III- THƯƠNG MẠI
Xuất khẩu gạo tại cảng Sài Gòn (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Bách hóa tổng hợp Tràng Tiền, Hà Nội đầu năm 1990 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Lễ ký kết Hiệp định Thương mại Việt - Trung và Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc ở biên giới hai nước Việt Nam - Trung Quốc tại Thủ đô Bắc Kinh, ngày 07/11/1991 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
III- THƯƠNG MẠI
Xuất khẩu gạo tại cảng Sài Gòn (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Bách hóa tổng hợp Tràng Tiền, Hà Nội đầu năm 1990 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Lễ ký kết Hiệp định Thương mại Việt - Trung và Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc ở biên giới hai nước Việt Nam - Trung Quốc tại Thủ đô Bắc Kinh, ngày 07/11/1991 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
3. Sự phát triển một số ngành công nghiệp chủ yếu
a) Ngành Cơ khí
Đây là giai đoạn sắp xếp lại, đổi mới kỹ thuật, công nghệ và sản phẩm ngành Cơ khí nhằm phục vụ nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp chế biến và vận tải; bảo đảm dịch vụ sửa chữa. Nhanh chóng khắc phục tình trạng phân tán của ngành Cơ khí bằng cách sắp xếp, tổ chức lại sản xuất trong cả nước trên cơ sở quy hoạch, phân công, hợp tác giữa các doanh nghiệp cơ khí để đáp ứng những nhu cầu cấp bách về sửa chữa và trang bị công cụ, một phần máy móc, thiết bị và phụ tùng thông thường cho các ngành, các địa phương, trước hết là sản xuất nông cụ, máy kéo và máy nông nghiệp theo sau máy kéo, máy bơm thủy lợi các loại, bơm thuốc trừ sâu; thiết bị chế biến nông sản cỡ vừa và nhỏ, v.v..
Nông dân tỉnh Vĩnh Phúc sử dụng máy tuốt lúa để nâng cao năng suất thu hoạch (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Cơ khí được giao nhiệm vụ là ngành chủ lực thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng gắn với sản xuất lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; trước hết là đẩy mạnh cơ giới hóa, thủy lợi hóa, phát triển công nghệ sau thu hoạch trong các khâu sản xuất và chế biến nông sản nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả trên một hécta canh tác, tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường.
Nhìn vào tốc độ tăng trưởng của một số sản phẩm cơ khí phục vụ canh tác và chế biến nông sản, ta sẽ thấy rõ hơn công năng phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn của ngành này. Động cơ diesel từ 5,3 nghìn chiếc năm 1985 tăng lên 8 nghìn chiếc năm 1995. Tương tự như vậy, máy tuốt lúa tăng từ 19,6 nghìn cái lên 36,3 nghìn cái; máy xay xát tăng từ 1,19 nghìn cái lên 2,04 nghìn cái; nông cụ cầm tay tăng từ 13,3 triệu cái lên 16,5 triệu cái... Với sự phát triển của cơ khí, sản lượng một số loại nông sản chế biến tăng nhanh trong giai đoạn 1985 - 1995. Cụ thể, gạo, ngô xay xát tăng từ 6,2 triệu tấn lên 15,6 triệu tấn; đường tinh luyện tăng từ 46,6 nghìn tấn lên 93 nghìn tấn; dầu thực vật tăng từ 19,1 nghìn tấn lên 38,6 nghìn tấn; chè tăng từ 20,5 nghìn tấn lên 24,2 nghìn tấn...
b) Ngành Điện
Chính phủ đã dành nhiều vốn đầu tư để xây dựng và hoàn thành nhiều công trình quan trọng:
- Nhà máy Thủy điện Hòa Bình hoàn thành năm 1994 có công suất lắp máy 1.920 MW, lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á đến năm 2012, khi Nhà máy Thủy điện Sơn La có công suất 2.400 MW được xây dựng.
- Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại hoàn thành đưa vào vận hành năm 1986, có công suất thiết kế 440 MW bao gồm 4 tổ tuốcbin - máy phát và 8 lò hơi theo khối 2 lò/máy, mỗi tổ máy có công suất 110 MW. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, sự đóng góp điện năng kịp thời hòa vào hệ thống lưới điện quốc gia của Nhà máy rất quan trọng, vì thời gian đó chúng ta thiếu điện trầm trọng cho sản xuất - kinh doanh và sinh hoạt. Nhiệt điện Phả Lại được coi như một “cứu tinh” đối với ngành Điện miền Bắc, cho đến khi Thủy điện Hòa Bình vận hành đầy đủ 8 tổ máy.
- Đường dây 500 kV Bắc - Nam có tổng chiều dài 1.487 km, gồm 3.437 cột điện tháp sắt đi qua 13 tỉnh thành phố gồm Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng (nay là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng), Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Sông Bé (nay là các tỉnh Bình Phước, Bình Dương), Thành phố Hồ Chí Minh; trong đó qua vùng đồng bằng 297 km (chiếm 20%), trung du - cao nguyên 669 km (chiếm 45%), núi cao, rừng rậm 521 km (chiếm 35%) với 8 lần vượt sông (sông Đà, sông Mã, sông Lam, sông La, sông Gianh, sông Thạch Hãn, sông Hương, sông Sài Gòn) và 17 lần vượt quốc lộ. Công trình phát lệnh khởi công ngày 05/4/1992, nghiệm thu đóng điện tháng 5/1994. Thời điểm này, Việt Nam đã xây dựng xong Trung tâm Điều độ Hệ thống điện quốc gia. Ngày 27/5/1994, Trung tâm Điều độ Hệ thống điện quốc gia đã phát lệnh hòa hệ thống điện miền Nam với 4 tổ máy của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình qua đường dây 500 kV. Về mặt kỹ thuật, đường dây 500 kV Bắc - Nam mạch 1 hợp nhất hệ thống điện 3 miền (trước đây vận hành độc lập với nhau), nhờ đó tăng cường được sự hỗ trợ qua lại thế mạnh của hệ thống điện giữa các miền, tăng tính ổn định và độ tin cậy chung của toàn hệ thống.
Tổ máy số 4 Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại chính thức phát điện từ cuối năm 1986 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Ngoài nguồn điện từ miền Bắc vào qua đường dây 500 kV mạch 1, một công việc cấp bách là bảo đảm điện cho các tỉnh Khu V và Tây Nguyên thông qua đẩy nhanh xây dựng những cơ sở điện mới đã được xác định, đồng thời tăng thêm dầu và phụ tùng để sử dụng tốt hơn những cơ sở điện hiện có. Ở miền Nam, với sự hỗ trợ về tài chính và công nghệ của Liên Xô, Nhà máy Thủy điện Trị An đã phát điện tổ máy số 1 ngày 30/4/1988 và khánh thành năm 1991. Nhà máy có 4 tổ máy, với tổng công suất thiết kế 400 MW, sản lượng điện trung bình hằng năm 1,7 tỉ kWh.
Một hướng quan trọng khác là bằng khả năng của Trung ương và địa phương, Nhà nước và nhân dân, nhiều trạm thủy điện nhỏ được xây dựng ở các vùng, nhất là ở Tây Nguyên và miền núi phía Bắc để giải quyết nguồn điện tại chỗ, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của đồng bào các dân tộc. Đi đôi với nguồn điện, đã xây dựng kịp thời và đồng bộ các hệ thống lưới điện, từ cao thế đến trung thế và hạ thế. Hoàn thành cải tạo lưới điện Hà Nội, Hải Phòng; tăng thêm nguồn điện và lưới điện cho đồng bằng sông Cửu Long; tiến hành chuẩn bị cải tạo lưới điện Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố khác khi có điều kiện. Cải tiến việc phân phối và sử dụng điện, nhằm trước hết bảo đảm một cách ổn định nhu cầu của các trọng điểm về kinh tế và xã hội.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm đường dây tải điện 500 kV Bắc - Nam (Ảnh: Nguyễn Công Thành)Chuyện làm đường dây 500 kV
GS.VS.TSKH. Trần Đình Long kể: Đầu năm 1992, Tổng Bí thư Đỗ Mười và Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Thế Duyệt đến thăm nhà, Tổng Bí thư nói: “Tôi vừa đi thăm Thành phố Hồ Chí Minh, tình hình cấp điện thật tồi tệ, mỗi tuần thành phố bị cắt điện 4 đến 5 ngày, trong khi Nhà máy Thủy điện Hòa Bình thừa điện phải xả nước, thật vô lý. Phải xây dựng công trình tải điện để đưa điện từ Hòa Bình vào miền Trung và miền Nam càng sớm càng tốt”.
Nhưng có nhiều người băn khoăn về tính khả thi và hiệu quả kinh tế, thời gian dự kiến hoàn thành công trình quá ngắn so với kinh nghiệm thực tế của thế giới, mức độ an toàn của công trình nhìn từ góc độ xã hội có thể gây lo lắng vì nhiều vùng tình hình an ninh phức tạp, có nơi đường dây đi quá gần với biên giới các nước láng giềng... Tất cả những khó khăn trên được báo cáo và phân tích chi tiết, đầy đủ với Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Thủ tướng nói: “Nhiệm vụ của các anh là phải chứng minh và chịu trách nhiệm về tính khả thi của công trình, những việc khác như tiền nong, nhân lực, các vấn đề về xã hội đã có Chính phủ lo”.
Để công trình hoàn thành với thời hạn kỷ lục 2 năm, các khâu lập luận chứng kinh tế - kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật, chào thầu, chọn nhà thầu... đều làm song song, vừa làm vừa nghiên cứu, bổ sung. Mặc dù vậy, công trình được hoàn thành với chất lượng tốt.
Nguồn: Tạp chí Điện và Đời sống.
c) Ngành Than
Bước vào công cuộc đổi mới cho đến những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, ngành Than phải đối mặt với những khó khăn, thách thức gay gắt, như: nạn khai thác than trái phép phát triển tràn lan, làm tài nguyên môi trường vùng mỏ bị hủy hoại nghiêm trọng, trật tự và an toàn xã hội diễn biến phức tạp...; nhiều đơn vị sản xuất than phải thu hẹp sản xuất, giảm đào lò, giảm bóc đất, công nhân thiếu việc làm, thu nhập và đời sống khó khăn. Dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của ngành Than là khi Tổng Công ty Than Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 563/TTg ngày 10/10/1994 của Thủ tướng Chính phủ; ngành Than đã từng bước tháo gỡ khó khăn, xây dựng mục tiêu chiến lược đúng đắn cho sự phát triển, từ đó, đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Sản lượng khai thác lên xuống qua các năm: Năm 1985 khai thác 5,7 triệu tấn, tăng lên 6,9 triệu tấn năm 1988, giảm mạnh xuống 3,8 triệu tấn năm 1989, phục hồi dần từ năm 1990 với 4,6 triệu tấn, tăng dần lên 7,2 triệu tấn năm 1995.
d) Ngành Dầu khí
Trong 10 năm (1986 - 1995), ngành Dầu khí có nhiều thay đổi về mặt tổ chức và khai thác:
- Ngày 26/6/1986 đánh dấu bước đột phá hợp tác toàn diện với Liên Xô về dầu khí với tấn dầu thô đầu tiên được Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro khai thác từ mỏ Bạch Hổ.
- Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đã tạo điều kiện để các công ty dầu khí nước ngoài có thể đầu tư vào Việt Nam với các hợp đồng kinh tế đa dạng.
- Ngày 07/7/1988, Bộ Chính trị có Nghị quyết số 15-NQ/TW về phương hướng phát triển ngành Dầu khí đến năm 2000, đã khai thông con đường hợp tác đa phương với Liên Xô và các đối tác nước ngoài khác. Từ đó, các công ty dầu khí quốc tế bắt đầu hoạt động thông qua Hợp đồng chia sản phẩm dầu khí (PSC). Một trong những thành tựu của ngành là phát hiện và khai thác có hiệu quả thân dầu trong đá móng granitoid nứt nẻ. Thành tựu này đã làm thay đổi quan điểm về tìm kiếm thăm dò dầu khí trong đá móng ở Việt Nam, trong khu vực và trên thế giới.
- Ngày 06/7/1990, Hội đồng Bộ trưởng có Quyết định số 250/HĐBT thành lập Tổng Công ty Dầu mỏ và Khí đốt, trên cơ sở hợp nhất các tổ chức làm công tác dầu khí thuộc Tổng cục Dầu khí cũ, là tổ chức sản xuất - kinh doanh có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế, được sử dụng con dấu riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng, có trách nhiệm nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến, xuất, nhập khẩu, tổ chức tiêu thụ trên thị trường nội địa các sản phẩm dầu mỏ và khí đốt. Thời kỳ này, Tổng Công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam chịu sự quản lý nhà nước trực tiếp của Bộ Công nghiệp nặng.
Lễ đón dòng khí đầu tiên vào bờ, ngày 17/4/1995 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
- Ngày 14/4/1992, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 125/HĐBT về việc đặt Tổng Công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng.
- Ngày 06/7/1993, Quốc hội ban hành Luật dầu khí, nhằm bảo vệ, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên dầu khí, phát triển kinh tế quốc dân, mở rộng hợp tác với nước ngoài. Luật quy định về hoạt động tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí trong phạm vi lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Ngày 17/4/1995, khí đồng hành thu gom từ mỏ Bạch Hổ đã được vận chuyển vào bờ, đưa đến trạm phân phối khí Bà Rịa và cung cấp khí cho Nhà máy Điện Bà Rịa. Đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam được thực hiện theo thông lệ quốc tế và kinh nghiệm thực tế từ dự án này đã góp phần to lớn vào việc hình thành phương thức quản lý các dự án tiếp theo của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam nói riêng, cũng như việc xây dựng các quy chế, quy định và luật về xây dựng và đấu thầu của Việt Nam nói chung.
- Ngày 29/5/1995, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam được thành lập, trên cơ sở tổ chức, sắp xếp lại Tổng Công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam, là tổng công ty nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập; có nhiệm vụ nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến, tàng trữ, vận chuyển, làm dịch vụ về dầu khí; xuất, nhập khẩu vật tư, thiết bị dầu khí, dầu thô, các sản phẩm dầu khí; lưu thông các sản phẩm dầu khí... Tổng Công ty được tiến hành các hoạt động dầu khí trên toàn bộ lãnh thổ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và hải đảo thuộc chủ quyền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được tiến hành các hoạt động dầu khí ở nước ngoài khi Chính phủ cho phép.
Sản lượng khai thác tăng trưởng liên tục, từ 0,04 triệu tấn năm 1986 lên 2,7 triệu tấn năm 1990 và 7,67 triệu tấn năm 1995.
đ) Ngành Luyện kim
Về kim loại màu, đã khai thác tốt các mỏ thiếc hiện có, hoàn thành xây dựng đợt I Liên hiệp Thiếc Quỳ Hợp, mở rộng diện khai thác thiếc sa khoáng quy mô nhỏ bằng kỹ thuật thủ công và nửa cơ giới. Theo kế hoạch hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh thăm dò địa chất các mỏ bôxít miền Nam, hoàn thành luận chứng kinh tế - kỹ thuật và chuẩn bị khai thác vào kế hoạch sau. Xây dựng và đưa vào vận hành xí nghiệp khai thác và tuyển luyện chì, kẽm; nghiên cứu khai thác quặng đồng và tổ chức tuyển luyện với quy mô nhỏ. Năm 1986: Khởi công công trình sắt xốp công suất 22.000 tấn/năm; năm 1989, lần đầu tiên xuất khẩu thép sang thị trường các nước Đông Nam Á.
Chuyên gia Liên Xô làm việc tại mỏ thiếc Quỳ Hợp (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
e) Ngành Hóa chất
Giai đoạn 1986 - 1990, việc Nhà nước điều chỉnh mục tiêu theo hướng đẩy mạnh đầu tư cho 3 chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đã mang lại cơ hội cho công nghiệp hóa chất với các sản phẩm phân bón, thuốc trừ sâu... phát triển mở rộng thị trường. Tuy nhiên, do điểm xuất phát tương đối thấp, tốc độ tăng trưởng của ngành đạt mức độ vừa phải, khoảng 6% mỗi năm.
Thời kỳ kế hoạch 5 năm 1991 - 1995, Bộ Công nghiệp nặng được thành lập lại trên cơ sở cơ chế quản lý mới. Nhà nước đã thành lập hai tổng công ty (Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất, Tổng Công ty Hóa chất công nghiệp và Tiêu dùng), quản lý các doanh nghiệp thuộc Tổng cục Hóa chất. Ngành Công nghiệp hóa chất đạt tốc độ tăng trưởng cao, bình quân đạt mức gần 20%/năm. Công nghiệp địa phương chiếm tỷ trọng xấp xỉ 57% tổng giá trị sản lượng toàn ngành; trong đó các doanh nghiệp quốc doanh địa phương khoảng 31%. Khu vực ngoài quốc doanh đã phát triển nhanh, chiếm tỷ trọng tới trên 1/4 giá trị tổng sản lượng năm 1995 của toàn ngành.
Mặc dù khu vực ngoài quốc doanh phát triển mạnh, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng các doanh nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo, chiếm tỷ trọng 74,4%, trong đó 2 tổng công ty hóa chất chiếm 43%.
f) Ngành Dệt may, Da giày
Cho đến nửa cuối những năm 1980, ngành Dệt may Việt Nam chỉ quan hệ chủ yếu với các nước xã hội chủ nghĩa nên phần lớn sản phẩm dệt may được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sang các nước Đông Âu. Với Liên Xô, theo Hiệp định Việt Nam ký với Liên Xô ngày 19/5/1980, mỗi năm Liên Xô cung cấp cho Việt Nam 6 vạn tấn bông, một nửa giá trị số bông đó Việt Nam trả bằng sản phẩm may mặc, chủ yếu là quần áo bảo hộ lao động; một nửa số bông còn lại chính là tiền công, được dùng may mặc phục vụ nhu cầu nội địa, trong đó có cả lực lượng vũ trang. Mặc dù gặp nhiều khó khăn như sản xuất quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, hệ thống quản lý yếu kém, thiếu vốn,... nhưng việc ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã giúp mở cửa thị trường, kích cầu kinh tế, giúp cho ngành Dệt may được tiếp cận với những công nghệ mới, phát triển vượt bậc và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Tuy nhiên, phải đến khi Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 114/HĐBT ngày 07/4/1992 về quản lý nhà nước đối với xuất, nhập khẩu, theo đó cho phép doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được quyền xuất, nhập khẩu; mọi hàng hóa (trừ danh mục hàng hóa do nhà nước quản lý) được xuất, nhập khẩu; cùng với việc Việt Nam và EU ký kết Hiệp định Buôn bán hàng dệt may, thì ngành này có tăng trưởng mạnh mẽ, kim ngạch xuất khẩu hằng năm tăng trên 20%.
Đối với ngành Da giày, Việt Nam chủ yếu thực hiện chương trình gia công mũ giầy cho Liên Xô cũ. Khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, ngành Da giày đối mặt với cuộc khủng hoảng do không có thị trường, nguồn nguyên liệu. Từ năm 1993, ngành Da giày đã khởi sắc trở lại nhờ làn sóng di chuyển sản xuất từ các nước công nghiệp phát triển và các nước công nghiệp mới sang các nước đang phát triển. Ngành Da giày Việt Nam bắt đầu tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ từ các nước thông qua đầu tư FDI, cùng với đó là sự dịch chuyển các đơn đặt hàng từ Đài Loan, Hàn Quốc sang Việt Nam. Xuất khẩu sản phẩm da giày đạt được tốc độ tăng trưởng cao, giai đoạn 1993 - 1995 đạt hơn 20%/năm. Ngày 17/7/1995, Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) ký kết Hiệp định khung về hợp tác (FCA), tạo điều kiện cho kim ngạch mặt hàng này sang EU tăng nhanh trong giai đoạn sau. Năm 1995 đạt trên 480 triệu USD, đến năm 1999 đã tăng hơn gấp đôi, đạt trên 1,3 tỉ USD.
Chiến lược tăng tốc dệt may
Năm 1991, khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, nhiều doanh nghiệp dệt may gặp khủng hoảng vì chưa thích ứng được với vấn đề tự tìm kiếm khách hàng.
Nhưng năm 1992, Việt Nam và EU ký kết Hiệp định Buôn bán hàng dệt may; đồng thời Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 114/HĐBT cho phép doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được quyền xuất, nhập khẩu; cho phép mọi hàng hóa (trừ danh mục hàng hóa do Nhà nước quản lý) được xuất, nhập khẩu. Nghị định số 114/HĐBT và Hiệp định Buôn bán hàng dệt may đã “chắp cánh” sản xuất và xuất khẩu. Năm 1995, với việc thành lập Tổng Công ty Dệt may Việt Nam, đã mở đường cho sự ra đời của Chiến lược phát triển toàn ngành; tăng tốc đầu tư trang thiết bị hiện đại, tạo bước nhảy vọt về chất lượng, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
Kết quả, chỉ trong 8 năm, kim ngạch xuất khẩu dệt may tăng gấp 12 lần, từ 158 triệu USD năm 1992 lên 1,9 tỉ USD năm 2000.