Công nghiệp điện - nước

Song song với quá trình xây dựng hạ tầng đô thị mở rộng hoạt động khai thác thuộc địa, các hoạt động cung ứng nước sạch điện dần phát triển tại Việt Nam.

Đối với ngành cấp nước, việc xây dựng hệ thống cung ứng nước sạch được người Pháp xem vấn đề hệ trọng nhằm đảm bảo sức khỏe ưu tiên thực hiện ngay từ những năm 1860. Một nhà máy nước sinh hoạt quy lớn đầu tiên của Việt Nam đã được chính quyền thuộc địa hoàn thành xây dựng vào năm 1878 tại Sài Gòn1.

Nhà máy này bao gồm một hệ thống nhỏ phân phối nước đến một số vòi cung cấp nước công cộng. Đây lần đầu tiên người Sài Gòn biết đến “nước máy”, ngoài nước giếng hoặc nước sông rạch vốn được dùng bấy lâu nay. Đến năm 1896, Nhà máy Nước Yên Phụ với công suất 4.000 m3/ngày đêm được đưa vào vận hành tại Nội.

Công suất của hai nhà máy nước tại Sài Gòn Nội được nâng lên nhanh chóng trong những năm tiếp theo nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của dân cư. Tính đến những năm 1910, các công trình cấp nước quy lớn đã hoàn thành tại Nội, Hải Phòng, Huế Sài Gòn. Một vài khu vực khác cũng nhưng quy nhỏ hơn như Chợ Lớn, Mỹ Tho, Thủ Dầu Một, Vũng Tàu, Nam Định.

Đối với ngành Điện, nguồn điện năng ban đầu đến từ những trạm phát điện nhỏ, cung cấp điện tại chỗ để thắp sáng chủ yếu phục vụ sinh hoạt cho các gia đình người châu Âu, một bộ phận nhỏ các quan lại người Việt. Vào năm 1892, người Pháp quyết định xây nhà máy nhiệt điện than đầu tiên của xứ Đông Dương tại Hải Phòng do thành phố nằm gần nguồn than Hòn Gai, Quảng Ninh. Nhà đèn Vườn hoa Hải Phòng, với công suất thiết kế 750 kW đi vào hoạt động trong năm 1894, đã đưa Hải Phòng trở thành thành phố đầu tiên tại Đông Dương được thắp sáng bằng đèn điện.

Đến năm 1895, việc ứng dụng điện năng phục vụ sinh hoạt tại Nội được triển khai với sự ra đời của Nhà máy Đèn Bờ Hồ công suất 500 kW. Tại Nam Kỳ, mặc nơi đầu tiên người Pháp chiếm đóng nhưng phải đến năm 1897 thì nhà máy điện đầu tiên của nơi này mới đi vào vận hành với công suất 500 kW nhằm chiếu sáng một phần khu vực Sài Gòn thời kỳ này. Do nhu cầu chiếu sáng đường phố, công suất các nhà máy điện hệ thống phân phối điện được phát triển mạnh trong những năm tiếp theo, dần hình thành hệ thống điện lực rộng khắp phục vụ nhu cầu điện năng cho sinh hoạt lẫn sản xuất.

Chính quyền thuộc địa chủ trương giao cho các công ty nhân phát triển kinh doanh điện năng. Trong đó, Công ty Điện Đông Dương (Société indochinoise d’électricité) tại khu vực Bắc Kỳ Công ty Nước Điện Đông Dương (Compagnie des eaux et d’électricité d’Indochine) Nam Kỳ hai công ty lớn nhất. Tại các khu mỏ xưởng sản xuất, người Pháp sử dụng các máy phát điện chạy dầu diesel.

Tại Bắc Kỳ, Công ty Điện Đông Dương được thành lập vào năm 1902 đã liên tục tăng mạnh vốn để mở rộng việc kinh doanh điện. Năm 1925, Nhà máy Điện Yên Phụ với tổng công suất 22.500 kW được xây dựng, đủ khả năng cung cấp điện cho Nội các tỉnh lỵ Đồng bằng Bắc Bộ lúc bấy giờ. Từ năm 1923 đến năm 1926, chính quyền thuộc địa cho xây dựng hàng loạt đường dây điện cao thế quan trọng như tuyến Nội - Đông, Sơn Tây, Hải Phòng, Hải Phòng - Kiến An Đồ Sơn. Trong năm 1925, thành phố Nam Định được cấp điện.

Các nhà máy phát điện cũng dần được xây dựng tại các tỉnh như Hải Dương, Lào Cai, Giang, Yên Bái, Lạng Sơn... Tại Cao Bằng, Nhà máy Điện Sa được xây dựng phát điện vào năm 1928 nhà máy thủy điện đầu tiên tại Việt Nam. Một số thị khác như Quảng Yên Hồng Gai được cấp điện từ những khu công nghiệp lân cận. Tính đến năm 1938, đã 26/27 thị trấn 12 khu vực đô thị tại tại Bắc Kỳ được điện khí hóa. Như vậy, tất cả thủ phủ của các tỉnh (ngoại trừ Sơn La) đều đã điện.

Tại Nam Kỳ, trong giai đoạn đầu, các khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn được chiếu sáng bởi nhiều công ty với các nhà máy điện cỡ vừa nhỏ. Vào năm 1900, Công ty Nước Điện Đông Dương được thành lập, chủ yếu cung ứng điện năng cho khu vực Sài Gòn dần mở rộng ra thị trấn Chợ Lớn thị trấn Thủ Đức, với sự hình thành Nhà Đèn Cầu Kho công suất khoảng 3.300 kW vào năm 1912. Đến năm 1922, Nhà Đèn Chợ Quán công suất 5.000 kW được đưa vào hoạt động, đáp ứng nhu cầu điện của Sài Gòn, Chợ Lớn một số thị trấn như Lái Thiêu, Búng Thủ Dầu Một. Điện cũng được cung cấp cho hệ thống điện báo tuyến, xe điện một vài sở công nghiệp. Hệ thống truyền tải điện tại khu Sài Gòn - Chợ Lớn bao gồm cả đường dây cáp ngầm đường dây trên không.

Đặc biệt, năm 1921, một nhóm các nhà bản người Việt được đứng đầu bởi ông Cao Thiện Toàn đã thành lập Công ty danh Điện Rạch Giá (Societe Anonyme d’Electricite de Rach Gia) với số vốn đăng 150.000 đồng Đông Dương để kinh doanh điện tại thị Rạch Giá (Kiên Giang). Tính đến năm 1922, các thị lớn tại Nam Kỳ như Bạc Liêu, Rịa, Bến Tre, Cần Thơ, Mỹ Tho, Sa Đéc… đều từ 1 đến 2 nhà máy phát điện quy nhỏ vừa.

Tại Trung Kỳ, chính quyền thuộc địa đảm trách việc cung ứng điện năng trong giai đoạn đầu. Đến năm 1919, Nhà máy Đèn Huế được thành lập với công suất khoảng 3.600 kW nhằm cung cấp điện cho khu vực thành phố Huế. Từ năm 1921 - 1926, các nhà máy điện công suất nhỏ lần lượt được xây dựng tại Đà Nẵng, Hội An, Quy Nhơn Nha Trang. Đến năm 1928, Công ty Nước Điện Trung Kỳ (Société indochinoise pour les eaux et l’électricité en Annam) được thành lập nhận các quyền kinh doanh điện tại xứ Trung Kỳ. Sản lượng kinh doanh điện của công ty này tăng nhanh chóng qua các năm; trong năm 1929, sản lượng điện đạt 1.419.000 kWh, tăng 40% so với năm 1928.

Sau khi chính quyền thuộc địa triển khai chương trình khai thác thuộc địa lần 2 (1919 - 1929), tốc độ điện khí hóa tại Việt Nam diễn ra tương đối nhanh. Các hệ thống phát điện cũng được tích hợp tại các sở sản xuất công nghiệp lớn như Nhà máy Xi măng Hải Phòng Công ty Sợi bông Bắc Kỳ tại Nam Định. Tính đến năm 1939, tổng công suất nguồn điện đạt 116.000 kW sản lượng điện thương phẩm bán ra đạt 118.000.000 kWh.

Tuy nhiên, điện năng chủ yếu để phục vụ hoạt động của chính quyền thuộc địa, các hoạt động sản xuất của giới bản, đặc biệt bản Pháp. Đại bộ phận dân chúng không được sử dụng cũng như hưởng những lợi ích do điện năng đem lại. Chính quyền thuộc địa cũng không ý định điện khí hóa nông thôn. Trong tổng số gần 20 triệu người Việt Nam thời kỳ này, chỉ vài chục nghìn người đăng sử dụng điện. Mức tiêu thụ điện tại Đông Dương vào thời điểm này chỉ đạt trung bình 8 kWh/người2, thấp hơn tới 50 lần so với mức tiêu thụ điện tại Pháp.


1. Khu vực hồ Con Rùa, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Tertrais Hugues. (2002). L’électrification de l’Indochine. In: Outre-mers, tome 89, n°334-
335, 1er semestre 2002. L’électrification outre- mer de la fin du XIXe siècle aux premières
décolonisations. p. 589-600.

Công nghiệp điện - nước

Song song với quá trình xây dựng hạ tầng đô thị mở rộng hoạt động khai thác thuộc địa, các hoạt động cung ứng nước sạch điện dần phát triển tại Việt Nam.

Đối với ngành cấp nước, việc xây dựng hệ thống cung ứng nước sạch được người Pháp xem vấn đề hệ trọng nhằm đảm bảo sức khỏe ưu tiên thực hiện ngay từ những năm 1860. Một nhà máy nước sinh hoạt quy lớn đầu tiên của Việt Nam đã được chính quyền thuộc địa hoàn thành xây dựng vào năm 1878 tại Sài Gòn1.

Nhà máy này bao gồm một hệ thống nhỏ phân phối nước đến một số vòi cung cấp nước công cộng. Đây lần đầu tiên người Sài Gòn biết đến “nước máy”, ngoài nước giếng hoặc nước sông rạch vốn được dùng bấy lâu nay. Đến năm 1896, Nhà máy Nước Yên Phụ với công suất 4.000 m3/ngày đêm được đưa vào vận hành tại Nội.

Công suất của hai nhà máy nước tại Sài Gòn Nội được nâng lên nhanh chóng trong những năm tiếp theo nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của dân cư. Tính đến những năm 1910, các công trình cấp nước quy lớn đã hoàn thành tại Nội, Hải Phòng, Huế Sài Gòn. Một vài khu vực khác cũng nhưng quy nhỏ hơn như Chợ Lớn, Mỹ Tho, Thủ Dầu Một, Vũng Tàu, Nam Định.

Đối với ngành Điện, nguồn điện năng ban đầu đến từ những trạm phát điện nhỏ, cung cấp điện tại chỗ để thắp sáng chủ yếu phục vụ sinh hoạt cho các gia đình người châu Âu, một bộ phận nhỏ các quan lại người Việt. Vào năm 1892, người Pháp quyết định xây nhà máy nhiệt điện than đầu tiên của xứ Đông Dương tại Hải Phòng do thành phố nằm gần nguồn than Hòn Gai, Quảng Ninh. Nhà đèn Vườn hoa Hải Phòng, với công suất thiết kế 750 kW đi vào hoạt động trong năm 1894, đã đưa Hải Phòng trở thành thành phố đầu tiên tại Đông Dương được thắp sáng bằng đèn điện.

Đến năm 1895, việc ứng dụng điện năng phục vụ sinh hoạt tại Nội được triển khai với sự ra đời của Nhà máy Đèn Bờ Hồ công suất 500 kW. Tại Nam Kỳ, mặc nơi đầu tiên người Pháp chiếm đóng nhưng phải đến năm 1897 thì nhà máy điện đầu tiên của nơi này mới đi vào vận hành với công suất 500 kW nhằm chiếu sáng một phần khu vực Sài Gòn thời kỳ này. Do nhu cầu chiếu sáng đường phố, công suất các nhà máy điện hệ thống phân phối điện được phát triển mạnh trong những năm tiếp theo, dần hình thành hệ thống điện lực rộng khắp phục vụ nhu cầu điện năng cho sinh hoạt lẫn sản xuất.

Chính quyền thuộc địa chủ trương giao cho các công ty nhân phát triển kinh doanh điện năng. Trong đó, Công ty Điện Đông Dương (Société indochinoise d’électricité) tại khu vực Bắc Kỳ Công ty Nước Điện Đông Dương (Compagnie des eaux et d’électricité d’Indochine) Nam Kỳ hai công ty lớn nhất. Tại các khu mỏ xưởng sản xuất, người Pháp sử dụng các máy phát điện chạy dầu diesel.

Tại Bắc Kỳ, Công ty Điện Đông Dương được thành lập vào năm 1902 đã liên tục tăng mạnh vốn để mở rộng việc kinh doanh điện. Năm 1925, Nhà máy Điện Yên Phụ với tổng công suất 22.500 kW được xây dựng, đủ khả năng cung cấp điện cho Nội các tỉnh lỵ Đồng bằng Bắc Bộ lúc bấy giờ. Từ năm 1923 đến năm 1926, chính quyền thuộc địa cho xây dựng hàng loạt đường dây điện cao thế quan trọng như tuyến Nội - Đông, Sơn Tây, Hải Phòng, Hải Phòng - Kiến An Đồ Sơn. Trong năm 1925, thành phố Nam Định được cấp điện.

Các nhà máy phát điện cũng dần được xây dựng tại các tỉnh như Hải Dương, Lào Cai, Giang, Yên Bái, Lạng Sơn... Tại Cao Bằng, Nhà máy Điện Sa được xây dựng phát điện vào năm 1928 nhà máy thủy điện đầu tiên tại Việt Nam. Một số thị khác như Quảng Yên Hồng Gai được cấp điện từ những khu công nghiệp lân cận. Tính đến năm 1938, đã 26/27 thị trấn 12 khu vực đô thị tại tại Bắc Kỳ được điện khí hóa. Như vậy, tất cả thủ phủ của các tỉnh (ngoại trừ Sơn La) đều đã điện.

Tại Nam Kỳ, trong giai đoạn đầu, các khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn được chiếu sáng bởi nhiều công ty với các nhà máy điện cỡ vừa nhỏ. Vào năm 1900, Công ty Nước Điện Đông Dương được thành lập, chủ yếu cung ứng điện năng cho khu vực Sài Gòn dần mở rộng ra thị trấn Chợ Lớn thị trấn Thủ Đức, với sự hình thành Nhà Đèn Cầu Kho công suất khoảng 3.300 kW vào năm 1912. Đến năm 1922, Nhà Đèn Chợ Quán công suất 5.000 kW được đưa vào hoạt động, đáp ứng nhu cầu điện của Sài Gòn, Chợ Lớn một số thị trấn như Lái Thiêu, Búng Thủ Dầu Một. Điện cũng được cung cấp cho hệ thống điện báo tuyến, xe điện một vài sở công nghiệp. Hệ thống truyền tải điện tại khu Sài Gòn - Chợ Lớn bao gồm cả đường dây cáp ngầm đường dây trên không.

Đặc biệt, năm 1921, một nhóm các nhà bản người Việt được đứng đầu bởi ông Cao Thiện Toàn đã thành lập Công ty danh Điện Rạch Giá (Societe Anonyme d’Electricite de Rach Gia) với số vốn đăng 150.000 đồng Đông Dương để kinh doanh điện tại thị Rạch Giá (Kiên Giang). Tính đến năm 1922, các thị lớn tại Nam Kỳ như Bạc Liêu, Rịa, Bến Tre, Cần Thơ, Mỹ Tho, Sa Đéc… đều từ 1 đến 2 nhà máy phát điện quy nhỏ vừa.

Tại Trung Kỳ, chính quyền thuộc địa đảm trách việc cung ứng điện năng trong giai đoạn đầu. Đến năm 1919, Nhà máy Đèn Huế được thành lập với công suất khoảng 3.600 kW nhằm cung cấp điện cho khu vực thành phố Huế. Từ năm 1921 - 1926, các nhà máy điện công suất nhỏ lần lượt được xây dựng tại Đà Nẵng, Hội An, Quy Nhơn Nha Trang. Đến năm 1928, Công ty Nước Điện Trung Kỳ (Société indochinoise pour les eaux et l’électricité en Annam) được thành lập nhận các quyền kinh doanh điện tại xứ Trung Kỳ. Sản lượng kinh doanh điện của công ty này tăng nhanh chóng qua các năm; trong năm 1929, sản lượng điện đạt 1.419.000 kWh, tăng 40% so với năm 1928.

Sau khi chính quyền thuộc địa triển khai chương trình khai thác thuộc địa lần 2 (1919 - 1929), tốc độ điện khí hóa tại Việt Nam diễn ra tương đối nhanh. Các hệ thống phát điện cũng được tích hợp tại các sở sản xuất công nghiệp lớn như Nhà máy Xi măng Hải Phòng Công ty Sợi bông Bắc Kỳ tại Nam Định. Tính đến năm 1939, tổng công suất nguồn điện đạt 116.000 kW sản lượng điện thương phẩm bán ra đạt 118.000.000 kWh.

Tuy nhiên, điện năng chủ yếu để phục vụ hoạt động của chính quyền thuộc địa, các hoạt động sản xuất của giới bản, đặc biệt bản Pháp. Đại bộ phận dân chúng không được sử dụng cũng như hưởng những lợi ích do điện năng đem lại. Chính quyền thuộc địa cũng không ý định điện khí hóa nông thôn. Trong tổng số gần 20 triệu người Việt Nam thời kỳ này, chỉ vài chục nghìn người đăng sử dụng điện. Mức tiêu thụ điện tại Đông Dương vào thời điểm này chỉ đạt trung bình 8 kWh/người2, thấp hơn tới 50 lần so với mức tiêu thụ điện tại Pháp.


1. Khu vực hồ Con Rùa, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Tertrais Hugues. (2002). L’électrification de l’Indochine. In: Outre-mers, tome 89, n°334-
335, 1er semestre 2002. L’électrification outre- mer de la fin du XIXe siècle aux premières
décolonisations. p. 589-600.

Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng

Cùng với ngành công nghiệp khai khoáng, hoạt động sản xuất vật liệu xây dựng được chính quyền thuộc địa khuyến khích phát triển ngay từ Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn tại Đông Dương cũng như nhu cầu về vật liệu xây dựng của các quốc gia trong khu vực. Ngành công nghiệp vật liệu xây dựng chủ yếu tập trung tại xứ Bắc Kỳ do khu vực Nam Kỳ và Trung Kỳ không có nguồn cung ứng than thuận lợi.

Nhận ra vị trí địa lý thuận lợi của Hải Phòng khi nằm gần các nguồn cung than, đá vôi, đất sét lớn và ưu thế vận tải đường sông lẫn đường biển, Công ty Xi măng Nhân tạo Portland Đông Dương (Société des Ciments Portland artificiels de l’Indochine) đã xây dựng tại đây nhà máy xi măng đầu tiên của Đông Dương vào năm 1899. Với công suất thiết kế ban đầu đạt 30.000 tấn xi măng và vôi tôi mỗi năm, nhà máy này được trang bị một phân xưởng điện riêng có công suất tới 12.500kW, hàng loạt xưởng cơ khí và hệ thống máy đóng bao đay hoặc bao giấy hiện đại. Đây được xem là công trình công nghiệp quan trọng bậc nhất của người Pháp tại Đông Dương. Hoạt động sản xuất của nhà máy liên tục được mở rộng qua các năm, đạt 235.000 tấn vào năm 19375 với gần 5.000 công nhân lao động…

Với chất lượng tương đương loại xi măng tốt nhất của châu Âu, xi măng Hải Phòng mang thương hiệu Rồng Xanh, Rồng Đỏ được tiêu thụ mạnh tại Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Madagascar… Tỷ lệ xi măng xuất khẩu trên tổng sản lượng xi măng của nhà máy đạt trên 50%. Công ty Xi măng Nhân tạo Portland Đông Dương cũng liên kết với một số công ty xi măng khác để mở rộng sản xuất các loại vật liệu xây dựng khác khu vực quanh Hải Phòng và Huế.

Nếu việc sản xuất xi măng chỉ tập trung tại một số nhà máy quy mô lớn thì việc sản xuất gạch, ngói lại được phân tán tại nhiều nơi trên khắp Việt Nam với các nhà máy có công suất đa dạng. Hoạt động sản xuất gạch, ngói ở quy mô công nghiệp đầu tiên tại nước ta được đánh dấu bằng việc Nhà máy Gạch ngói Đông Dương (S.A.T.I.C) tại Hà Nội thuộc Công ty Gạch ngói Đông Dương (Société anonyme des tuileries de l’Indochine) đi vào hoạt động năm 1896. Nhờ được trang bị dây chuyền cơ khí hóa hiện đại vượt trội so với công nghệ thời kỳ này, công suất của nhà máy này lên mức 2 triệu viên gạch/năm vào năm 1900, đủ đáp ứng nhu cầu gạch xây dựng trên toàn khu vực Đông Dương. Một số nhà máy gạch khác tại Đáp Cầu, Hải Phòng, Biên Hòa… được thành lập trong những năm tiếp theo để đáp ứng nhu cầu xây dựng ở các khu vực.

Sự phát triển ồ ạt của hoạt động xây dựng tại Đông Dương cũng thúc đẩy các hoạt động sản xuất vật liệu xây dựng khác như sản xuất gạch ngói, sản xuất dầm cầu bằng thép, chế tạo khung nhà thép cho các nhà xưởng công nghiệp…

Khác với đá, vôi, vữa, gỗ, xi măng, gạch nung, cát xây dựng là yếu tố hoàn toàn mới trong các loại vật liệu xây dựng tại Việt Nam lúc bấy giờ. Sự xuất hiện của những vật liệu xây dựng mới đã dẫn tới những thay đổi lớn trong phương pháp thi công và quy mô các công trình xây dựng tại nước ta, góp phần thúc đẩy các chuyển biến sâu sắc về kinh tế và xã hội Việt Nam.

Gạch Hưng Ký

Vị thế độc quyền sản xuất gạch nung của người Pháp bị phá vỡ khi nhà tư sản dân tộc Trần Văn Thành mua lại Hãng gạch Briqueteries et Tuileries du Tonkin của người Pháp tại Yên Viên (Hà Nội ngày nay) vào năm 1921 và đổi tên thành Hãng gạch Hưng Ký. Từ một nhà máy có quy mô nhỏ, doanh nhân Trần Văn Thành đã dần mở rộng hoạt động kinh doanh.

Nhà máy hoạt động với 3 lò liên hoàn, sản xuất gạch hai lỗ chạy song song, đạt công suất lên tới 3,6 triệu viên gạch/năm vào năm 1925. Tại Hội chợ Đấu xảo Marseille tại Pháp vào năm 1922, thương hiệu gạch Hưng Ký đã được tặng thưởng huân chương cho sản phẩm chất lượng cao. Với tầm nhìn sâu rộng, ông Trần Văn Thành đã cho dập chữ Hưng Ký lên các viên gạch để quảng bá thương hiệu. Với chất lượng cao, gạch Hưng Ký là doanh nghiệp Việt duy nhất đủ sức cạnh tranh với Hãng gạch S.A.T.I.C của Pháp. Gạch, ngói Hưng Ký đã in dấu trong nhiều công trình kiến trúc của Hà Nội, Bắc Kỳ, Lào, Campuchia, Singapore…

gạch Hưng Ký


5. British Naval Intelligence Division of the Admiralty. (2013). Indo-China : Geographical
handbook. London: Taylor and Francis.

Công nghiệp kéo sợi, dệt vải

Chế biến bông sợi và dệt được xem là ngành công nghiệp nhẹ lớn nhất ở Việt Nam dưới thời chính quyền thuộc địa. Nhà máy kéo sợi cotton đầu tiên tại Bắc Kỳ được thành lập vào năm 1884, dưới sự điều hành của nữ doanh nhân người Pháp Numa Bourgouin Meiffre. Bà Numa Bourgouin Meiffre cũng thiết lập khu đồn điền trồng cây bông dưới chân dãy núi Ba Vì, dần mở rộng hoạt động sang lĩnh vực may đồng phục quân đội và thuê nhiều thợ người Việt.

tho may Nhóm nữ thợ may tại xưởng may quân phục của nữ doanh nhân người Pháp - Bà
Bourgouin Meiffre (Ảnh: Nhiếp ảnh gia Pierre Dieulefit)

Nhằm tận dụng vị trí địa lý thuận lợi, nguồn nguyên liệu lớn, nhân công dồi dào của nhiều làng nghề thủ công truyền thống, chính quyền thuộc địa cũng thành lập một cơ sở nghiên cứu tơ lụa tại Nam Định vào năm 1898. Đến năm 1900, cơ sở nghiên cứu này được rót lượng vốn lớn để hình thành Nhà máy Kéo sợi, dệt Nam Định dưới sự điều hành của Công ty Bông Sợi Bắc Kỳ (Société cotonnière du Tonkin).

Nhờ nhu cầu về sản phẩm tại Pháp và các nước trong khu vực tăng nhanh, Nhà máy Kéo sợi Nam Định phát triển nhanh chóng, hoạt động gần như 24 tiếng/ngày, huy động đông đảo lực lượng lao động gồm khoảng 40 kỹ thuật viên người Pháp và hơn 14.000 người bản xứ.

Đến những năm 1930, Công ty Bông Sợi Bắc Kỳ đã thiết lập các nhà máy kéo sợi, xưởng dệt - nhuộm - tẩy trắng - xử lý, các xưởng cơ khí động lực… hoàn thiện tại Nam Định, cũng như đầu tư tổ hợp máy phát điện và hệ thống đường ống dẫn nước riêng biệt. Tính riêng năm 1937, nhà máy đã sản xuất ra hơn 700.000 chiếc chăn và hơn 2.000 tấn sản phẩm bông sợi các loại1, cung cấp sợi nguyên liệu cho phần lớn các xưởng dệt và thợ dệt thủ công tại Việt Nam. Cụm nhà máy kéo sợi và dệt Nam Định trở thành một trong những cơ sở kỹ nghệ lớn và hiện đại nhất Đông Dương. Nhiều hãng cũng lựa chọn Nam Định là địa điểm đặt các xưởng kéo sợi, dệt, chế biến tơ lụa.

keo soi Nam Dinh Nhà máy Kéo sợi, dệt Nam Định (chưa rõ năm chụp)

Người Pháp cũng đầu tư phát triển ngành công nghiệp kéo sợi, dệt, chế biến tơ lụa tại các địa phương thuộc Nam Kỳ và Trung Kỳ có nguồn cung cấp bông và tơ sống thuận lợi. Điển hình, Nhà máy dệt L. Delignon (Établissements L.Delignon) được đưa vào hoạt động trong năm 1903 tại thị trấn Phú Phong (Bình Định) với trang thiết bị máy móc tinh xảo, nhập khẩu toàn bộ từ Pháp, sử dụng 550 công nhân bản địa. Nhà máy này sở hữu khu trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ riêng, các xưởng kéo sợi, xưởng dệt, xưởng cơ khí… Đây được xem là nhà máy kéo sợi, dệt có quy mô lớn thứ hai tại Việt Nam giai đoạn này.


1. Robequain. (1939). Géographie de l’Indochine.

Danh mục

Tùy chỉnh