện quốc gia. Đây sự nỗ lực, quyết tâm không ngừng của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tổng công ty Lắp máy Việt Nam, các nhà thầu nước ngoài. Tuốcbin 1 Nhà máy điện Mau 1 công suất 230 MW (chạy bằng dầu DO) 250 MW (chạy bằng khí) hòa lưới điện quốc gia sự kiện ý nghĩa to lớn trong thời điểm cả nước đang thiếu điện.

- Ngày 26/7/2008, Nhà máy Đạm Mau - nằm trong tổ hợp dự án cụm khí - điện - đạm Mau cũng chính thức khởi công. Đây được coi mảnh ghép cuối cùng trong cụm dự án khí - điện - đạm Mau, Nhà máy Đạm Mau công trình quy lớn, dây chuyền công nghệ hiện đại với công suất thiết kế 800.000 tấn urê/năm. Nhà máy Đạm Mau đi vào hoạt động đúng tiến độ cung ứng kịp thời sản phẩm ra thị trường đã góp phần bảo đảm sự ổn định chủ động về phân bón cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

- Ngày 18/6/2010, Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 924/ QĐ-TTg chuyển Công ty mẹ - Tập đoàn Dầu khí Việt Nam thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.

Ngày 19/01/2009, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tổ chức Lễ đón nhận Danh hiệu Anh hùng Lao động. Kể từ năm 1986 - thời điểm tấn dầu thô đầu tiên được khai thác từ mỏ Bạch Hổ đến năm 2010, hằng năm Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đóng góp khoảng 20% vào GDP 30% vào tổng thu ngân sách của đất nước, kim ngạch xuất khẩu trong toàn Tập đoàn chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

đ) Ngành Hóa chất

Giai đoạn 1996 - 2010, ngành Hóa chất chuyển hướng kịp thời sang chế thị trường, đạt tốc độ tăng trưởng cao, bình quân dao động khoảng 10 - 15%/năm. Giai đoạn 2006 - 2010, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 11,1%/năm; lợi nhuận tăng bình quân 46%/năm; vốn chủ sở hữu tăng 2,9 lần so với năm gốc 2005.

Ngành Hóa chất những phát triển vượt bậc toàn diện trên các mặt sản xuất - kinh doanh, đầu xây dựng bản, lao động sáng tạo, ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh lương thực. Mỗi năm cung cấp khoảng 1,4 triệu tấn phân chứa lân gồm supe photphat phân lân nung chảy. Khoảng 1,4 - 1,6 triệu tấn phân NPK các loại 150 nghìn tấn phân đạm.

Tính đến năm 2010, 10 phân ngành hóa chất đáp ứng bản nhu cầu trong nước. Pin thông dụng đáp ứng 90%; ắc quy ôtô đáp ứng 60%, ắc quy xe máy đáp ứng 70%, sản phẩm cao su đáp ứng 70 - 75%, sản phẩm sơn đáp ứng 70%, bình quân 2 - 3 kg/người/năm, chất tẩy rửa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, bình quân 6 - 6,5 kg/người/năm. Nhiều đơn vị trong ngành chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới. Casumina xếp hạng 59 năm 2007 60 năm 2008 trong số 75 công ty sản xuất cao su hàng đầu thế giới. những công ty sản xuất chất tẩy rửa trong nước đã được thỏa thuận khung 5 năm (2007 - 2012) với các đối tác tại thị trường Nhật Bản; thỏa thuận khung 10 năm (2009 - 2019) với đối tác Philíppin về cung cấp các sản phẩm bột giặt, nước rửa chén, nước xả vải3.

Ngành đầu mở rộng cải tạo nhiều nhà máy phân bón hóa học như Đạm Bắc, Lân Văn Điển, Supe Phốtphát Hóa chất Lâm Thao; xuất hiện nhiều nhà máy sản xuất phân bón hỗn hợp NPK, phân vi sinh, phân hữu sinh học như Phân bón Việt - Nhật, Bình Điền, Con Vàng, Ba Con Cò, Thanh Bình, Đồng Nai. Đồng thời, thêm các nhà máy phân bón hóa học lấy nguyên liệu từ khí đồng hành: Nhà máy Đạm Phú Mỹ, Mau. Năm 2010, tổng nhu cầu phân bón cả nước khoảng 9,1 triệu tấn, sản xuất trong nước đã đạt trên 6 triệu tấn, đáp ứng được trên 67% tổng nhu cầu phục vụ sản xuất nông nghiệp, còn lại nhập khẩu.

Đơn vị chủ lực trong ngành Tổng Công ty Hóa chất sự biến động về tổ chức:

Ngày 24/4/2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 89/2006/QĐ-TTg phê duyệt đề án chuyển Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam sang hoạt động theo hình công ty mẹ - công ty con Quyết định số 90/2006/QĐ-TTg về việc thành lập Công ty mẹ - Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam. Tại thời điểm thành lập, Công ty mẹ - Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam 23 công ty con; trong đó 2 công ty trách nhiệm hữu hạn, 11 công ty liên kết; 4 công ty liên doanh 2 đơn vị sự nghiệp. Từ đó, Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam đã những bước phát triển vượt bậc. Năm 2006, tổng vốn chủ sở hữu của Tổng Công ty 4.342 tỉ đồng, năm 2010 đã đạt 10.695 tỉ đồng, tăng 2,46 lần.

Ngày 23/12/2009, Thủ tướng ban hành Quyết định số 2180/QĐ-TTg thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (VINACHEM). Tập đoàn Hóa chất Việt Nam doanh nghiệp đa sở hữu; trong đó sở hữu nhà nước chi phối, hoạt động theo hình công ty mẹ - công ty con.

dây chuyền lá cách

Dây chuyền sản xuất cách của Jungfer (Áo) - Công trình đầu đầu tiên của Công ty cổ phần Pin Ắc quy miền Nam (PINACO), năm 1991 (Ảnh: PINACO)

Tại thời điểm thành lập, Tập đoàn 10 công ty con do tập đoàn nắm giữ 100% vốn điều lệ, 17 công ty con do tập đoàn nắm giữ trên 50% vốn điều lệ khi cổ phần hóa, 16 công ty con do tập đoàn nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ, 1 viện nghiên cứu, 1 trường cao đẳng. Ngành kinh doanh chính sản xuất - kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất bản, sản phẩm cao su, pin ắc quy, chất giặt rửa mỹ phẩm, khí công nghiệp, khai khoáng, sản phẩm hóa dầu, hóa dược...

Ngày 23/6/2010, tại Quyết định số 953/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Công ty mẹ - Tập đoàn Hóa chất Việt Nam được chuyển đổi thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Tập đoàn Hóa chất Việt Nam do Nhà nước làm chủ sở hữu.

Sự ra đời của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam một dấu ấn quan trọng, giữ vai trò nòng cốt trong phát triển các phân ngành hóa chất trở thành doanh nghiệp hàng đầu của ngành Hóa chất Việt Nam trong sản xuất hóa chất bản, các sản phẩm hóa chất phục vụ sản xuất nông nghiệp tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu. Đồng thời, Tập đoàn điều kiện đầu tập trung vào các dự án góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đảm bảo nhu cầu phân bón (lân, đạm - urê, NPK) trong nước.

e) Ngành khí

Xác định ngành khí ngành công nghiệp then chốt, Đảng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản khuyến khích phát triển như:

- Quyết định số 186/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/12/2002 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành khí Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn tới năm 2020.

- Kết luận số 25-KL/TW ngày 17/10/2003 của Bộ Chính trị về Chiến lược phát triển ngành khí Việt Nam.

- Quyết định số 10/2009/QĐ-TTg ngày 16/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ về chế hỗ trợ phát triển sản xuất sản phẩm khí trọng điểm danh mục các sản phẩm khí trọng điểm, danh mục dự án đầu sản xuất sản phẩm khí trọng điểm giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2015.

- Chỉ thị số 494/CT-TTg ngày 20/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc sử dụng vật tư, hàng hóa sản xuất trong nước trong công tác đấu thầu các dự án sử dụng vốn nhà nước.

Những chính sách trên đã tạo khung khổ pháp cho việc tập trung phát triển ngành khí một cách hiệu quả, bền vững trên sở phát huy mọi nguồn lực trong nước kết hợp với nguồn lực bên ngoài. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển ngành khí một cách tổ chức, phân công hợp tác hợp lý, đồng thời tiếp tục đổi mới, sắp xếp phát triển củng cố doanh nghiệp nhà nước về khí đủ mạnh để giữ vai trò nòng cốt, lực lượng chủ lực của ngành.

Một số lĩnh vực sự chuyển biến, đột phá như:

+ Chế tạo thiết bị thủy công (cung cấp cho các công trình nhà máy thủy điện lớn, nhỏ trong cả nước), chế tạo giàn khoan dầu khí (cung cấp khoan thăm dò, khai thác dầu khí đến độ sâu 120 m, giàn khoan tự nâng 90 m nước, giàn khoan khai thác giếng dầu).

+ Chế tạo cung cấp thiết bị cho các nhà máy ximăng, đóng tàu các loại (tàu chở dầu đến trọng tải 105 nghìn DWT, tàu chở khí hóa lỏng trọng tải đến 5.000 tấn, tàu chở hàng rời...), các công trình thiết bị toàn bộ (nhà máy đường công suất 1.000 tấn mía/ngày, chế biến mủ cao su công suất 6.000 tấn/năm).

+ khí chế tạo trong nước cũng đã sản xuất, lắp ráp được hầu hết các chủng loại xe ôtô con, xe tải, xe khách; sản xuất xe máy đã tỷ lệ nội địa hóa 85 - 95%, đáp ứng nhu cầu trong nước xuất khẩu.

Đến năm 2010, cả nước đã một hệ thống các nhà máy khí với đủ các quy lớn nhỏ. Tại một số địa phương, vùng kinh tế đã hình thành hình cụm ngành về khí chế tạo (như khu phức hợp khí Chu Lai - Quảng Nam...). Ngành khí cũng đã hình thành một số doanh nghiệp tiềm năng phát triển ngang tầm khu vực như Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam Lilama, Tổng Công ty Máy động lực Máy nông nghiệp Việt Nam, Tổng Công ty Máy Thiết bị công nghiệp (MIE), Tổng Công ty Thiết bị Điện... Đồng thời, mở ra nhiều hội cho doanh nghiệp nhân phát triển, như Công ty cổ phần Ôtô Trường Hải, nghiệp khí Quang Trung (Ninh Bình)... cũng như thu hút nhiều doanh nghiệp khí FDI hàng đầu thế giới vào hoạt động, như Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghiệp nặng Doosan Việt Nam được cấp chứng nhận đầu năm 2006 tại Khu Kinh tế Dung Quất với vốn đầu 300 triệu USD/110 ha, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất các thiết bị công nghiệp nặng như nồi hơi cho các nhà máy nhiệt điện, cẩu trục bốc dỡ hàng cho các hệ thống cảng biển, thiết bị xử nước biển thành nước ngọt cho sinh hoạt một vài sản phẩm khí trọng điểm khác, hay Công ty trách nhiệm hữu hạn Leaderweld Alloy Rod Việt Nam - “chuyên gia” sản xuất các loại que hàn dây hàn.

Nhiều công ty khí trong nước trở thành nhà cung cấp phụ tùng chính thức cho các liên doanh lớn tại Việt Nam như: Honda, Piaggio, Yamaha, SYM... VEAM thể sản xuất được các chi tiết phần khung chi tiết phần động cơ, đặc biệt những chi tiết động dạng khó như: Trục khuỷu (Crankshaft), Tay biên (Connecting Rod)...

Hiện nay, khí Việt Nam thế mạnh tập trung ba phân ngành gồm xe máy phụ tùng linh kiện xe máy, khí gia dụng dụng cụ, ôtô phụ tùng ôtô. Ba phân ngành này chiếm gần 70% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của khí cả nước.

f) Ngành Dệt may

Việc thành lập Tổng Công ty Dệt may Việt Nam đã tạo hích dẫn dắt ngành Dệt may phát triển mạnh mẽ về số lượng, chất lượng quy mô. Trong tất cả các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu giai đoạn 2000 - 2010, Dệt may ngành kim ngạch xuất khẩu tốc độ tăng trưởng lớn nhất, khoảng 18%/năm, chiếm 15% kim ngạch xuất khẩu cả nước.

Giai đoạn này Dệt may một trong những ngành điển hình thành công trong chiến lược phát triển nhờ các chính sách đặc thù của Chính phủ. Chiến lược phát triển một số chế, chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lược phát triển ngành Dệt may Việt Nam đến năm 2010 (thường gọi Chiến lược tăng tốc ngành Dệt may) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg ngày 23/4/2001 đã đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng mạnh mẽ của ngành giai đoạn 2001 - 2005, 2006 - 2010, tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn sau.

Dấu ấn nổi bật nhất của ngành chuyển dần từ phương thức gia công xuất khẩu sang sản xuất FOB (mua nguyên liệu, bán thành phẩm) tái cấu trúc sản xuất ngành may.

Ngành bắt đầu quan tâm đến đầu phát triển các khu công nghiệp sản xuất vải (dệt, in, nhuộm, hoàn tất), hệ thống xử nước thải nhằm từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hóa quan tâm đến thị trường nội địa.

g) Ngành Da giày

Da giày cũng ngành thâm dụng lao động hướng về xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu luôn đứng sau dệt may, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Hằng năm, 90% sản phẩm do ngành Da giày sản xuất được xuất khẩu sang các thị trường quốc tế, trong đó EU chiếm 70%, Mỹ 20%, Nhật Bản 3%.

Từ năm 2004 đến năm 2010, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu da giày đứng thứ 4 thế giới, sau Trung Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc) Italy. Khoảng 60% các sản phẩm da giày xuất khẩu theo phương thức gia công cho đối tác nước ngoài dưới hình thức theo đơn đặt hàng. Đầu những năm 2000, ngành Da giày bắt đầu chú ý tới thị trường nội địa.

h) Ngành Công nghiệp thực phẩm

Chế biến thực phẩm ngành Việt Nam đang nhiều lợi thế tiềm năng phát triển tốt. Tuy nhiên, sự phát triển của ngành cũng phụ thuộc chịu ảnh hưởng rất nhiều vào thị trường xuất khẩu, với những yêu cầu khắt khe về an toàn thực phẩm, chất lượng sức ép cạnh tranh với các nước trong khu vực trên thế giới.

Các ngành tốc độ tăng trưởng tốt chế biến mía đường, sản xuất bia; sản xuất sản phẩm từ bơ, sữa; sản xuất xay xát bột thô; thuỷ hải sản chế biến nhất chế biến thực phẩm đóng hộp. Nhiều doanh nghiệp đứng vững được cả trên thị trường nội địa xuất khẩu như Công ty Xuất khẩu Rau quả Tiền Giang; Công ty Thực phẩm Xuất khẩu Đồng Giao, Công ty cổ phần Việt Nam Kỹ nghệ Súc sản Vissan, Tổng Công ty Rau quả, nông sản (Vegetexco Vietnam), Công ty Đồ hộp Hạ Long, Tổng Công ty Dầu thực vật Việt Nam (VOCARIMEX)... Sản phẩm đóng hộp của các công ty trong nước phong phú, đa dạng, chiếm lĩnh khá tốt thị trường nội địa. Năm 2010, riêng Công ty cổ phần Việt Nam Kỹ nghệ Súc sản Vissan đã hơn 100 nhãn hàng thuộc nhóm thực phẩm đóng hộp, chiếm 29% thị phần.

i) Ngành Công nghiệp điện tử

Năm 1996, ngành bắt đầu thu được 90 triệu USD từ xuất khẩu. Đến năm 2000, doanh thu xuất khẩu của ngành tăng lên tới 783 triệu USD sản phẩm điện tử đã được xuất khẩu tới 35 nước trên thế giới.

Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu các mặt hàng thuộc ngành Công nghiệp điện tử của Việt Nam giai đoạn 2003 - 2010 phát triển vượt bậc, đến năm 2005 đạt 1,4 tỉ USD 3,6 tỉ USD năm 2010. Nhiều hãng điện tử nổi tiếng nước ngoài đầu vào Việt Nam như Canon, Intel, Panasonic...

Ba thành tựu từ Chiến lược phát triển ngành khí

Theo đề nghị của Bộ Công nghiệp tại Công văn số 3608/TTr-KHĐT ngày 10/9/2002, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã ban hành Quyết định số 186/2002/QĐ-TTg ngày 26/12/2002 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành khí Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Sau 8 năm thực hiện (2003 - 2010), ngành Công nghiệp khí đã đạt được ba thành tựu bản:

Thứ nhất, Chính phủ đã ban hành những chính sách hỗ trợ quan trọng để định hướng phát triển ngành khí, bảo vệ thị trường trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khí trong nước tham gia chế tạo thiết bị khí trong các dự án công nghiệp như: thủy điện, nhiệt điện, ximăng... thể kể là: Quyết định số 112/2003/QĐ-TTg ngày 09/6/2003 về việc thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình sản phẩm khí trọng điểm do Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban; Quyết định số 10/2009/QĐ-TTg ngày 16/01/2009 về chế hỗ trợ phát triển sản xuất sản phẩm khí trọng điểm danh mục các sản phẩm khí trọng điểm, danh mục dự án đầu sản xuất sản phẩm khí trọng điểm giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2015. Cùng với đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một số chế, chính sách khác để hỗ trợ ngành khí về: công tác đấu thầu; chế tạo thiết bị khí thủy công; chế tạo thiết bị nhà máy nhiệt điện; về phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ... Các bộ, ban, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ của mình cũng đã ban hành tương đối đầy đủ hệ thống chính sách hướng dẫn thi hành các chính sách của Chính phủ về ưu đãi hỗ trợ đầu tư.

Thứ hai, công tác vấn thiết kế đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Chúng ta đã làm chủ được công tác thiết kế các nhóm thiết bị hàm lượng công nghệ khá như: thiết bị khí thủy công, một số cụm chi tiết của các nhà máy sản xuất công nghiệp. Để phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, một hệ thống các phòng thí nghiệm hiện đại đã được Nhà nước đầu tư, đây những sở nghiên cứu khoa học phục vụ cho chiến lược phát triển ngành khí. Với sự cố gắng sáng tạo trong nghiên cứu khoa học của tập thể cán bộ nghiên cứu, nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã được ứng dụng hiệu quả trong các ngành kinh tế của đất nước.

Thứ ba, các sản phẩm trước đây phải nhập khẩu hoàn toàn đã từng bước được thay thế bằng sản phẩm do ngành khí trong nước chế tạo. Các doanh nghiệp khí trong nước đã làm chủ được công nghệ, sản xuất được các loại thiết bị khí thủy công cho các nhà máy thủy điện; dây chuyền thiết bị đồng bộ cho các nhà máy công nghiệp.

Những kết quả đó của ngành khí đã góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.259

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.65, tr.274.

3. Xem Bộ Công Thương: Ngành Công Thương Việt Nam sau 25 năm đổi mới (Lưu hành nội bộ), Sđd, tr.243-244.

3. Tình hình phát triển một số ngành công nghiệp

a) Ngành Điện

thể chia hoạt động thành hai giai đoạn với những dấu ấn nổi bật:

Giai đoạn 1996 - 2005:

- Năm 1997, đã hoàn thành lắp đặt đưa vào vận hành các tổ máy tuốcbin khí công suất 145 MW tại Phú Mỹ 2.1. Từ năm 1999, đã lần lượt xây dựng đưa vào vận hành các nhà máy điện tuốcbin khí chu trình hỗn hợp công suất lớn, hiện đại, công nghệ tiên tiến, hiệu suất mức độ tự động hóa cao, sử dụng nhiên liệu chính khí thiên nhiên từ các bể dầu khí Cửu Long, Nam Côn Sơn như: Nhà máy Điện Rịa (390 MW), Trung tâm Điện lực Phú Mỹ với tổng công suất 3.890 MW.

- Năm 2002, khánh thành Nhà máy Thủy điện Ialy (720 MW), công trình thủy điện lớn nhất khu vực miền Trung Tây Nguyên. Đây cũng công trình duy nhất Việt Nam hệ thống cáp dầu với cấp điện áp 500 kV. Sản lượng điện bình quân theo thiết kế 3 tỉ 680 triệu kWh/năm. Phần lớn các hạng mục của công trình được xây dựng ngầm trong lòng núi.

- Luật điện lực năm 2004 chính thức được ban hành đã tạo ra khung sở pháp chung cho quá trình cải cách cấu trúc lại ngành điện, tạo hành lang cho việc từng bước thành lập thị trường điện cạnh tranh với mục đích thu hút đầu nhân giảm đầu nhà nước trong lĩnh vực năng lượng, nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành Điện phát triển một thị trường điện cạnh tranh, minh bạch, công bằng không phân biệt đối xử. Luật cũng quy định về các hoạt động điện lực lập kế hoạch đầu phát triển điện lực, sản xuất điện, truyền tải, phân phối bán lẻ điện.

- Ngày 10/4/2005, Trung tâm Điện lực Phú Mỹ được khánh thành với 6 nhà máy điện tổng công suất 3.890 MW, lớn gấp 2 lần Thủy điện Hòa Bình; trong đó, EVN đầu xây dựng Nhà máy Phú Mỹ 1,

thủy điện Ialy

Thủy điện Ialy được khởi công xây dựng ngày 01/11/1993 khánh thành ngày 27/4/2002 (Ảnh: EVN)

Phú Mỹ 2.1, Phú Mỹ 2.1 mở rộng Phú Mỹ 4; các nhà máy Phú Mỹ 3, Phú Mỹ 2.2 do các nhà đầu nước ngoài đầu theo hình thức BOT. Đây công trình quan trọng ghi nhận sự phát triển vượt bậc của ngành Công nghiệp điện lực Việt Nam. Đồng thời, qua việc tham gia xây dựng công trình, lực lượng vấn xây dựng điện của ngành đã bước đầu tiếp cận được công nghệ hiện đại chủ động trong công tác vấn thiết kế nhà máy điện chạy khí.

- Ngày 19/10/2005, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã Quyết định số 258/2005/QĐ-TTg thành lập Cục Điều tiết điện lực (ERAV) thuộc Bộ Công nghiệp (nay Bộ Công Thương). Cục Điều tiết điện lực giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện chức năng điều tiết hoạt động điện lực thị trường điện lực, nhằm góp phần cung cấp điện an toàn, ổn định, chất lượng, sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả bảo đảm tính công bằng, minh bạch, đúng quy định của pháp luật.

- Ngày 02/12/2005, Thủy điện Sơn La - công trình thủy điện lớn nhất Việt Nam Đông Nam Á được khởi công xây dựng, với tổng công suất thiết kế 2.400 MW, sản lượng điện trung bình hằng năm 10,2 tỉ kWh. Tổng mức đầu 36.933 tỉ đồng, đập chính của Thủy điện Sơn La cao 138,1 m, chiều dài đập 961 m. Ngày 17/12/2010, tổ máy số 1 Nhà máy Thủy điện Sơn La đã hòa thành công vào điện lưới quốc gia.

- Ngày 23/12/2012, EVN tổ chức Lễ khánh thành công trình Nhà máy Thủy điện Sơn La, về đích sớm 3 năm so với Nghị quyết của Quốc hội, làm lợi cho đất nước hàng chục nghìn tỉ đồng. Đây công trình đa mục tiêu, ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

- Sản lượng điện tăng mạnh, từ 16,9 tỉ kWh năm 1996 lên 26,7 tỉ kWh năm 2000 52,1 tỉ kWh năm 2005. Tổng công suất nguồn năm 2005 đạt trên 10.500 MW.

Giai đoạn 2006 - 2010:

- Ngày 26/01/2006, Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 26/2006/ QĐ-TTg phê duyệt lộ trình, các điều kiện hình thành phát triển các cấp độ thị trường điện tại Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu từng bước phát triển thị trường điện cạnh tranh, thu hút vốn đầu tư, nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh, thị trường điện lực tại Việt Nam sẽ được hình thành phát triển qua ba cấp độ: Cấp độ 1 (2005 - 2014): Thị trường phát điện cạnh tranh; Cấp độ 2 (2015 - 2022): Thị trường bán buôn điện cạnh tranh; Cấp độ 3 (từ sau năm 2022): Thị trường bán lẻ điện cạnh tranh.

- Ngày 22/6/2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 147/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn Điện lực Việt Nam, với ba lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính điện năng, viễn thông công cộng khí điện lực. Ngày 22/6/2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 148/2006/ QĐ-TTg về việc thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Ngày 17/12/2006, Tập đoàn Điện lực Việt Nam chính thức ra mắt, đánh dấu một bước ngoặt trọng đại, đưa ngành Điện nhanh chóng trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh, kinh doanh đa ngành nghề, đa sở hữu, trình độ công nghệ, quản hiện đại, chuyên môn hóa cao hội nhập quốc tế hiệu quả.

- Ngày 31/12/2007, Hội đồng quản trị Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam đã ban hành Quyết định số 1182/QÐ-EVN-HÐQT về việc thành lập Công ty Mua bán điện (EPTC), với nhiệm vụ chính lập kế hoạch, đàm phán, thực hiện các hợp đồng mua bán điện; thỏa thuận, kết thiết kế kỹ thuật, quản hệ thống đo đếm điện năng phục vụ mua bán điện; tham gia vận hành thị trường điện nội bộ cạnh tranh... Công ty Mua bán điện đã đang tự hoàn thiện, tiến hành nghiên cứu, đổi mới, đào tạo chuẩn bị các điều kiện tối ưu, sẵn sàng cho các cấp độ tiếp theo của thị trường điện hoạt động kinh doanh trong thời gian tới.

- Ngày 04/7/2008, Tổng Công ty Truyền tải điện quốc gia (EVNNPT) được thành lập với hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, do EVN sở hữu 100% vốn, gồm 4 công ty truyền tải điện 1, 2, 3, 4 3 ban quản dự án các công trình điện miền Bắc, miền Trung, miền Nam. EVNNPT trách nhiệm đầu tư, tổ chức vận hành quản hệ thống truyền tải điện từ 220 kV đến 500 kV của hệ thống điện quốc gia. Mục tiêu chính cung cấp dịch vụ truyền tải điện an toàn, liên tục, ổn định tin cậy; bảo đảm cung ứng điện cho các hoạt động kinh tế, chính trị, hội an ninh quốc phòng cho đất nước; sản xuất - kinh doanh hiệu quả, bảo toàn phát triển nguồn vốn được giao.

- Đến cuối năm 2009, cả nước 100% số huyện điện lưới quốc gia điện tại chỗ; 97,57% số hộ dân nông thôn sử dụng điện lưới quốc gia, vượt trước một năm so với mục tiêu của Chính phủ đề ra trong Chiến lược Phát triển năng lượng quốc gia.

- Tháng 4/2010, 5 tổng công ty điện lực đã ra mắt chính thức đi vào hoạt động. Đó là: Tổng Công ty Điện lực miền Bắc (EVNNPC); Tổng Công ty Điện lực miền Nam (EVNSPC), Tổng Công ty Điện lực miền Trung (EVNCPC), Tổng Công ty Điện lực Thành phố Nội (EVNHANOI), Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh (EVNHCMC). Đây bước ngoặt mới, giúp hoàn thiện cấu tổ chức, hình quản lý, nâng cao quản trị doanh nghiệp, tạo đà cho sự phát triển trong sản xuất - kinh doanh của các đơn vị ngành Điện.

- Ngày 25/6/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 975/QĐ-TTg chuyển Công ty mẹ - Tập đoàn Điện lực Việt Nam thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu. Tên gọi sau khi chuyển đổi là: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), tổ chức hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp, các quy định pháp luật liên quan Điều lệ tổ chức hoạt động do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tại thời điểm chuyển đổi, vốn điều lệ của EVN 110 nghìn tỉ đồng; ngành nghề kinh doanh chính là: sản xuất, điều độ, mua, bán buôn điện năng; xuất, nhập khẩu điện năng; đầu quản vốn đầu các dự án điện. Đây bước chuyển đổi quan trọng theo đúng lộ trình cam kết của Việt Nam với tổ chức WTO.

- Xây dựng đưa vào vận hành các trung tâm điện lực: Vĩnh Tân, Duyên Hải, Hải Phòng, Quảng Ninh,...

- Nhằm đảm bảo đẩy nhanh tiến độ các công trình điện đáp ứng nhu cầu điện ngày càng cao, EVN đã được Chính phủ cho phép áp dụng chế, chính sách đặc thù đối với các công trình điện. Cụ thể, các dự án thủy điện đang xây dựng khởi công xây dựng trong giai đoạn 2006 - 2010 được thực hiện theo các chế, chính sách quy định tại các văn bản của Chính phủ: Công văn số 797/CP-CN ngày 17/6/2003 Công văn số 400/CP-CN ngày 26/3/2004. Tiếp đến, 14 dự án xây dựng điện cấp bách giai đoạn 2006 - 2010 giai đoạn sau năm 2010 được tiếp tục áp dụng chế này theo Quyết định số 1195/QĐ-TTg ngày 09/11/2005 của Chính phủ. Sau thời gian ngắn áp dụng, các chế này đã thể hiện tính ưu việt, đạt được hiệu quả cao trong các dự án đầu xây dựng.

Giai đoạn 2006 - 2010, hệ thống điện lớn mạnh không ngừng, các nguồn điện ngày càng đa dạng: thủy điện, nhiệt điện than, nhiệt điện khí...; phát triển đồng bộ lưới truyền tải hệ thống lưới điện phân phối. Lĩnh vực dịch vụ điện từng bước được hoàn thiện nhiều đổi mới. Năm 2010, sản lượng điện đạt 97,3 tỉ kWh, tăng gần gấp 2 lần so với năm 2005. Việc đưa điện về nông thôn được thực hiện tốt. Đến năm 2010, cả nước 100% số huyện điện. Tổng công suất lắp đặt năm 2010 đạt trên 20.000 MW, tăng 3,2 lần so với năm 2000.

b) Ngành Than

Các đơn vị ngành Than (Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Tổng Công ty Đông Bắc) đã đẩy nhanh tốc độ phát triển một cách bền vững để đáp ứng nhu cầu sử dụng than trong nước ngày càng tăng cao, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, ổn định kinh tế phát triển kinh tế - hội. Nếu năm 1996, sản lượng than khai thác mới đạt 9,8 triệu tấn; thì đến năm 2005, sản lượng than nguyên khai đạt trên 34 triệu tấn, tăng 2,93 lần so với năm 2000 tăng 3,47 lần so với năm 1996. Năm 2010, sản lượng khai thác đạt 43,5 triệu tấn, gấp 1,28 lần năm 2005. Điều ấn tượng hơn, chỉ riêng Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, năm 2010 đã tiêu thụ được 42 triệu tấn, trong đó xuất khẩu đạt gần 19 triệu tấn, với giá trị xuất khẩu than khoáng sản lên đến 1,4 tỉ USD.

Đầu những năm 2000, ngành Than bắt đầu tăng tốc đổi mới công nghệ khai thác, nhất trong lĩnh vực khai thác hầm lò, tập trung vào giới hóa, chống nhằm nâng cao năng suất lao động.

Năm 2002, Công ty Than Khe Chàm áp dụng thử nghiệm công nghệ giới hóa khai thác sử dụng máy khấu than kết hợp chống bằng giá thủy lực di động. Sản lượng cao nhất đạt 22.300 tấn/tháng, năng suất lao động trung bình đạt 5,16 tấn/công - ca. Từ thành công của chợ giới hóa này, năm 2005, Công ty nghiên cứu áp dụng thử nghiệm chợ giới hóa đồng bộ sử dụng máy khấu combai với giàn chống tự hành.

Kết quả đạt được sản lượng năng suất của chợ giới hóa đồng bộ đạt được cao hơn 1,5 - 2,5 lần so với chợ chống cột thủy lực đơn hoặc giá thủy lực di động. Cụ thể công suất chợ đạt 380.000 tấn/năm, năng suất lao động đạt 7 - 14 tấn/công - ca, trung bình 10,5 tấn/công - ca.

Than Vàng Danh

Máy khấu than giàn chống tự hành Vinaalta được áp dụng tại chợ của Công ty cổ phần Than Vàng Danh (Ảnh: Vinacomin)

Năm 2007, Công ty Than Vàng Danh triển khai áp dụng thử nghiệm công nghệ giới hóa khai thác bằng máy combai khấu than giàn chống tự hành VINAALTA trên sở kết quả nghiên cứu đề tài cấp Nhà nước. Kết quả triển khai giai đoạn đầu khá tốt, sản lượng tăng 1,62 lần, năng suất lao động tăng 3,6 lần, tỷ lệ thu hồi than hạ trần tăng 12,6% so với chợ chống giữ bằng giá thủy lực di động, trong cùng một điều kiện.

Năm 2008, Công ty Than Mạo Khê Công ty Than Hồng Thái đưa vào áp dụng thử nghiệm công nghệ giới hóa bằng hệ thống khai thác cột dài theo độ dốc, chống giữ bằng tổ hợp giàn chống 2ANSH, khấu gương bằng máy bào than, công suất khai thác năng suất lao động cao hơn 1,5 - 2 lần, chi phí mét chuẩn bị thấp hơn 7 lần tổn thất công nghệ giảm hơn 2 lần so với đồ công nghệ khai thác dọc vỉa phân tầng, chống giữ bằng giá thủy lực di động.

Năm 2010, Công ty Than Nam Mẫu áp dụng công nghệ giới hóa khai thác vỉa dày. Sản lượng khai thác tăng 1,5 - 1,8 lần so với chợ chống giá khung thủy lực di động, tháng đạt tới 36.000 tấn, số công nhân giảm 1,5 - 2 lần so với chợ thủ công, nên năng suất lao động chợ giới hóa tăng 1,5 - 2,5 lần so với chợ thủ công: năng suất lao động chợ giới hóa đạt 9 - 14 tấn/công - ca trong khi năng suất lao động tại chợ chống cột thủy lực đơn hoặc giá thủy lực di động chỉ 2,5 - 5 tấn/công - ca.

thể nói, cho đến năm 2010, vấn đề công nghệ giới hóa khai thác cho điều kiện vỉa mỏng dốc đứng, vỉa dày, dốc thoải đến nghiêng về bản đã được giải quyết, tiếp tục hoàn thiện nhân rộng đại trà.

Một số dấu mốc quan trọng của TKV giai đoạn 1996 - 2010:

- Tháng 11/1996: Ngành Than đón nhận Huân chương Sao Vàng do nhiều thành tích trong 50 năm xây dựng bảo vệ Tổ quốc.

- Theo Nghị định số 27/CP của Chính phủ, từ năm 1996 bắt đầu quá trình tách các mỏ than, nhà máy tuyển than, nhà máy khí ra khỏi các công ty than 2 cấp vùng Hòn Gai, Cẩm Phả, Uông để trở thành doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập của Tổng Công ty Than Việt Nam, đã góp phần tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất - kinh doanh, giải phóng tối đa năng lực sản xuất, tạo nên cấu tổ chức bản của TKV.

- Tháng 12/1997: Than Việt Nam đạt 10,7 triệu tấn than thương phẩm, hoàn thành vượt mức sản lượng của năm 2000 do Đại hội lần thứ VIII của Đảng giao cho ngành Than (10 triệu tấn).

- Năm 1998: Tự sản xuất thuốc nổ ANFO chịu nước dùng cho các mỏ lộ thiên thay cho thuốc nổ nhập ngoại.

- Tháng 5/1999: Đại hội công nhân viên chức Tổng Công ty Than Việt Nam quyết định điều chỉnh giảm sản xuất than theo nhu cầu thị trường, giải quyết thành công quan hệ cung - cầu do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực.

- Năm 1999: Thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp sản xuất than đầu tiên nghiệp Than Cẩm Phả thuộc Công ty Than Quảng Ninh (nay Công ty Than Hạ Long).

- Quỹ Môi trường than Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 669/TCCB ngày 14/4/1999 của Tổng Công ty Than Việt Nam. Nhờ đó, các hoạt động bảo vệ môi trường trong khai thác than - khoáng sản đã từng bước đi vào nền nếp, kế hoạch, đi vào chiều sâu, giải quyết được nhiều vấn đề môi trường vùng mỏ.

- Năm 2000: Tổng Công ty Than Việt Nam di chuyển hết sở vật chất kỹ thuật (nhà sàng, kho than, kho vật tư, đường sắt, nhà máy khí) ra khỏi trung tâm thành phố Hạ Long, chuyển cảng than Hòn Gai thành cảng vật - du lịch, nhường chỗ cho phát triển đô thị bảo vệ môi trường.

- Tháng 5/2001: Tổng Công ty khí năng lượng Mỏ sáp nhập vào Tổng Công ty Than Việt Nam.

- Tháng 4/2002: Khởi công xây dựng Nhà máy Điện Na Dương - Nhà máy nhiệt điện đầu tiên của Tập đoàn.

- Tháng 10/2002: Thành lập Trung tâm An toàn mỏ thực hiện chức năng nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, kiểm định... về lĩnh vực an toàn trong toàn ngành.

- Tháng 8/2003: Xuất xưởng xe tải KRAZ đầu tiên được lắp ráp tại Việt Nam.

- Tháng 12/2003: Đạt 18,8 triệu tấn than thương phẩm, vượt chỉ tiêu sản lượng của năm 2005 do Đại hội IX của Đảng đề ra cho ngành Than (15 triệu tấn).

- Tháng 12/2004: Đạt 24,7 triệu tấn than thương phẩm (trong đó xuất khẩu 10,5 triệu tấn), đạt mục tiêu quy hoạch của năm 2010 (23 - 24 triệu tấn).

- Ngày 06/01/2005: Tổng Công ty Than Việt Nam được Chủ tịch nước quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới.

- Ngày 08/8/2005: Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 198/2005/QĐ-TTg Quyết định số 199/2005/QĐ-TTg tổ chức lại Tổng Công ty Than Việt Nam các đơn vị thành viên thành lập Tập đoàn Than Việt Nam, hoạt động theo hình công ty mẹ - công ty con.

- Ngày 26/12/2005: Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 345/2005/QĐ-TTg thành lập Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam trên sở Tập đoàn Than Việt Nam Tổng Công ty Khoáng sản Việt Nam. Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam bắt đầu hoạt động từ ngày 01/01/2006.

- Ngày 09/10/2006: Cổ phiếu của Công ty cổ phần Than Cọc Sáu, Đèo Nai, Cao Sơn, Tu tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán Nội đã thu hút nhiều nhà đầu trong nước nước ngoài. Tập đoàn đã hoàn thành việc chuyển đổi sang hoạt động theo hình công ty mẹ - công ty con, chuyển phần lớn các công ty sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp.

- Năm 2010: Doanh thu đạt 69,6 nghìn tỉ đồng, đảm bảo đủ việc làm cho trên 132 nghìn công nhân viên chức lao động.

- Ngày 25/6/2010, Thủ tướng Chính phủ quyết định chuyển công ty mẹ Tập đoàn TKV thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.

c) Công nghiệp khai thác bôxít - alumin - nhôm

Đại hội IX (tháng 4/2001) của Đảng đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - hội 2001 - 2010, trong đó xác định một số định hướng phát triển cho vùng Tây Nguyên “Khai thác chế biến quặng bôxít”1. Đến Đại hội X (tháng 4/2006), Đảng ta tiếp tục xác định: “Nhà nước tập trung đầu hoặc hỗ trợ đầu để phát triển những sản phẩm quan trọng của nền kinh tế, như: lọc hoá dầu, khai thác quặng luyện thép, phân bón, hoá chất, ximăng, khai thác bôxít sản xuất alumin”2. Từ năm 2001 đến năm 2010, Bộ Chính trị đã nhiều lần bàn ra các nghị quyết, kết luận để lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng ngành Công nghiệp bôxít, alumin, nhôm, phục vụ phát triển kinh tế đất nước nói chung, góp phần phát triển kinh tế - hội Tây Nguyên nói riêng. Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 01/11/2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 167/2007/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng quặng bôxít giai đoạn 2007 - 2015, xét đến năm 2025. Chính phủ đã giao Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam đơn vị kinh nghiệm trong khai thác khoáng sản làm chủ đầu thực hiện hai dự án chủ trì đàm phán với các đối tác nước ngoài năng lực để hợp tác phát triển kết cấu hạ tầng đầu xây dựng ngành Công nghiệp bôxít - alumin - nhôm. Năm 2008, đã khởi công xây dựng Nhà máy sản xuất alumin Tân Rai, năm 2010 khởi công Nhà máy sản xuất alumin Nhân do Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam làm chủ đầu tư. Tổ hợp Nhà máy alumin Tân Rai công suất thiết kế 650.000 tấn alumin/năm, bao gồm 3 hợp phần khai thác mỏ, nhà máy tuyển nhà máy alumin. Tổ hợp Nhà máy alumina Nhân (tương tự như Tân Rai) 3 nhà máy: Nhà máy alumin 650.000 tấn alumin/năm; Nhà máy nhiệt điện sử dụng than công suất 30 MW (2 tổ máy x 15 MW) Nhà máy khí hóa than cấp nhiệt để nung hydrat chế biến thành alumin. Đồng thời, một nhà máy điện phân nhôm của chủ đầu Công ty trách nhiệm hữu hạn Luyện kim Trần Hồng Quân, công suất thiết kế đến năm 2020 450.000 tấn nhôm/năm, được xây dựng tại khu công nghiệp Nhân Cơ, huyện Đăk R’lấp, tỉnh Đắk Nông. Theo đánh giá của Tổng hội Địa chất Việt Nam, trữ lượng công nghiệp của bôxít của Việt Nam trên 7 tỉ tấn, đứng vào hàng thứ 3 về trữ lượng bôxít trên thế giới; trong đó, trữ lượng quặng bôxít laterít Nhân khoảng 4 tỉ tấn, còn trữ lượng tại Bảo Lộc khoảng 500 triệu tấn.

d) Ngành Dầu khí

Thành tựu quan trọng của ngành giai đoạn này phát hiện, đưa vào khai thác hiệu quả các giếng dầu, chế biến dầu khí phát triển ngành Công nghiệp khí.

Về khai thác chế biến dầu khí: Phát hiện đưa vào khai thác các mỏ tử đen, tử vàng, ngừ vàng, tử trắng, tử nâu, Nam rồng đồi mồi, Nam trung tâm rồng. Sản lượng khai thác từ năm 1996 đến năm 2010 đạt 232,32 triệu tấn dầu, bằng 82% tổng sản lượng khai thác từ khi tấn dầu đầu tiên năm 1986 đến năm 2010. Đặc biệt, từ năm 2006, Việt Nam khai thác tấn dầu đầu tiên nước ngoài. Đó PM 304, diện tích 10.260 km2, nằm trên thềm lục địa phía Đông bán đảo Malaixia, thuộc bể trầm tích Malay - Thổ Chu. Hợp đồng PSC PM-304 gồm các bên Petrofac 30% Nhà điều hành; Petronas Carigali 30%; Kufpec 25% PIDC 15% (năm 2006). Dòng dầu đầu tiên từ mỏ Cendor, PM 304 Malaixia đã được khai thác vào ngày 23/9/2006, sản lượng khai thác tháng 11/2006 12.000 thùng/ngày (≈ 1.622 tấn/ngày).

- Năm 2008, Công ty Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) được thành lập đã đóng vai trò trụ cột trong ngành Hóa dầu Việt Nam. Sản phẩm của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất bao gồm xăng A92 A95; nhiên liệu phản lực JET A1, nhựa đường, dầu ôtô diesel, dầu FO, khí ga hóa lỏng LPG, nhựa Polypropylene (PP). Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất hạt nhựa Polypropylene, BSR đã đưa ra chiến lược sản xuất xuất bán ra thị trường các chủng loại sản phẩm hạt nhựa Polypropylene mới như màng BOPP, F-5110, F-6070, Fiber, Cast Film PP tự phân hủy trong thời gian đến. Ngày 30/5/2010, dự án Nhà máy Lọc dầu Dung Quất chính thức được bàn giao từ tổ hợp TPC sang cho chủ đầu tư, kết thúc giai đoạn xây dựng, vận hành chạy thử nghiệm thu nhà máy.

Trong công nghiệp khí: Phát triển mạnh với ba hệ thống đường ống dẫn khí các bể Cửu Long, Nam Côn Sơn Malay - Thổ Chu, với nhiều bước tiến quan trọng:

- Ngày 20/3/1996, Thủ tướng Văn Kiệt chỉ đạo Chương trình Khí 1996 - 2000, đồng ý để PetroVietnam tham gia Dự án sản xuất phân đạm trong tổ hợp điện - đạm với các đối tác nước ngoài, sử dụng khí đồng hành mỏ Bạch Hổ, tiến hành lập báo cáo khả thi.

- Nhà máy sản xuất khí hóa lỏng (LPG) Dinh Cố đầu tiên của Việt Nam được khởi công xây dựng vào ngày 04/10/1997.

- Ngày 03/7/1999, Nhà máy được Hội đồng nghiệm thu Nhà nước nghiệm thu cho phép đưa vào sử dụng.

- Ngày 09/7/1999, Nhà máy Xử khí Dinh Cố chính thức vận hành. Đây nhà máy xử khí đầu tiên của Việt Nam ứng dụng, chuyển giao các công nghệ hiện đại trong đầu xây dựng công trình khí với các thiết bị kỹ thuật hiện đại được chọn mua từ những nước trình độ khoa học tiên tiến như Turbo Expander, hệ thống điều khiển DCS...

- Ngày 27/3/2001, dự án Nhà máy Đạm Phú Mỹ được khởi công. Đến ngày 15/12/2004, Nhà máy chính thức khánh thành. Dự án được đánh giá rất thành công. Lần đầu tiên một công trình trọng điểm nằm trong chương trình khí - điện - đạm của Nhà nước đạt được cả ba mục tiêu: chất lượng, tiến độ hiệu quả. Nhà máy Đạm Phú Mỹ sử dụng các công nghệ tiên tiến sản xuất amoniac của Hãng Haldor Topsoe (Đan Mạch) sản xuất ure của SnamProgetti (Italia), thiết bị hiện đại của các nước G7 EU theo tiêu chuẩn quốc tế, khi chạy thử đã ra được sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng đạt công suất thiết kế. Tiến độ xây dựng được hoàn thành trong 34 tháng. Chi phí đầu 380 triệu USD, so với tổng dự toán được duyệt 445 triệu USD, tiết kiệm được 65 triệu USD; so với hạn mức đầu 486 triệu USD thì tiết kiệm được 106 triệu USD. Chỉ sau 5 năm, Nhà máy đã thu hồi vốn trả hết nợ vốn vay.

Dinh Cố

Nhà máy Khí hóa lỏng Dinh Cố (Bà Rịa - Vũng Tàu) phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

- Ngày 04/4/2007, từ rừng U Minh hạ, tuốcbin 1 Nhà máy Điện Mau 1 đã hòa lưới điện quốc gia. Đây sự nỗ lực, quyết tâm không ngừng của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tổng công ty Lắp máy Việt Nam, các nhà thầu nước ngoài. Tuốcbin 1 Nhà máy điện Mau 1 công suất 230 MW (chạy bằng dầu DO) 250 MW (chạy bằng khí) hòa lưới điện quốc gia sự kiện ý nghĩa to lớn trong thời điểm cả nước đang thiếu điện.

- Ngày 26/7/2008, Nhà máy Đạm Mau - nằm trong tổ hợp dự án cụm khí - điện - đạm Mau cũng chính thức khởi công. Đây được coi mảnh ghép cuối cùng trong cụm dự án khí - điện - đạm Mau, Nhà máy Đạm Mau công trình quy lớn, dây chuyền công nghệ hiện đại với công suất thiết kế 800.000 tấn urê/năm. Nhà máy Đạm Mau đi vào hoạt động đúng tiến độ cung ứng kịp thời sản phẩm ra thị trường đã góp phần bảo đảm sự ổn định chủ động về phân bón cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

- Ngày 18/6/2010, Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 924/ QĐ-TTg chuyển Công ty mẹ - Tập đoàn Dầu khí Việt Nam thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.

Ngày 19/01/2009, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tổ chức Lễ đón nhận Danh hiệu Anh hùng Lao động. Kể từ năm 1986 - thời điểm tấn dầu thô đầu tiên được khai thác từ mỏ Bạch Hổ đến năm 2010, hằng năm Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đóng góp khoảng 20% vào GDP 30% vào tổng thu ngân sách của đất nước, kim ngạch xuất khẩu trong toàn Tập đoàn chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

đ) Ngành Hóa chất

Giai đoạn 1996 - 2010, ngành Hóa chất chuyển hướng kịp thời sang chế thị trường, đạt tốc độ tăng trưởng cao, bình quân dao động khoảng 10 - 15%/năm. Giai đoạn 2006 - 2010, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 11,1%/năm; lợi nhuận tăng bình quân 46%/năm; vốn chủ sở hữu tăng 2,9 lần so với năm gốc 2005.

Ngành Hóa chất những phát triển vượt bậc toàn diện trên các mặt sản xuất - kinh doanh, đầu xây dựng bản, lao động sáng tạo, ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh lương thực. Mỗi năm cung cấp khoảng 1,4 triệu tấn phân chứa lân gồm supe photphat phân lân nung chảy. Khoảng 1,4 - 1,6 triệu tấn phân NPK các loại 150 nghìn tấn phân đạm.

Tính đến năm 2010, 10 phân ngành hóa chất đáp ứng bản nhu cầu trong nước. Pin thông dụng đáp ứng 90%; ắc quy ôtô đáp ứng 60%, ắc quy xe máy đáp ứng 70%, sản phẩm cao su đáp ứng 70 - 75%, sản phẩm sơn đáp ứng 70%, bình quân 2 - 3 kg/người/năm, chất tẩy rửa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, bình quân 6 - 6,5 kg/người/năm. Nhiều đơn vị trong ngành chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới. Casumina xếp hạng 59 năm 2007 60 năm 2008 trong số 75 công ty sản xuất cao su hàng đầu thế giới. những công ty sản xuất chất tẩy rửa trong nước đã được thỏa thuận khung 5 năm (2007 - 2012) với các đối tác tại thị trường Nhật Bản; thỏa thuận khung 10 năm (2009 - 2019) với đối tác Philíppin về cung cấp các sản phẩm bột giặt, nước rửa chén, nước xả vải3.

Ngành đầu mở rộng cải tạo nhiều nhà máy phân bón hóa học như Đạm Bắc, Lân Văn Điển, Supe Phốtphát Hóa chất Lâm Thao; xuất hiện nhiều nhà máy sản xuất phân bón hỗn hợp NPK, phân vi sinh, phân hữu sinh học như Phân bón Việt - Nhật, Bình Điền, Con Vàng, Ba Con Cò, Thanh Bình, Đồng Nai. Đồng thời, thêm các nhà máy phân bón hóa học lấy nguyên liệu từ khí đồng hành: Nhà máy Đạm Phú Mỹ, Mau. Năm 2010, tổng nhu cầu phân bón cả nước khoảng 9,1 triệu tấn, sản xuất trong nước đã đạt trên 6 triệu tấn, đáp ứng được trên 67% tổng nhu cầu phục vụ sản xuất nông nghiệp, còn lại nhập khẩu.

Đơn vị chủ lực trong ngành Tổng Công ty Hóa chất sự biến động về tổ chức:

Ngày 24/4/2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 89/2006/QĐ-TTg phê duyệt đề án chuyển Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam sang hoạt động theo hình công ty mẹ - công ty con Quyết định số 90/2006/QĐ-TTg về việc thành lập Công ty mẹ - Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam. Tại thời điểm thành lập, Công ty mẹ - Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam 23 công ty con; trong đó 2 công ty trách nhiệm hữu hạn, 11 công ty liên kết; 4 công ty liên doanh 2 đơn vị sự nghiệp. Từ đó, Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam đã những bước phát triển vượt bậc. Năm 2006, tổng vốn chủ sở hữu của Tổng Công ty 4.342 tỉ đồng, năm 2010 đã đạt 10.695 tỉ đồng, tăng 2,46 lần.

Ngày 23/12/2009, Thủ tướng ban hành Quyết định số 2180/QĐ-TTg thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (VINACHEM). Tập đoàn Hóa chất Việt Nam doanh nghiệp đa sở hữu; trong đó sở hữu nhà nước chi phối, hoạt động theo hình công ty mẹ - công ty con.

dây chuyền lá cách

Dây chuyền sản xuất cách của Jungfer (Áo) - Công trình đầu đầu tiên của Công ty cổ phần Pin Ắc quy miền Nam (PINACO), năm 1991 (Ảnh: PINACO)

Tại thời điểm thành lập, Tập đoàn 10 công ty con do tập đoàn nắm giữ 100% vốn điều lệ, 17 công ty con do tập đoàn nắm giữ trên 50% vốn điều lệ khi cổ phần hóa, 16 công ty con do tập đoàn nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ, 1 viện nghiên cứu, 1 trường cao đẳng. Ngành kinh doanh chính sản xuất - kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất bản, sản phẩm cao su, pin ắc quy, chất giặt rửa mỹ phẩm, khí công nghiệp, khai khoáng, sản phẩm hóa dầu, hóa dược...

Ngày 23/6/2010, tại Quyết định số 953/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Công ty mẹ - Tập đoàn Hóa chất Việt Nam được chuyển đổi thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Tập đoàn Hóa chất Việt Nam do Nhà nước làm chủ sở hữu.

Sự ra đời của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam một dấu ấn quan trọng, giữ vai trò nòng cốt trong phát triển các phân ngành hóa chất trở thành doanh nghiệp hàng đầu của ngành Hóa chất Việt Nam trong sản xuất hóa chất bản, các sản phẩm hóa chất phục vụ sản xuất nông nghiệp tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu. Đồng thời, Tập đoàn điều kiện đầu tập trung vào các dự án góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đảm bảo nhu cầu phân bón (lân, đạm - urê, NPK) trong nước.

e) Ngành khí

Xác định ngành khí ngành công nghiệp then chốt, Đảng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản khuyến khích phát triển như:

- Quyết định số 186/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/12/2002 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành khí Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn tới năm 2020.

- Kết luận số 25-KL/TW ngày 17/10/2003 của Bộ Chính trị về Chiến lược phát triển ngành khí Việt Nam.

- Quyết định số 10/2009/QĐ-TTg ngày 16/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ về chế hỗ trợ phát triển sản xuất sản phẩm khí trọng điểm danh mục các sản phẩm khí trọng điểm, danh mục dự án đầu sản xuất sản phẩm khí trọng điểm giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2015.

- Chỉ thị số 494/CT-TTg ngày 20/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc sử dụng vật tư, hàng hóa sản xuất trong nước trong công tác đấu thầu các dự án sử dụng vốn nhà nước.

Những chính sách trên đã tạo khung khổ pháp cho việc tập trung phát triển ngành khí một cách hiệu quả, bền vững trên sở phát huy mọi nguồn lực trong nước kết hợp với nguồn lực bên ngoài. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển ngành khí một cách tổ chức, phân công hợp tác hợp lý, đồng thời tiếp tục đổi mới, sắp xếp phát triển củng cố doanh nghiệp nhà nước về khí đủ mạnh để giữ vai trò nòng cốt, lực lượng chủ lực của ngành.

Một số lĩnh vực sự chuyển biến, đột phá như:

+ Chế tạo thiết bị thủy công (cung cấp cho các công trình nhà máy thủy điện lớn, nhỏ trong cả nước), chế tạo giàn khoan dầu khí (cung cấp khoan thăm dò, khai thác dầu khí đến độ sâu 120 m, giàn khoan tự nâng 90 m nước, giàn khoan khai thác giếng dầu).

+ Chế tạo cung cấp thiết bị cho các nhà máy ximăng, đóng tàu các loại (tàu chở dầu đến trọng tải 105 nghìn DWT, tàu chở khí hóa lỏng trọng tải đến 5.000 tấn, tàu chở hàng rời...), các công trình thiết bị toàn bộ (nhà máy đường công suất 1.000 tấn mía/ngày, chế biến mủ cao su công suất 6.000 tấn/năm).

+ khí chế tạo trong nước cũng đã sản xuất, lắp ráp được hầu hết các chủng loại xe ôtô con, xe tải, xe khách; sản xuất xe máy đã tỷ lệ nội địa hóa 85 - 95%, đáp ứng nhu cầu trong nước xuất khẩu.

Đến năm 2010, cả nước đã một hệ thống các nhà máy khí với đủ các quy lớn nhỏ. Tại một số địa phương, vùng kinh tế đã hình thành hình cụm ngành về khí chế tạo (như khu phức hợp khí Chu Lai - Quảng Nam...). Ngành khí cũng đã hình thành một số doanh nghiệp tiềm năng phát triển ngang tầm khu vực như Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam Lilama, Tổng Công ty Máy động lực Máy nông nghiệp Việt Nam, Tổng Công ty Máy Thiết bị công nghiệp (MIE), Tổng Công ty Thiết bị Điện... Đồng thời, mở ra nhiều hội cho doanh nghiệp nhân phát triển, như Công ty cổ phần Ôtô Trường Hải, nghiệp khí Quang Trung (Ninh Bình)... cũng như thu hút nhiều doanh nghiệp khí FDI hàng đầu thế giới vào hoạt động, như Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghiệp nặng Doosan Việt Nam được cấp chứng nhận đầu năm 2006 tại Khu Kinh tế Dung Quất với vốn đầu 300 triệu USD/110 ha, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất các thiết bị công nghiệp nặng như nồi hơi cho các nhà máy nhiệt điện, cẩu trục bốc dỡ hàng cho các hệ thống cảng biển, thiết bị xử nước biển thành nước ngọt cho sinh hoạt một vài sản phẩm khí trọng điểm khác, hay Công ty trách nhiệm hữu hạn Leaderweld Alloy Rod Việt Nam - “chuyên gia” sản xuất các loại que hàn dây hàn.

Nhiều công ty khí trong nước trở thành nhà cung cấp phụ tùng chính thức cho các liên doanh lớn tại Việt Nam như: Honda, Piaggio, Yamaha, SYM... VEAM thể sản xuất được các chi tiết phần khung chi tiết phần động cơ, đặc biệt những chi tiết động dạng khó như: Trục khuỷu (Crankshaft), Tay biên (Connecting Rod)...

Hiện nay, khí Việt Nam thế mạnh tập trung ba phân ngành gồm xe máy phụ tùng linh kiện xe máy, khí gia dụng dụng cụ, ôtô phụ tùng ôtô. Ba phân ngành này chiếm gần 70% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của khí cả nước.

f) Ngành Dệt may

Việc thành lập Tổng Công ty Dệt may Việt Nam đã tạo hích dẫn dắt ngành Dệt may phát triển mạnh mẽ về số lượng, chất lượng quy mô. Trong tất cả các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu giai đoạn 2000 - 2010, Dệt may ngành kim ngạch xuất khẩu tốc độ tăng trưởng lớn nhất, khoảng 18%/năm, chiếm 15% kim ngạch xuất khẩu cả nước.

Giai đoạn này Dệt may một trong những ngành điển hình thành công trong chiến lược phát triển nhờ các chính sách đặc thù của Chính phủ. Chiến lược phát triển một số chế, chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lược phát triển ngành Dệt may Việt Nam đến năm 2010 (thường gọi Chiến lược tăng tốc ngành Dệt may) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg ngày 23/4/2001 đã đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng mạnh mẽ của ngành giai đoạn 2001 - 2005, 2006 - 2010, tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn sau.

Dấu ấn nổi bật nhất của ngành chuyển dần từ phương thức gia công xuất khẩu sang sản xuất FOB (mua nguyên liệu, bán thành phẩm) tái cấu trúc sản xuất ngành may.

Ngành bắt đầu quan tâm đến đầu phát triển các khu công nghiệp sản xuất vải (dệt, in, nhuộm, hoàn tất), hệ thống xử nước thải nhằm từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hóa quan tâm đến thị trường nội địa.

g) Ngành Da giày

Da giày cũng ngành thâm dụng lao động hướng về xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu luôn đứng sau dệt may, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Hằng năm, 90% sản phẩm do ngành Da giày sản xuất được xuất khẩu sang các thị trường quốc tế, trong đó EU chiếm 70%, Mỹ 20%, Nhật Bản 3%.

Từ năm 2004 đến năm 2010, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu da giày đứng thứ 4 thế giới, sau Trung Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc) Italy. Khoảng 60% các sản phẩm da giày xuất khẩu theo phương thức gia công cho đối tác nước ngoài dưới hình thức theo đơn đặt hàng. Đầu những năm 2000, ngành Da giày bắt đầu chú ý tới thị trường nội địa.

h) Ngành Công nghiệp thực phẩm

Chế biến thực phẩm ngành Việt Nam đang nhiều lợi thế tiềm năng phát triển tốt. Tuy nhiên, sự phát triển của ngành cũng phụ thuộc chịu ảnh hưởng rất nhiều vào thị trường xuất khẩu, với những yêu cầu khắt khe về an toàn thực phẩm, chất lượng sức ép cạnh tranh với các nước trong khu vực trên thế giới.

Các ngành tốc độ tăng trưởng tốt chế biến mía đường, sản xuất bia; sản xuất sản phẩm từ bơ, sữa; sản xuất xay xát bột thô; thuỷ hải sản chế biến nhất chế biến thực phẩm đóng hộp. Nhiều doanh nghiệp đứng vững được cả trên thị trường nội địa xuất khẩu như Công ty Xuất khẩu Rau quả Tiền Giang; Công ty Thực phẩm Xuất khẩu Đồng Giao, Công ty cổ phần Việt Nam Kỹ nghệ Súc sản Vissan, Tổng Công ty Rau quả, nông sản (Vegetexco Vietnam), Công ty Đồ hộp Hạ Long, Tổng Công ty Dầu thực vật Việt Nam (VOCARIMEX)... Sản phẩm đóng hộp của các công ty trong nước phong phú, đa dạng, chiếm lĩnh khá tốt thị trường nội địa. Năm 2010, riêng Công ty cổ phần Việt Nam Kỹ nghệ Súc sản Vissan đã hơn 100 nhãn hàng thuộc nhóm thực phẩm đóng hộp, chiếm 29% thị phần.

i) Ngành Công nghiệp điện tử

Năm 1996, ngành bắt đầu thu được 90 triệu USD từ xuất khẩu. Đến năm 2000, doanh thu xuất khẩu của ngành tăng lên tới 783 triệu USD sản phẩm điện tử đã được xuất khẩu tới 35 nước trên thế giới.

Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu các mặt hàng thuộc ngành Công nghiệp điện tử của Việt Nam giai đoạn 2003 - 2010 phát triển vượt bậc, đến năm 2005 đạt 1,4 tỉ USD 3,6 tỉ USD năm 2010. Nhiều hãng điện tử nổi tiếng nước ngoài đầu vào Việt Nam như Canon, Intel, Panasonic...

Ba thành tựu từ Chiến lược phát triển ngành khí

Theo đề nghị của Bộ Công nghiệp tại Công văn số 3608/TTr-KHĐT ngày 10/9/2002, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã ban hành Quyết định số 186/2002/QĐ-TTg ngày 26/12/2002 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành khí Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Sau 8 năm thực hiện (2003 - 2010), ngành Công nghiệp khí đã đạt được ba thành tựu bản:

Thứ nhất, Chính phủ đã ban hành những chính sách hỗ trợ quan trọng để định hướng phát triển ngành khí, bảo vệ thị trường trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khí trong nước tham gia chế tạo thiết bị khí trong các dự án công nghiệp như: thủy điện, nhiệt điện, ximăng... thể kể là: Quyết định số 112/2003/QĐ-TTg ngày 09/6/2003 về việc thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình sản phẩm khí trọng điểm do Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban; Quyết định số 10/2009/QĐ-TTg ngày 16/01/2009 về chế hỗ trợ phát triển sản xuất sản phẩm khí trọng điểm danh mục các sản phẩm khí trọng điểm, danh mục dự án đầu sản xuất sản phẩm khí trọng điểm giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2015. Cùng với đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một số chế, chính sách khác để hỗ trợ ngành khí về: công tác đấu thầu; chế tạo thiết bị khí thủy công; chế tạo thiết bị nhà máy nhiệt điện; về phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ... Các bộ, ban, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ của mình cũng đã ban hành tương đối đầy đủ hệ thống chính sách hướng dẫn thi hành các chính sách của Chính phủ về ưu đãi hỗ trợ đầu tư.

Thứ hai, công tác vấn thiết kế đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Chúng ta đã làm chủ được công tác thiết kế các nhóm thiết bị hàm lượng công nghệ khá như: thiết bị khí thủy công, một số cụm chi tiết của các nhà máy sản xuất công nghiệp. Để phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, một hệ thống các phòng thí nghiệm hiện đại đã được Nhà nước đầu tư, đây những sở nghiên cứu khoa học phục vụ cho chiến lược phát triển ngành khí. Với sự cố gắng sáng tạo trong nghiên cứu khoa học của tập thể cán bộ nghiên cứu, nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã được ứng dụng hiệu quả trong các ngành kinh tế của đất nước.

Thứ ba, các sản phẩm trước đây phải nhập khẩu hoàn toàn đã từng bước được thay thế bằng sản phẩm do ngành khí trong nước chế tạo. Các doanh nghiệp khí trong nước đã làm chủ được công nghệ, sản xuất được các loại thiết bị khí thủy công cho các nhà máy thủy điện; dây chuyền thiết bị đồng bộ cho các nhà máy công nghiệp.

Những kết quả đó của ngành khí đã góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.259

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.65, tr.274.

3. Xem Bộ Công Thương: Ngành Công Thương Việt Nam sau 25 năm đổi mới (Lưu hành nội bộ), Sđd, tr.243-244.

2. Thể chế hóa đường lối công nghiệp hóa

Công tác tham mưu, xây dựng văn bản pháp luật thể chế hóa chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa của các bộ quản lý ngành Công Thương đã tạo nền tảng vững chắc cho khơi thông nguồn lực của các thành phần kinh tế vào sản xuất công nghiệp. Quyết định số 73/2006/QĐ-TTg ngày 04/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành Công nghiệp Việt Nam theo các vùng, lãnh thổ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020, đã thay đổi căn bản công tác quản lý nhà nước về công nghiệp theo hướng chuyển mạnh sang chức năng thúc đẩy, phục vụ phát triển là chính, hạn chế tối đa sử dụng các biện pháp hành chính vào sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, giảm dần các đầu mối quản lý ngành; đồng thời đưa quy hoạch thực sự trở thành một trong những công cụ quản lý ngành công nghiệp. Quy hoạch cũng là cơ sở để ngành Công Thương xây dựng các đề án phát triển các ngành Công nghiệp, như: nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp; phát triển công nghiệp chế biến; phát triển công nghiệp hỗ trợ, triển khai có hiệu quả các đề án phát triển ngành phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; đẩy mạnh các hoạt động khuyến công...

Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành Công nghiệp Việt Nam theo Quyết định số 73/2006/QĐ-TTg giúp Nhà nước cùng các thành phần kinh tế tập trung nguồn vốn vào các ngành Công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu như: thủy điện, chế biến nông, lâm, thủy sản, may mặc, da - giày, điện tử - tin học, một số sản phẩm cơ khí, dược phẩm và tiêu dùng... Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng như: dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng... với bước đi hợp lý, phù hợp điều kiện vốn, công nghệ, thị trường, phát huy được hiệu quả. Ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử, tự động hóa. Chú trọng phát triển công nghiệp sản xuất phần mềm tin học. Phát triển có hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng một số khu công nghệ cao và khu kinh tế mở. Khuyến khích phát triển các cụm công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn để tạo điều kiện phát triển các cơ sở sản xuất công nghiệp với ngành, nghề đa dạng, thu hút nhiều lao động góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Phát triển công nghiệp được định hướng trên cơ sở hình thành cân đối động, đảm bảo sự ưu tiên phát triển các ngành, vùng phù hợp với nguồn lực và lợi thế trong từng thời kỳ và phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; gắn chặt với phát triển dịch vụ, phát triển công nghiệp nông thôn, tạo động lực trực tiếp cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hóa.

Đến nay nhìn lại, có nhiều chỉ tiêu thuộc “tầm nhìn 2020” của Quyết định số 73/2006/QĐ-TTg đã thực hiện đạt và vượt. Điển hình là chỉ tiêu: “Tỷ lệ hàng chế tạo trong xuất khẩu đạt 70 - 75%”, thực tế năm 2016 đã vượt với 80,3% hàng công nghiệp chế biến trên tổng kim ngạch xuất khẩu, đến năm 2020 tỷ lệ này lên đến 85,2%; chỉ tiêu “Cơ cấu ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp chế biến, đạt 87 - 88% vào năm 2020”, thực tế đến năm 2010, tỷ lệ này đã đạt 90,02%.

Đặc biệt, dù chịu ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 - 2009, thị trường xuất khẩu hàng công nghiệp bị thu hẹp đáng kể; sau đó là sự tăng giá của hầu hết các loại nguyên vật liệu của ngành Công nghiệp mà nước ta phải nhập khẩu khối lượng tương đối lớn như: sắt thép, hóa chất cơ bản, bông sợi và phụ liệu dệt may... làm giảm giá trị gia tăng của sản phẩm công nghiệp chế biến, nhưng sản xuất công nghiệp vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá với tốc độ tăng hằng năm hai con số (trừ năm 2009 tăng 7,6%). Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh năm 1994) năm 2010 đạt 795,1 nghìn tỉ đồng, gấp 4,0 lần năm 2000. Bình quân 10 năm 2001 - 2010 tăng 14,9%/năm, trong đó khu vực Nhà nước gấp 2,1 lần, bình quân tăng 7,8%/năm; khu vực ngoài Nhà nước gấp 6,5 lần, bình quân tăng 20,5%/năm; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài gấp 4,7 lần, bình quân tăng 16,7%/năm. So với 10 năm 1991 - 2000 thì tốc độ tăng của ngành Công nghiệp trong 10 năm 2001 - 2010 đã cao hơn 1,1 điểm phần trăm1.

Trong 15 năm 1996 - 2010, đã hình thành căn bản khung khổ pháp lý cho phát triển công nghiệp với các quyết định liên quan đến quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển ngành Công nghiệp do các bộ quản lý ngành Công Thương tham mưu ban hành, xây dựng và tổ chức thực hiện. Cụ thể:

- Quyết định số 160/1998/QĐ-TTg ngày 04/9/1998 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Công nghiệp giấy đến năm 2010.

- Quyết định số 51/2001/QĐ-TTg ngày 11/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch phát triển ngành Hóa chất Việt Nam 5 năm 2001 - 2005.

- Quyết định số 95/2001/QĐ-TTg ngày 22/6/2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển Điện lực Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 có xét triển vọng đến năm 2020 (gọi tắt Quy hoạch điện V).

- Quyết định số 134/2001/QĐ-TTg ngày 10/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Thép đến năm 2010.

- Quyết định số 28/2002/QĐ-TTg ngày 06/02/2002 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Rượu - Bia - Nước giải khát Việt Nam đến năm 2010.

- Quyết định số 64/2002/QĐ-TTg ngày 23/5/2002 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Vật liệu nổ công nghiệp Việt Nam đến năm 2010.

- Quyết định số 175/2002/QĐ-TTg ngày 03/12/2002 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Công nghiệp ôtô Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn tới năm 2020.

- Quyết định số 186/2002/QĐ-TTg ngày 26/12/2002 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Cơ khí Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn tới 2020.

- Kết luận số 25-KL/TW ngày 17/10/2003 của Bộ Chính trị về Chiến lược phát triển ngành Cơ khí Việt Nam.

- Quyết định số 20/2003/QĐ-TTg ngày 29/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Than Việt Nam giai đoạn 2003 - 2010 có xét triển vọng đến năm 2020.

- Quyết định số 58/2003/QĐ-TTg ngày 17/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt sửa đổi, bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam đến năm 2010.

- Quyết định số 11/2004/QĐ-BCN ngày 17/02/2004 của Bộ Công nghiệp phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Nhựa Việt Nam đến năm 2010.

- Quyết định số 22/2004/QĐ-BCN ngày 02/4/2004 của Bộ Công nghiệp phê duyệt Quy hoạch phát triển vùng trồng cây thuốc lá đến năm 2010.

- Quyết định số 176/2004/QĐ-TTg ngày 05/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Điện Việt Nam giai đoạn 2004 - 2010, định hướng đến năm 2020.

- Quyết định số 177/2004/QĐ-TTg ngày 05/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Công nghiệp ôtô Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020.

- Quyết định số 22/2005/QĐ-BCN ngày 26/4/2005 của Bộ Công nghiệp phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Công nghiệp sữa Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.

- Quyết định số 343/2005/QĐ-TTg ngày 26/12/2005 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Công nghiệp hóa chất Việt Nam đến năm 2010 (có tính đến năm 2020).

- Quyết định số 42/2005/QĐ-BCN ngày 30/12/2006 của Bộ Công nghiệp phủ quy định nội dung, trình tự, thủ tục lập và thẩm định quy hoạch phát triển điện lực.

- Quyết định số 26/2006/TTg ngày 26/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt lộ trình, các điều kiện hình thành và phát triển các cấp độ thị trường điện lực tại Việt Nam.

- Quyết định số 386/QĐ-TTg ngày 09/3/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam giai đoạn 2006 - 2015, định hướng đến năm 2025.

- Quyết định số 73/2006/QĐ-TTg ngày 04/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành Công nghiệp Việt Nam theo các vùng lãnh thổ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020.

- Quyết định số 55/2007/QĐ-TTg ngày 23/4/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục các ngành công nghiệp ưu tiên, ngành công nghiệp mũi nhọn giai đoạn 2007 - 2010, tầm nhìn đến năm 2020 và một số chính sách khuyến khích phát triển.

- Quyết định số 88/2007/QĐ-TTg ngày 13/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược tổng thể ngành Thuốc lá Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn năm 2020.

- Quyết định số 110/2007/QĐ-TTg ngày 18/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006 - 2015 có xét đến năm 2025 (gọi tắt là Quy hoạch điện VI).

- Quyết định số 34/2007/QĐ-BCN ngày 31/7/2007 của Bộ Công nghiệp phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020.

- Quyết định số 136/2007/QĐ-TTg ngày 20/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình khuyến công quốc gia đến năm 2012.

- Quyết định số 150/2007/QĐ-TTg ngày 10/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Vật liệu nổ công nghiệp Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2025.

- Quyết định số 1855/2007/QĐ-TTg ngày 27/12/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050.

- Quyết định số 36/2008/QĐ-TTg ngày 14/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020.

- Quyết định số 48/2008/QĐ-BCT ngày 19/12/2008 của Bộ Công Thương phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Sản xuất thiết bị điện giai đoạn 2006 - 2015, tầm nhìn đến năm 2025.

- Quyết định số 89/2008/QĐ-TTg ngày 07/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Than Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2025.

- Quyết định số 10/2009/QĐ-TTg ngày 16/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm và danh mục các sản phẩm cơ khí trọng điểm, danh mục dự án đầu tư sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2015.

- Quyết định số 223/2009/QĐ-TTg ngày 18/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Dầu khí Việt Nam giai đoạn đến năm 2015, định hướng đến năm 2025.

- Quyết định số 6209/QĐ-BCT ngày 25/11/2010 của Bộ Công Thương phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Da - Giày Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025.

Danh mục 11 sản phẩm cơ khí trọng điểm giai đoạn 2009 - 2015

1. Tàu chở dầu từ 115.000 tấn trở lên, tàu chở hàng từ 80.000 tấn trở lên; kho chứa dầu từ 150.000 tấn trở lên; tàu chở khách từ 1.000 chỗ ngồi trở lên; tàu chở sà lan, sông biển Bắc Nam trọng tải 10.000 tấn (gồm tàu Lash mẹ và hệ thống sà lan, tàu kéo đẩy); ụ nổi để sửa chữa được các tàu cỡ lớn trên 50.000 tấn.

2. Các loại động cơ diesel từ 100 mã lực trở lên. Riêng động cơ diesel tàu thủy cùng hệ thống hộp số hệ trục và chân vịt công suất 300 HP trở lên.

3. Cổng trục 50 tấn trở lên, cẩu chân đế từ 30 tấn trở lên, cần trục từ 10 tấn trở lên, cẩu bánh xích từ 50 tấn trở lên, cẩu bánh lốp chân cứng từ 50 tấn trở lên, cẩu trên tàu biển từ 20 tấn trở lên, cẩu tháp từ 5 tấn trở lên.

4. Các loại giàn khoan tự nâng độ sâu 60 m nước trở lên; giàn khoan nửa nổi nửa chìm, tàu khoan phục vụ thăm dò, khai thác dầu khí.

5. Các thiết bị chính cho dây chuyền sản xuất ximăng công suất từ 2.500 tấn clinke/ngày trở lên: máy đập đá vôi, máy đập đất sét, máy nghiền bi, máy nghiền đứng (nghiền liệu, nghiền than, nghiền clinke), lò nung clinke, máy làm nguội clinke, máy rải liệu, máy rút liệu, lọc bụi tĩnh điện, thiết kế điều khiển tự động nhà máy ximăng. Các loại tuốcbin nước, tuốcbin hơi.

6. Các loại đầu máy diesel công suất từ 800 mã lực trở lên, toa xe hàng trọng tải từ 30 tấn trở lên; toa xe khách cao cấp với tốc độ cấu tạo 100 km/giờ; toa xe khách đảm bảo điều kiện giao thông tiếp cận.

7. Sản xuất phôi thép đúc, rèn hợp kim cao có trọng lượng từ 1,5 tấn trở lên (dùng trong công nghệ chế tạo máy); thép đóng tàu thủy.

8. Các loại máy canh tác, thu hoạch, bảo quản, chế biến các sản phẩm nông nghiệp - ngư nghiệp, các kho bảo quản phục vụ xuất khẩu.

9. Các thiết bị chính trong các nhà máy nhiệt điện than công suất từ 50 MW trở lên.

10. Máy và thiết bị xây dựng cỡ lớn: máy xúc, máy đào, máy san, máy ủi, máy cạp, máy xếp dỡ hàng, trạm trộn bêtông tự động công suất từ 60m3/h trở lên; thiết bị xử lý rác 3.000 tấn/ngày trở lên.

11. Các loại máy biến áp lực điện áp từ 220 kV trở lên; toàn bộ phần thiết bị trạm biến áp điện áp 220 kV trở lên.

Nguồn: Quyết định số 10/2009/QĐ-TTg ngày 16/01/2009

của Thủ tướng Chính phủ.

Nhờ chính sách này, công nghiệp nước ta sản xuất được nhiều sản phẩm ấn tượng sau năm 2010:

+ Giàn khoan tự nâng Tam Đảo 03 - công trình cơ khí trọng điểm quốc gia lần đầu tiên được chế tạo tại Việt Nam do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) làm chủ đầu tư và Công ty cổ phần Chế tạo giàn khoan dầu khí (PV Shipyard) làm tổng thầu EPC. Giàn khoan tự nâng 90 m nước có trọng lượng lên tới gần 12 nghìn tấn, chiều dài chân là 145 m; hoạt động ở độ sâu tới 90 m nước và chiều sâu khoan đến 6,1 km; có thể chịu đựng được sức gió tương đương bão cấp 12, trên cấp 12 và chịu đựng được các điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Giàn Tam Đảo 03 được cơ quan Đăng kiểm Hàng hải Mỹ - ABS cấp giấy chứng nhận theo tiêu chuẩn quốc tế và được Liên doanh Việt - Nga Vietsovpetro đưa vào sử dụng, khai thác ổn định, hiệu quả từ tháng 6/2012.

Tam Đao 03

Công trình giàn khoan tự nâng 90 m nước Tam Đảo 03 (Ảnh: Petrovietnam)

+ Máy biến áp 500 kV - 3 x 150 MVA do Công ty cổ phần Thiết bị điện Đông Anh nghiên cứu chế tạo. Ở thời điểm năm 2011, Việt Nam là nước duy nhất tại khu vực Đông Nam Á sản xuất thành công loại máy biến áp này. Hiện nay, trên thế giới chỉ có một số nước chế tạo máy biến áp 500 kV (Đức, Pháp, Thụy Điển, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) và giá nhập khẩu rất đắt. Trong khi đó, giá thành và chi phí 1 máy biến áp 500 kV trong nước sản xuất luôn thấp hơn 25 - 30% các máy nhập khẩu cùng loại.

+ Cần cẩu 1 có sức nâng 1.200 tấn do Xí nghiệp Cơ khí Quang Trung chế tạo dùng trong thi công Thủy điện Sơn La, Thủy điện Lai Châu, với tỷ lệ nội địa hóa lên tới 90%. Trên thế giới, cần cẩu cỡ lớn 1.000 tấn chỉ có một số quốc gia làm được như Phần Lan, Đức, Mỹ, Nga, Trung Quốc.

+ Cơ khí trong nước đã chế tạo các thiết bị cơ khí thủy công cho 29 công trình thủy điện vừa và lớn trong nước, trong đó có công trình thủy điện Sơn La (2.400 MW) và Lai Châu (1.200 MW).


1. Xem Tổng cục Thống kê: Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm 2001 - 2010, Sđd, tr.42-43.

III- THƯƠNG MẠI

Năm 1996, sau 10 năm thực hiện đổi mới, những mục tiêu của kế hoạch 5 năm (1991 - 1995) đã hoàn thành, Việt Nam bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; nhiệm vụ đặt ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa cũng cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, bối cảnh trong nước và quốc tế có những đổi thay nhanh chóng đòi hỏi phải có những chính sách kịp thời nhằm thích ứng với bối cảnh mới.

Với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, sức sản xuất ngày càng nâng cao, đòi hỏi một khung khổ pháp lý cao hơn, tạo thuận lợi cho dòng chảy hàng hóa trong và ngoài nước. Trên bình diện quốc tế, các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết về kinh tế, thương mại; mọi cơ hội mở ra cho tất cả các quốc gia. Nhưng ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường,... thuộc về các nước phát triển và các công ty đa quốc gia, nên doanh nhân các nước chậm phát triển và đang phát triển, trong đó có Việt Nam, luôn dễ bị tổn thương trong cuộc cạnh tranh không cân sức.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về: đa dạng hóa, đa phương hóa, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, các Bộ quản lý ngành Công Thương đã tham mưu, đề xuất, xây dựng nhiều chính sách thương mại theo hướng mở rộng các hoạt động thương mại trong nước, đi đôi với mở rộng quyền kinh doanh của các chủ thể Việt Nam trong các hoạt động thương mại với nước ngoài, góp phần từng bước thực hiện tự do hóa thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho sự lớn mạnh của tầng lớp thương nhân đủ sức tự bảo vệ mình trước những thách thức và sức ép ngày càng lớn trong dòng chảy thương mại quốc tế.

Ngày 10/5/1997, Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật thương mại (có hiệu lực từ ngày 01/01/1998). Đây là đạo luật thương mại đầu tiên, là văn bản quan trọng ghi nhận giai đoạn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước khi Luật thương mại được ban hành, các hoạt động thương mại ở nước ta được quy định ở một số văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và các bộ, ngành. Sự thiếu vắng một văn bản có giá trị pháp lý cao đã hạn chế sự phát triển các hoạt động thương mại. Luật thương mại là đạo luật đầu tiên thể chế các chính sách của Đảng và Nhà nước về thương mại, cụ thể là:

- Công nhận quyền bình đẳng trước pháp luật của các tổ chức, cá nhân kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Các chủ thể được tham gia bình đẳng trước pháp luật vào các hoạt động thương mại.

- Thể hiện xu hướng mở rộng quyền kinh doanh thương mại, thúc đẩy hoạt động thương mại trên mọi lĩnh vực mà Nhà nước không cấm.

- Làm cho pháp luật thương mại Việt Nam phù hợp với pháp luật và tập quán thương mại quốc tế, tạo cơ sở pháp lý để xử lý các quan hệ kinh tế, thương mại trong đàm phán song phương và đa phương với các nước, các tổ chức thương mại khu vực và thế giới.

Để từng bước đưa các quy định của Luật thương mại vào cuộc sống, Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) tiếp tục tham mưu xây dựng các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật thương mại. Trên cơ sở các nghị định, các bộ, ngành đã ban hành hàng chục thông tư và các văn bản hướng dẫn khác để thực hiện Luật. Có thể kể đến một số nghị định như:

- Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hóa với nước ngoài (ngày 02/8/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/2001/ NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/1998/ NĐ-CP). Nghị định này cùng với các văn bản hướng dẫn đã tạo ra một bước đột phá trong hoạt động xuất, nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia ngoại thương. Các phương thức mua bán phổ biến trong thương mại quốc tế như ủy thác, đại lý, tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu... cũng đã được pháp quy hóa trong Luật góp phần đa dạng hóa các loại hình hoạt động xuất, nhập khẩu.

- Nghị định số 11/1999/NĐ-CP ngày 03/3/1999 của Chính phủ về hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện; hàng hóa, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện (được bổ sung bởi Nghị định số 73/2002/NĐ-CP ngày 20/8/2002); Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện. Đây là văn bản quan trọng nhằm định hướng cho các hoạt động thương mại và cụ thể hóa nguyên tắc thương nhân được kinh doanh những mặt hàng mà pháp luật không cấm.

- Nghị định số 20/1999/NĐ-CP ngày 12/4/1999 của Chính phủ về kinh doanh dịch vụ giám định hàng hóa; Nghị định số 20/2006/NĐ-CP ngày 20/02/2006 của Chính phủ quy đinh chi tiết Luật thương mại về kinh doanh dịch vụ giám định thương mại. Các nghị định hướng dẫn chi tiết những quy định trong Luật thương mại, đặc biệt là phân biệt giữa kiểm tra bắt buộc và giám định theo trưng cầu của Nhà nước đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu với giám định theo yêu cầu của các bên trong hợp đồng.

- Nghị định số 32/1999/NĐ-CP ngày 05/5/1999 của Chính phủ về khuyến mại, quảng cáo thương mại và hội chợ, triển lãm thương mại; Nghị định số 24/2003/NĐ-CP ngày 13/3/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành pháp luật quảng cáo. Các nghị định này tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các hình thức xúc tiến thương mại phát triển, góp phần thúc đẩy các hoạt động mua bán hàng hóa trong nước cũng như giao lưu thương mại quốc tế.

- Nghị định số 48/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ quy định về văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân và của doanh nghiệp du lịch Việt Nam ở trong nước, ở nước ngoài; Nghị định số 45/2000/NĐ-CP ngày 06/9/2000 của Chính phủ về văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân nước ngoài và của doanh nghiệp du lịch nước ngoài tại Việt Nam; Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều kiện của Luật du lịch. Các văn bản này là cơ sở pháp lý quan trọng để thương nhân Việt Nam mở rộng hoạt động thương mại ra nước ngoài và cũng là cơ sở pháp lý tạo thuận lợi thu hút các hoạt động thương mại - du lịch của thương nhân nước ngoài vào Việt Nam.

Để tăng cường quản lý nhà nước về thương mại, tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam tự chủ hơn khi hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, năm 1999, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng; năm 2001, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế; năm 2002, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam và Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế; năm 2004, ban hành Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và Pháp lệnh chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, Luật cạnh tranh; năm 2005 ban hành Luật thương mại; năm 2006, ban hành Nghị định thư gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); năm 2010, ban hành Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Bên cạnh đó, Bộ Thương mại cũng ban hành các quyết định sau: Quyết định số 1681/QĐ-BTM ngày 15/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Thương mại quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý thị trường; Quyết định số 1249/QĐ-BTM ngày 31/7/2007 của Bộ trưởng Bộ Thương mại về việc sửa đổi, bổ sung Điều 3 Quyết định số 1681/QĐ-BTM về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý thị trường.

Việc hình thành khung khổ pháp lý hoạt động thương mại trong và ngoài nước đã góp phần quan trọng vào phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng và thương mại - dịch vụ, đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp.

Danh mục

Tùy chỉnh