I. Bối cảnh lịch sử, hệ thống tổ chức và quản lý ngành Công Thương Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Quảng trường Ba Đình, ngày 02/9/1945 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam) góp gạo Nhân dân góp gạo chống giặc đói (Ảnh: Thông tấn Việt Nam) I. Bối cảnh lịch sử, hệ thống tổ chức và quản lý ngành Công Thương Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Quảng trường Ba Đình, ngày 02/9/1945 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam) góp gạo Nhân dân góp gạo chống giặc đói (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

CHƯƠNG II: CÔNG NGHIỆP - THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP KHÁNG CHIẾN, KIẾN QUỐC (1945 - 1954)

Bác Hồ gặp giới công thương Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp thân mật 30 nhà công thương Hà Nội, đại diện cho giới công thương Việt Nam, tại Phủ Chủ tịch, ngày 18/9/1945 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam) Tuần lễ Vàng Trong Tuần lễ Vàng - tháng 9/1945, các tầng lớp nhân dân, trong đó có giới công thương đã quyên góp được 20 triệu đồng và 370 kg vàng (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam) xưởng may Các xưởng may quân trang tại Chiến khu Việt Bắc được hợp nhất thành Xưởng may 10 năm 1952 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

1. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945

a) Tình hình chính trị

Ngày 08/5/1945, phát xít Đức đầu hàng Đồng minh. Ở châu Á, ngày 15/8/1945, phát xít Nhật cũng đầu hàng. Chớp thời cơ, ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Tiếp đó, ngày 16/8, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào đã thành lập Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đây được coi là tiền thân của Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam, trước khi thành lập một chính phủ chính thức, thay mặt quốc dân để giao thiệp với nước ngoài và chủ trì mọi công việc trong nước.

Thực hiện nghị quyết của Đại hội quốc dân Tân Trào, hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và mệnh lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, nhân dân cả nước đã chủ động khởi nghĩa giành chính quyền, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa tại Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Hà Nội khởi nghĩa thắng lợi vào ngày 19/8/1945, tiếp theo sau là Huế vào ngày 23/8/1945 và Sài Gòn vào ngày 25/8/1945. Ngày 30/8/1945, vua Bảo Đại chính thức tuyên bố thoái vị tại Huế, trao lại ấn, kiếm - biểu tượng quyền lực của chế độ phong kiến cho phái đoàn Chính phủ cách mạng.

Chính quyền trong cả nước đã thuộc về nhân dân, chế độ thuộc địa và phong kiến hoàn toàn bị lật đổ. Ngày 27/8/1945, Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam, gồm 14 thành viên do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam.

Đọc Tuyên ngôn Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Quảng trường Ba Đình, ngày 02/9/1945 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Tuy nhiên, nền độc lập của nước non trẻ Việt Nam bị chủ nghĩa đế quốc, thực dân và phản động liên kết với nhau bao vây, chống phá từ nhiều phía; trong đó, Lư Hán - chỉ huy quân đội của Trung Hoa Dân quốc với khoảng 200.000 quân đã kéo vào đóng tại Hà Nội và hầu hết các thành phố, thị xã lớn từ biên giới Việt - Trung cho đến vĩ tuyến 16 từ cuối tháng 8/1945 với danh nghĩa thực hiện nhiệm vụ giải giáp quân đội phát xít Nhật theo Tuyên bố Potsdam1. Thực tế, đội quân này có mưu đồ lật đổ chính quyền cách mạng vừa mới thành lập. Đội quân ô hợp, cướp bóc và nhũng nhiễu này đe dọa nghiêm trọng cả chủ quyền độc lập lẫn nền kinh tế Việt Nam.

Ngày 12/9/1945, quân đội Liên hiệp Anh theo ủy quyền của lực lượng Đồng minh tiến vào miền Nam Việt Nam đến vĩ tuyến 16 để tước vũ khí quân đội phát xít Nhật. Tuy nhiên, lực lượng này lại cho phép cả đạo quân viễn chinh Pháp vào cùng khi Pháp lên kế hoạch tái chiếm lại Đông Dương và thực hiện nhiều hành động gây hấn, chống đối, xung đột với chính quyền cách mạng.

Tại thời điểm này, vẫn còn khoảng 60.000 quân phát xít Nhật đóng tại nước ta và nhiều lực lượng chống đối, phản động câu kết với các thế lực nước ngoài để chống lại Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bên cạnh đó, Việt Nam gần như bị phong tỏa khi mọi hải cảng, sân bay và nhiều cửa khẩu trên biên giới đất liền vẫn do quân đội Pháp kiểm soát. Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gặp rất nhiều khó khăn trong việc thiết lập cũng như duy trì các quan hệ với nước ngoài.

Ngày 23/9/1945, quân đội Pháp nổ súng tấn công các trụ sở của chính quyền cách mạng tại Sài Gòn, khơi mào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần hai. Ủy ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập và kêu gọi nhân dân đứng lên kháng chiến. Quân và dân Nam Bộ đã anh dũng, kiên cường trực diện chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược.

Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc với việc tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập dân tộc và ra sức xây dựng chế độ xã hội mới.

Đến cuối tháng 02/1946, với lực lượng vượt trội, quân đội Pháp đã đánh chiếm được tất cả các tỉnh, thành phố, đường giao thông quan trọng ở vùng Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Với sách lược “Hòa để tiến” và các biện pháp chính trị, ngoại giao khéo léo, Chính phủ liên hiệp kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa2 và đại diện Chính phủ Cộng hòa Pháp đã ký kết Hiệp định sơ bộ vào ngày 06/3/1946, tiếp sau đó là Tạm ước về quan hệ Việt Nam - Pháp vào ngày 14/9/1946. Qua đó, “tiễn” quân đội Trung Hoa Dân quốc cùng tay sai ra khỏi nước ta, bớt đi được một mối đe dọa thường trực. Đồng thời, chúng ta có thêm thời gian quý báu để củng cố chính quyền, chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ chống thực dân Pháp.

Ngay sau khi ký Hiệp định sơ bộ, người Pháp đã bộc lộ ý đồ phá hoại Hiệp định. Cuối năm 1946, ngay sau khi có thêm viện binh, quân đội Pháp liên tục tiến hành các hành động khiêu khích và ra tối hậu thư đòi ta phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Chín năm trường kỳ kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ, vẻ vang của dân tộc Việt Nam bắt đầu từ đây.

b) Tình hình kinh tế - xã hội

Ngoài việc phải đối phó với nạn ngoại xâm và nội phản, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ còn phải đương đầu với hàng loạt khó khăn, thử thách về kinh tế - xã hội. Nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, bị kiệt quệ nặng nề bởi chính sách khai thác, bóc lột đến tận cùng của thực dân Pháp và phátxít Nhật cộng thêm là chiến tranh, thiên tai liên miên.

Nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử nước ta kéo dài từ tháng 02/1945 đến tháng 4/1945 làm chết khoảng hai triệu người3 còn chưa giải quyết xong hậu quả, thì nguy cơ nạn đói mới lại tiếp tục khi hàng loạt đê tại Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ bị vỡ vào tháng 8/1945, gây ra một trong những nạn lụt lớn nhất thế kỷ XX tại Việt Nam. Khoảng 40% diện tích lúa mùa đã cấy xong tại Bắc Bộ bị phá hủy. Ba tỉnh Trung Bộ gồm Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh cũng lâm vào cảnh tương tự với mùa màng bị mất gần 50%. Sau trận lụt là hạn hán kế tiếp, một lượng lớn đất canh tác bị bỏ hoang hóa. Lượng thóc thu hoạch được của vụ mùa năm 1945 chỉ đủ ăn đến cuối tháng 01/19464.

nhân dân góp gạo Nhân dân góp gạo chống giặc đói (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Thông tư về phương pháp khẩn cấp chấn hưng nông nghiệp của Bộ Quốc dân Kinh tế gửi các địa phương vào ngày 26/10/1945 có nêu: “Ngành kinh tế canh nông đã bị tê liệt, sức sản xuất nông nghiệp giảm nhiều. Hiện nay, một nạn đói khác đang sắp hoành hành và nếu không có phương pháp khẩn cấp để cứu chữa thì nạn đói sẽ còn khốc liệt hơn”5.

Trong khi người dân Việt Nam đang thiếu hụt lương thực trầm trọng, đội quân 200.000 người của Trung Hoa Dân quốc còn đòi Chính phủ ta phải thực hiện chế độ trưng thu lương thực để cung cấp 10.000 tấn gạo mỗi tháng.

Ngân quỹ quốc gia khánh kiệt, lượng tiền mà Chính phủ nắm được từ Sở Ngân khố của người Pháp chỉ còn 1.250.000 đồng Đông Dương, bao gồm 586.000 đồng là tiền rách, nát đang chờ tiêu hủy và chưa tính số nợ ngân phiếu chưa trả là 564.367.522 đồng Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương do người Pháp nắm quyền in ấn, phát hành tiền tệ gây khó khăn bằng cách cắt đứt hoàn toàn nguồn cung cấp tài chính. Các nguồn thu từ thuế vốn đóng góp đến 3/4 ngân sách Đông Dương giảm sút. Các chính sách thuế mới nhằm giảm nhẹ gánh nặng đóng góp cho nhân dân được Chính phủ ban hành ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng khiến nguồn thu ngân sách giảm nhiều trong khi nhu cầu phải chi rất lớn.

Trong khi đó, nền kinh tế đang rơi vào tình trạng lạm phát nghiêm trọng. Khi quân đội phátxít Nhật tràn vào Việt Nam trong năm 1940, chúng đã buộc Pháp phải in nhiều tiền để phục vụ nhu cầu chi tiêu, gây sụp đổ nền kinh tế Việt Nam. Nếu như năm 1940, số lượng tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành chỉ là 284,4 triệu đồng Đông Dương thì đến tháng 10/1945, con số này lên đến 2,483 tỉ đồng Đông Dương. Mặt khác, chính quyền cách mạng còn phải đối phó với cuộc chiến tiền tệ, phá hoại kinh tế khốc liệt không chỉ từ thực dân Pháp mà còn từ chính đội quân Trung Hoa Dân quốc đóng tại Bắc Bộ.

Những vấn đề khác về văn hóa - xã hội cũng rất cấp bách. Chế độ thống trị thực dân trong gần 80 năm khiến hơn 90% dân số Việt Nam không biết đọc, biết viết6, nhiều tệ nạn xã hội như nghiện rượu, thuốc phiện, cờ bạc, mê tín dị đoan... thâm nhập sâu trong các tầng lớp xã hội. Dân trí thấp cùng với tình hình kinh tế khó khăn và sự chống phá của các thế lực thù địch càng khiến tệ nạn xã hội bùng phát, tạo ra các thử thách nghiêm trọng đối với chính quyền mới.


1. Tuyên bố Potsdam được Mỹ, Anh và Trung Hoa Dân quốc công bố ngày 26/7/1945, nêu ra các điều kiện cho sự đầu hàng của quân đội phátxít Nhật.

2. Thành lập ngày 02/3/1946 dựa trên kết quả của kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I tại Hà Nội.

3. Xem Văn Tạo và Furuta Motoo: Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.19.

4. Xem Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Kinh tế học, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000 (Tập 1: 1945 - 1954), Sđd, tr.119.

5. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 9, ngày 17/11/1945, tr.115.

6. Xem Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.3, tr.7.

Danh mục

Tùy chỉnh