II - CÔNG NGHIỆP

Tam Đảo 03

Công trình giàn khoan tự nâng 90 m nước Tam Đảo 03 (Ảnh: Petrovietnam)

Than Vàng Danh

Máy khấu than giàn chống tự hành Vinaalta được áp dụng tại chợ của Công ty cổ phần Than Vàng Danh (Ảnh: Vinacomin)

Dinh Cố

Nhà máy Khí hóa lỏng Dinh Cố (Bà Rịa - Vũng Tàu) phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

II - CÔNG NGHIỆP

Tam Đảo 03

Công trình giàn khoan tự nâng 90 m nước Tam Đảo 03 (Ảnh: Petrovietnam)

Than Vàng Danh

Máy khấu than giàn chống tự hành Vinaalta được áp dụng tại chợ của Công ty cổ phần Than Vàng Danh (Ảnh: Vinacomin)

Dinh Cố

Nhà máy Khí hóa lỏng Dinh Cố (Bà Rịa - Vũng Tàu) phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

3. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

Có thể coi đây là giai đoạn “cất cánh” của hệ thống các trường đào tạo thuộc ngành Công Thương. Các trường đào tạo trong ngành đã chủ động xây dựng chiến lược phát triển cả về quy mô, ngành nghề và chất lượng đào tạo. Nhiều trường đã đủ điều kiện để nâng cấp lên thành các trường cao đẳng, đại học, như:

- Năm 1999, Trường Trung cấp Công nghiệp IV được nâng cấp thành Trường Cao đẳng Công nghiệp IV.

- Năm 2004, Trường Cao đẳng Công nghiệp IV nâng cấp thành Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.

- Năm 1998, Trường Kỹ nghệ thực hành Huế được nâng cấp đào tạo và đổi tên thành Trường Trung học Công nghiệp Huế.

- Năm 2005, Trường Trung học Công nghiệp Huế được nâng cấp đào tạo và đổi tên thành Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế.

- Năm 1997, hợp nhất và nâng cấp Trường Kỹ nghệ thực hành Hà Nội và Trường Công nhân Kỹ thuật I thành Trường Trung học Công nghiệp I.

- Năm 1999, Trường Trung học Công nghiệp I được nâng cấp đào tạo và đổi tên thành Trường Cao đẳng Công nghiệp Hà Nội.

- Năm 2005, tiếp tục nâng cấp đào tạo Trường Cao đẳng Công nghiệp Hà Nội thành Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.

- Năm 1996, Trường Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp Nhẹ Nam Định được nâng cấp đào tạo và đổi tên thành Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp Nhẹ Nam Định. Năm 1998, Trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp I. Năm 2007 tiếp tục được nâng cấp đào tạo và đổi tên thành Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp.

- Năm 1997, Trường Kinh tế Đối ngoại Trung ương được nâng cấp thành Trường Cao đẳng Kinh tế Đối ngoại.

- Năm 1998, Trường Trung học Thương mại Trung ương I được nâng cấp đào tạo và đổi tên thành Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Thương mại.

- Năm 2006, Trường Trung học Thương mại Trung ương II được nâng cấp đào tạo và đổi tên thành Trường Cao đẳng Thương mại, v.v..

Hệ thống cũng hết sức linh hoạt và chương trình đào tạo của nhiều trường cao đẳng nghề, có tính liên thông giữa các bậc học, giúp học sinh, sinh viên có nhiều lựa chọn thuận lợi trong học tập nâng cao từ dạy nghề lên trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học, như các Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Thương mại, Cao đẳng Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh, Cao đẳng Công nghiệp Phúc Yên, Cao đẳng Thương mại... Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Thương mại liên kết đào tạo với nhiều trường đại học lớn như Đại học Bách khoa, Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Thương mại, Đại học Kỹ thuật Công nghiệp, Đại học Long Hoa, Wenzao (Đài Loan - Trung Quốc)... đào tạo hoàn chỉnh, liên thông cấp bằng đại học chính quy cho hàng nghìn sinh viên. Trường Cao đẳng Công nghệ Giấy và Cơ điện cũng liên kết với nhiều trường đại học mở các lớp đại học hệ vừa học vừa làm các chuyên ngành: Công nghệ Giấy, Điện - Tự động hóa, Cơ khí chế tạo máy, Kế toán doanh nghiệp, Quản lý kinh tế... Trường Cao đẳng Thương mại liên kết với các trường đại học để đào tạo liên thông từ cao đẳng lên đại học với hai chuyên ngành Quản trị kinh doanh và Kế toán.

Cơ cấu ngành, nghề đào tạo không ngừng được mở rộng, ngày càng đa dạng và hướng tới phù hợp với nhu cầu của người học, của doanh nghiệp và thị trường lao động. Gần như tất cả các trường trung cấp nghề, cao đẳng, đại học, ngoài các ngành đào tạo chính đều có các ngành bổ trợ mà mỗi một doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh đều có nhu cầu như quản trị kinh doanh, kế toán doanh nghiệp, tài chính - ngân hàng, tiếng Anh, công nghệ thông tin, tin học văn phòng...

Cũng từ nhu cầu của thị trường, các trường đã chú trọng hơn đến liên kết đào tạo với doanh nghiệp, với các tổ chức đào tạo nước ngoài. Để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, Trường Cao đẳng Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức giảng dạy tại các nhà máy và địa phương như Nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ, Nhà máy Nhiệt điện Bà Rịa, Nhà máy Thủy điện Đa Nhim, Nhà máy Thủy điện Hàm Thuận - Đa Mi và Điện lực các tỉnh Đồng Tháp, Lâm Đồng, Sóc Trăng. Trường Cao đẳng nghề Dầu khí có nhiều mối liên hệ với các công ty trong và ngoài nước về dịch vụ lặn, khảo sát công trình ngầm, cung cấp và bảo dưỡng thiết bị tự động hóa...

Trong Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 đã ghi nhận: Tính đến năm 2010, nhân lực trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng là 10,8 triệu người (bằng 22% tổng số nhân lực trong nền kinh tế), trong đó, tỷ lệ nhân lực đã qua đào tạo đạt 69%. Đối với khu vực dịch vụ, số nhân lực là trên 13 triệu người (bằng 26,8% tổng số nhân lực trong nền kinh tế), trong đó, tỷ lệ nhân lực đã qua đào tạo là 67%. Trong những con số này, có sự đóng góp rất lớn của hệ thống các trường đào tạo ngành Công Thương. Đội ngũ cán bộ, giáo viên và học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường đào tạo của ngành Công Thương cũng góp phần quan trọng vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.

1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm

Sau khi Liên Xô tan rã, cuộc đấu tranh ý thức hệ của thời kỳ “chiến tranh lạnh” lắng xuống. Tuy nhiên, các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại, được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, phức tạp hơn, trong đó nổi lên xu thế áp đặt đơn phương về kinh tế của các nước lớn với các nước đang phát triển. Trong bối cảnh đó, toàn cầu hóa với các mặt tích cực như mở rộng giao lưu hợp tác, tạo thuận lợi cho chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý, khơi thông các nguồn lực trong nước, thúc đẩy hoàn thiện các thể chế kinh tế; song cũng dẫn đến nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với các nước công nghiệp phát triển, nếu không có các chính sách và phương thức quản lý vĩ mô hiệu quả. Xuất phát từ tình hình trên, Đảng và Nhà nước ta có các chủ trương, chính sách thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, đó là: (1) Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; (2) Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Văn kiện Đại hội VIII (năm 1996), Đại hội IX (năm 2001) và Đại hội X (năm 2006) của Đảng đã thể hiện khá rõ nội hàm của khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nêu bật các mục tiêu, nội dung, con đường, cũng như mô hình công nghiệp hóa nước ta. Cụ thể:

Về mô hình công nghiệp hóa như là quá trình cải biến các yếu tố vật chất - kỹ thuật, gồm các nội dung:

- Thực hiện công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa.

- Kết hợp phát triển các ngành có lợi thế và một số ngành công nghiệp nặng, một số ngành công nghệ cao có chọn lọc.

- Tri thức là một trong những động lực cải biến các yếu tố vật chất - kỹ thuật.

Về mô hình công nghiệp hóa như là quá trình cải biến cơ chế, chính sách, gồm các nội dung:

- Phát triển kinh tế nhiều thành phần.

- Phát triển kinh tế thị trường mang tính toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế.

- Khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

Trên cơ sở đó, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành tham mưu thể chế hóa chủ trương của Đảng. Các bộ quản lý ngành Công Thương đã tham mưu và tổ chức xây dựng nhiều văn bản pháp quy, các chương trình, kế hoạch. Có thể kể đến: tham mưu, xây dựng Luật thương mại năm 1997 (sửa đổi năm 2005), Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế, Luật dầu khí năm 1993 sửa đổi các năm 2000, 2008, Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam năm 2002, Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004, Pháp lệnh chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004, Luật cạnh tranh năm 2004, Luật điện lực năm 2004, Nghị định thư gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2006, Luật hóa chất năm 2007, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010...; các quyết định liên quan đến quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển các ngành: Năng lượng, Công nghiệp, Công nghiệp mũi nhọn, Công nghiệp hỗ trợ, Cơ khí, Điện lực, Khai thác than, hóa chất, Dệt may, Da - giày, Ôtô, Công nghiệp giấy, Thuốc lá, Khuyến công, Phát triển cụm công nghiệp, Vật liệu nổ công nghiệp,...

Bảng 58: GDP giai đoạn 2000 - 2010 phân theo khu vực kinh tế

bảng 58

Nguồn: Tổng cục Thống kê: Số liệu thống kê Việt Nam 15 năm đầu thế kỷ XXI, Sđd, tr.121.

Việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã mang lại sức sống cho các ngành công nghiệp nước ta. Trong suốt 15 năm (1996 - 2010), trải qua những cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á 1997 - 1998, khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 - 2009... nhưng sản xuất công nghiệp Việt Nam vẫn duy trì được đà tăng trưởng.

Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng mạnh. Tính theo giá cố định năm 1994, giá trị sản xuất công nghiệp năm 1995 đạt 103,4 nghìn tỉ đồng, năm 2000 đạt 198,3 nghìn tỉ đồng, năm 2005 đạt 415,9 nghìn tỉ đồng, năm 2010 đạt 809,8 nghìn tỉ đồng. Trong 16 năm (1995 - 2010), giá trị sản xuất công nghiệp tăng gấp 8 lần, cứ mỗi 5 năm tăng gấp khoảng 2 lần. Đóng góp của công nghiệp trong tổng sản phẩm trong nước ngày càng cao. Bình quân 5 năm 1996 - 2000 tăng 13,9%/năm; 5 năm 2001 - 2006 tăng 16,0%/năm; 5 năm 2006 - 2010 tăng 14,3%/năm1.

bảng 59

Giai đoạn 2000 - 2010, trong khi đóng góp của khu vực nông, lâm, thủy sản thu hẹp từ 1/4 giảm dần xuống dưới 1/5, thì công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ tiếp tục là những khu vực đóng góp chủ yếu vào tổng sản phẩm quốc dân, duy trì ở mức trên dưới 40% mỗi khu vực.

Xét trên tốc độ tăng trưởng của các phân ngành công nghiệp, ta cũng thấy một bức tranh khá rõ về sự chuyển dịch cơ cấu trong nội ngành công nghiệp, từ công nghiệp khai thác tài nguyên sang công nghiệp chế biến.

Sự chuyển dịch thấy rõ qua mỗi 5 năm:

- Giai đoạn 1996 - 2000, ngành Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước tăng cao nhất (15,8%), sau đó là Công nghiệp khai khoáng (14,5%), cuối cùng là công nghiệp chế biến (13,6%). Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước sản xuất ra những sản phẩm có nhu cầu lớn và ưu tiên đầu tư nên duy trì được tốc độ phát triển tương đối ổn định. Sản lượng điện phát ra đã tăng từ 26,7 tỉ kWh năm 2000 lên 52,1 tỉ kWh năm 2005 và 91,6 tỉ kWh năm 2010. Sản lượng nước máy cũng tăng từ 780,2 triệu mét khối năm 2000 lên 1.180,4 triệu mét khối năm 2005 và 1812,4 triệu mét khối năm 2010. Tính chung, giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh năm 1994 của ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước năm 2010 đạt 42,6 nghìn tỉ đồng, tăng gấp 3,3 lần so với 12,9 nghìn tỉ đồng năm 2000. Do tăng trưởng ổn định nên tỷ trọng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp này trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp suốt giai đoạn 1996 - 2010 duy trì ở mức trên dưới 6%2.

- Giai đoạn 2001 - 2005, Công nghiệp chế biến bắt đầu nổi lên, dẫn dắt sự tăng trưởng toàn ngành với mức tăng 17,5%, sau đó là sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước tăng 14,1%, cuối cùng là Công nghiệp khai khoáng 6,8%. Điều đó cho thấy, Công nghiệp chế biến được đẩy mạnh theo đúng đường lối công nghiệp hóa mà Đại hội VII và VIII của Đảng đề ra là “thực hiện quá trình công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa”, và chủ trương của Đại hội IX: “công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt”3. Kết hợp phát triển các ngành có lợi thế và một số ngành công nghiệp nặng, một số ngành có công nghệ cao.

- Giai đoạn 2006 - 2010, tuy bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 - 2009, nhưng Công nghiệp chế biến tiếp tục dẫn đầu với mức tăng trưởng 15,7%, tiếp theo là Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước 10,5%. Riêng Công nghiệp khai khoáng (bao gồm 4 ngành: Khai thác than, Khai thác dầu thô và khí tự nhiên, Khai thác quặng kim loại, Khai thác đá và khai thác mỏ khác) bắt đầu giảm tốc từ giai đoạn 2001 - 2005, luôn giữ mức tăng trưởng thấp nhất cho đến năm 2010, thể hiện chính sách hạn chế khai thác tài nguyên, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô, dành cho chế biến sâu khi năng lực sản xuất trong nước được nâng lên, nhất là dầu khí4.

- Tính chung 10 năm (2001 - 2010), ngành Công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển tương đối cao với tốc độ tăng bình quân 16,2%/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2010 theo giá so sánh năm 1994 đã gấp 4,61 lần năm 2000.

Tính trên tốc độ tăng trưởng, tăng trưởng công nghiệp qua mỗi 5 năm, giai đoạn 1996 - 2010 luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, và xét trên cơ cấu nội ngành công nghiệp, sẽ cho thấy công nghiệp hóa ngày càng gắn chặt với hiện đại hóa. Công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn nhất và xu hướng tăng dần qua các năm, từ 80,56% năm 1995 lên 90,02% năm 2010. Hai ngành còn lại có tỷ trọng ít hơn nhiều, tương đương nhau và có xu hướng giảm, trong đó, giảm mạnh nhất là Công nghiệp khai khoáng từ 13,44% năm 1995 xuống 4,7% năm 2010; sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước có mức giảm ít hơn, từ 6,0% năm 1995 xuống 5,26% năm 2010.

Cơ cấu vùng kinh tế cũng bắt đầu có sự chuyển dịch theo hướng hình thành các vùng động lực phát triển kinh tế, với các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất với quy mô lớn. Năm 2000, Việt Nam có 69 khu công nghiệp tại địa bàn 28 tỉnh, thành phố trong cả nước. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các khu công nghiệp thời kỳ 1996 - 2000 đạt khoảng 9,5 tỉ USD, tăng bình quân khoảng 20%/năm. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp khu công nghiệp trong 5 năm (1996 - 2000) đạt 6,2 tỉ USD, tăng bình quân khoảng 18%/năm.

bảng 60

Việc ban hành Luật doanh nghiệp năm 2000 (sửa đổi năm 2005), hợp nhất hai luật: Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 và Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 (sửa đổi năm 1998) thành Luật đầu tư năm 2005 đã tạo ra hệ thống pháp luật đầu tư chung áp dụng thống nhất cho nhà đầu tư trong và ngoài nước. Luật đầu tư năm 2005 đã mở rộng quyền tự chủ của các nhà đầu tư bằng việc xóa bỏ một loạt rào cản đầu tư không phù hợp với thông lệ kinh tế thị trường và cam kết hội nhập của Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng ngày càng thuận lợi, minh bạch và bình đẳng giữa các nhà đầu tư. Do đó, ngay cả trong giai đoạn chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 - 2009, tình hình thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào khu công nghiệp, khu kinh tế đã đạt được những kết quả khả quan, dần phục hồi tốc độ tăng trưởng so với giai đoạn trước khủng hoảng và tạo ra một cực tăng trưởng mới cho sản xuất công nghiệp và nền kinh tế.

Chỉ riêng trong năm 2010, các khu công nghiệp của cả nước đã thu hút được 230 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 3,59 tỉ USD và điều chỉnh tăng vốn cho 212 lượt dự án với tổng vốn đầu tư tăng thêm là hơn 1,71 tỉ USD. Tính chung, tổng số vốn đầu tư nước ngoài và điều chỉnh tăng thêm trong năm 2010 đạt 5,27 tỉ USD. Lũy kế đến cuối tháng 12/2010, các khu công nghiệp trong cả nước đã thu hút được 3.962 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký 53,6 tỉ USD, tổng vốn đầu tư đã thực hiện đạt 17 tỉ USD, bằng 32% tổng vốn đầu tư đăng ký5.

Các khu công nghiệp không chỉ trực tiếp thúc đẩy công nghiệp của địa phương và của vùng có khu công nghiệp phát triển mạnh mẽ, mà còn có tác động lan tỏa rộng rãi tới quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế từng địa phương và cả nước, góp phần làm cho tốc độ phát triển công nghiệp theo vùng tương đối đồng đều. “Trong 9 năm (2001 - 2009), tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh năm 1994) bình quân mỗi năm của vùng đồng bằng sông Hồng là 17,7%; trung du và miền núi phía Bắc 14,4%; Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 15,2%; Tây Nguyên 14,8%; Đông Nam Bộ 13,6%; Đồng bằng sông Cửu Long 15,9%”6. Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu trong bảng dưới đây cho thấy, trừ mặt hàng dầu thô có sản lượng khai thác theo chủ định, các mặt hàng khác đều tăng trưởng khá.

Bảng 61: Sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu giai đoạn 1996 – 2010

bảng 61 Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp có bước tiến mạnh mẽ. Bên cạnh các sản phẩm phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn như nông cụ cầm tay, máy kéo, máy tuốt lúa, máy xay xát, máy nghiền thức ăn gia súc, máy bơm thủy lợi, bơm thuốc trừ sâu, phân bón hóa học... có mức tăng từ 1,4 đến 1,8 lần qua mỗi năm, thì các ngành công nghiệp chế biến, tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu cũng phát triển mạnh mẽ, chinh phục được khách hàng trong nước, một số mặt hàng cạnh tranh tốt ở thị trường nước ngoài.

Sức sống của một Chương trình khoa học và công nghệ

Năm 2005, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) được thành lập. Lúc bấy giờ, vấn đề nan giải nhất đối với TKV là các mỏ có mức độ cơ giới hóa thấp, khai thác từ lò chợ cơ giới hóa chỉ chiếm 3%, khấu than bằng khoan nổ mìn, xúc bốc thủ công chiếm 97% sản lượng than hầm lò.

Chi phí lớn, năng suất lao động thấp, điều kiện làm việc của thợ mỏ nặng nhọc, chưa bảo đảm an toàn lao động, khiến số lượng thợ mỏ bỏ việc có xu hướng tăng cao, trái ngược với phương châm phát triển bền vững của TKV là “Từ tài nguyên khoáng sản và nguồn nhân lực đi lên giàu mạnh”.

Trong thời điểm khó khăn đó, những người làm công tác khoa học và công nghệ Bộ Công Thương và TKV đã cùng nhau đi khảo sát các đơn vị sản xuất. Những chuyến khảo sát cho thấy những vấn đề ngành Than đang phải đối mặt hết sức cấp bách: các mỏ lộ thiên dần cạn kiệt, việc khai thác chủ yếu là hầm lò, nhiều lò đã xuống âm 50, âm 300... Mà càng khai thác xuống sâu, công tác đi lại, vận chuyển vật tư, than, đất đá... càng khó khăn, chi phí sản xuất càng lớn. Suất đầu tư năm 2000 khoảng gần 50 USD/tấn, đến những năm 2005 - 2007 tăng lên 100 - 120 USD/tấn công suất mỏ hầm lò, hệ số bóc đất cũng tăng 3,1 lần, cung độ vận chuyển đất tăng 3,5 - 4 lần.

Những chuyến khảo sát đã đưa ra kết luận, TKV chỉ có một con đường tăng năng suất lao động bằng hiện đại hóa công nghệ sản xuất. Ngày 04/12/2008, theo đề nghị của Bộ Công Thương, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 159/2008/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành Công nghiệp khai khoáng đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025”.

Trên cơ sở đó, TKV đã xây dựng nhiều dự án, đề tài, đưa ra các giải pháp nâng cao mức độ cơ giới hóa, hiện đại hóa công nghệ các mỏ trong 5 lĩnh vực: khai thác hầm lò, khai thác lộ thiên, tuyển than, quản lý an toàn mỏ, bảo vệ môi trường.

Trong đó, cơ giới hóa khai thác và đào chống lò ở các mỏ hầm lò đóng vai trò quan trọng. Đề tài “Nghiên cứu nâng cao mức độ cơ giới hoá và hiện đại hoá khai thác than hầm lò và định hướng ứng dụng cho các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh” đã được đưa vào áp dụng trong thực tiễn sản xuất tại nhiều mỏ hầm lò như Mạo Khê, Nam Mẫu, Vàng Danh, Khe Chàm II - IV... mang lại hiệu quả kinh tế kỹ thuật, nâng cao năng suất và mức độ an toàn lao động, cải thiện điều kiện làm việc nặng nhọc của công nhân trong hầm lò.

Trong cùng một điều kiện, ở lò chợ khoan nổ mìn, số lao động trung bình 120 - 180 người/phân xưởng, sản lượng đạt 120 - 180 nghìn tấn/năm so với lò cơ giới hóa 90 người/phân xưởng và sản lượng đạt 230 - 400 nghìn tấn/năm, năng suất lao động tăng 1,5 - 2,5 lần, giảm số lượng công nhân làm việc trực tiếp tại lò chợ 1,5 - 2 lần.

Nhưng điều quan trọng hơn, thông qua thực hiện các giải pháp công nghệ trong Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm về công nghệ khai thác và chế biến khoáng sản, đã tạo ra các quy trình công nghệ, mà ngay cả sau khi đã kết thúc Chương trình vẫn được nhiều doanh nghiệp khác trong Tập đoàn tham quan, học tập và chủ động đầu tư, ứng dụng vào sản xuất.


1. Xem Bộ Công Thương: Ngành Công Thương Việt Nam sau 25 năm đổi mới (Lưu hành nội bộ), Sđd, tr.164.

2. Xem Bộ Công Thương: Ngành Công Thương Việt Nam sau 25 năm đổi mới (Lưu hành nội bộ), Sđd, tr.165.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.133.

4. Xem Bộ Công Thương: Ngành Công Thương Việt Nam sau 25 năm đổi mới (Lưu hành nội bộ), Sđd, tr.165.

5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Vụ Quản lý các khu kinh tế: “Báo cáo tình hình xây dựng và phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế năm 2010 và dự báo năm 2011”, 2010, https://www. mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=9563&idcm=207.

6. Tổng cục Thống kê: Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm 2001 - 2010, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2011, tr.48.

Danh mục

Tùy chỉnh