1. Chủ trương

Năm 1965, khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, đánh phá ra miền Bắc bằng không quân hải quân, công cuộc xây dựng miền Bắc hội chủ nghĩa chuyển hướng với những nhiệm vụ nặng nề khó khăn hơn, phải vừa sản xuất vừa chiến đấu. Trong khó khăn chung đó, hoạt động nội thương, ngoại thương bước vào một thời kỳ mới, giữ một trọng trách chưa từng có, được Đảng Chính phủ giao “thực hiện nguyên tắc tự cung tự cấp cao độ”1, bởi “cuộc chiến tranh nhân dân, nhất chiến tranh nhân dân dựa trên một nền kinh tế nông nghiệp đang quá độ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hội chủ nghĩa, mạng lưới giao thông vận tải trong nước nước ngoài còn non yếu”2.

Trong bối cảnh không quân Mỹ không chỉ ném bom, đánh phá các sở quân sự, kinh tế trên đất liền, còn thả mìn, phong tỏa các cảng biển, ngăn cản tàu của các nước tới buôn bán, hòng lập hoàn toàn miền Bắc, toàn bộ hoạt động nội thương ngoại thương hướng tới đảm bảo cung cấp liệu sản xuất, nguyên nhiên vật liệu, bao tiêu sản phẩm cho các ngành kinh tế phục vụ chiến đấu.

Đối với công nghiệp trung ương, cung cấp kịp thời thiết bị máy móc, phương tiện vận tải, nguyên liệu, vật liệu, lương thực thực phẩm hàng tiêu dùng cần thiết cho đời sống công nhân, phục vụ việc bảo vệ, duy trì đẩy mạnh sản xuất của các nhà máy, nghiệp, các khu công nghiệp; bảo đảm cung cấp các vật cần thiết cho xây dựng bản của các khu công nghiệp công trình quốc phòng.

Đối với giao thông vận tải, phục vụ phát triển mạng lưới giao thông phương tiện vận tải, nhất các tuyến đường chiến lược quan trọng; tranh thủ sự giúp đỡ phối hợp với một số nước hội chủ nghĩa để giải quyết vận tải trên biển, ra vào cảng.

Đối với công nghiệp địa phương, giúp cho mọi vùng, mọi địa phương vừa bảo đảm về nhu cầu lương thực, thực phẩm cho các khu công nghiệp, vật cho sản xuất, xuất khẩu, tăng cường lực lượng dự trữ nhà nước, vừa hỗ trợ để các địa phương thể tự giải quyết phần lớn các nhu cầu về liệu sản xuất hàng tiêu dùng. Đồng thời, khơi nguồn nguyên liệu địa phương tiêu thụ kịp thời sản phẩm công nghiệp địa phương.

tiếp xăng dầu

Công nhân Công ty Xăng dầu khu vực I tiếp nhận xăng dầu tại Đông Anh năm 1970 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Đối với sản xuất nông nghiệp, căn cứ vào khả năng về đất đai, nhân lực, nguồn lực của hợp tác để góp ý quy hoạch sản xuất của từng vùng; xây dựng kế hoạch hỗ trợ nông nghiệp một cách toàn diện, nhất cung cấp liệu sản xuất, nhằm sử dụng đất đai, nhân lực khả năng của mỗi vùng một cách hợp nhất, với hiệu quả kinh tế cao nhất.

Đối với quốc phòng, trên sở sản xuất theo hướng mới sử dụng viện trợ hợp của các nước, ưu tiên phân phối cho các nhu cầu quốc phòng, phục vụ đắc lực công tác xây dựng hoàn thành nhanh chóng các công trình quốc phòng công trình phục vụ quốc phòng.

Đối với tích lũy nhà nước, để tiếp tục công cuộc công nghiệp hóa, thương nghiệp với các công cụ chính sách đòn bẩy hướng mạnh vào phục vụ cách mạng khoa học, kỹ thuật nhằm khai thác tối đa nguồn lực hội, khả năng của các ngành kinh tế, trước hết với nông nghiệp, công nghiệp địa phương mở rộng sản xuất vùng ít bị đánh phá trung du miền núi.

Đối với phục vụ tiêu dùng, trong mối quan hệ khả năng - nhu cầu mất cân đối, cung thấp hơn cầu, thương nghiệp hướng tới bảo đảm mức sống tiết kiệm, giản dị, thích hợp với thời chiến chú trọng bồi dưỡng đúng mức sức lao động phục vụ sản xuất chiến đấu.


1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.206.

1. Chủ trương

Năm 1965, khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, đánh phá ra miền Bắc bằng không quân hải quân, công cuộc xây dựng miền Bắc hội chủ nghĩa chuyển hướng với những nhiệm vụ nặng nề khó khăn hơn, phải vừa sản xuất vừa chiến đấu. Trong khó khăn chung đó, hoạt động nội thương, ngoại thương bước vào một thời kỳ mới, giữ một trọng trách chưa từng có, được Đảng Chính phủ giao “thực hiện nguyên tắc tự cung tự cấp cao độ”1, bởi “cuộc chiến tranh nhân dân, nhất chiến tranh nhân dân dựa trên một nền kinh tế nông nghiệp đang quá độ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hội chủ nghĩa, mạng lưới giao thông vận tải trong nước nước ngoài còn non yếu”2.

Trong bối cảnh không quân Mỹ không chỉ ném bom, đánh phá các sở quân sự, kinh tế trên đất liền, còn thả mìn, phong tỏa các cảng biển, ngăn cản tàu của các nước tới buôn bán, hòng lập hoàn toàn miền Bắc, toàn bộ hoạt động nội thương ngoại thương hướng tới đảm bảo cung cấp liệu sản xuất, nguyên nhiên vật liệu, bao tiêu sản phẩm cho các ngành kinh tế phục vụ chiến đấu.

Đối với công nghiệp trung ương, cung cấp kịp thời thiết bị máy móc, phương tiện vận tải, nguyên liệu, vật liệu, lương thực thực phẩm hàng tiêu dùng cần thiết cho đời sống công nhân, phục vụ việc bảo vệ, duy trì đẩy mạnh sản xuất của các nhà máy, nghiệp, các khu công nghiệp; bảo đảm cung cấp các vật cần thiết cho xây dựng bản của các khu công nghiệp công trình quốc phòng.

Đối với giao thông vận tải, phục vụ phát triển mạng lưới giao thông phương tiện vận tải, nhất các tuyến đường chiến lược quan trọng; tranh thủ sự giúp đỡ phối hợp với một số nước hội chủ nghĩa để giải quyết vận tải trên biển, ra vào cảng.

Đối với công nghiệp địa phương, giúp cho mọi vùng, mọi địa phương vừa bảo đảm về nhu cầu lương thực, thực phẩm cho các khu công nghiệp, vật cho sản xuất, xuất khẩu, tăng cường lực lượng dự trữ nhà nước, vừa hỗ trợ để các địa phương thể tự giải quyết phần lớn các nhu cầu về liệu sản xuất hàng tiêu dùng. Đồng thời, khơi nguồn nguyên liệu địa phương tiêu thụ kịp thời sản phẩm công nghiệp địa phương.

tiếp xăng dầu

Công nhân Công ty Xăng dầu khu vực I tiếp nhận xăng dầu tại Đông Anh năm 1970 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Đối với sản xuất nông nghiệp, căn cứ vào khả năng về đất đai, nhân lực, nguồn lực của hợp tác để góp ý quy hoạch sản xuất của từng vùng; xây dựng kế hoạch hỗ trợ nông nghiệp một cách toàn diện, nhất cung cấp liệu sản xuất, nhằm sử dụng đất đai, nhân lực khả năng của mỗi vùng một cách hợp nhất, với hiệu quả kinh tế cao nhất.

Đối với quốc phòng, trên sở sản xuất theo hướng mới sử dụng viện trợ hợp của các nước, ưu tiên phân phối cho các nhu cầu quốc phòng, phục vụ đắc lực công tác xây dựng hoàn thành nhanh chóng các công trình quốc phòng công trình phục vụ quốc phòng.

Đối với tích lũy nhà nước, để tiếp tục công cuộc công nghiệp hóa, thương nghiệp với các công cụ chính sách đòn bẩy hướng mạnh vào phục vụ cách mạng khoa học, kỹ thuật nhằm khai thác tối đa nguồn lực hội, khả năng của các ngành kinh tế, trước hết với nông nghiệp, công nghiệp địa phương mở rộng sản xuất vùng ít bị đánh phá trung du miền núi.

Đối với phục vụ tiêu dùng, trong mối quan hệ khả năng - nhu cầu mất cân đối, cung thấp hơn cầu, thương nghiệp hướng tới bảo đảm mức sống tiết kiệm, giản dị, thích hợp với thời chiến chú trọng bồi dưỡng đúng mức sức lao động phục vụ sản xuất chiến đấu.


1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.206.

III. THƯƠNG MẠI

tiếp xăng dầu

Công nhân Công ty Xăng dầu khu vực I tiếp nhận xăng dầu tại Đông Anh năm 1970 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

cửa hàng cảng HP

Cửa hàng công nghệ phẩm khu phố Ngô Quyền, Hải Phòng mang hàng đến cảng bán cho công nhân, tháng 01/1969 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

tổ bán lẻ

Tổ bán lẻ bách hóa thuộc Xí nghiệp bán lẻ Lạng Sơn bảo đảm đưa hàng về tận tay người tiêu dùng, nhất là vùng nông thôn hẻo lánh, tháng 4/1969 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

2. Giữ vững mạch máu lưu thông Bắc - Nam

Trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, không quân Mỹ tập trung đánh phá các thành phố, thị xã, thị trấn, các cửa khẩu biên giới, các vùng đông dân, các cầu cống trên các tuyến đường bộ, đường sắt, bao vây, phong tỏa các cảng biển, uy hiếp tàu nước ngoài ra vào cảng Hải Phòng, nhằm làm cho lưu thông hàng hóa trong nội địa bị rối loạn để ngăn cản chi viện cho chiến trường miền Nam. Mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán - đối tượng trực tiếp của không quân Mỹ, đã đối đầu thắng lợi, không ngừng lớn mạnh trong khói lửa chiến tranh. Rất nhiều cán bộ, nhân viên thương mại quốc doanh trưởng thành từ lò lửa chiến tranh ác liệt, như Anh hùng Lao động Lê Văn Phú, Tổ trưởng Cửa hàng Mậu dịch quốc doanh Hướng Lập, Vĩnh Linh; Anh hùng Lao động Nguyễn Thị Chỉ, Chủ nhiệm Hợp tác xã mua bán Thanh Ba, Vĩnh Phúc... Cũng trên mặt trận khốc liệt này, nhiều cán bộ, nhân viên thương mại quốc doanh đã anh dũng hy sinh.

Kỳ tích của Chi cục Vận tải Khu IV

Hòng cắt đứt sự chi viện về người, vũ khí, xăng dầu và hàng tiêu dùng của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam, không quân Mỹ ra sức tăng cường bao vây, phong tỏa các cảng miền Bắc, uy hiếp tàu ra vào cảng Hải Phòng. Vĩnh Linh, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa là các địa bàn chiến đấu cực kỳ ác liệt. Trước tình hình đó, một nhiệm vụ đặt ra cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta là phải giữ bằng được mạch máu lưu thông từ Bắc vào Nam. Để thực hiện nhiệm vụ ấy, đầu năm 1965, Bộ trưởng Bộ Nội thương Nguyễn Thanh Bình đã ký Quyết định thành lập Chi cục Vận tải Khu IV, nhằm bảo đảm tiếp chuyển hàng nội thương vào phía Nam.

Với quân số 328 người thuộc 7 trạm: Hà Nội, Ninh Bình, Thanh Hóa, Hoàng Mai, Vinh, Bắc Hà Tĩnh và Ba Đồn, một đội xe vận tải 32 đầu xe của Nga, Đức, Trung Quốc và một đội thuyền 27 chiếc, trong đó 12 thuyền nhỏ với các thủy thủ chủ yếu là nữ, hoạt động từ Hải Phòng, Hà Nội đến cầu Hiền Lương (Vĩnh Linh), Chi cục đã bám dọc quốc lộ 1A, 1B và đường 15 giáp Lào; còn đường thủy thì chạy dọc Vịnh Bắc Bộ và trên kênh đào nhà Lê. Liên tục hoạt động trong suốt 4 năm trong điều kiện chiến tranh ác liệt, bất kẻ bom rơi, đạn nổ, không kể ngày hay đêm, có hàng là nhận, có xe là giao, giao hàng trong đêm tối không đèn đóm. Có thể một người phải đảm đương nhiều việc, kể cả bốc vác hàng, khi cần thì tiếp đạn cho trận địa pháo và chở thương binh từ trận địa đi cấp cứu...

Kết quả, trong 4 năm (1965 - 1969), mặc dù hàng nội thương chỉ được xếp thứ bảy trong thứ tự vận chuyển hàng hóa của Nhà nước trong những năm chiến tranh, nhưng Chi cục đã nhận được 42.000 tấn hàng gồm vải sợi, hàng may mặc, hàng bách hóa, nông sản và hải sản; giao được 41.631 tấn hàng hóa cho các tỉnh: Vĩnh Linh, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa. Để vận chuyển được những tấn hàng trên cho các tỉnh, các đồng chí cán bộ, nhân viên Chi cục đã phải thực hiện gần 4.000 tấn bốc xếp, gần 2.700 tấn chuyển tải. Trong quá trình vận chuyển, số lượng hàng hóa hao hụt do bom đạn địch phá là tương đối lớn. Đạt được những kết quả trên, Chi cục đã có 26 đồng chí hy sinh, có những đồng chí đã hy sinh ngay cạnh mâm pháo và vĩnh viễn nằm lại dưới đáy Biển Đông. Những thành công, thắng lợi của Chi cục Vận tải Khu IV đã được Bộ Nội thương thời kỳ đó ghi nhận và tặng bằng khen.

Nguồn: Bộ Công Thương: Sơ lược lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd.

Công tác quản lý kinh tế trong chiến tranh vẫn được chú trọng. Mặc dù kho tàng, cửa hàng, hàng hóa bị đánh phá, nhiều vùng kho bị đánh phá nhiều lần, những tài sản, hàng hóa được bảo vệ và bảo quản tốt. Số hàng hóa bị thiệt hại do địch gây ra chỉ bằng 1,6% tổng mức luân chuyển hàng hóa trong 4 năm (1965 - 1968).

ô tô ray

Chiếc ôtô ray đầu tiên mang tên Độc Lập, do Nhà máy Xe lửa Gia Lâm (Hà Nội) nghiên cứu, thiết kế và chế tạo (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Ngày 11/8/1969, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn việc thành lập Bộ Vật tư; Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với ngành Vật tư trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và đảm bảo đời sống sản xuất cho nhân dân. Bình quân mỗi năm trong giai đoạn này, Bộ Vật tư cung ứng khoảng 1.500 xe vận tải các loại, có năm tới 7.000 xe (thời kỳ 1961 - 1964 chỉ cấp khoảng 100 xe/năm) cùng với hàng chục vạn tấn xăng dầu, hàng vạn tấn kim khí, hàng vạn tấn hóa chất, hàng vạn kilômét cáp các loại và hàng nghìn máy móc thiết bị... phục vụ sản xuất và chiến đấu1.

Vào những năm 1968 - 1972, không quân Mỹ đã đánh phá hầu hết các bến cảng, bến phà, cầu cống, kho tàng của ta, đồng thời thả thủy lôi phong tỏa cửa biển và nhiều tuyến đường sông. Trước tình hình đó, các bộ quản lý thuộc ngành Công Thương đã phối hợp chặt chẽ với quân đội và ngành Giao thông vận tải mở ra nhiều cảng biển, bến phà và cầu mới, huy động mọi phương tiện từ đường sắt, đường thủy, đường sông, đường bộ,... để tiếp nhận hàng hóa đáp ứng nhu cầu hậu phương và tiền tuyến. Thậm chí, có nơi, có lúc phải dùng ba lô để cõng xăng dầu lên trận địa, dùng bao nilông bọc bao tải lương thực thả trôi trên biển để cung ứng cho tuyến lửa miền Trung. Một trong những trọng điểm đánh phá của Mỹ là kho tàng, nhất là kho xăng dầu. Ngay từ ngày 05/8/1964, Kho xăng dầu Bến Thủy đã là điểm đầu tiên trên miền Bắc bị bắn phá. Hầu hết các kho xăng dầu đều bị ném bom lại nhiều lần. Kho xăng dầu Thượng Lý (Hải Phòng) bị địch đánh phá 98 lần, bình quân mỗi cán bộ, công nhân viên ở đây phải hứng chịu 3 trận đánh phá với 10 quả bom Mỹ ném xuống. Để giảm tổn thất, việc phân tán và bảo vệ kho tàng hàng hóa hết sức quan trọng. Việc này đòi hỏi phải tốn rất nhiều công sức, tiền của và đây là một trong những chiến công nổi bật của toàn ngành.

đoàn xe

Đoàn xe vượt Đèo Cả chở xăng dầu ra mặt trận (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Nhờ vậy, dù bị địch phong tỏa và bị đánh phá ác liệt, ngành Công Thương vẫn đảm bảo được xăng dầu, xe máy cho quốc phòng, an ninh, giao thông vận tải hoạt động. Ngành Xăng dầu (gồm cả quân đội) đã có một hệ thống đường ống dài 4.848 km đi từ Lạng Sơn, Bãi Cháy vào tới Bù Gia Mập (Tây Ninh). Hệ thống đường ống này đã đảm nhận cung cấp 70% khối lượng xăng dầu cho mặt trận. Để góp phần cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, Tổng Công ty Xăng dầu đã huy động lập một đoàn xe gồm 147 chiếc để chở xăng dầu ra tiền tuyến2.

Có thể nói, cuộc đối đầu giữa bom đạn và ý chí ngày càng làm tăng thêm vòng luân chuyển con người, hàng hóa, xăng dầu, vũ khí... qua đại ngàn Trường Sơn, Tây Nguyên hùng vĩ cho đến ngày thống nhất đất nước.

“Coi vị trí sản xuất là vị trí chiến đấu”

Ở giai đoạn này, cơ sở xăng dầu trở thành trọng điểm đánh phá dữ dội nhất của không quân Mỹ. Kho Xăng dầu Đức Giang bị chúng điên cuồng đánh phá nhiều lần, đặc biệt là hai đợt bắn phá gây thiệt hại nghiêm trọng ngày 29/6/1966 và 16/4/1972. Bất chấp hiểm nguy, hàng trăm công nhân đã xông vào chiến đấu với giặc lửa, cứu từng phuy xăng.

Với Tổng kho Xăng dầu Thượng Lý, trong suốt 7 năm (1966 - 1972), đế quốc Mỹ đã đánh phá 98 trận với hơn 4.000 quả bom các loại, hàng chục trận B.52 hủy diệt.

Đây cũng là thời kỳ thử thách ác liệt nhất của Petrolimex. Với tinh thần “coi vị trí sản xuất là vị trí chiến đấu”, cán bộ, người lao động Petrolimex đã dũng cảm bám trụ, chiến đấu ngoan cường dưới mưa bom, bão đạn, bảo đảm liên tục mạch máu xăng dầu cho Tổ quốc.

Trong những trận chiến ác liệt đó, nhiều tấm gương dũng cảm, anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ như cố Tổng Giám đốc Phạm Văn Đạt, hy sinh ngay tại trụ sở số 1, Khâm Thiên, Hà Nội; Đội trưởng bảo vệ Trương Xuân Lộc, Đội phó bảo vệ Lê Xuân Ba (Kho Xăng dầu Đức Giang); anh Nguyễn Văn Mậu, công nhân Sở Dầu, Hải Phòng... Máu các anh đã đổ, nhưng huyết mạch xăng dầu vẫn thông suốt, liên tục từ đồng ruộng đến công trường, nông trường, nhà máy, vượt Trường Sơn khói lửa, tới chiến trường miền Nam ruột thịt.

Tổng kết thành tích đóng góp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nhà nước đã phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 8 đơn vị thành viên của Petrolimex và danh hiệu Anh hùng Lao động cho đồng chí Lê Văn Thiêm - Chủ nhiệm Công ty Xăng dầu Nghệ - Tĩnh.

Nguồn: Petrolimex.com.vn.

kho xăng dầu

Đúng 12 giờ 18 phút ngày 29/6/1966, ba tốp máy bay của không quân Hoa Kỳ đã thay nhau ném bom liên tiếp khu vực Hà Nội, Đức Giang và khiến cho Tổng kho Xăng dầu Đức Giang bốc cháy dữ dội (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)


1. Xem Bộ Thương mại: 60 năm thương mại Việt Nam (1946 - 2006), Sđd, tr.34.

2. Xem Bộ Thương mại: 60 năm thương mại Việt Nam 1946 - 2006, Sđd, tr.34.

Danh mục

Tùy chỉnh