3. Đào tạo phát triển nguồn nhân lực

Năm 1965, không quân hải quân Mỹ tăng cường đánh phá miền Bắc. Đảng ta quyết định chuyển toàn bộ hoạt động của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến nhằm bảo đảm đủ sức mạnh làm tròn vai trò, nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Các trường đại học, trung cấp tán khỏi các khu đô thị để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đào tạo nghiên cứu khoa học. Trường Cán bộ Ngoại giao - Ngoại thương tán về thôn Thù Lâm, Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Khi tán lên Phổ Yên chỉ khóa 2 khóa 3 Ngoại thương Ngoại giao cùng tán theo trường, riêng khóa 1 chiêu sinh từ Trường Kinh tế - Tài chính, chuẩn bị tốt nghiệp nên được phân công tất cả về các tổng công ty xuất nhập khẩu (thuộc Bộ Ngoại thương) để thực tập ôn thi tốt nghiệp. Bắt đầu khóa 5 (1966 - 1967), Trường Cán bộ Ngoại giao - Ngoại thương được tách ra thành 2 trường: Trường Ngoại giao Trường Ngoại thương. Khi chia tách thành 2 trường, Trường Ngoại thương chuyển về Hồng Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Tây (nay Nội). Với phương châm đào tạo “học đi đôi với hành”, Trường dành hẳn 1 học kỳ để sinh viên đi thực tập nghiệp vụ tại các tổng công ty xuất nhập khẩu các đơn vị trực thuộc Bộ Ngoại thương. Tuy nhiên, do ngành Ngoại thương thời đó chưa thực sự “buôn bán quốc tế”, theo những luật lệ luật chơi của thị trường, chủ yếu đi xin tiếp nhận viện trợ từ các nước hội chủ nghĩa. Xuất, nhập khẩu với vài thị trường bản chủ nghĩa, kim ngạch nhỏ chủ yếu qua thị trường Hồng Kông. vậy, nghiệp vụ ngoại thương các giáo viên tiếp nhận được từ các công ty xuất nhập khẩu cũng không nhiều.

Để đào tạo nguồn nhân lực trình độ đại học, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 182/CP ngày 03/9/1965, mở hệ đại học tại Trường Thương nghiệp Trung ương. Trường triển khai đào tạo đại học trong điều kiện chiến tranh, phải đi tán về nhiều nơi. Ngày 15/6/1966, một số lớp bộ môn đi tán về thôn Đục Khê, Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Tây. Ngày 16/5/1967, Trường tán về 5 Phú Cường, Hùng Cường, Đức Hợp, Mai Động, Phú Thịnh (thuộc huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên). nơi tán, Trường đã thực hiện “giảng dạy sẵn sàng chiến đấu”, “đảm bảo an toàn tuyệt đối” cho cán bộ, giáo viên, công nhân viên sinh viên. Cuối năm 1968, khi chiến tranh phá hoại bằng đường không lần thứ nhất chấm dứt, giáo viên học viên trở về Nội. Đến tháng 4/1972, cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai bắt đầu, một bộ phận cán bộ, giáo viên sinh viên của Trường tán về huyện Phúc Thọ, tỉnh Tây. Ngày 10/7/1972, Trường tán về các Thạch Đồng Hoàng (huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ). Từ khi trường tán về Tây, Phú Thọ, việc giảng dạy, học tập phải phân tán nhiều thôn, xã, thời gian phải chia thành lớp nhỏ nên đã gặp rất nhiều khó khăn trong giảng dạy học tập.

Tình hình của các trường trung cấp kỹ thuật, nghiệp vụ thương mại cũng tương tự. Năm 1966, Trường Trung cao điện (nay Đại học Công nghiệp Nội) đổi tên thành Trường Trung học khí I. Trong thời gian chiến tranh, Trường tán lên tỉnh Vĩnh Phúc. Mặc phải đi tán nhiều nơi, việc học tập, nghiên cứu thực hành hết sức khó khăn, nhưng với tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai”, các trường đại học, trung cấp thuộc các bộ quản ngành Công Thương đã hoàn thành chỉ tiêu đào tạo nghiên cứu. Mỗi năm cung cấp hàng vạn cán bộ, kỹ sư, công nhân kỹ thuật, mậu dịch viên... cho các ngành kinh tế. Đặc biệt, cán bộ, giáo viên học viên các trường thực hiện tốt nhiều nhiệm vụ đột xuất của thời chiến, như lớp Công nghệ phẩm 4, Trường Thương nghiệp Trung ương đã tham gia cứu hàng bị máy bay địch đánh phá tại tổng kho Đức Giang trong trận Điện Biên Phủ trên không 12 ngày đêm; năm 1973, đang trong thời gian chuẩn bị thi tốt nghiệp, lớp Kỹ thuật ăn uống 4 được Bộ Nội thương điều động phục vụ cho việc trình Quốc thư của các nước Á - Phi với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại tỉnh Quảng Trị, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, được biểu dương khen thưởng...

Trong giai đoạn này, một số trường được xây dựng chiến trường miền Nam, như Trường Nghiệp vụ thương nghiệp Trung Trung Bộ, thành lập ngày 27/3/1973, thuộc Ban Kinh tế Khu V, đóng tại thôn Nước Oa, Trà Tân, huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam. Lúc bấy giờ Trường nhiệm vụ đào tạo cán bộ phục vụ hậu cần cho công cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam chuẩn bị đội ngũ cán bộ thương nghiệp tham gia công tác tại các tỉnh Khu V sau khi chiến tranh kết thúc. Ngày 29/3/1975, thành phố Đà Nẵng được hoàn toàn giải phóng, Trường được chuyển về đóng tại phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng tiếp tục sự nghiệp đào tạo cán bộ thương nghiệp cho các tỉnh khu vực miền Trung.

3. Đào tạo phát triển nguồn nhân lực

Năm 1965, không quân hải quân Mỹ tăng cường đánh phá miền Bắc. Đảng ta quyết định chuyển toàn bộ hoạt động của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến nhằm bảo đảm đủ sức mạnh làm tròn vai trò, nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Các trường đại học, trung cấp tán khỏi các khu đô thị để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đào tạo nghiên cứu khoa học. Trường Cán bộ Ngoại giao - Ngoại thương tán về thôn Thù Lâm, Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Khi tán lên Phổ Yên chỉ khóa 2 khóa 3 Ngoại thương Ngoại giao cùng tán theo trường, riêng khóa 1 chiêu sinh từ Trường Kinh tế - Tài chính, chuẩn bị tốt nghiệp nên được phân công tất cả về các tổng công ty xuất nhập khẩu (thuộc Bộ Ngoại thương) để thực tập ôn thi tốt nghiệp. Bắt đầu khóa 5 (1966 - 1967), Trường Cán bộ Ngoại giao - Ngoại thương được tách ra thành 2 trường: Trường Ngoại giao Trường Ngoại thương. Khi chia tách thành 2 trường, Trường Ngoại thương chuyển về Hồng Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Tây (nay Nội). Với phương châm đào tạo “học đi đôi với hành”, Trường dành hẳn 1 học kỳ để sinh viên đi thực tập nghiệp vụ tại các tổng công ty xuất nhập khẩu các đơn vị trực thuộc Bộ Ngoại thương. Tuy nhiên, do ngành Ngoại thương thời đó chưa thực sự “buôn bán quốc tế”, theo những luật lệ luật chơi của thị trường, chủ yếu đi xin tiếp nhận viện trợ từ các nước hội chủ nghĩa. Xuất, nhập khẩu với vài thị trường bản chủ nghĩa, kim ngạch nhỏ chủ yếu qua thị trường Hồng Kông. vậy, nghiệp vụ ngoại thương các giáo viên tiếp nhận được từ các công ty xuất nhập khẩu cũng không nhiều.

Để đào tạo nguồn nhân lực trình độ đại học, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 182/CP ngày 03/9/1965, mở hệ đại học tại Trường Thương nghiệp Trung ương. Trường triển khai đào tạo đại học trong điều kiện chiến tranh, phải đi tán về nhiều nơi. Ngày 15/6/1966, một số lớp bộ môn đi tán về thôn Đục Khê, Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Tây. Ngày 16/5/1967, Trường tán về 5 Phú Cường, Hùng Cường, Đức Hợp, Mai Động, Phú Thịnh (thuộc huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên). nơi tán, Trường đã thực hiện “giảng dạy sẵn sàng chiến đấu”, “đảm bảo an toàn tuyệt đối” cho cán bộ, giáo viên, công nhân viên sinh viên. Cuối năm 1968, khi chiến tranh phá hoại bằng đường không lần thứ nhất chấm dứt, giáo viên học viên trở về Nội. Đến tháng 4/1972, cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai bắt đầu, một bộ phận cán bộ, giáo viên sinh viên của Trường tán về huyện Phúc Thọ, tỉnh Tây. Ngày 10/7/1972, Trường tán về các Thạch Đồng Hoàng (huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ). Từ khi trường tán về Tây, Phú Thọ, việc giảng dạy, học tập phải phân tán nhiều thôn, xã, thời gian phải chia thành lớp nhỏ nên đã gặp rất nhiều khó khăn trong giảng dạy học tập.

Tình hình của các trường trung cấp kỹ thuật, nghiệp vụ thương mại cũng tương tự. Năm 1966, Trường Trung cao điện (nay Đại học Công nghiệp Nội) đổi tên thành Trường Trung học khí I. Trong thời gian chiến tranh, Trường tán lên tỉnh Vĩnh Phúc. Mặc phải đi tán nhiều nơi, việc học tập, nghiên cứu thực hành hết sức khó khăn, nhưng với tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai”, các trường đại học, trung cấp thuộc các bộ quản ngành Công Thương đã hoàn thành chỉ tiêu đào tạo nghiên cứu. Mỗi năm cung cấp hàng vạn cán bộ, kỹ sư, công nhân kỹ thuật, mậu dịch viên... cho các ngành kinh tế. Đặc biệt, cán bộ, giáo viên học viên các trường thực hiện tốt nhiều nhiệm vụ đột xuất của thời chiến, như lớp Công nghệ phẩm 4, Trường Thương nghiệp Trung ương đã tham gia cứu hàng bị máy bay địch đánh phá tại tổng kho Đức Giang trong trận Điện Biên Phủ trên không 12 ngày đêm; năm 1973, đang trong thời gian chuẩn bị thi tốt nghiệp, lớp Kỹ thuật ăn uống 4 được Bộ Nội thương điều động phục vụ cho việc trình Quốc thư của các nước Á - Phi với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại tỉnh Quảng Trị, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, được biểu dương khen thưởng...

Trong giai đoạn này, một số trường được xây dựng chiến trường miền Nam, như Trường Nghiệp vụ thương nghiệp Trung Trung Bộ, thành lập ngày 27/3/1973, thuộc Ban Kinh tế Khu V, đóng tại thôn Nước Oa, Trà Tân, huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam. Lúc bấy giờ Trường nhiệm vụ đào tạo cán bộ phục vụ hậu cần cho công cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam chuẩn bị đội ngũ cán bộ thương nghiệp tham gia công tác tại các tỉnh Khu V sau khi chiến tranh kết thúc. Ngày 29/3/1975, thành phố Đà Nẵng được hoàn toàn giải phóng, Trường được chuyển về đóng tại phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng tiếp tục sự nghiệp đào tạo cán bộ thương nghiệp cho các tỉnh khu vực miền Trung.

2. Hệ thống tổ chức và quản lý

Đầu năm 1965, trong bối cảnh từ một nửa nước có chiến tranh, một nửa nước có hòa bình đã chuyển sang cả nước có chiến tranh; miền Nam đã là tiền tuyến lớn, miền Bắc phải trở thành hậu phương lớn, ngành Công Thương chủ động xây dựng kế hoạch đảm nhiệm trọng trách công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, phục vụ sản xuất, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong điều kiện có chiến tranh, tập trung vào những nội dung sau:

- Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho công nghiệp hóa; bảo vệ và khôi phục cơ sở sản xuất công nghiệp, quan tâm đến cân đối cơ cấu hoàn chỉnh giữa công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ.

- Chú trọng đặc biệt tới phát triển ngành Cơ khí, Năng lượng (điện và than).

- Phát triển công nghiệp địa phương, tiểu thủ công nghiệp phục vụ nông nghiệp; chú trọng các cơ sở cơ khí nhỏ, sản xuất phương tiện vận tải, nông cụ, sản xuất vôi, ximăng, chế biến thực phẩm và hàng tiêu dùng.

- Phát triển mạng lưới mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán.

- Tập trung nắm các nguồn hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu về sản xuất, xây dựng, quốc phòng, đời sống nhân dân; thúc đẩy xuất khẩu và tăng nhanh lực lượng dự trữ của Nhà nước.

- Chi viện cho miền Nam.

Về bộ máy tổ chức, đến năm 1960, quản lý ngành Công Thương có 4 bộ: Công nghiệp nặng, Công nghiệp nhẹ, Nội thương, Ngoại thương. Hệ thống này được duy trì cho đến tháng 8/1969, Bộ Công nghiệp nặng được chia thành: Bộ Điện và Than (Bộ trưởng Nguyễn Hữu Mai) được thành lập, Bộ Cơ khí và Luyện kim (Bộ trưởng Đinh Đức Thiện) được thành lập, Bộ Lương thực và Thực phẩm (Bộ trưởng Ngô Minh Loan) được thành lập trên cơ sở hợp nhất Tổng cục Lương thực với ngành Công nghiệp chế biến thực phẩm tách từ Bộ Công nghiệp nhẹ ra; Bộ Vật tư được thành lập trên cơ sở Tổng cục Vật tư (Bộ trưởng Trần Danh Tuyên).

Đồng thời, Tổng cục Hóa chất được thành lập. Ông Nguyễn Chấn làm Tổng Cục trưởng từ tháng 8/1969 đến năm 1973. Ông Lê Tự được bổ nhiệm làm Tổng Cục trưởng từ năm 1973 đến năm 1981.

Các cơ quan từng trực thuộc ngành Công Thương

1. Tổng cục Hải quan

Ngày 27/02/1960, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 03-CP về Điều lệ Hải quan, trong đó quy định Sở Hải quan trực thuộc Bộ Ngoại thương có nhiệm vụ “thực hiện chính sách quản lý ngoại thương, quản lý ngoại hối của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.

Ngày 17/6/1962, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 490/ TTg/QĐ-TCCB đổi tên Sở Hải quan trung ương thành Cục Hải quan, thuộc Bộ Ngoại thương.

Giai đoạn này, Hải quan Việt Nam được xác định là công cụ bảo đảm thực hiện đúng đắn chế độ Nhà nước độc quyền ngoại thương, ngoại hối, thi hành chính sách thuế quan (thu thuế hàng hóa phi mậu dịch) tiếp nhận hàng hóa viện trợ và chống buôn lậu qua biên giới.

Sau khi thống nhất đất nước, Hải quan triển khai hoạt động trên địa bàn cả nước từ tuyến biên giới phía Bắc đến tuyến biên giới phía Tây Nam, các cảng biển, sân bay quốc tế, bưu cục ngoại dịch, trạm chở hàng. Do yêu cầu quản lý tập trung thống nhất, ngày 05/3/1979 Chính phủ đã ban hành Quyết định số 80/CP, theo đó tổ chức Hải quan các tỉnh miền Bắc chuyển về trực thuộc Cục Hải quan thuộc Bộ Ngoại thương.

Đến ngày 30/8/1984, Hội đồng Nhà nước ban hành Nghị quyết số 547/NQ/HĐNN7 phê chuẩn thành lập Tổng cục Hải quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng.

2. Tổng cục Dự trữ nhà nước

Ngày 18/10/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 165/CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Vật tư, trực thuộc Hội đồng Chính phủ.

Năm 1965, Thủ tướng Chính phủ quyết định chuyển giao nhiệm vụ dự trữ muối từ Tổng cục Vật tư sang Bộ Nội thương.

Năm 1969, Bộ Vật tư được thành lập trên cơ sở Tổng cục Vật tư. Ngày 24/01/1970, Bộ Vật tư ban hành Quyết định số 45/VT-QĐ về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Cục Dự trữ vật tư nhà nước: Cơ quan Cục có 6 phòng nghiệp vụ; các đơn vị trực thuộc có các tổng kho dự trữ, Đội xe vận tải 29-3 và giải thể các ban vật tư liên tỉnh.

Ngày 03/8/1972, Bộ Nội thương đã ban hành Quyết định số 42 NT/QĐ1 về tổ chức bộ máy của Cục Quản lý dự trữ thuộc Bộ Nội thương, ở các địa phương thành lập 7 tổng kho liên tỉnh, dưới các tổng kho là các cụm kho trực tiếp quản lý các kho hàng.

Ngày 18/02/1984, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 31/HĐBT về việc thành lập Cục Quản lý dự trữ vật tư nhà nước, thuộc Hội đồng Bộ trưởng trên cơ sở Cục Dự trữ vật tư nhà nước thuộc Bộ Vật tư và sáp nhập các cục quản lý dự trữ nhà nước ở các bộ, tổng cục.

3. Đại học Ngoại thương

Theo đề nghị của Bộ Ngoại giao và Bộ Ngoại thương ngày 14/8/1967, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 123/CP chia Trường Cán bộ Ngoại giao - Ngoại thương thành Trường Ngoại giao (trực thuộc Bộ Ngoại giao) và Trường Ngoại thương (trực thuộc Bộ Ngoại thương). Tên hiệu chính thức của Trường Đại học Ngoại thương bắt đầu từ đây.

Trong thời gian này, Trường Đại học Ngoại thương còn 4 khóa sinh viên (từ khóa 3 đến khóa 6), còn sinh viên khóa 1 và khóa 2 đã tốt nghiệp ra trường.

Năm 1968, lần đầu tiên Trường Đại học Ngoại thương chính thức có Hiệu trưởng là ông Lưu Văn Đạt và Phó Hiệu trưởng là ông Lê Văn Ngọ. Một vài năm trước đó, Ban Giám hiệu chỉ có chức Phó Hiệu trưởng. Ngoài một số phòng chức năng, Trường đã có các đơn vị chuyên môn như Khoa Nghiệp vụ Ngoại thương, Khoa Ngoại ngữ, Khoa Tại chức và Bộ môn Chính trị.

Công tác đào tạo bắt đầu tăng quy mô và đa dạng hóa loại hình đào tạo. Trước đây, mỗi khóa chỉ tuyển trên dưới 50 sinh viên, đầu những năm 1970 trở đi, quy mô mỗi khóa đã tăng lên 75 - 100 sinh viên. Ngoài việc đào tạo sinh viên hệ chính quy, Trường còn mở rộng đào tạo hệ tại chức và phát triển hình thức bồi dưỡng cán bộ.

Năm 1984, Trường Đại học Ngoại thương chuyển từ Bộ Ngoại thương sang Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo).

II- CÔNG NGHIỆP

Tự vệ Bánh kẹo

Tự vệ Nhà máy Bánh kẹo Hà Nội đẩy mạnh sản xuất, luyện chắc tay súng, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

lò cao Thái Nguyên

Công nhân lò cao Công ty Gang thép Thái Nguyên thi đua sản xuất, năm 1966 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Điện Yên Phụ

Công nhân Nhà máy Điện Yên Phụ vận hành lò máy, tháng 9/1970 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Danh mục

Tùy chỉnh