2. Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965)

a) Nội thương

Căn cứ vào đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa hội, Trung ương nhận định nhiệm vụ đặt ra trong kế hoạch 5 năm là: “Chuyển trọng tâm vào việc xây dựng chủ nghĩa hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội”1.

Phục vụ sự nghiệp “xây dựng bước đầu sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội”, ngành Nội thương được giao nhiệm vụ tăng cường nguồn lực của thương nghiệp quốc doanh, thu mua cấp phát đảm bảo nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế. Phương thức thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là, Nhà nước nắm toàn bộ lương thực hàng hóa đại bộ phận các nông sản hàng hóa khác, quản chặt chẽ việc mua bán, định nghĩa vụ cho nông dân bán thóc các nông sản khác cho Nhà nước thực hiện chế độ hợp đồng thu mua giữa các quan thu mua của Nhà nước các hợp tác sản xuất nông nghiệp. Đối với hàng công nghiệp, thực hiện chế độ hợp đồng bán nguyên liệu đặt mua sản phẩm, bảo đảm thu mua tiêu thụ toàn bộ sản phẩm của công nghiệp quốc doanh của các nghiệp công hợp doanh; thu mua phần lớn các hàng thủ công nghiệp phẩm chất nhất định. Trong việc thực hiện chế độ hợp đồng thu mua, đối với hàng nông sản cũng như hàng công nghiệp, hết sức khuyến khích cải tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất, trên sở đó bảo đảm vững chắc lực lượng vật của Nhà nước.

Về mặt tiêu thụ, quy định các chính sách cần thiết, bảo đảm nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, đồng thời hướng dẫn nhân dân tiết kiệm tiêu dùng. Đối với hàng thiết yếu, những loại hàng yêu cầu tiêu thụ nhiều nhưng khả năng cung cấp hạn, thì cần tổ chức cung cấp kế hoạch để giữ vững cung cầu.

Như vậy, tưởng “Nhà nước phải lo cho dân” được thể hiện mạnh mẽ nhất trong giai đoạn này; bắt đầu bước vào hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung điển hình, thông qua việc tập trung nguồn lực vào sở kinh doanh nhà nước, định hình thức thu mua - cấp phát trong hệ thống thương nghiệp.

Mặt trận chính của hoạt động thương mại giai đoạn này thu mua nắm hàng công nghiệp, lương thực, thực phẩm các hàng nông sản khác. Bằng nhiều biện pháp thu mua thiết thực hiệu quả, tổng giá trị hàng hóa trong nước do ngành Thương mại thu mua không ngừng tăng lên qua các năm. Năm 1965, tổng giá trị thu mua bằng 159,1% năm 1960; trong đó, trị giá về lương thực bằng 139,6%; thực phẩm hàng nông sản khác bằng 196,75%. Khối lượng hàng công nghiệp thu mua được cũng tăng lên đáng kể qua các năm; năm 1965 bằng 156,3% năm 1960. Mức độ lưu chuyển hàng hóa bán lẻ trong 5 năm đã tăng bình quân hằng năm 7,1%, vượt mức kế hoạch Nhà nước đề ra.

Lưu thông hàng hóa trong nước ngày càng nhanh, tổng mức bán lẻ hàng hóa hội tăng 51,2%, trong đó lương thực tăng 46%, vải các loại tăng 51%. Khối lượng sản phẩm của các ngành sản xuất đã được ngành Thương mại quốc doanh tiêu thụ tăng 57,4%, các thành phần kinh tế khác trong ngành Thương nghiệp tăng 23,2% chiếm 18% thu nhập quốc dân. Thương nghiệp nội địa đã bảo đảm được 75 - 76% nhu cầu mua sắm của gia đình công nhân, viên chức.

Mạng lưới thương nghiệp nội địa bao gồm các cửa hàng, kho trạm cùng các trang thiết bị thương nghiệp sự phân bố hợp mạng lưới giữa các khu vực, các ngành hàng các khâu kinh doanh đã được tăng cường đáng kể trong kế hoạch 5 năm, điều đó đã làm tăng thêm năng lực tổ chức lưu chuyển hàng hóa chỉ đạo toàn bộ hoạt động của thị trường.

Tuy nhiên, tình hình những diễn biến phức tạp: Sản xuất lương thực giảm sút do thiên tai trong khi dân số mỗi năm tăng thêm 0,5 triệu người; dân số phi nông nghiệp tăng với việc tập trung nhiều lao động tại thành thị, khu công nghiệp, các công trường xây dựng lớn; nhu cầu chi viện cho miền Nam. Đồng thời, những khó khăn trong cân đối tiền hàng do nhu cầu đầu xây dựng những công trình quy lớn, như Gang thép Thái Nguyên, Thủy điện Thác Bà, Nhiệt điện Uông Bí, Phân đạm Bắc, Khu công nghiệp Việt Trì,...

Với chức năng phục vụ sản xuất tiêu dùng, mặc ngành Thương mại tích cực tổ chức thu mua hàng hóa, nhập khẩu theo các hình thức viện trợ, vay nợ, trao đổi mậu dịch nhưng những lúc không đủ để cung cấp cho hội nên xuất hiện “chế độ tem, phiếu”. Tem phiếu - một sản phẩm chính sách đặc trưng của tình trạng cung không đáp ứng đủ nhu cầu.

Tháng 01/1955, các cửa hàng lương thực Nội quyết định bán gạo theo phiếu. Từ tháng 3/1955, Nội cấp phiếu gạo chính thức cho người dân. Đây chế độ tem phiếu không phải do thiếu hụt nguồn cung, để ứng phó với hoạt động đầu gạo nhất thời lúc đó; nhưng “gợi ý” cho chế độ tem phiếu sau này. Trước năm 1960, trừ mặt hàng gạo lúc dùng tem phiếu, còn gần như các mặt hàng đều theo chế độ bán lẻ thông thường. Đến năm 1963, áp lực dân số tăng mỗi năm khoảng nửa triệu người, cùng với việc công nghiệp hóa khiến lực lượng lao động từ nông thôn ra các nghiệp, khu công nghiệp làm ngày càng nhiều, thương nghiệp buộc phải thực hiện cung cấp lương thực bằng “sổ gạo”. Với tưởng “Nhà nước phải lo cho dân”, danh sách các mặt hàng sử dụng tem phiếu liên tục được bổ sung. Từ vải, cá, trứng, nước mắm đến thịt, đường, sữa, quần áo, chất đốt... Chế độ tem phiếu nhằm mục đích cung cấp một cách hạn chế theo định lượng. dụ, nhân viên hành chính sự nghiệp 13 kg gạo/người/tháng; công nhân sản xuất 15 kg gạo/người/tháng; công nhân, viên chức 5 m vải/người/ năm; nhân dân thành thị 4 m vải/người/năm...

Thực tế, không phải việc cung cấp này lúc nào cũng đảm bảo, do sản xuất trong nước còn hạn chế, việc nhập khẩu từ các nước hội chủ nghĩa cũng không suôn sẻ: “Cuối năm 1963, Chính phủ đề nghị các nước bạn cung cấp cho ta 12.000 tấn bông, nhưng Trung Quốc chỉ nhận cung cấp 7.000 tấn, Liên do bị mất mùa bông nên không nhận cung cấp cho Việt Nam. Về phân bón, Liên nhận cung cấp 20.000 tấn, nhưng chúng ta chỉ được 7.000 tấn; Chính phủ ta đề nghị Triều Tiên bán cho Việt Nam 40.000 tấn phân bón, nhưng Triều Tiên trả lời “đó vấn đề rất khó”2.

Định lượng (vốn đã hạn chế) nhu yếu phẩm theo tem phiếu cung cấp cho cán bộ, công nhân, nhân dân cũng gặp phải những khó khăn tương tự. “Sau khi nghe Tổng cục Lương thực báo cáo về tình hình thiếu hụt lương thực năm 1962, Hội đồng Chính phủ đã quyết định lấy 16.000 tấn thóc dự trữ để giải quyết tình hình thiếu đói, rồi sẽ lấy thóc chiêm lại, đồng thời rút tiêu chuẩn lương thực của cán bộ, công nhân viên trong 3 tháng bình quân 0,5 kg/người/tháng”3. Tình trạng Nhà nước “nợ” nhân dân không hiếm; hoặc nhân dân bị buộc phải chuyển đổi, thay 1 lạng thịt sẽ được nhận 5 bìa đậu phụ, hoặc 3 lạng khô; phiếu vải, nếu không vải, thể được mua phụ tùng xe đạp, phiếu lương thực thể chuyển thành đường sữa...

Chuyện Nông trường giao nộp sản phẩm

Từ năm 1956, hằng năm, trong kế hoạch nhà nước vẫn ghi chỉ tiêu sản phẩm do nông trường sản xuất giao nộp cho Nhà nước. Nhưng một mặt, do số nông trường còn ít, quy còn nhỏ, sản phẩm làm ra chưa nhiều, nhiều khi thu hoạch không đạt kế hoạch; mặt khác do việc giao nộp sản phẩm của nông trường chưa được quy định thành chế độ ràng, nên phần đông cán bộ công nhân viên nông trường chưa nhận thức đầy đủ nông trường một nghiệp quốc doanh, sản xuất hưởng thụ theo chế độ quốc doanh trách nhiệm phải ra sức phát triển sản xuất để cung cấp sản phẩm ngày một nhiều hơn cho Nhà nước.

Một số không ít còn quan niệm sản phẩm làm ra, nông trường quyền tiêu thụ hoặc tự ý bán cho các quan, đơn vị khác, khi nào thừa mới giao cho Nhà nước, giao hay không giao cũng được. Hơn nữa, việc phân phối sản phẩm của nông trường cho các ngành tiêu thụ chưa theo một kế hoạch nhất định do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước phối hợp với các Bộ liên quan xây dựng thống nhất theo một chính sách giá cả cụ thể, ràng.

Do đó, ngày 30/8/1961 Phủ Thủ tướng đã ban hành Thông số 348/TTg quy định chế độ nông trường quốc doanh giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Thông quy định các nông trường quốc doanh những đơn vị nghiệp của Nhà nước, quản theo chế độ kinh tế hạch toán, được Nhà nước cấp vốn để sản xuất theo kế hoạch của Nhà nước. Toàn bộ sản phẩm của nông trường làm ra thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, do Nhà nước phân phối theo kế hoạch. Nông trường trách nhiệm giao nộp sản phẩm cho Nhà nước theo số lượng đã quy định, cho các quan, đơn vị được phân phối, theo giá cả điều động nội bộ Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã công bố. Quan hệ giữa các nông trường các quan tiêu thụ giải quyết theo chế độ hợp đồng kinh tế do Chính phủ quy định.

Các ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh chỉ được nhận sản phẩm của các nông trường khi được trung ương phân phối, không được tự điều động hoặc giữ sản phẩm ngay của nông trường cho địa phương mình.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng công nhận sản phẩm do công đoàn đứng ra tổ chức cho cán bộ công nhân viên tranh thủ giờ rỗi hoặc trong ngày nghỉ để sản xuất tập thể thêm, hoặc do nhân nông trường viên làm ra để cải thiện sinh hoạt, thuộc quyền công đoàn hoặc nông trường viên tự do sử dụng, không phải giao nộp cho Nhà nước. Nhưng nếu sản xuất được nhiều, tiêu dùng không hết, thì nên bán cho các quan nhà nước theo giá khuyến khích.

Việc phân phối sản phẩm của các nông trường quốc doanh căn cứ theo những nguyên tắc sau đây:

- Chỉ tiêu kế hoạch phân phối sản phẩm gắn liền với kế hoạch sản xuất hằng năm, hằng quý của nông trường. Bộ Nông trường quốc doanh căn cứ vào chỉ tiêu chung đã ghi trong kế hoạch nhà nước để giao chỉ tiêu cụ thể cho từng nông trường quyết định điều chỉnh nếu xét cần nhưng phải đảm bảo chỉ tiêu chung. Đối với những sản phẩm chủ yếu, việc điều chỉnh kế hoạch sản xuất phân phối phải được Ủy ban Kế hoạch Nhà nước thẩm tra lại trình Hội đồng Chính phủ quyết định.

- Trong kế hoạch phân phối sản phẩm, phải ghi đối với từng loại sản phẩm:

a) Phần nào nông trường được giữ lại để dùng vào việc tái sản xuất (như để giống, thức ăn chăn nuôi,...), để chế biến tại chỗ (ví dụ: khoai, sắn để làm ra khoai, sắn khô; bột, hạt để ép dầu; sữa để làm sữa hộp, mía để ép đường,...) hoặc để cung cấp cho nhu cầu đời sống hằng ngày của cán bộ, công nhân viên nông trường theo chế độ tiêu chuẩn cung cấp do Nhà nước quy định (như đối với lương thực, thực phẩm).

b) Phần nào nông trường giao nộp cho Nhà nước để điều đi cho các ngành khác các nông trường khác dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Căn cứ chỉ tiêu phân phối của Nhà nước, Bộ Nông trường quốc doanh những hợp đồng nguyên tắc với các Bộ liên quan để làm sở cho các nông trường trực tiếp hợp đồng cụ thể với các đơn vị nghiệp tiêu thụ (mậu dịch nội địa, tổng công ty xuất, nhập khẩu, nhà máy), không cần qua khâu trung gian hai bên hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành hợp đồng đã theo đúng chế độ hợp đồng đã ban hành.

- Các nông trường quốc doanh giao dịch với nhau cũng theo chế độ hợp đồng căn cứ kế hoạch phân phối của Bộ Nông trường. Trường hợp nông trường sản xuất hoặc thu hoạch vượt mức kế hoạch, các ngành tiêu thụ (gồm mậu dịch quốc doanh các tổng công ty xuất, nhập khẩu) trách nhiệm bảo đảm tiêu thụ sản phẩm cho nông trường để phục vụ sản xuất phát triển. Trường hợp gặp khó khăn trong sản xuất, thu hoạch hụt mức kế hoạch được Bộ Nông trường công nhận, nông trường thể đề nghị các quan tiêu thụ điều chỉnh hợp đồng, nhưng phải báo trước kịp thời để các quan trên khỏi bị động.

- Đối với một số sản phẩm phụ sản xuất ngoài kế hoạch nông trường tiêu dùng không hết không điều đi xa được (ví dụ rau tươi), nông trường thể tổ chức tiêu thụ tại thị trường địa phương, bán cho các quan, đơn vị các hợp tác sản xuất nông nghiệp chung quanh, nói chung theo giá cả quy định của Nhà nước, nông trường không thể chạy theo giá cả của thị trường tự do.

b) Ngoại thương

Cũng nhằm phục vụ sự nghiệp “xây dựng bước đầu sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội”, Ngoại thương được giao nhiệm vụ đẩy mạnh xuất khẩu; phối hợp chặt chẽ với các ngành công nghiệp, nông nghiệp, nội thương... các địa phương để mở rộng khối lượng hàng hóa trao đổi với nước ngoài, nhất khối các nước hội chủ nghĩa.

Đồng thời, tham mưu cho Đảng, Nhà nước giải quyết đúng đắn quan hệ giữa tiêu thụ trong nước ngoài nước, tiết kiệm tiêu dùng đúng mức những thứ thể cần phải tiết kiệm. Về mặt nhập khẩu, trên tinh thần hết sức tiết kiệm ngoại hối, phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan để bảo đảm cung cấp kịp thời, đúng quy cách phẩm chất các loại vật cần thiết cho xây dựng sản xuất.

thuyền gạo

Các thuyền đang chuyển gạo lên bến bán cho nhân dân để bình ổn giá thị trường, năm 1955 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Về tổ chức, ngày 23/11/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 203-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy của Bộ Ngoại thương. Theo đó, Bộ Ngoại thương trách nhiệm quản toàn bộ công tác ngoại thương theo đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ kế hoạch ngoại thương, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển nguồn thu về ngoại hối cho Nhà nước, nhằm phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa hội chủ nghĩa, tăng cường quan hệ giao dịch buôn bán với các nước, góp phần nâng cao địa vị của Việt Nam trên trường quốc tế. Như vậy, xét về thực chất, Bộ Nội thương Bộ Ngoại thương tuy khác “địa bàn”, lĩnh vực nhưng cùng chung nhiệm vụ: Phục vụ sự nghiệp “xây dựng bước đầu sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội”, ổn định nâng cao mức sống cho người dân. Về quản hoạt động xuất, nhập khẩu, Vụ Xuất khẩu, Vụ Nhập khẩu thuộc Bộ Ngoại thương. Nhà nước tiến hành các hoạt động ngoại thương thông qua các tổng công ty xuất nhập khẩu Trung ương (thuộc Bộ Ngoại thương) các công ty xuất nhập khẩu địa phương. 6 tổng công ty xuất nhập khẩu thuộc Bộ Ngoại thương, gồm: Tổng Công ty Xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm; Tổng Công ty Xuất nhập khẩu lâm thổ sản; Tổng Công ty Xuất nhập khẩu tạp phẩm; Tổng Công ty Xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ; Tổng Công ty Máy phụ tùng; Tổng Công ty Xuất nhập khẩu khoáng sản. Trong lĩnh vực thu mua hàng xuất khẩu, Nhà nước trực tiếp thu mua, trực tiếp định giá cho từng mặt hàng, trực tiếp định ra khối lượng hàng hóa phân bổ chỉ tiêu xuất khẩu cho từng địa phương, từng nghiệp. Hằng năm, Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch về cho các tỉnh tổng công ty trung ương, sau đó tỉnh tổng công ty lại giao chỉ tiêu kế hoạch về cho các công ty địa phương.

Trong lĩnh vực phân phối hàng nhập khẩu, Bộ Ngoại thương phân bổ theo kế hoạch của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Các mặt hàng nhập khẩu bán theo giá quy định của Nhà nước cho những địa chỉ được quy định trong kế hoạch.

Theo thống kê, cán cân xuất, nhập khẩu giai đoạn này tiếp tục nhập siêu. Năm 1962, xuất khẩu 81 triệu rúp-USD, thâm hụt 54 triệu rúp-USD; năm 1964, xuất khẩu 97 triệu rúp USD, thâm hụt 40 triệu rúp-USD4. Năm 1965, xuất khẩu hàng công nghiệp chiếm 62,7%; hàng thủ công nghiệp chiếm 23,3%; hàng nông sản chưa chế biến chiếm 14%. Hàng nhập khẩu chủ yếu liệu sản xuất, bao gồm: thiết bị toàn bộ, nguyên liệu, nhiên liệu vật liệu thường chiếm gần 80%. Qua việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ thiết bị lẻ, miền Bắc đã cải tạo xây dựng mới nhiều công trình quan trọng thuộc các ngành Năng lượng, Chế tạo máy, Hóa chất, Khai khoáng,...

đồ da

Sản phẩm đồ da các loại da hàng Việt Nam tại Hội chợ Budapest - Hunggari năm 1956 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Hoạt động ngoại thương ngày càng được mở rộng. Nếu năm 1955 10 nước (trong đó 7 nước hội chủ nghĩa) quan hệ buôn bán, trao đổi với miền Bắc, thì đến năm 1965 đã 35 nước, trong đó 12 nước hội chủ nghĩa5.

*****

Trong chặng đường 10 năm đầu tiên xây dựng nền kinh tế - hội chủ nghĩa (1955 - 1965), ngành Công Thương đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng bước đầu sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa hội chủ nghĩa; củng cố nền kinh tế miền Bắc về mọi mặt, làm sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.

Các ngành công nghiệp nặng đã những sở đầu tiên đi vào sản xuất xây dựng, công nghiệp nhẹ công nghiệp địa phương bước phát triển nhanh chóng. Sản xuất công nghiệp đã giải quyết được một phần trang thiết bị kỹ thuật; cung cấp một số liệu sản xuất, nguyên vật liệu ngày càng lớn cho các ngành kinh tế quốc dân; bảo đảm được đại bộ phận hàng tiêu dùng cho đời sống nhân dân.

Đã bước đầu hình thành một cấu công nghiệp theo hướng hiện đại, tự chủ; sự phân công tương đối nét; trong đó, công nghiệp trung ương phát triển chủ yếu về khí, luyện kim, hóa chất, phân bón, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng. Công nghiệp địa phương dựa trên nguồn nguyên liệu tại chỗ để sản xuất các hàng hóa liệu sản xuất liệu tiêu dùng thông dụng.

Trong thương mại, thành tựu quan trọng nhất xây dựng mạng lưới thương nghiệp quốc doanh, gồm mậu dịch quốc doanh hợp tác mua bán rộng khắp, nắm vững nguồn hàng; phát huy vai trò đòn bẩy, phục vụ thúc đẩy khôi phục phát triển sản xuất; làm cầu nối giữa sản xuất công nghiệp nông nghiệp. Hoạt động xuất khẩu được quan tâm, góp phần tăng tích lũy cho công nghiệp hóa hội chủ nghĩa mở rộng quan hệ buôn bán với nước ngoài.

Mặc vậy, do xuất phát điểm ban đầu thấp, đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu phân tán, nên sau 10 năm tích lũy hội chủ nghĩa, quy nền công nghiệp vẫn còn nhỏ bé, một số nguyên liệu quan trọng vẫn phải mua bên ngoài một phần nhờ các nước trong khối hội chủ nghĩa giúp đỡ như bông, sợi, sắt thép, nhôm, xăng dầu một số hóa chất. Hoạt động thương nghiệp chưa đủ sức cân đối cung - cầu, những lúc không đủ để cung cấp cho hội, nên bắt đầu xuất hiện “chế độ tem phiếu” để cung cấp một cách hạn chế theo định lượng.

Từ năm 1960 đã ghi nhận những nỗ lực cải tiến nhằm làm cho kinh tế kế hoạch hóa vận hành trơn tru hiệu quả hơn, như mở cuộc vận động thi đua “Hợp hóa sản xuất cải tiến kỹ thuật”; triển khai cuộc vận động cải tiến quản “Ba xây ba chống” (với nội dung “nâng cao ý thức trách nhiệm; tăng cường quản kinh tế tài chính; chống tham ô, lãng phí, quan liêu”); áp dụng hạch toán tới phân xưởng tổ sản xuất; để quần chúng tham gia xây dựng định mức, tự phấn đấu hoàn thành vượt định mức, tham gia công tác quản dân chủ hóa quản nghiệp; quy định những nguyên tắc về giá bán buôn công nghiệp, hướng dẫn cách xác định giá điều động liệu sản xuất liệu tiêu dùng nội bộ nghiệp quốc doanh công hợp doanh... nhưng nhìn chung, chưa thể tháo gỡ căn bản sự “nặng nề” trong điều hành nền kinh tế kế hoạch hóa.

hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung thường đạt kết quả khả quan nhất trong giai đoạn đầu, khi tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào lao động vốn. Hơn nữa, cho phép tập trung tối đa nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhưng càng về sau, những khiếm khuyết bộc lộ thường xuyên hơn, sức mạnh ban đầu của kinh tế kế hoạch hóa sẽ giảm sút. Điều này được thể hiện hơn giai đoạn sau (1964 - 1975).


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.841-842.

2, 3. Ban chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam (Tập 2), Sđd, tr.161, 147.

4. Bộ Thương mại: 60 năm thương mại Việt Nam (1946 - 2006), Nxb. Thế giới, Nội, 2006, tr.489.

5. Xem Viện Hàn lâm Khoa học hội Việt Nam, Viện Sử học, Trần Đức Cường (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 12 (Từ năm 1954 đến năm 1965), Sđd, tr.315.

2. Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965)

a) Nội thương

Căn cứ vào đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa hội, Trung ương nhận định nhiệm vụ đặt ra trong kế hoạch 5 năm là: “Chuyển trọng tâm vào việc xây dựng chủ nghĩa hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội”1.

Phục vụ sự nghiệp “xây dựng bước đầu sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội”, ngành Nội thương được giao nhiệm vụ tăng cường nguồn lực của thương nghiệp quốc doanh, thu mua cấp phát đảm bảo nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế. Phương thức thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là, Nhà nước nắm toàn bộ lương thực hàng hóa đại bộ phận các nông sản hàng hóa khác, quản chặt chẽ việc mua bán, định nghĩa vụ cho nông dân bán thóc các nông sản khác cho Nhà nước thực hiện chế độ hợp đồng thu mua giữa các quan thu mua của Nhà nước các hợp tác sản xuất nông nghiệp. Đối với hàng công nghiệp, thực hiện chế độ hợp đồng bán nguyên liệu đặt mua sản phẩm, bảo đảm thu mua tiêu thụ toàn bộ sản phẩm của công nghiệp quốc doanh của các nghiệp công hợp doanh; thu mua phần lớn các hàng thủ công nghiệp phẩm chất nhất định. Trong việc thực hiện chế độ hợp đồng thu mua, đối với hàng nông sản cũng như hàng công nghiệp, hết sức khuyến khích cải tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất, trên sở đó bảo đảm vững chắc lực lượng vật của Nhà nước.

Về mặt tiêu thụ, quy định các chính sách cần thiết, bảo đảm nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, đồng thời hướng dẫn nhân dân tiết kiệm tiêu dùng. Đối với hàng thiết yếu, những loại hàng yêu cầu tiêu thụ nhiều nhưng khả năng cung cấp hạn, thì cần tổ chức cung cấp kế hoạch để giữ vững cung cầu.

Như vậy, tưởng “Nhà nước phải lo cho dân” được thể hiện mạnh mẽ nhất trong giai đoạn này; bắt đầu bước vào hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung điển hình, thông qua việc tập trung nguồn lực vào sở kinh doanh nhà nước, định hình thức thu mua - cấp phát trong hệ thống thương nghiệp.

Mặt trận chính của hoạt động thương mại giai đoạn này thu mua nắm hàng công nghiệp, lương thực, thực phẩm các hàng nông sản khác. Bằng nhiều biện pháp thu mua thiết thực hiệu quả, tổng giá trị hàng hóa trong nước do ngành Thương mại thu mua không ngừng tăng lên qua các năm. Năm 1965, tổng giá trị thu mua bằng 159,1% năm 1960; trong đó, trị giá về lương thực bằng 139,6%; thực phẩm hàng nông sản khác bằng 196,75%. Khối lượng hàng công nghiệp thu mua được cũng tăng lên đáng kể qua các năm; năm 1965 bằng 156,3% năm 1960. Mức độ lưu chuyển hàng hóa bán lẻ trong 5 năm đã tăng bình quân hằng năm 7,1%, vượt mức kế hoạch Nhà nước đề ra.

Lưu thông hàng hóa trong nước ngày càng nhanh, tổng mức bán lẻ hàng hóa hội tăng 51,2%, trong đó lương thực tăng 46%, vải các loại tăng 51%. Khối lượng sản phẩm của các ngành sản xuất đã được ngành Thương mại quốc doanh tiêu thụ tăng 57,4%, các thành phần kinh tế khác trong ngành Thương nghiệp tăng 23,2% chiếm 18% thu nhập quốc dân. Thương nghiệp nội địa đã bảo đảm được 75 - 76% nhu cầu mua sắm của gia đình công nhân, viên chức.

Mạng lưới thương nghiệp nội địa bao gồm các cửa hàng, kho trạm cùng các trang thiết bị thương nghiệp sự phân bố hợp mạng lưới giữa các khu vực, các ngành hàng các khâu kinh doanh đã được tăng cường đáng kể trong kế hoạch 5 năm, điều đó đã làm tăng thêm năng lực tổ chức lưu chuyển hàng hóa chỉ đạo toàn bộ hoạt động của thị trường.

Tuy nhiên, tình hình những diễn biến phức tạp: Sản xuất lương thực giảm sút do thiên tai trong khi dân số mỗi năm tăng thêm 0,5 triệu người; dân số phi nông nghiệp tăng với việc tập trung nhiều lao động tại thành thị, khu công nghiệp, các công trường xây dựng lớn; nhu cầu chi viện cho miền Nam. Đồng thời, những khó khăn trong cân đối tiền hàng do nhu cầu đầu xây dựng những công trình quy lớn, như Gang thép Thái Nguyên, Thủy điện Thác Bà, Nhiệt điện Uông Bí, Phân đạm Bắc, Khu công nghiệp Việt Trì,...

Với chức năng phục vụ sản xuất tiêu dùng, mặc ngành Thương mại tích cực tổ chức thu mua hàng hóa, nhập khẩu theo các hình thức viện trợ, vay nợ, trao đổi mậu dịch nhưng những lúc không đủ để cung cấp cho hội nên xuất hiện “chế độ tem, phiếu”. Tem phiếu - một sản phẩm chính sách đặc trưng của tình trạng cung không đáp ứng đủ nhu cầu.

Tháng 01/1955, các cửa hàng lương thực Nội quyết định bán gạo theo phiếu. Từ tháng 3/1955, Nội cấp phiếu gạo chính thức cho người dân. Đây chế độ tem phiếu không phải do thiếu hụt nguồn cung, để ứng phó với hoạt động đầu gạo nhất thời lúc đó; nhưng “gợi ý” cho chế độ tem phiếu sau này. Trước năm 1960, trừ mặt hàng gạo lúc dùng tem phiếu, còn gần như các mặt hàng đều theo chế độ bán lẻ thông thường. Đến năm 1963, áp lực dân số tăng mỗi năm khoảng nửa triệu người, cùng với việc công nghiệp hóa khiến lực lượng lao động từ nông thôn ra các nghiệp, khu công nghiệp làm ngày càng nhiều, thương nghiệp buộc phải thực hiện cung cấp lương thực bằng “sổ gạo”. Với tưởng “Nhà nước phải lo cho dân”, danh sách các mặt hàng sử dụng tem phiếu liên tục được bổ sung. Từ vải, cá, trứng, nước mắm đến thịt, đường, sữa, quần áo, chất đốt... Chế độ tem phiếu nhằm mục đích cung cấp một cách hạn chế theo định lượng. dụ, nhân viên hành chính sự nghiệp 13 kg gạo/người/tháng; công nhân sản xuất 15 kg gạo/người/tháng; công nhân, viên chức 5 m vải/người/ năm; nhân dân thành thị 4 m vải/người/năm...

Thực tế, không phải việc cung cấp này lúc nào cũng đảm bảo, do sản xuất trong nước còn hạn chế, việc nhập khẩu từ các nước hội chủ nghĩa cũng không suôn sẻ: “Cuối năm 1963, Chính phủ đề nghị các nước bạn cung cấp cho ta 12.000 tấn bông, nhưng Trung Quốc chỉ nhận cung cấp 7.000 tấn, Liên do bị mất mùa bông nên không nhận cung cấp cho Việt Nam. Về phân bón, Liên nhận cung cấp 20.000 tấn, nhưng chúng ta chỉ được 7.000 tấn; Chính phủ ta đề nghị Triều Tiên bán cho Việt Nam 40.000 tấn phân bón, nhưng Triều Tiên trả lời “đó vấn đề rất khó”2.

Định lượng (vốn đã hạn chế) nhu yếu phẩm theo tem phiếu cung cấp cho cán bộ, công nhân, nhân dân cũng gặp phải những khó khăn tương tự. “Sau khi nghe Tổng cục Lương thực báo cáo về tình hình thiếu hụt lương thực năm 1962, Hội đồng Chính phủ đã quyết định lấy 16.000 tấn thóc dự trữ để giải quyết tình hình thiếu đói, rồi sẽ lấy thóc chiêm lại, đồng thời rút tiêu chuẩn lương thực của cán bộ, công nhân viên trong 3 tháng bình quân 0,5 kg/người/tháng”3. Tình trạng Nhà nước “nợ” nhân dân không hiếm; hoặc nhân dân bị buộc phải chuyển đổi, thay 1 lạng thịt sẽ được nhận 5 bìa đậu phụ, hoặc 3 lạng khô; phiếu vải, nếu không vải, thể được mua phụ tùng xe đạp, phiếu lương thực thể chuyển thành đường sữa...

Chuyện Nông trường giao nộp sản phẩm

Từ năm 1956, hằng năm, trong kế hoạch nhà nước vẫn ghi chỉ tiêu sản phẩm do nông trường sản xuất giao nộp cho Nhà nước. Nhưng một mặt, do số nông trường còn ít, quy còn nhỏ, sản phẩm làm ra chưa nhiều, nhiều khi thu hoạch không đạt kế hoạch; mặt khác do việc giao nộp sản phẩm của nông trường chưa được quy định thành chế độ ràng, nên phần đông cán bộ công nhân viên nông trường chưa nhận thức đầy đủ nông trường một nghiệp quốc doanh, sản xuất hưởng thụ theo chế độ quốc doanh trách nhiệm phải ra sức phát triển sản xuất để cung cấp sản phẩm ngày một nhiều hơn cho Nhà nước.

Một số không ít còn quan niệm sản phẩm làm ra, nông trường quyền tiêu thụ hoặc tự ý bán cho các quan, đơn vị khác, khi nào thừa mới giao cho Nhà nước, giao hay không giao cũng được. Hơn nữa, việc phân phối sản phẩm của nông trường cho các ngành tiêu thụ chưa theo một kế hoạch nhất định do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước phối hợp với các Bộ liên quan xây dựng thống nhất theo một chính sách giá cả cụ thể, ràng.

Do đó, ngày 30/8/1961 Phủ Thủ tướng đã ban hành Thông số 348/TTg quy định chế độ nông trường quốc doanh giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Thông quy định các nông trường quốc doanh những đơn vị nghiệp của Nhà nước, quản theo chế độ kinh tế hạch toán, được Nhà nước cấp vốn để sản xuất theo kế hoạch của Nhà nước. Toàn bộ sản phẩm của nông trường làm ra thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, do Nhà nước phân phối theo kế hoạch. Nông trường trách nhiệm giao nộp sản phẩm cho Nhà nước theo số lượng đã quy định, cho các quan, đơn vị được phân phối, theo giá cả điều động nội bộ Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã công bố. Quan hệ giữa các nông trường các quan tiêu thụ giải quyết theo chế độ hợp đồng kinh tế do Chính phủ quy định.

Các ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh chỉ được nhận sản phẩm của các nông trường khi được trung ương phân phối, không được tự điều động hoặc giữ sản phẩm ngay của nông trường cho địa phương mình.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng công nhận sản phẩm do công đoàn đứng ra tổ chức cho cán bộ công nhân viên tranh thủ giờ rỗi hoặc trong ngày nghỉ để sản xuất tập thể thêm, hoặc do nhân nông trường viên làm ra để cải thiện sinh hoạt, thuộc quyền công đoàn hoặc nông trường viên tự do sử dụng, không phải giao nộp cho Nhà nước. Nhưng nếu sản xuất được nhiều, tiêu dùng không hết, thì nên bán cho các quan nhà nước theo giá khuyến khích.

Việc phân phối sản phẩm của các nông trường quốc doanh căn cứ theo những nguyên tắc sau đây:

- Chỉ tiêu kế hoạch phân phối sản phẩm gắn liền với kế hoạch sản xuất hằng năm, hằng quý của nông trường. Bộ Nông trường quốc doanh căn cứ vào chỉ tiêu chung đã ghi trong kế hoạch nhà nước để giao chỉ tiêu cụ thể cho từng nông trường quyết định điều chỉnh nếu xét cần nhưng phải đảm bảo chỉ tiêu chung. Đối với những sản phẩm chủ yếu, việc điều chỉnh kế hoạch sản xuất phân phối phải được Ủy ban Kế hoạch Nhà nước thẩm tra lại trình Hội đồng Chính phủ quyết định.

- Trong kế hoạch phân phối sản phẩm, phải ghi đối với từng loại sản phẩm:

a) Phần nào nông trường được giữ lại để dùng vào việc tái sản xuất (như để giống, thức ăn chăn nuôi,...), để chế biến tại chỗ (ví dụ: khoai, sắn để làm ra khoai, sắn khô; bột, hạt để ép dầu; sữa để làm sữa hộp, mía để ép đường,...) hoặc để cung cấp cho nhu cầu đời sống hằng ngày của cán bộ, công nhân viên nông trường theo chế độ tiêu chuẩn cung cấp do Nhà nước quy định (như đối với lương thực, thực phẩm).

b) Phần nào nông trường giao nộp cho Nhà nước để điều đi cho các ngành khác các nông trường khác dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Căn cứ chỉ tiêu phân phối của Nhà nước, Bộ Nông trường quốc doanh những hợp đồng nguyên tắc với các Bộ liên quan để làm sở cho các nông trường trực tiếp hợp đồng cụ thể với các đơn vị nghiệp tiêu thụ (mậu dịch nội địa, tổng công ty xuất, nhập khẩu, nhà máy), không cần qua khâu trung gian hai bên hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành hợp đồng đã theo đúng chế độ hợp đồng đã ban hành.

- Các nông trường quốc doanh giao dịch với nhau cũng theo chế độ hợp đồng căn cứ kế hoạch phân phối của Bộ Nông trường. Trường hợp nông trường sản xuất hoặc thu hoạch vượt mức kế hoạch, các ngành tiêu thụ (gồm mậu dịch quốc doanh các tổng công ty xuất, nhập khẩu) trách nhiệm bảo đảm tiêu thụ sản phẩm cho nông trường để phục vụ sản xuất phát triển. Trường hợp gặp khó khăn trong sản xuất, thu hoạch hụt mức kế hoạch được Bộ Nông trường công nhận, nông trường thể đề nghị các quan tiêu thụ điều chỉnh hợp đồng, nhưng phải báo trước kịp thời để các quan trên khỏi bị động.

- Đối với một số sản phẩm phụ sản xuất ngoài kế hoạch nông trường tiêu dùng không hết không điều đi xa được (ví dụ rau tươi), nông trường thể tổ chức tiêu thụ tại thị trường địa phương, bán cho các quan, đơn vị các hợp tác sản xuất nông nghiệp chung quanh, nói chung theo giá cả quy định của Nhà nước, nông trường không thể chạy theo giá cả của thị trường tự do.

b) Ngoại thương

Cũng nhằm phục vụ sự nghiệp “xây dựng bước đầu sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội”, Ngoại thương được giao nhiệm vụ đẩy mạnh xuất khẩu; phối hợp chặt chẽ với các ngành công nghiệp, nông nghiệp, nội thương... các địa phương để mở rộng khối lượng hàng hóa trao đổi với nước ngoài, nhất khối các nước hội chủ nghĩa.

Đồng thời, tham mưu cho Đảng, Nhà nước giải quyết đúng đắn quan hệ giữa tiêu thụ trong nước ngoài nước, tiết kiệm tiêu dùng đúng mức những thứ thể cần phải tiết kiệm. Về mặt nhập khẩu, trên tinh thần hết sức tiết kiệm ngoại hối, phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan để bảo đảm cung cấp kịp thời, đúng quy cách phẩm chất các loại vật cần thiết cho xây dựng sản xuất.

thuyền gạo

Các thuyền đang chuyển gạo lên bến bán cho nhân dân để bình ổn giá thị trường, năm 1955 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Về tổ chức, ngày 23/11/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 203-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy của Bộ Ngoại thương. Theo đó, Bộ Ngoại thương trách nhiệm quản toàn bộ công tác ngoại thương theo đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ kế hoạch ngoại thương, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển nguồn thu về ngoại hối cho Nhà nước, nhằm phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa hội chủ nghĩa, tăng cường quan hệ giao dịch buôn bán với các nước, góp phần nâng cao địa vị của Việt Nam trên trường quốc tế. Như vậy, xét về thực chất, Bộ Nội thương Bộ Ngoại thương tuy khác “địa bàn”, lĩnh vực nhưng cùng chung nhiệm vụ: Phục vụ sự nghiệp “xây dựng bước đầu sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội”, ổn định nâng cao mức sống cho người dân. Về quản hoạt động xuất, nhập khẩu, Vụ Xuất khẩu, Vụ Nhập khẩu thuộc Bộ Ngoại thương. Nhà nước tiến hành các hoạt động ngoại thương thông qua các tổng công ty xuất nhập khẩu Trung ương (thuộc Bộ Ngoại thương) các công ty xuất nhập khẩu địa phương. 6 tổng công ty xuất nhập khẩu thuộc Bộ Ngoại thương, gồm: Tổng Công ty Xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm; Tổng Công ty Xuất nhập khẩu lâm thổ sản; Tổng Công ty Xuất nhập khẩu tạp phẩm; Tổng Công ty Xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ; Tổng Công ty Máy phụ tùng; Tổng Công ty Xuất nhập khẩu khoáng sản. Trong lĩnh vực thu mua hàng xuất khẩu, Nhà nước trực tiếp thu mua, trực tiếp định giá cho từng mặt hàng, trực tiếp định ra khối lượng hàng hóa phân bổ chỉ tiêu xuất khẩu cho từng địa phương, từng nghiệp. Hằng năm, Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch về cho các tỉnh tổng công ty trung ương, sau đó tỉnh tổng công ty lại giao chỉ tiêu kế hoạch về cho các công ty địa phương.

Trong lĩnh vực phân phối hàng nhập khẩu, Bộ Ngoại thương phân bổ theo kế hoạch của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Các mặt hàng nhập khẩu bán theo giá quy định của Nhà nước cho những địa chỉ được quy định trong kế hoạch.

Theo thống kê, cán cân xuất, nhập khẩu giai đoạn này tiếp tục nhập siêu. Năm 1962, xuất khẩu 81 triệu rúp-USD, thâm hụt 54 triệu rúp-USD; năm 1964, xuất khẩu 97 triệu rúp USD, thâm hụt 40 triệu rúp-USD4. Năm 1965, xuất khẩu hàng công nghiệp chiếm 62,7%; hàng thủ công nghiệp chiếm 23,3%; hàng nông sản chưa chế biến chiếm 14%. Hàng nhập khẩu chủ yếu liệu sản xuất, bao gồm: thiết bị toàn bộ, nguyên liệu, nhiên liệu vật liệu thường chiếm gần 80%. Qua việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ thiết bị lẻ, miền Bắc đã cải tạo xây dựng mới nhiều công trình quan trọng thuộc các ngành Năng lượng, Chế tạo máy, Hóa chất, Khai khoáng,...

đồ da

Sản phẩm đồ da các loại da hàng Việt Nam tại Hội chợ Budapest - Hunggari năm 1956 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Hoạt động ngoại thương ngày càng được mở rộng. Nếu năm 1955 10 nước (trong đó 7 nước hội chủ nghĩa) quan hệ buôn bán, trao đổi với miền Bắc, thì đến năm 1965 đã 35 nước, trong đó 12 nước hội chủ nghĩa5.

*****

Trong chặng đường 10 năm đầu tiên xây dựng nền kinh tế - hội chủ nghĩa (1955 - 1965), ngành Công Thương đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng bước đầu sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa hội chủ nghĩa; củng cố nền kinh tế miền Bắc về mọi mặt, làm sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.

Các ngành công nghiệp nặng đã những sở đầu tiên đi vào sản xuất xây dựng, công nghiệp nhẹ công nghiệp địa phương bước phát triển nhanh chóng. Sản xuất công nghiệp đã giải quyết được một phần trang thiết bị kỹ thuật; cung cấp một số liệu sản xuất, nguyên vật liệu ngày càng lớn cho các ngành kinh tế quốc dân; bảo đảm được đại bộ phận hàng tiêu dùng cho đời sống nhân dân.

Đã bước đầu hình thành một cấu công nghiệp theo hướng hiện đại, tự chủ; sự phân công tương đối nét; trong đó, công nghiệp trung ương phát triển chủ yếu về khí, luyện kim, hóa chất, phân bón, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng. Công nghiệp địa phương dựa trên nguồn nguyên liệu tại chỗ để sản xuất các hàng hóa liệu sản xuất liệu tiêu dùng thông dụng.

Trong thương mại, thành tựu quan trọng nhất xây dựng mạng lưới thương nghiệp quốc doanh, gồm mậu dịch quốc doanh hợp tác mua bán rộng khắp, nắm vững nguồn hàng; phát huy vai trò đòn bẩy, phục vụ thúc đẩy khôi phục phát triển sản xuất; làm cầu nối giữa sản xuất công nghiệp nông nghiệp. Hoạt động xuất khẩu được quan tâm, góp phần tăng tích lũy cho công nghiệp hóa hội chủ nghĩa mở rộng quan hệ buôn bán với nước ngoài.

Mặc vậy, do xuất phát điểm ban đầu thấp, đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu phân tán, nên sau 10 năm tích lũy hội chủ nghĩa, quy nền công nghiệp vẫn còn nhỏ bé, một số nguyên liệu quan trọng vẫn phải mua bên ngoài một phần nhờ các nước trong khối hội chủ nghĩa giúp đỡ như bông, sợi, sắt thép, nhôm, xăng dầu một số hóa chất. Hoạt động thương nghiệp chưa đủ sức cân đối cung - cầu, những lúc không đủ để cung cấp cho hội, nên bắt đầu xuất hiện “chế độ tem phiếu” để cung cấp một cách hạn chế theo định lượng.

Từ năm 1960 đã ghi nhận những nỗ lực cải tiến nhằm làm cho kinh tế kế hoạch hóa vận hành trơn tru hiệu quả hơn, như mở cuộc vận động thi đua “Hợp hóa sản xuất cải tiến kỹ thuật”; triển khai cuộc vận động cải tiến quản “Ba xây ba chống” (với nội dung “nâng cao ý thức trách nhiệm; tăng cường quản kinh tế tài chính; chống tham ô, lãng phí, quan liêu”); áp dụng hạch toán tới phân xưởng tổ sản xuất; để quần chúng tham gia xây dựng định mức, tự phấn đấu hoàn thành vượt định mức, tham gia công tác quản dân chủ hóa quản nghiệp; quy định những nguyên tắc về giá bán buôn công nghiệp, hướng dẫn cách xác định giá điều động liệu sản xuất liệu tiêu dùng nội bộ nghiệp quốc doanh công hợp doanh... nhưng nhìn chung, chưa thể tháo gỡ căn bản sự “nặng nề” trong điều hành nền kinh tế kế hoạch hóa.

hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung thường đạt kết quả khả quan nhất trong giai đoạn đầu, khi tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào lao động vốn. Hơn nữa, cho phép tập trung tối đa nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhưng càng về sau, những khiếm khuyết bộc lộ thường xuyên hơn, sức mạnh ban đầu của kinh tế kế hoạch hóa sẽ giảm sút. Điều này được thể hiện hơn giai đoạn sau (1964 - 1975).


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.841-842.

2, 3. Ban chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam (Tập 2), Sđd, tr.161, 147.

4. Bộ Thương mại: 60 năm thương mại Việt Nam (1946 - 2006), Nxb. Thế giới, Nội, 2006, tr.489.

5. Xem Viện Hàn lâm Khoa học hội Việt Nam, Viện Sử học, Trần Đức Cường (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 12 (Từ năm 1954 đến năm 1965), Sđd, tr.315.

1. Khôi phục và cải tạo thương nghiệp xã hội chủ nghĩa (1955 - 1960)

a) Chủ trương

Thương mại có chức năng phục vụ sản xuất và tiêu dùng, “người nội trợ của xã hội”. Với chức năng này, thương mại được Đảng, Chính phủ giao 5 trọng trách chính:

Thứ nhất, đảm bảo cung cấp và bình ổn vật giá một số mặt hàng thiết yếu cho lực lượng vũ trang, cán bộ và nhân dân. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Bộ Công Thương đã giao cho Sở Mậu dịch bí mật tỏa vào các vùng Pháp chiếm đóng mua thóc gạo. Đến khi tiếp quản Thủ đô, Chính phủ có tới 200 nghìn tấn thóc dự trữ đủ sức ứng phó với nạn đầu cơ tích trữ, giữ cho giá gạo không tăng, một thành tích cực kỳ to lớn đối với việc ổn định lòng dân thời hậu chiến. Ngoài thóc gạo, thương mại phải đảm bảo bình ổn vật giá các mặt hàng thiết yếu gồm vải, sợi, giấy, dầu, thịt, đường, sữa... Qua thời gian, danh sách mặt hàng bình ổn nối dài thêm theo nhu cầu của từng giai đoạn.

Thứ hai, đảm bảo cung cấp tư liệu sản xuất, vật tư đi đôi với tiêu thụ sản phẩm cho các ngành kinh tế.

Thứ ba, đẩy mạnh lưu thông hàng hóa để kích thích và hướng dẫn các ngành sản xuất theo yêu cầu của nền kinh tế quốc dân và kế hoạch của Nhà nước.

Thứ tư, phát triển thương nghiệp quốc doanh để cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, đối với thủ công nghiệp và những người buôn bán nhỏ.

Thứ năm, ngoại thương phải độc quyền, do Nhà nước quản lý.

Để thực hiện 5 trọng trách trên, giai đoạn 1955 - 1960, chúng ta có nhiều chính sách phát triển hệ thống thương nghiệp quốc doanh thông qua phát triển mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã mua bán, thành lập các tổng công ty xuất, nhập khẩu ở trung ương và công ty xuất, nhập khẩu ở địa phương: “Việc trao đổi hàng hóa bây giờ không phải chỉ trong phạm vi nước ta, mà còn phải mở rộng ra với các nước”1.

“Mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã phải chiếm khoảng 41% tổng số bán lẻ. Phải bình ổn giá những thứ hàng cần thiết cho đời sống nhân dân ở những thị trường chính, lãnh đạo giá các loại hàng cần thiết khác, tránh những sự đột biến về giá cả. Kiên quyết chống đầu cơ, gian lậu. Thực hiện thống nhất thu mua và cung cấp có kế hoạch đối với một số hàng cần thiết mà sản xuất chưa đủ cung cấp cho nhu cầu”2.

“Để tăng cường lực lượng hàng hóa của mậu dịch quốc doanh:

a) Cần tiến hành gấp các biện pháp đẩy mạnh sản xuất tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp trong nước, đồng thời cần vận động và hướng dẫn nhân dân tiết kiệm tiêu dùng đối với những hàng hóa mà hiện nay cung không đủ cầu.

b) Cần tranh thủ nhập khẩu kịp thời hàng tiêu dùng và nguyên liệu, vật liệu cần thiết (đặc biệt chú ý làm nhanh các đơn hàng với Liên Xô, Trung Quốc).

c) Đối với các nông sản, năm nay có thể nghiên cứu việc Chính phủ cho thống nhất thu mua một số loại thật cần thiết mà ta có điều kiện lãnh đạo (như gỗ, chè...). Đối với loại không thống nhất thu mua, phải chú trọng giáo dục nông dân bán nông sản phẩm cho Nhà nước, tăng cường tổ chức thu mua của mậu dịch và hợp tác xã và các biện pháp sử dụng thương nhân thu mua”3.

Phải phát triển và củng cố mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán nhằm đến năm 1960, sẽ nắm hầu hết thị trường bán buôn và hơn một nửa tổng ngạch hàng hóa bán lẻ”4.

b) Cải tạo thương nghiệp tư doanh

Từ năm 1957, phương châm chung trong cải tạo thương nghiệp tư doanh là “sử dụng - hạn chế - đi tới cải tạo”. Sử dụng là mậu dịch quốc doanh đặt hàng và bao tiêu sản phẩm cho các cơ sở thương nghiệp tư doanh gia công. Hạn chế là thương nghiệp quốc doanh khoanh vùng thu mua những nguyên liệu cần thiết như chè, cà phê, gỗ, thuốc lá; thống nhất xuất khẩu đối với những mặt hàng mà Nhà nước cần nắm để trao đổi với bên ngoài (cà phê, sa nhân, hoa hồi, sơn...); đánh thuế thực lãi vào kinh doanh thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, nâng cao thuế buôn chuyến.

Cải tạo gồm 2 bước: (i) Chuyển cơ sở thương nghiệp tư doanh thành đại lý cho thương nghiệp quốc doanh; (ii) Chuyển các đại lý thành công tư hợp doanh. “Cần tiếp tục thi hành chính sách hạn chế, sử dụng và cải tạo đối với thương nghiệp tư bản tư doanh với một mức độ khẩn trương hơn. Nói chung cần hạn chế không cho phát triển, hạn chế doanh số và mức lãi đủ duy trì mức sống bình thường của họ, loại trừ ngành bán buôn của họ và một số ngành kinh doanh không có lợi cho kinh tế quốc dân. Đối với số có khả năng, phải mở đường cho họ chuyển sang sản xuất, bỏ vốn vào sản xuất dưới những hình thức thích hợp; số người còn lại sẽ sử dụng chủ yếu qua các hình thức tư bản nhà nước”5.

Có 23.000 tiểu thương được tổ chức học tập chính sách cải tạo thương nghiệp tư doanh. Đến cuối năm 1960, “kể cả số người đã chuyển sang sản xuất và số người làm kinh tiêu, đại lý cho thương nghiệp quốc doanh từ mấy năm trước, thì số người buôn bán nhỏ được cải tạo đã chiếm tới 82%”6.

Sau tiến hành cải tạo thương nghiệp quốc doanh, cơ cấu nền thương nghiệp nước ta thay đổi nhanh chóng. Bán buôn thương nghiệp quốc doanh chiếm 28,1% năm 1955, tăng lên 93,6% năm 1960, thương nghiệp tư doanh từ 79,1% giảm xuống còn 6,4%. Đối với bán lẻ, năm 1955, thương nghiệp quốc doanh chiếm 19,8%, đến năm 1960 tăng lên 91,2%; ngược lại, thương nghiệp tư doanh từ 80,2% giảm xuống 8,8%. “Trong 3 năm, mức bán ra của mậu dịch quốc doanh tăng 142%. Khối lượng thu mua năm 1960 đã tăng 170% so với năm 1957. Giá hàng công nghiệp được ổn định trên cơ sở vững chắc hơn trước. Về giá các loại hàng nông sản, do ảnh hưởng của mùa màng, năm 1960, giá một số mặt hàng lương thực và thực phẩm trên thị trường tự do tăng lên cao hơn giá chỉ đạo của Nhà nước. Về ngoại thương tổng giá trị hàng xuất và nhập năm 1960 tăng hơn năm 1957 là 38,4%. Chúng ta đã cố gắng tăng mức xuất khẩu, đồng thời nhập những máy móc, thiết bị cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”7.

Tương tự như cải tạo công nghiệp, kết quả của cải tạo thương nghiệp tư doanh cũng được nhìn nhận trên hai bình diện. Một mặt, miền Bắc đã hình thành được thị trường xã hội chủ nghĩa thống nhất; thực hiện có kết quả nghị quyết Hội nghị Trung ương 14 (tháng 11/1958) là “đến năm 1960, sẽ nắm hầu hết thị trường bán buôn và hơn một nửa tổng ngạch hàng hóa bán lẻ”8; thị trường ổn định, vật giá không leo thang. Nhưng mặt khác, miền Bắc đã bỏ qua một nguồn lực không được tận dụng triệt để, trong khi thương nghiệp quốc doanh “chưa dự tính đúng sức mua, chưa nắm vững nhu cầu thiết yếu của các tầng lớp nhân dân”9. Nói cách khác, nguồn lực thực hiện theo kế hoạch nhà nước chiếm tỷ trọng lớn, nguồn lực điều tiết theo tín hiệu thị trường quá nhỏ nên cung - cầu có sự lệch pha.

Trong thực hiện, Đảng cũng nhận ra sẽ phát sinh những vấn đề khi đẩy nhanh cải tạo thương nghiệp tư doanh: “Phương thức thu mua và bán hàng của mậu dịch chưa hợp lý, tổ chức yếu, nhưng lại ôm đồm...”10; “Đối với những người buôn bán hạng trung và hạng lớn, chưa chú ý sử dụng hết khả năng về vốn và kinh nghiệm kinh doanh của họ trong việc đẩy mạnh lưu thông hàng hóa”11. Nhưng có hàng loạt vấn đề khiến Đảng đặt lòng tin vào một thị trường thống nhất, được kế hoạch hóa do thương nghiệp quốc doanh chi phối.

Thứ nhất, dư âm của cuộc khủng hoảng thiếu (giai đoạn 1919 - 1924) và khủng hoảng thừa (1929 - 1933) của chủ nghĩa tư bản khiến Đảng và Nhà nước tin rằng thương mại theo kế hoạch sẽ hướng dẫn sản xuất đúng với nhu cầu hơn.

Thứ hai, quan niệm “Nhà nước phải lo cho dân” dẫn đến ý muốn sử dụng công cụ của Nhà nước để thực hiện.

Thứ ba, những vấn đề cụ thể của giai đoạn đó như nạn đầu cơ tích trữ, trốn thuế, lậu thuế (được cho là xuất phát từ tư thương) cũng thúc đẩy quá trình cải tạo.

Cuối cùng, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa đã phần nào che khuất sự thiếu hụt hàng hóa trong nước, nên động lực huy động các thành phần kinh tế vào sản xuất và phân phối không còn mạnh mẽ như giai đoạn 1954 - 1956.

c) Phát triển nội thương

Trong nguyên lý kinh tế - xã hội chủ nghĩa, thương nghiệp không phải là cơ sở kinh doanh, mà có chức năng xã hội: phục vụ sản xuất và người tiêu dùng. Thương nghiệp cũng không tìm kiếm lợi nhuận vì bản thân nó, mà lợi nhuận là để dành cho tích lũy xã hội chủ nghĩa. Những nguyên lý này thúc đẩy một cách tự nhiên việc hình thành thương nghiệp quốc doanh, là công cụ chủ yếu để thực hiện.

Ngay từ lúc còn khuyến khích thương nghiệp tư doanh phát triển, ta đã có chủ trương đẩy nhanh hình thành thương nghiệp quốc doanh.

Ngày 04/12/1954, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 419/TTg về thành lập các tổng công ty chuyên nghiệp mậu dịch quốc doanh.

Ngày 15/3/1955, Bộ Công Thương ra Chỉ thị số 454-BCT/KB tổ chức lại ngành mậu dịch quốc doanh, thành lập và sắp xếp lại hệ thống công ty chuyên nghiệp mậu dịch quốc doanh. Theo Chỉ thị, ở Trung ương có các tổng công ty, ở các liên khu có các phân công ty khu, ở các tỉnh có công ty tỉnh.

Từ chỗ chỉ có Sở Mậu dịch Trung ương trong thời kỳ kháng chiến, đến năm 1957 đã có 10 tổng công ty ngành hàng với trên 900 cửa hàng rải khắp các địa phương ở miền Bắc. Trước tình hình nhiều cơ sở tiểu thủ công nghiệp bị đình đốn vì không cạnh tranh được với hàng ngoại thời tạm chiếm và thiếu vốn, thiếu nguyên liệu, máy móc phụ tùng sau giải phóng, mậu dịch quốc doanh đã thực sự hỗ trợ bằng cách đặt hàng gia công, thu mua, bao tiêu sản phẩm hàng hóa cho các cơ sở sản xuất, tạo đầu ra cho sản phẩm, góp phần đắc lực vào việc khôi phục và phát triển sản xuất.

Năm 1956, sản xuất tiểu thủ công nghiệp có gần 67.000 cơ sở với khoảng 188.000 lao động. Năm 1957, đã tăng lên gần 150.000 cơ sở với 474.000 lao động và năm 1958, Bộ Nội thương đã tổ chức được cuộc triển lãm “Bàn tay Vàng” tại nhà Đấu Xảo - Hà Nội với hơn 100 gian hàng, cùng hàng nghìn mặt hàng, đánh dấu thời kỳ khôi phục và phát triển rực rỡ của tiểu thủ công nghiệp ở miền Bắc.

Như vậy, chỉ hơn hai năm sau khi hòa bình được lập lại, sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp không những đã được khôi phục, mà còn phát triển vượt mức năm 1939 - năm được coi là sản xuất cao nhất trước chiến tranh. Đời sống nông dân và nhân dân lao động được từng bước cải thiện, ổn định.

Cùng với mậu dịch quốc doanh, hệ thống hợp tác xã mua bán được quan tâm phát triển ở khắp các tỉnh, thành phố, đặc biệt ở khu vực nông thôn và miền núi. Ngày 26/12/1955, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 641/TTg thành lập các cơ quan quản lý hợp tác xã ở các cấp: Trung ương, khu, tỉnh và thành phố. Theo đó, hệ thống tổ chức cơ quan quản lý hợp tác xã các cấp được xác định như sau:

- Ở Trung ương có Cục Quản lý hợp tác xã trực thuộc Thủ tướng phủ.

- Ở các Khu tự trị có Phân cục Quản lý hợp tác xã.

- Ở tỉnh, thành phố và ở khu Hồng Quảng có Chi cục Quản lý hợp tác xã.

- Ở các Liên khu Việt Bắc, III, IV và Khu Tả Ngạn không tổ chức cơ quan quản lý hợp tác xã, mà chỉ tổ chức một bộ phận chuyên trách đặt trong văn phòng Ủy ban hành chính để giúp Ủy ban hành chính lãnh đạo, kiểm tra, theo dõi phong trào hợp tác xã trong Liên khu.

- Ở huyện, việc lãnh đạo, kiểm tra theo dõi phong trào hợp tác xã do một ủy viên Ủy ban hành chính huyện phụ trách.

Đến cuối năm 1957, ở tất cả 28 tỉnh, thành phố ở miền Bắc đã tổ chức được 207 hợp tác xã mua bán cơ sở (lúc đó, cấp huyện là đơn vị cơ sở của hợp tác xã mua bán, bao gồm 1,5 triệu xã viên trong 4.000 xã).

Với hệ thống mậu dịch quốc doanh cùng các đại lý của mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán, hoạt động nội thương trong giai đoạn này là phục vụ khôi phục kinh tế, giảm bớt khó khăn, ổn định đời sống nhân dân, đấu tranh bình ổn vật giá.

Tháng 01/1955, sau khi việc điều chỉnh giá hàng công nghiệp vừa được thực hiện, một khó khăn lớn xuất hiện: Giá gạo trên thị trường tăng nhanh, lượng gạo của mậu dịch quốc doanh giảm mạnh, nếu cứ tiếp tục bán tự do thì chỉ sau một thời gian ngắn là hết. Mậu dịch quốc doanh đã tiến hành những biện pháp mới để đấu tranh bình ổn giá gạo. Cụ thể, việc bán gạo được điều chỉnh như sau:

bảng 19

- Đối với công nhân, viên chức và các thành viên trong gia đình, vẫn tiếp tục cung cấp theo định lượng và giá ổn định.

- Đối với các tầng lớp nhân dân khác, tạm thời điều chỉnh giá bán lên sát với giá thị trường, nhằm thu hút nguồn gạo còn trong nông dân và nguồn gạo từ miền Nam ra. Nhờ đó, thị trường có thêm nguồn gạo, tạm đáp ứng được nhu cầu, đà tăng giá bị chặn lại.

Thôi đừng “ích kỷ hại nhân”

Gạo là để tiếp tế cho nhân dân. Chính phủ luôn luôn lo cho nhân dân đủ gạo. Và gạo có đủ chứ không thiếu.

Song, có một bọn đầu cơ, ngày nào cũng kéo tất cả vợ chồng, cha mẹ, con cháu, anh em, người nhà lớn bé đến choán chỗ trước cửa mậu dịch, để tranh mua gạo. Rồi họ bán lại ngay ở bên lề đường, với một giá đắt hơn. Làm như thế là “vi phú bất nhân”, là tranh bữa ăn của đồng bào, là bóp hầu bóp họng đồng bào, là không có lương tâm.

Những người đầu cơ ấy đã làm cho chính quyền vất vả, làm cho nhân dân thiệt thòi.

Nhân dân nên phê bình họ, giáo dục họ, ngăn cản không để họ làm những việc “ích kỷ hại nhân” như vậy. Chính quyền thì nên dùng cách bán gạo cho hợp lý, bán theo vé hoặc bán theo sổ gia đình, làm thế nào nhân dân ai cũng đủ gạo, chứ không để những người đầu cơ làm giàu.

Chính quyền và nhân dân hợp sức lại thì nhất định chặn được tay của bọn đầu cơ và nhân dân nhất định có gạo đầy đủ.

Nguồn: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.263.

Từ tháng 6/1955, lúa chiêm được thu hoạch. Nguồn lực của mậu dịch quốc doanh được bổ sung bằng thóc thuế và thu mua. Gạo viện trợ của các nước trong khối xã hội chủ nghĩa cũng bắt đầu về. Có gạo, lại phải nghiên cứu cách bán ra để kéo giá xuống. Vì vậy, Chính phủ đã chấp thuận biện pháp mà Bộ Công Thương kiến nghị. Theo đó, mậu dịch quốc doanh từng bước mở rộng việc bán gạo cho nhân dân và từng bước kéo giá xuống; khi xuống đến mức 400 đồng/kg, tương ứng với mức giá dự kiến chỉ đạo mua thóc (240 đồng/kg) thì ngưng lại và Nhà nước sẽ công bố ổn định mức giá này trong một thời gian dài, áp dụng chung cho mọi đối tượng, chấm dứt vụ đột biến giá đầu tiên sau khi miền Bắc được giải phóng.

Cuộc đấu tranh bình ổn giá gạo lần thứ hai vào giữa năm 1957, mậu dịch quốc doanh mua không kịp, vì không có đủ tiền mua và không có đủ kho chứa thóc. Giá thóc gạo trên thị trường bị tư thương dìm xuống thấp.

Trước tình hình này, Bộ Thương nghiệp đã chỉ đạo Tổng Công ty Lương thực phải mua hết lúa gạo của nông dân. Cuộc đấu tranh này kéo dài sang cả những năm 1958 - 1959, không những đối với lúa gạo, mà cả đối với một số nông sản khác như mía, đường mật... Kết quả là đã giữ được giá thị trường ở mức giá chỉ đạo có lợi cho sản xuất, thúc đẩy nhanh chóng việc phục hồi và phát triển nông nghiệp.

Cuối năm 1956, nguồn hàng công nghiệp của thương nghiệp quốc doanh giảm sút, lượng hàng giao cho đại lý giảm. Lợi dụng tình hình này, nhiều kinh tiêu, đại lý găm hàng hoặc tuồn hàng cho tư thương bên ngoài đầu cơ đẩy giá thị trường lên cao. Để đấu tranh bình ổn giá, Bộ Thương nghiệp đã đề ra một loạt biện pháp:

- Tăng cường quản lý việc bán hàng của các kinh tiêu, đại lý. Trừng trị nghiêm những kẻ đầu cơ lợi dụng hàng của mậu dịch quốc doanh để nâng giá kiếm lời bất chính.

- Nhanh chóng mở rộng mạng lưới bán lẻ của mậu dịch quốc doanh ở thành thị và hợp tác xã mua bán ở nông thôn. Đến cuối năm 1957, mậu dịch quốc doanh đã có hơn 900 cửa hàng và doanh số bán lẻ tăng gấp 2,2 lần năm 1955. Riêng ở Hà Nội, trong một thời gian ngắn đã mở được ba cửa hàng lớn, gồm: Bách hóa Tràng Tiền, Bách hóa số 5 Nam Bộ, Vải sợi Đinh Tiên Hoàng...

- Tích cực tiếp nhận và đưa nhanh nguồn hàng viện trợ của các nước vào lưu thông.

- Yêu cầu các tổng công ty phải đẩy mạnh gia công, thu mua sản phẩm, khuyến khích tạo ra nhiều mặt hàng mới.

Để thực hiện chức năng xã hội: phục vụ sản xuất và người tiêu dùng, thương nghiệp có ba nguồn hàng cơ bản. Nguồn thứ nhất và quan trọng nhất là các xí nghiệp quốc doanh và các cơ sở gia công của mậu dịch quốc doanh giao nộp sản phẩm. Nguồn hàng này thực hiện qua cơ chế cấp phát và giao nộp: Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vật tư (qua thương nghiệp) cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước (qua thương nghiệp) để cấp phát hoặc bán lẻ trên thị trường. Nguồn thứ hai, từ nhập khẩu, qua ba hình thức: nhận viện trợ, vay nợ của các nước xã hội chủ nghĩa và trao đổi mậu dịch. Nguồn thứ ba, hệ thống thương nghiệp quốc doanh thu mua nông, lâm sản của các hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Đây là nguồn hàng quan trọng, được tập trung cao độ vào thương nghiệp quốc doanh. Đến năm 1959 - 1960, hàng nông sản do mậu dịch quốc doanh mua vào đã đạt tỷ trọng rất cao trong hàng hóa nông nghiệp: thóc: 86,1%; ngô: 63,5%; đỗ tương: 75%; lạc: 70%; đỗ các loại: 81,8%; bông: 100%; đay: 95%; thuốc lá: 67%.

Nhìn chung, thương nghiệp quốc doanh đã có sự phát triển rất nhanh chóng, tổng trị giá hàng hóa mua vào trong 5 năm (1955 - 1960) tăng 6,3 lần, tổng mức lưu chuyển bán lẻ năm 1960 so với năm 1955 tăng hơn 6 lần. Hàng nghìn cửa hàng bán buôn, bán lẻ, thu mua và phục vụ ăn uống, dịch vụ ra đời, tạo nên mạng lưới kinh doanh thương nghiệp trải khắp các thành phố, tỉnh, huyện và thị trấn. Nếu năm 1955 mới có 511 cửa hàng thì đến năm 1960 đã có 1.987 cửa hàng...

Giai đoạn này, ngành Nội thương rất nỗ lực trong tổ chức tiếp nhận, thu mua và phân phối cho hoạt động sản xuất và tiêu dùng; góp phần hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định sản xuất và đời sống nhân dân; thị trường giá cả bình ổn; hàng hóa trên thị trường ngày càng phong phú hơn, việc mua bán dễ dàng, thuận tiện hơn. “Công tác thương nghiệp được mở rộng và tăng cường, trong 3 năm, mức bán ra của mậu dịch quốc doanh tăng 142%. Khối lượng thu mua năm 1960 đã tăng 170% so với năm 1957”12.

Nhưng việc khai thác các nguồn hàng phục vụ không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Ngày 19/12/1959, Phủ Thủ tướng ban hành Chỉ thị số 459/TTg về việc đẩy mạnh công tác thu thuế, thu nợ và mua thóc, nhấn mạnh: “Có hợp tác xã nông nghiệp dành thóc tốt để chia hoa lợi cho xã viên và để bỏ vào quỹ chung, đem thóc xấu nộp thuế, một số nông dân giữ thóc tốt lại để dành hoặc làm gạo bán ra, đem nộp thuế thóc vừa hoặc xấu của nhà mình, thậm chí có người đem bán thóc tốt lấy giá cao, mua thóc xấu nộp cho Nhà nước. Một số nơi tính thuế cho hợp tác xã nông nghiệp chậm, nên thu chậm”.

“Việc vận động trung nông thừa thóc bán cho Nhà nước còn yếu, nên ít kết quả. Một số khá đông hợp tác xã nông nghiệp còn có những ý nghĩa không đúng, còn so đo, tính toán chưa chịu bán thóc quỹ của hợp tác xã cho Nhà nước, chưa vận động xã viên thừa thóc gương mẫu trong việc bán cho Nhà nước. Việc quản lý thị trường nhiều nơi còn lỏng lẻo”;

“Diện thu mua vẫn còn để quá dày, việc ủy thác xã vẫn chưa bố trí theo đúng sự hướng dẫn của Bộ Nội thương. Việc bảo quản, vận chuyển thóc ở những nơi mua dồn dập đang gặp khó khăn, một số thóc phải để ngoài trời đã bị mưa”.

Hàng công nghiệp giao nộp cũng tương tự, thường xuyên thiếu, nhất là hàng may mặc, phương tiện đi lại như xe đạp và phụ tùng, hóa phẩm như xà phòng, kem đánh răng...

d) Phát triển ngoại thương

Ngoại thương thuộc hoạt động độc quyền của Nhà nước. Giai đoạn này, xuất khẩu không nhiều, chủ yếu là nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu chiếm tỷ trọng rất lớn là tiếp nhận viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, một phần nhỏ hơn là sử dụng ngoại tệ của Nhà nước để mua hàng hóa. Có ba phương châm chính chỉ đạo hoạt động ngoại thương, gồm: (1) Tăng cường quan hệ với nước ngoài trên cơ sở đảm bảo chủ quyền dân tộc; (2) Tranh thủ viện trợ quốc tế và (3) Đẩy mạnh xuất khẩu để duy trì nhập khẩu.

Tháng 4/1958, Bộ Thương nghiệp tách ra thành Bộ Nội thương (Bộ trưởng Đỗ Mười) và Bộ Ngoại thương (Bộ trưởng Phan Anh). Về mặt tổ chức, trong từng thời kỳ có những sự điều chỉnh, nhưng đại thể, trong Bộ Ngoại thương có Vụ Khu vực I (với các nước xã hội chủ nghĩa); Vụ Khu vực II (với các nước tư bản chủ nghĩa) và 8 tổng công ty xuất, nhập khẩu trực tiếp hàng hóa (Agrexport, Vegetexco, Tocontap, Naforimex, Minexport, Artexport, Machinoimport, Technoimport). Một số cơ quan khác trực thuộc Bộ Ngoại thương trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ công tác xuất, nhập khẩu là Cục Kiểm nghiệm, Tổng Công ty Thuê tàu (Vietfracht), Công ty Giao nhận hàng xuất, nhập khẩu (Vietrans), Phòng Thương mại...

thu mua thóc

Mỗi ngày, trạm thu mua của hợp tác xã mua bán huyện Thanh Trì thu mua của nông dân khoảng 10 tấn thóc (tháng 12/1958) (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Ở các tỉnh, thành phố có công ty ngoại thương địa phương với nhiệm vụ tổ chức các trạm thu mua, gia công hàng xuất khẩu đặt ở những nơi trung tâm (huyện, thị xã) có nhiều hàng xuất khẩu. Ngoài ra, có một số ít xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu (mây tre đan, mành tre...) trực thuộc các tổng công ty xuất, nhập khẩu của Bộ Ngoại thương. Các công ty ngoại thương các tỉnh không được trực tiếp xuất, nhập khẩu với nước ngoài, mọi hàng hóa đều bán cho các tổng công ty trung ương hoặc ủy thác xuất qua các tổng công ty trung ương.

Về hàng hóa: Lực lượng làm công tác ngoại thương cũng đã tích cực tạo thêm nguồn hàng xuất khẩu, gồm các loại nông, lâm sản như lạc, vừng, chè, gỗ ván sàn, ba kích, thảo quả, hạt sen khô, nhãn, vải sấy khô...; tạp phẩm có cao Sao Vàng, giầy vải...; khoáng sản có Apatít Lào Cai, Than Quảng Ninh và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ là hàng mây tre đan.

Giá trị xuất khẩu tăng khá nhanh. Năm 1955, kim ngạch mới đạt 6,6 triệu USD, đến năm 1960 đã đạt 71 triệu USD. Cơ cấu hàng xuất khẩu khá tích cực, năm 1959, hàng hóa công nghiệp và thủ công nghiệp chiếm trên 62%, hàng nông, lâm, hải sản chiếm 38% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu13. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu thời gian này còn manh mún, giá trị thấp, phân tán khắp nơi, nên đa số phải thu gom dần, chưa có mặt hàng nào là hàng xuất khẩu chủ lực.

Hàng nhập khẩu: Ngoài việc tiếp nhận viện trợ xây dựng các công trình, như xây dựng hệ thống các nhà máy điện, nhà máy nước, gang thép, ximăng, hệ thống các xí nghiệp cơ khí, các công trình giao thông, bến cảng, sân bay, các công trình phục vụ quốc phòng, phục vụ chiến đấu, hệ thống các nhà máy phục vụ dân sinh và xuất khẩu như dệt may, chế biến rau quả..., hàng nhập khẩu chủ yếu là những máy móc lẻ, những bộ phận linh kiện để duy trì sản xuất một số ngành công nghiệp nhẹ, phục vụ đời sống như một số hóa chất, dược liệu, dược phẩm, giấy báo..., thậm chí một vài loại nhạc cụ, một số bộ phận, linh kiện để duy trì sản xuất của một số xí nghiệp công nghiệp.

Giá trị nhập khẩu giai đoạn này cao hơn nhiều so với xuất khẩu. Năm 1955, kim ngạch nhập khẩu gấp hơn 10 lần xuất khẩu, 68,3 triệu USD. Năm 1960, cán cân ngoại thương thu hẹp hơn, nhập khẩu trị giá 116,5 triệu USD, so với xuất khẩu 71 triệu USD, bằng 164% kim ngạch xuất khẩu.

thu mua bông

Cửa hàng Bách hóa huyện Quỳnh Côi (Thái Bình) thu mua bông của nông dân, năm 1956 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Trên phương diện kinh tế đối ngoại, ta đã thực hiện phương châm không ngừng củng cố và phát triển quan hệ kinh tế - thương mại với các nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước ngoài xã hội chủ nghĩa thuộc “thế giới thứ ba”, như Nam Á, Bắc Phi, Trung Cận Đông...

Bên cạnh các hiệp định thương mại, kinh tế, kỹ thuật với các nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại với Chính phủ Pháp (cuối năm 1955), Ấn Độ (cuối năm 1956), Inđônêxia (đầu năm 1957), tiếp theo sau là Cộng hòa Ả rập Thống nhất, Campuchia, Irắc,... Việt Nam cũng mở rộng quan hệ buôn bán với nhiều thị trường trong khu vực và trên thế giới. Tính đến năm 1960, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 22 nước.

Mậu dịch tiểu ngạch ở biên giới Việt - Trung

Từ năm 1958, Chính phủ hai nước Việt Nam và Trung Quốc thống nhất về chính sách mậu dịch tiểu ngạch nhân dân trong khu vực biên giới Việt - Trung nhằm tạo thuận lợi cho cư dân biên giới hai nước được đi lại dễ dàng qua biên giới trao đổi những hàng hóa cần thiết cho đời sống hằng ngày.

Ngày 04/11/1958, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 486/ TTg về bản điều lệ quản lý mậu dịch tiểu ngạch nhân dân trong khu vực biên giới Việt - Trung. Theo đó, cư dân trong khu vực biên giới (từ biên giới đi vào nội địa mỗi bên 20 cây số) phía Việt Nam muốn sang thị trường ở khu vực biên giới phía Trung Quốc để trao đổi phải có giấy phép thông hành do cơ quan Công an biên phòng cấp.

Mỗi ngày, mỗi người chỉ được phép qua lại một lần, mỗi lần chỉ được trao đổi một số hàng trị giá không quá 10 đồng nhân dân tệ hay số tiền Việt Nam trị giá tương đương và phải tuân theo các thể lệ hải quan, thuế khóa và các luật lệ do Chính phủ hai nước đã công bố.

Cư dân biên giới chỉ được trao đổi trên những thị trường nhất định và qua những cửa khẩu nhất định do Bộ Ngoại thương công bố. Đồng thời, chỉ được mang đi trao đổi những hàng hóa do mình sản xuất ra (chủ yếu hàng nông sản, thực phẩm). Chẳng hạn, không được trao đổi những thứ được Nhà nước cung cấp với giá bao cấp như vải may quần áo và chỉ được phép mua về những hàng hóa cần thiết cho đời sống hằng ngày, trừ những hàng thuộc loại hàng cấm hoặc hạn chế nhập khẩu.

Bộ Ngoại thương là cơ quan thay mặt Chính phủ quy định những hàng hóa được phép trao đổi và công bố cho nhân dân biên giới biết; việc đánh thuế xuất, nhập khẩu vào các hàng hóa trao đổi giữa cư dân biên giới sẽ theo chính sách thuế xuất, nhập khẩu riêng áp dụng cho mậu dịch tiểu ngạch biên giới Việt - Trung. Khi cần thiết, Bộ Ngoại thương sẽ căn cứ vào tình hình trao đổi thực tế mà đề nghị Chính phủ sửa đổi danh mục hàng cần đánh thuế và thuế suất.

Đối với tiền tệ, không ai được mang tiền Việt Nam ra khỏi biên giới hoặc mang nhân dân tệ vào Việt Nam, trừ khi nào được Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cho phép. Cư dân trong khu vực biên giới hai nước chỉ được đổi số tiền thừa sau khi trao đổi hàng, số tiền này không được quá một đồng nhân dân tệ hoặc số tiền Việt Nam trị giá tương đương.

Cư dân trong khu vực biên giới phía Việt Nam, khi mang hàng sang thị trường biên giới phía Trung Quốc trao đổi có thể được Ngân hàng đổi cho một số nhân dân tệ nhỏ để chi tiêu những khoản thật cần thiết trước khi bán hàng. Trường hợp cần thiết được đổi tiền và mức tiền có thể được đổi sẽ do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ấn định cho từng cửa khẩu.

Để quản lý việc trao đổi hàng hóa theo đường mậu dịch tiểu ngạch, Chính phủ có những quy định để xử lý những cư dân vi phạm. Đối với những hành động như trao đổi hàng hóa không đúng cửa khẩu, không đúng loại hàng hóa được phép trao đổi; giá trị hàng trao đổi vượt quá 10 nhân dân tệ, hay trốn thuế... sẽ tùy trường hợp nặng nhẹ, vô tình hay hữu ý mà áp dụng một hoặc nhiều trong các hình thức xử lý sau đây:

- Cảnh cáo, rút giấy thông hành không cho phép xuất biên một thời gian.

- Tịch thu một phần hay toàn bộ số hàng trái phép; phạt tiền nhiều nhất là 3 lần trị giá số hàng trái phép, hoặc vừa tịch thu vừa phạt tiền.

Riêng đối với những hành động mang tiền Việt Nam trái phép ra khỏi biên giới hay mang tiền nhân dân tệ vào Việt Nam, sẽ tùy theo trường hợp nhẹ hay nặng mà áp dụng một hoặc nhiều trong các hình thức xử lý sau đây:

- Phạt tiền từ 10 đến 50% trị giá số tiền mang trái phép.

- Tịch thu một phần hoặc toàn bộ số tiền mang trái phép.

- Tịch thu toàn bộ tang vật và phạt tiền từ 1 đến 5 lần trị giá tiền mang trái phép.

- Những người phạm các điểm sau đây có thể bị truy tố trước tòa án nhân dân tỉnh:

+ Đã bị xử lý nhiều lần mà vẫn ngoan cố tái phạm;

+ Buôn lậu chuyên nghiệp, buôn lậu có tổ chức;

+ Cầm đầu tổ chức buôn lậu, buôn lậu gây tác hại nghiêm trọng.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.208.

2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.18, tr.269, 79-80.

4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.19, tr.493, 495.

6. https://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?AnPhamItemID=1344.

7. https://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?AnPhamItemID=1344

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.19, tr.493.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.729.

10, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.729, 730.

12. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Văn kiện Quốc hội toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.2, tr.276.

13. Xem Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Trần Đức Cường (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 12 (Từ năm 1954 đến năm 1965), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2014, tr.97.

CHƯƠNG IV: CÔNG NGHIỆP - THƯƠNG MẠI VỚI HAI NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC: XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC VÀ CHI VIỆN CHO MIỀN NAM (1965 - 1975)

công nhân dệt Công nhân Nhà máy Liên hiệp Dệt Nam Định vừa sản xuất, vừa đeo súng sẵn sàng chiến đấu (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam) công nhân Supe

Các cán bộ, công nhân viên Nhà máy Supe Phốtphát Lâm Thao điều chế phân bón qua hệ thống cánh khuấy chạy điện (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

lốp xe đạp

Những chiếc lốp xe đạp vừa được tháo ra từ khuôn hấp của dây chuyền sản xuất mới của Nhà máy Cao su Sao Vàng Hà Nội, tháng 10/1974 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Danh mục

Tùy chỉnh