3. Hoạt động thương mại giữa vùng tự do vùng bị địch tạm chiếm, tiến hành bao vây đấu tranh kinh tế với địch

a) Bao vây, đấu tranh kinh tế với địch

Bao vây, đấu tranh với địch trên mặt trận kinh tế được Chính phủ nói chung, Bộ Kinh tế nói riêng xác định một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tiến hành kháng chiến toàn diện, tiến tới giành thắng lợi. Việc nghiêm cấm bán lương thực cho địch1, cấm giao thương hàng hóa cả hai chiều mua vào - bán ra với vùng tạm bị địch chiếm2 kết hợp với các chính sách “vườn không nhà trống”, “tiêu thổ kháng chiến” đã khiến quân đội Pháp tập trung tại các thành phố lớn trong những ngày đầu kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn về mặt hậu cần, thiếu hụt lương thực các loại hàng hóa thiết yếu trầm trọng.

Tuy nhiên, khi lực lượng được bổ sung, thực dân Pháp đã khơi thông được một số trục đường giao thông chính, nối được các khu vực chiếm đóng với nhau cũng như mở rộng phạm vi chiếm đóng ra vùng nông thôn đã giải quyết được các khó khăn về hậu cần. Các chính sách đấu tranh kinh tế của ta chưa theo kịp tốc độ phát triển thực tế của cuộc chiến việc thực hiện đổ đồng các chính sách này không xét đến sự khác nhau về thực lực kinh tế giữa các vùng tự do, đã khiến nền kinh tế của ta hứng chịu một số thiệt hại.

Sức mua tại các vùng tự do vốn đã thấp, việc cấm buôn bán hàng hóa với vùng tạm bị địch chiếm càng khiến nhiều mặt hàng nông sản như thóc gạo, gia súc... hàng tiểu thủ công như đồ gỗ, gốm, sứ... không thị trường tiêu thụ. Trong khi đó, các mặt hàng công nghiệp vốn phổ biến tại vùng tạm bị địch chiếm công cuộc kháng chiến nhu cầu cao như thuốc chữa bệnh, giấy viết, sản phẩm dệt may, đèn pin, bút máy... thì lại rất thiếu giá cao tại vùng tự do. Điều này dẫn đến tình trạng buôn lậu hàng hóa giữa hai vùng phát sinh với sự tham gia của nhiều người, đặc biệt sự tham gia của người dân sống tại các vùng giáp ranh vốn thông thạo các chốt kiểm soát địch - ta, kéo theo đó sự phức tạp về đảm bảo an ninh quốc phòng.

Ngoài ra, thực dân Pháp còn tạo điều kiện cho những thương nhân buôn hàng hóa xa xỉ, thậm chí tung hàng giả để phá hoại nền kinh tế vùng tự do thông qua hàng hóa giá trị để thực hiện các thủ đoạn tâm chiến.

Xuất phát từ thực tế đó, ngày 16/3/1947, Ngoại thương Cục thuộc Bộ Kinh tế được thành lập theo Sắc lệnh số 29B/SL của Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sắc lệnh nêu Chính phủ trực tiếp điều khiển các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá3. Hàng hóa xuất, nhập khẩu được chia thành hai danh mục, một các hàng hóa cấm xuất, nhập khẩu hàng hóa do Chính phủ trực tiếp xuất, nhập khẩu, hai các hàng hóa nhân vẫn được xuất, nhập khẩu nhưng phải được Chính phủ cho phép. Tiếp theo, Bộ Kinh tế cũng ban hành Nghị định số 112-BKT ngày 17/7/1947 tạm ấn định những cửa khẩu hoạt động ngoại thương Lào Cai, Giang, Cao Bằng, Thất Khê (Lạng Sơn), Thanh Hóa, Nghệ An. Chi cục Ngoại thương được thiết lập tại những cửa khẩu này để trực tiếp thực hiện quản nhà nước về hoạt động xuất, nhập khẩu. Các loại hàng hóa xuất, nhập khẩu qua các cửa khẩu khác đều coi trái phép, vi phạm nguyên tắc độc quyền xuất, nhập khẩu của Chính phủ. Các hàng hóa Chính phủ độc quyền xuất, nhập khẩu là: khí, chất hóa học, xăng dầu, xe đạp phụ tùng xe đạp, xe ô phụ tùng xe ôtô, dược phẩm bông vải sợi.

Tuy nhiên, những chính sách này chưa phát huy tác dụng như kỳ vọng. Các hạn chế bao vây kinh tế địch tiếp tục được xem xét kỹ qua các phiên họp thường kỳ của Bộ Kinh tế Hội đồng Chính phủ. Bộ Kinh tế đề xuất chủ trương quản giao thương hàng hóa giữa hai vùng theo hướng mềm dẻo hơn, không cấm triệt để việc lưu thông hàng hóa nhằm tận dụng nền kinh tế vùng tạm bị địch chiếm để củng cố vùng tự do. Ngày 27/4/1948, Nghị định Liên bộ Kinh tế - Tài chính - Nội vụ - pháp số 101-BKT/BT4 về thể lệ mậu dịch giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm được ban hành. Cùng ngày, Bộ Kinh tế ra Thông số 09- KT/TT/NT ấn định các loại hàng hóa được phép lưu thông giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm, cập nhật thêm nhiều loại hàng hóa được phép giao thương, phù hợp hơn theo tình hình thực tế. Đồng thời, Chính phủ đẩy mạnh hơn nữa việc chống buôn lậu, kinh doanh hàng hóa xa xỉ phẩm chuyển từ vùng tạm bị địch chiếm5. Các Chi cục, Chi điếm Ngoại thương thuộc Ngoại thương Cục được thiết lập tại các cửa ngõ giao thương hàng hóa giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm để kiểm soát hoạt động lưu thông hàng hóa.

Ngày 24/5/1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị lập Ủy ban Bao vây kinh tế địch. Chỉ thị nêu rõ: “Hiện nay hàng hóa địch tràn sang ta rất nhiều. Vòng vây kinh tế của ta tỏ ra rất ít kết quả.

Cũng thế đồng bạc Việt Nam nhiều nơi bị sụt giá, chỗ sút đến hơn 50%. Đối phó với tình thế ấy, các đồng chí nên đề nghị với các Ủy ban kháng chiến hành chính tổ chức một Ủy ban bao vây kinh tế địch, phối hợp các ngành công an, tình báo, kinh tế, quan thuế, v.v. để bàn định kế hoạch đôn đốc việc bao vây cho hiệu quả...”6.

Ngày 12/10/1948, Ban Trung ương bao vây kinh tế địch chính thức được thành lập theo Sắc lệnh số 241/SL của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn các hoạt động đấu tranh với địch trên mặt trận kinh tế. Thành viên gồm Bộ trưởng Bộ Kinh tế Chủ tịch, đại diện Bộ Tài chính đại diện Ngân hàng Nhà nước Ủy viên thường trực, đại diện Bộ Quốc phòng đại diện Bộ Công an ủy viên, bộ phận thường trực được đặt tại Bộ Kinh tế. Đến năm 1949, nhiệm vụ của Ban Trung ương bao vây kinh tế địch được giao cho Bộ Kinh tế7.

Theo chủ trương của Sắc lệnh số 241/SL, Phòng Tiếp liệu tại các địa phương được thành lập để tổ chức buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa vùng tự do vùng tạm chiếm, thu thuế xuất, nhập khẩu phòng, chống buôn lậu giữa hai vùng. Các tổ công tác được bố trí các vùng giáp ranh, những điểm những luồng hàng hóa ra vào giữa hai vùng.

Phòng Tiếp liệu sử dụng các thương nhân được cấp phép để thu mua hàng hóa theo các đơn hàng được đặt trước về chủng loại số lượng, cho phép thương nhân được hưởng mức chênh lệch giá phù hợp. Áp dụng kinh nghiệm vận dụng biện pháp kết hối, các thương nhân thường đem một lượng hàng hóa từ vùng tự do để bán sang vùng tạm bị địch chiếm để lấy đồng bạc Đông Dương rồi mua hàng đem vào vùng tự do. Phòng Tiếp liệu thanh toán lại cho thương nhân bằng đồng Việt Nam cũng như thu đổi đồng bạc Đông Dương để tạo nguồn ngoại tệ. Các liệu sản xuất như máy móc phụ tùng, nguyên vật liệu như sợi dệt, hóa chất, thuốc nhuộm, thuốc tây, xe đạp, dầu hỏa... những mặt hàng được ưu tiên thu mua trước hết. Quy định lưu thông danh mục các loại hàng hóa được phép giao thương giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm cũng dần được cập nhật, bổ sung theo nhu cầu thực tế.

Tuy nhiên, việc thực hiện cứng nhắc các quy định khiến các phòng Tiếp liệu chủ yếu thực hiện việc mua hàng để phục vụ nhu cầu của các quan nhà nước chưa coi trọng việc bán hàng của nhân dân vào vùng tạm bị địch chiếm. Điều này khiến phần lớn các mặt hàng lâm, thổ sản, tiểu thủ công nghiệp của vùng tự do bị đọng, không thị trường tiêu thụ, giá cả sụt giảm. Trong khi đó, hàng công nghiệp tiêu dùng từ vùng tạm bị địch chiếm lại trở nên khan hiếm, giá cả tăng vọt. Hiện tượng chênh lệch giá giữa hàng nông, lâm, thổ sản, tiểu thủ công nghiệp với hàng công nghiệp trở nên trầm trọng tại vùng tự do kể từ năm 1949.

Chủ trương bao vây kinh tế địch được đổi sang đấu tranh kinh tế với địch sau Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II (tháng 3/1951). Hội nghị chủ trương: “Không phải ta đặt một hàng rào ngăn hẳn giữa ta địch, ta vẫn phải mở mang buôn bán với địch, nhưng chỉ cho vào vùng địch những thứ hàng không hại cho ta đưa ra những thứ hàng cần cho kháng chiến cần cho đời sống nhân dân”8. Ngay sau đó, Sở Mậu dịch thuộc Bộ Kinh tế được thành lập thay thế cho Ngoại thương Cục Sở Nội thương, nhằm nâng cao hiệu quả lưu thông hàng hóa nội thương, ngoại thương cũng như đấu tranh kinh tế với địch. Ngày 13/8/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 49/SL quy định chi tiết các quy tắc đấu tranh kinh tế với địch. Phương châm đề ra đối với hoạt động bao vây kinh tế địch được xác định “bảo vệ độc lập tự chủ, tranh thủ trao đổi lợi” nhưng phải đảm bảo 4 quy tắc: Nội thương được tự do, ngoại thương phải quản lý; khuyến khích bán hàng ra, hạn chế mua hàng vào; củng cố giá trị tiền tệ làm cho tài chính quốc gia được dồi dào; bảo vệ phát triển sản xuất của ta.

Ngày 15/8/1951, Ban Trung ương bao vây kinh tế địch được giải thể, Ban Trung ương Quản xuất, nhập khẩu được thành lập theo Nghị định số 118/TTg của Thủ tướng Chính phủ nhiệm vụ đồng thời kiểm soát xuất, nhập khẩu, kết hối ngoại tệ, quản thuế xuất, nhập khẩu nhằm nâng cao hiệu quả xuất, nhập khẩu9. Thay quản hoạt động giao thương giữa hai vùng theo từng tỉnh, Ban Trung ương Quản xuất, nhập khẩu tổ chức quản theo từng tuyến giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm, như tuyến Bắc Ninh - Bắc Giang - Quảng Yên, tuyến Thanh Hóa, tuyến Bình Trị Thiên phân sở tại Nam Bộ.

Tháng 3/1952, Bộ Công Thương triệu tập hội nghị toàn quốc phổ biến chủ trương mới về đấu tranh kinh tế với địch tại Tuyên Quang. Hội nghị nhấn mạnh phải chủ động tăng cường xuất khẩu, quản chặt chẽ nhập khẩu, tích lũy ngoại tệ, đẩy mạnh đấu tranh tiền tệ với địch, bài trừ việc tiêu thụ hàng xa xỉ phẩm.

Việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa góp phần khai thác triệt để nguồn lâm, thổ sản vốn rất phong phú tại các vùng tự do để đổi thành các loại hàng hóa dân sinh thiết yếu từ vùng tạm bị địch chiếm, vừa giúp cải thiện đời sống, vừa góp phần thúc đẩy sản xuất trong nhân dân. Việc thu mua hàng sẵn trong nhân dân dần phát triển thành tổ chức sản xuất, khai thác hàng hóa chuyên biệt phục vụ xuất khẩu. Đồng thời, nguyên tắc “xuất trước, nhập sau, xuất mới được nhập hàng” được áp dụng phổ biến, nhằm thúc đẩy thương nhân khai thác hàng hóa tại vùng tự do đưa vào vùng tạm bị địch chiếm nhiều nhất thể.

Danh mục hàng hóa được phép nhập khẩu dần được mở rộng sang cả các mặt hàng dân sinh như vải, bút máy, đèn pin... thay chỉ tập trung vào các mặt hàng phục vụ quan nhà nước như trước đây. Điều này đã giúp giải quyết triệt để tình trạng khan hiếm hàng công nghiệp tiêu dùng, xóa bỏ nạn buôn lậu chợ đen, cải thiện chất lượng cuộc sống tại vùng tự do nâng cao tinh thần chiến đấu của quân dân ta. Hoạt động xuất khẩu phát triển còn giúp tăng cường đáng kể nguồn ngoại tệ rất cần thiết cũng như tăng nguồn thu thuế cho ngân sách.

bảng 16 Nguồn: Viện Kinh tế học: Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi (1945 - 1954), Sđd, tr.259, 262.

bảng 17 Nguồn: Viện Kinh tế học: Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi (1945 - 1954), Sđd, tr.259, 262.

Tuy nhiên, chủ trương chung vẫn hạn chế nhập khẩu nhằm bảo vệ hoạt động sản xuất của vùng tự do, không nhập những hàng hóa vùng tự do đã sản xuất được như giấy viết, đường... chất lượng thể kém hơn. Mặt khác, việc kiểm soát chặt nhập khẩu, đặc biệt cấm nhập khẩu hàng xa xỉ phẩm, còn nhằm ngăn chặn thất thoát ngoại tệ, ngăn chặn các thủ đoạn tâm chiến của địch.

Trong việc giao thương hàng hóa giữa hai vùng, bộ phận thương nhân đóng vai trò quan trọng. Phần lớn thương nhân tự vận chuyển hàng hóa, hòa lẫn vào dòng người ra vào vùng tạm bị địch chiếm. Một số thương nhân tín nhiệm cao còn đóng vai trò cầu nối, kết nối Sở Mậu dịch với các hãng buôn lớn tại vùng tạm bị địch chiếm để thu mua các hàng hóa quan trọng như khí, thuốc tây... Hoạt động của Sở Mậu dịch trong thời kỳ này diễn ra nhịp nhàng, sôi động. Để hỗ trợ các thương nhân, Sở Mậu dịch bố trí một số kho hàng gần các cửa khẩu để nhanh chóng cung ứng hàng xuất đi cũng như nhận hàng chuyển vào từ các thương nhân.

Thực tế cho thấy, cách tiếp cận mới về đấu tranh kinh tế với địch đã phát huy hiệu quả rệt. Giá trị hàng hóa xuất khẩu ghi nhận tốc độ tăng trưởng mạnh kể từ năm 1951, cán cân sức mạnh kinh tế dần nghiêng về phía ta. Cụ thể, giá trị hàng hóa xuất khẩu của khu vực Bắc Bộ Bắc Trung Bộ (từ tỉnh Quảng Bình trở ra) trong năm 1953 tăng tới 168% so với năm 1952; trong 10 tháng đầu năm 1954 tăng 123% so với cùng kỳ năm 195310.

b) Phá hoại kinh tế địch

Ngoài việc bao vây, đấu tranh với địch trên phương diện thương mại, hoạt động phá hoại các sở công nghiệp của thực dân Pháp cũng được tích cực thực hiện nhằm hạn chế sức mạnh kinh tế của các vùng tạm bị địch chiếm, góp phần bảo vệ nền kinh tế tại vùng tự do.

Mặc đã chiếm được các thành phố khu công nghiệp lớn từ năm 1947, nhưng hoạt động sản xuất của thực dân Pháp tại những khu vực này gần như bị liệt bởi các hoạt động phá hoại, bất hợp tác của quần chúng nhân dân yêu nước. Công nhân làm việc tại các vùng tạm bị địch chiếm đã đấu tranh kiên cường, triệt để phá hoại sản xuất dưới nhiều hình thức như bãi công, lãn công, phá hủy máy móc, vật liệu sản xuất...

Điển hình, công nhân tại nhiều mỏ khai khoáng Mạo Khê, Uông Bí, Tuyên Quang, Thái Nguyên đã đặt mìn đánh sập nhiều hầm lò. Trong khi đó, công nhân của nhiều sở khí quan trọng tại Sài Gòn như Nhà máy Đóng tàu Ba Son, Hãng xây lắp Eiffel Asia... đã phá hủy vật liệu, gây lỗi, trì hoãn quá trình đóng, sửa chữa tàu, thuyền. Nhiều dụng cụ sản xuất cần thiết cũng được công nhân mật tháo gỡ, gửi ra ngoài vùng tự do, hỗ trợ đắc lực cho các công binh xưởng sản xuất khí tiêu diệt địch. Các sở sản xuất của giới chủ Pháp thường xuyên bị ngưng hoạt động do công nhân tại các nhà máy điện cố tình gây ra lỗi khiến việc vận hành mất nhiều thời gian mới thể khôi phục lại. Trong khi đó, các kho hàng, vật đối mặt với tình trạng bị đốt phá.

Sản lượng của các sở công nghiệp quan trọng đặt tại Hải Phòng, Nội, Nam Định, Sài Gòn suy giảm nghiêm trọng so với thời kỳ trước ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Các đồn điền canh tác cây công nghiệp quan trọng như cao su, bông, thuốc lá... cũng bị phá hoại triệt để khiến diện tích canh tác sản lượng thu hoạch sụt giảm.

Các tuyến đường giao thông chính cũng được nhân dân đào các rãnh, xen kẽ hoặc tạo ra các chướng ngại vật lớn khiến chỉ phương tiện thô di chuyển được. Hoạt động di chuyển đường thủy bị cản trở bởi nhiều cọc; trong khi đó, nhiều đoạn đường ray, vẹt đường sắt thường xuyên bị bóc dỡ. Điều này không chỉ ngăn trở hoạt động vận chuyển quân sự của địch còn khiến giao thương kinh tế giữa các vùng tạm bị địch chiếm gặp nhiều khó khăn. Cuộc chiến đấu giữa ta địch trên mặt trận phá hoại diễn ra rất quyết liệt. Ta phá, địch sửa lại, ta lại tiếp tục phá từ chỗ này sang chỗ khác. Mặc bị địch đàn áp, trả thù tàn bạo những vẫn không thể dập tắt các hoạt động phá hoại. Các khu vực hậu phương của địch đã trở thành tiền phương của ta.

Khi quân đội Pháp liên tiếp thất bại tại các chiến dịch quân sự lớn, thì hàng loạt doanh nghiệp Pháp ngưng đầu tư, chuyển hướng kinh doanh sang ngắn hạn, chộp giật bắt đầu rút vốn sang các thị trường khác kể từ năm 1949. Điều này càng khiến hoạt động kinh tế tại các vùng bị địch tạm chiếm trở nên suy yếu.


1. Sắc lệnh số 6/SL ngày 05/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

2. Sắc lệnh số 222/SL ngày 20/8/1948 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

3. Nếu xét theo biên giới quốc gia thì hoạt động xuất, nhập khẩu trong thời kỳ này thực chất cũng chỉ hoạt động giao thương hàng hóa nội địa, giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm. Tuy nhiên, nếu xét theo các hoàn cảnh đặc biệt, sự chia cắt theo thế cài răng lược giữa lãnh thổ do chính quyền cách mạng kiểm soát khu vực tạm bị địch chiếm thì thể coi như hoạt động xuất, nhập khẩu.

4. Tổng cục Hải quan: Hải quan Việt Nam - Những sự kiện 1945 - 2015, Nxb. Tài chính, Nội, 2015, tr.21.

5. Sắc lệnh số 192/SL ngày 28/5/1948 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc cấm buôn bán, chuyên chở hàng xa xỉ phẩm ngoại hóa trong toàn cõi Việt Nam.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.9, tr.142.

7. Sắc lệnh số 58/SL ngày 18/6/1949 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.505.

9. Theo Điều lệ tạm thời số 115/TTg ngày 15/8/1951 của Thủ tướng Chính phủ về quản xuất, nhập khẩu, hàng hóa đưa ra vùng tạm bị địch chiếm gọi hàng xuất khẩu, hàng hóa đưa vào vùng tự do gọi hàng nhập khẩu.

10. Viện Kinh tế học: Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi (1945 - 1954), Sđd, tr.259.

3. Hoạt động thương mại giữa vùng tự do vùng bị địch tạm chiếm, tiến hành bao vây đấu tranh kinh tế với địch

a) Bao vây, đấu tranh kinh tế với địch

Bao vây, đấu tranh với địch trên mặt trận kinh tế được Chính phủ nói chung, Bộ Kinh tế nói riêng xác định một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tiến hành kháng chiến toàn diện, tiến tới giành thắng lợi. Việc nghiêm cấm bán lương thực cho địch1, cấm giao thương hàng hóa cả hai chiều mua vào - bán ra với vùng tạm bị địch chiếm2 kết hợp với các chính sách “vườn không nhà trống”, “tiêu thổ kháng chiến” đã khiến quân đội Pháp tập trung tại các thành phố lớn trong những ngày đầu kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn về mặt hậu cần, thiếu hụt lương thực các loại hàng hóa thiết yếu trầm trọng.

Tuy nhiên, khi lực lượng được bổ sung, thực dân Pháp đã khơi thông được một số trục đường giao thông chính, nối được các khu vực chiếm đóng với nhau cũng như mở rộng phạm vi chiếm đóng ra vùng nông thôn đã giải quyết được các khó khăn về hậu cần. Các chính sách đấu tranh kinh tế của ta chưa theo kịp tốc độ phát triển thực tế của cuộc chiến việc thực hiện đổ đồng các chính sách này không xét đến sự khác nhau về thực lực kinh tế giữa các vùng tự do, đã khiến nền kinh tế của ta hứng chịu một số thiệt hại.

Sức mua tại các vùng tự do vốn đã thấp, việc cấm buôn bán hàng hóa với vùng tạm bị địch chiếm càng khiến nhiều mặt hàng nông sản như thóc gạo, gia súc... hàng tiểu thủ công như đồ gỗ, gốm, sứ... không thị trường tiêu thụ. Trong khi đó, các mặt hàng công nghiệp vốn phổ biến tại vùng tạm bị địch chiếm công cuộc kháng chiến nhu cầu cao như thuốc chữa bệnh, giấy viết, sản phẩm dệt may, đèn pin, bút máy... thì lại rất thiếu giá cao tại vùng tự do. Điều này dẫn đến tình trạng buôn lậu hàng hóa giữa hai vùng phát sinh với sự tham gia của nhiều người, đặc biệt sự tham gia của người dân sống tại các vùng giáp ranh vốn thông thạo các chốt kiểm soát địch - ta, kéo theo đó sự phức tạp về đảm bảo an ninh quốc phòng.

Ngoài ra, thực dân Pháp còn tạo điều kiện cho những thương nhân buôn hàng hóa xa xỉ, thậm chí tung hàng giả để phá hoại nền kinh tế vùng tự do thông qua hàng hóa giá trị để thực hiện các thủ đoạn tâm chiến.

Xuất phát từ thực tế đó, ngày 16/3/1947, Ngoại thương Cục thuộc Bộ Kinh tế được thành lập theo Sắc lệnh số 29B/SL của Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sắc lệnh nêu Chính phủ trực tiếp điều khiển các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá3. Hàng hóa xuất, nhập khẩu được chia thành hai danh mục, một các hàng hóa cấm xuất, nhập khẩu hàng hóa do Chính phủ trực tiếp xuất, nhập khẩu, hai các hàng hóa nhân vẫn được xuất, nhập khẩu nhưng phải được Chính phủ cho phép. Tiếp theo, Bộ Kinh tế cũng ban hành Nghị định số 112-BKT ngày 17/7/1947 tạm ấn định những cửa khẩu hoạt động ngoại thương Lào Cai, Giang, Cao Bằng, Thất Khê (Lạng Sơn), Thanh Hóa, Nghệ An. Chi cục Ngoại thương được thiết lập tại những cửa khẩu này để trực tiếp thực hiện quản nhà nước về hoạt động xuất, nhập khẩu. Các loại hàng hóa xuất, nhập khẩu qua các cửa khẩu khác đều coi trái phép, vi phạm nguyên tắc độc quyền xuất, nhập khẩu của Chính phủ. Các hàng hóa Chính phủ độc quyền xuất, nhập khẩu là: khí, chất hóa học, xăng dầu, xe đạp phụ tùng xe đạp, xe ô phụ tùng xe ôtô, dược phẩm bông vải sợi.

Tuy nhiên, những chính sách này chưa phát huy tác dụng như kỳ vọng. Các hạn chế bao vây kinh tế địch tiếp tục được xem xét kỹ qua các phiên họp thường kỳ của Bộ Kinh tế Hội đồng Chính phủ. Bộ Kinh tế đề xuất chủ trương quản giao thương hàng hóa giữa hai vùng theo hướng mềm dẻo hơn, không cấm triệt để việc lưu thông hàng hóa nhằm tận dụng nền kinh tế vùng tạm bị địch chiếm để củng cố vùng tự do. Ngày 27/4/1948, Nghị định Liên bộ Kinh tế - Tài chính - Nội vụ - pháp số 101-BKT/BT4 về thể lệ mậu dịch giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm được ban hành. Cùng ngày, Bộ Kinh tế ra Thông số 09- KT/TT/NT ấn định các loại hàng hóa được phép lưu thông giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm, cập nhật thêm nhiều loại hàng hóa được phép giao thương, phù hợp hơn theo tình hình thực tế. Đồng thời, Chính phủ đẩy mạnh hơn nữa việc chống buôn lậu, kinh doanh hàng hóa xa xỉ phẩm chuyển từ vùng tạm bị địch chiếm5. Các Chi cục, Chi điếm Ngoại thương thuộc Ngoại thương Cục được thiết lập tại các cửa ngõ giao thương hàng hóa giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm để kiểm soát hoạt động lưu thông hàng hóa.

Ngày 24/5/1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị lập Ủy ban Bao vây kinh tế địch. Chỉ thị nêu rõ: “Hiện nay hàng hóa địch tràn sang ta rất nhiều. Vòng vây kinh tế của ta tỏ ra rất ít kết quả.

Cũng thế đồng bạc Việt Nam nhiều nơi bị sụt giá, chỗ sút đến hơn 50%. Đối phó với tình thế ấy, các đồng chí nên đề nghị với các Ủy ban kháng chiến hành chính tổ chức một Ủy ban bao vây kinh tế địch, phối hợp các ngành công an, tình báo, kinh tế, quan thuế, v.v. để bàn định kế hoạch đôn đốc việc bao vây cho hiệu quả...”6.

Ngày 12/10/1948, Ban Trung ương bao vây kinh tế địch chính thức được thành lập theo Sắc lệnh số 241/SL của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn các hoạt động đấu tranh với địch trên mặt trận kinh tế. Thành viên gồm Bộ trưởng Bộ Kinh tế Chủ tịch, đại diện Bộ Tài chính đại diện Ngân hàng Nhà nước Ủy viên thường trực, đại diện Bộ Quốc phòng đại diện Bộ Công an ủy viên, bộ phận thường trực được đặt tại Bộ Kinh tế. Đến năm 1949, nhiệm vụ của Ban Trung ương bao vây kinh tế địch được giao cho Bộ Kinh tế7.

Theo chủ trương của Sắc lệnh số 241/SL, Phòng Tiếp liệu tại các địa phương được thành lập để tổ chức buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa vùng tự do vùng tạm chiếm, thu thuế xuất, nhập khẩu phòng, chống buôn lậu giữa hai vùng. Các tổ công tác được bố trí các vùng giáp ranh, những điểm những luồng hàng hóa ra vào giữa hai vùng.

Phòng Tiếp liệu sử dụng các thương nhân được cấp phép để thu mua hàng hóa theo các đơn hàng được đặt trước về chủng loại số lượng, cho phép thương nhân được hưởng mức chênh lệch giá phù hợp. Áp dụng kinh nghiệm vận dụng biện pháp kết hối, các thương nhân thường đem một lượng hàng hóa từ vùng tự do để bán sang vùng tạm bị địch chiếm để lấy đồng bạc Đông Dương rồi mua hàng đem vào vùng tự do. Phòng Tiếp liệu thanh toán lại cho thương nhân bằng đồng Việt Nam cũng như thu đổi đồng bạc Đông Dương để tạo nguồn ngoại tệ. Các liệu sản xuất như máy móc phụ tùng, nguyên vật liệu như sợi dệt, hóa chất, thuốc nhuộm, thuốc tây, xe đạp, dầu hỏa... những mặt hàng được ưu tiên thu mua trước hết. Quy định lưu thông danh mục các loại hàng hóa được phép giao thương giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm cũng dần được cập nhật, bổ sung theo nhu cầu thực tế.

Tuy nhiên, việc thực hiện cứng nhắc các quy định khiến các phòng Tiếp liệu chủ yếu thực hiện việc mua hàng để phục vụ nhu cầu của các quan nhà nước chưa coi trọng việc bán hàng của nhân dân vào vùng tạm bị địch chiếm. Điều này khiến phần lớn các mặt hàng lâm, thổ sản, tiểu thủ công nghiệp của vùng tự do bị đọng, không thị trường tiêu thụ, giá cả sụt giảm. Trong khi đó, hàng công nghiệp tiêu dùng từ vùng tạm bị địch chiếm lại trở nên khan hiếm, giá cả tăng vọt. Hiện tượng chênh lệch giá giữa hàng nông, lâm, thổ sản, tiểu thủ công nghiệp với hàng công nghiệp trở nên trầm trọng tại vùng tự do kể từ năm 1949.

Chủ trương bao vây kinh tế địch được đổi sang đấu tranh kinh tế với địch sau Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II (tháng 3/1951). Hội nghị chủ trương: “Không phải ta đặt một hàng rào ngăn hẳn giữa ta địch, ta vẫn phải mở mang buôn bán với địch, nhưng chỉ cho vào vùng địch những thứ hàng không hại cho ta đưa ra những thứ hàng cần cho kháng chiến cần cho đời sống nhân dân”8. Ngay sau đó, Sở Mậu dịch thuộc Bộ Kinh tế được thành lập thay thế cho Ngoại thương Cục Sở Nội thương, nhằm nâng cao hiệu quả lưu thông hàng hóa nội thương, ngoại thương cũng như đấu tranh kinh tế với địch. Ngày 13/8/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 49/SL quy định chi tiết các quy tắc đấu tranh kinh tế với địch. Phương châm đề ra đối với hoạt động bao vây kinh tế địch được xác định “bảo vệ độc lập tự chủ, tranh thủ trao đổi lợi” nhưng phải đảm bảo 4 quy tắc: Nội thương được tự do, ngoại thương phải quản lý; khuyến khích bán hàng ra, hạn chế mua hàng vào; củng cố giá trị tiền tệ làm cho tài chính quốc gia được dồi dào; bảo vệ phát triển sản xuất của ta.

Ngày 15/8/1951, Ban Trung ương bao vây kinh tế địch được giải thể, Ban Trung ương Quản xuất, nhập khẩu được thành lập theo Nghị định số 118/TTg của Thủ tướng Chính phủ nhiệm vụ đồng thời kiểm soát xuất, nhập khẩu, kết hối ngoại tệ, quản thuế xuất, nhập khẩu nhằm nâng cao hiệu quả xuất, nhập khẩu9. Thay quản hoạt động giao thương giữa hai vùng theo từng tỉnh, Ban Trung ương Quản xuất, nhập khẩu tổ chức quản theo từng tuyến giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm, như tuyến Bắc Ninh - Bắc Giang - Quảng Yên, tuyến Thanh Hóa, tuyến Bình Trị Thiên phân sở tại Nam Bộ.

Tháng 3/1952, Bộ Công Thương triệu tập hội nghị toàn quốc phổ biến chủ trương mới về đấu tranh kinh tế với địch tại Tuyên Quang. Hội nghị nhấn mạnh phải chủ động tăng cường xuất khẩu, quản chặt chẽ nhập khẩu, tích lũy ngoại tệ, đẩy mạnh đấu tranh tiền tệ với địch, bài trừ việc tiêu thụ hàng xa xỉ phẩm.

Việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa góp phần khai thác triệt để nguồn lâm, thổ sản vốn rất phong phú tại các vùng tự do để đổi thành các loại hàng hóa dân sinh thiết yếu từ vùng tạm bị địch chiếm, vừa giúp cải thiện đời sống, vừa góp phần thúc đẩy sản xuất trong nhân dân. Việc thu mua hàng sẵn trong nhân dân dần phát triển thành tổ chức sản xuất, khai thác hàng hóa chuyên biệt phục vụ xuất khẩu. Đồng thời, nguyên tắc “xuất trước, nhập sau, xuất mới được nhập hàng” được áp dụng phổ biến, nhằm thúc đẩy thương nhân khai thác hàng hóa tại vùng tự do đưa vào vùng tạm bị địch chiếm nhiều nhất thể.

Danh mục hàng hóa được phép nhập khẩu dần được mở rộng sang cả các mặt hàng dân sinh như vải, bút máy, đèn pin... thay chỉ tập trung vào các mặt hàng phục vụ quan nhà nước như trước đây. Điều này đã giúp giải quyết triệt để tình trạng khan hiếm hàng công nghiệp tiêu dùng, xóa bỏ nạn buôn lậu chợ đen, cải thiện chất lượng cuộc sống tại vùng tự do nâng cao tinh thần chiến đấu của quân dân ta. Hoạt động xuất khẩu phát triển còn giúp tăng cường đáng kể nguồn ngoại tệ rất cần thiết cũng như tăng nguồn thu thuế cho ngân sách.

bảng 16 Nguồn: Viện Kinh tế học: Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi (1945 - 1954), Sđd, tr.259, 262.

bảng 17 Nguồn: Viện Kinh tế học: Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi (1945 - 1954), Sđd, tr.259, 262.

Tuy nhiên, chủ trương chung vẫn hạn chế nhập khẩu nhằm bảo vệ hoạt động sản xuất của vùng tự do, không nhập những hàng hóa vùng tự do đã sản xuất được như giấy viết, đường... chất lượng thể kém hơn. Mặt khác, việc kiểm soát chặt nhập khẩu, đặc biệt cấm nhập khẩu hàng xa xỉ phẩm, còn nhằm ngăn chặn thất thoát ngoại tệ, ngăn chặn các thủ đoạn tâm chiến của địch.

Trong việc giao thương hàng hóa giữa hai vùng, bộ phận thương nhân đóng vai trò quan trọng. Phần lớn thương nhân tự vận chuyển hàng hóa, hòa lẫn vào dòng người ra vào vùng tạm bị địch chiếm. Một số thương nhân tín nhiệm cao còn đóng vai trò cầu nối, kết nối Sở Mậu dịch với các hãng buôn lớn tại vùng tạm bị địch chiếm để thu mua các hàng hóa quan trọng như khí, thuốc tây... Hoạt động của Sở Mậu dịch trong thời kỳ này diễn ra nhịp nhàng, sôi động. Để hỗ trợ các thương nhân, Sở Mậu dịch bố trí một số kho hàng gần các cửa khẩu để nhanh chóng cung ứng hàng xuất đi cũng như nhận hàng chuyển vào từ các thương nhân.

Thực tế cho thấy, cách tiếp cận mới về đấu tranh kinh tế với địch đã phát huy hiệu quả rệt. Giá trị hàng hóa xuất khẩu ghi nhận tốc độ tăng trưởng mạnh kể từ năm 1951, cán cân sức mạnh kinh tế dần nghiêng về phía ta. Cụ thể, giá trị hàng hóa xuất khẩu của khu vực Bắc Bộ Bắc Trung Bộ (từ tỉnh Quảng Bình trở ra) trong năm 1953 tăng tới 168% so với năm 1952; trong 10 tháng đầu năm 1954 tăng 123% so với cùng kỳ năm 195310.

b) Phá hoại kinh tế địch

Ngoài việc bao vây, đấu tranh với địch trên phương diện thương mại, hoạt động phá hoại các sở công nghiệp của thực dân Pháp cũng được tích cực thực hiện nhằm hạn chế sức mạnh kinh tế của các vùng tạm bị địch chiếm, góp phần bảo vệ nền kinh tế tại vùng tự do.

Mặc đã chiếm được các thành phố khu công nghiệp lớn từ năm 1947, nhưng hoạt động sản xuất của thực dân Pháp tại những khu vực này gần như bị liệt bởi các hoạt động phá hoại, bất hợp tác của quần chúng nhân dân yêu nước. Công nhân làm việc tại các vùng tạm bị địch chiếm đã đấu tranh kiên cường, triệt để phá hoại sản xuất dưới nhiều hình thức như bãi công, lãn công, phá hủy máy móc, vật liệu sản xuất...

Điển hình, công nhân tại nhiều mỏ khai khoáng Mạo Khê, Uông Bí, Tuyên Quang, Thái Nguyên đã đặt mìn đánh sập nhiều hầm lò. Trong khi đó, công nhân của nhiều sở khí quan trọng tại Sài Gòn như Nhà máy Đóng tàu Ba Son, Hãng xây lắp Eiffel Asia... đã phá hủy vật liệu, gây lỗi, trì hoãn quá trình đóng, sửa chữa tàu, thuyền. Nhiều dụng cụ sản xuất cần thiết cũng được công nhân mật tháo gỡ, gửi ra ngoài vùng tự do, hỗ trợ đắc lực cho các công binh xưởng sản xuất khí tiêu diệt địch. Các sở sản xuất của giới chủ Pháp thường xuyên bị ngưng hoạt động do công nhân tại các nhà máy điện cố tình gây ra lỗi khiến việc vận hành mất nhiều thời gian mới thể khôi phục lại. Trong khi đó, các kho hàng, vật đối mặt với tình trạng bị đốt phá.

Sản lượng của các sở công nghiệp quan trọng đặt tại Hải Phòng, Nội, Nam Định, Sài Gòn suy giảm nghiêm trọng so với thời kỳ trước ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Các đồn điền canh tác cây công nghiệp quan trọng như cao su, bông, thuốc lá... cũng bị phá hoại triệt để khiến diện tích canh tác sản lượng thu hoạch sụt giảm.

Các tuyến đường giao thông chính cũng được nhân dân đào các rãnh, xen kẽ hoặc tạo ra các chướng ngại vật lớn khiến chỉ phương tiện thô di chuyển được. Hoạt động di chuyển đường thủy bị cản trở bởi nhiều cọc; trong khi đó, nhiều đoạn đường ray, vẹt đường sắt thường xuyên bị bóc dỡ. Điều này không chỉ ngăn trở hoạt động vận chuyển quân sự của địch còn khiến giao thương kinh tế giữa các vùng tạm bị địch chiếm gặp nhiều khó khăn. Cuộc chiến đấu giữa ta địch trên mặt trận phá hoại diễn ra rất quyết liệt. Ta phá, địch sửa lại, ta lại tiếp tục phá từ chỗ này sang chỗ khác. Mặc bị địch đàn áp, trả thù tàn bạo những vẫn không thể dập tắt các hoạt động phá hoại. Các khu vực hậu phương của địch đã trở thành tiền phương của ta.

Khi quân đội Pháp liên tiếp thất bại tại các chiến dịch quân sự lớn, thì hàng loạt doanh nghiệp Pháp ngưng đầu tư, chuyển hướng kinh doanh sang ngắn hạn, chộp giật bắt đầu rút vốn sang các thị trường khác kể từ năm 1949. Điều này càng khiến hoạt động kinh tế tại các vùng bị địch tạm chiếm trở nên suy yếu.


1. Sắc lệnh số 6/SL ngày 05/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

2. Sắc lệnh số 222/SL ngày 20/8/1948 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

3. Nếu xét theo biên giới quốc gia thì hoạt động xuất, nhập khẩu trong thời kỳ này thực chất cũng chỉ hoạt động giao thương hàng hóa nội địa, giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm. Tuy nhiên, nếu xét theo các hoàn cảnh đặc biệt, sự chia cắt theo thế cài răng lược giữa lãnh thổ do chính quyền cách mạng kiểm soát khu vực tạm bị địch chiếm thì thể coi như hoạt động xuất, nhập khẩu.

4. Tổng cục Hải quan: Hải quan Việt Nam - Những sự kiện 1945 - 2015, Nxb. Tài chính, Nội, 2015, tr.21.

5. Sắc lệnh số 192/SL ngày 28/5/1948 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc cấm buôn bán, chuyên chở hàng xa xỉ phẩm ngoại hóa trong toàn cõi Việt Nam.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.9, tr.142.

7. Sắc lệnh số 58/SL ngày 18/6/1949 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.505.

9. Theo Điều lệ tạm thời số 115/TTg ngày 15/8/1951 của Thủ tướng Chính phủ về quản xuất, nhập khẩu, hàng hóa đưa ra vùng tạm bị địch chiếm gọi hàng xuất khẩu, hàng hóa đưa vào vùng tự do gọi hàng nhập khẩu.

10. Viện Kinh tế học: Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi (1945 - 1954), Sđd, tr.259.

2. Hoạt động thương mại ở vùng tự do

a) Các hình thức hoạt động

Trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, sản xuất phân tán, thị trường bị chia cắt phức tạp theo thế “cài răng lược” giữa vùng tự do và vùng tạm bị địch chiếm, khả năng kinh tế mỗi vùng khác nhau, công tác đảm bảo và phát triển lưu thông hàng hóa là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Bộ Kinh tế nói riêng và của Chính phủ nói chung nhằm ổn định sinh hoạt của nhân dân, đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng chiến, tiến tới xây dựng nền kinh tế kháng chiến có khả năng tự cấp, tự túc về mọi mặt.

Về phía Nhà nước, đã hình thành một số đơn vị chuyên trách được giao nhiệm vụ thu mua các loại hàng hóa cần thiết cho bộ đội và các cơ quan. Trong đó, ngay từ đầu năm 1947, Nha Tiếp tế được giao nhiệm vụ thu mua thóc gạo trên thị trường. Cùng với đó, Cơ quan Phân tán muối thuộc Bộ Tài chính được hình thành và đảm nhiệm tổ chức vận chuyển muối và mua muối trên thị trường để đưa về các khu an toàn.

Từ tháng 02/1948, hoạt động của Nha Tiếp tế được thay thế bởi Cục Tiếp tế vận tải thuộc Bộ Kinh tế1. Ngoài gạo và muối, danh mục hàng hóa được Cục Tiếp tế vận tải thu mua mở rộng thêm một số nguyên liệu, vật tư sản xuất như bông để kéo sợi, tre nứa và vỏ cây dó để làm giấy... Đến tháng 11/1950, Sở Nội thương thuộc Bộ Kinh tế được thành lập thay thế cho Cục Tiếp tế vận tải2.

Tất cả các loại hàng hóa được Nhà nước thu mua và dự trữ chủ yếu được phân phối cho bộ đội, cơ quan nhà nước, xí nghiệp quốc doanh và một phần cho nhân dân các vùng miền núi nhưng chỉ trong một số trường hợp thị trường tự do thiếu hụt hàng hóa nghiêm trọng. Các cơ quan nhà nước chuyên trách này được xem là các thành phần mới trong việc lưu thông hàng hóa trên thị trường, nhưng trong suốt cuộc kháng chiến, các cơ quan này chủ yếu đóng vai trò là người mua hàng vào để phục vụ hoạt động của Nhà nước và xuất khẩu. Chỉ từ khi Sở Mậu dịch được thành lập vào năm 1951 thì mới có việc bán hàng ra cho nhân dân, nhưng chỉ nhằm điều tiết giá tại một số thị trường chính. Phần lớn việc phân phối hàng hóa trên thị trường trong thời gian kháng chiến dựa vào thương nhân. Thương nhân đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy giao thương hàng hóa giữa các vùng tự do, cũng như giữa vùng tự do với vùng tạm bị địch chiếm. Dựa trên việc giá nhiều loại hàng hóa có sự chênh lệch lớn giữa vùng sản xuất và vùng tiêu thụ do tình trạng bị chia cắt, sự khác biệt về trình độ kinh tế giữa các địa phương, thị trường xuất hiện các luồng giao thương hàng hóa giữa các địa phương, tỉnh, khu và liên khu do sự hoạt động của thương nhân. Đây được xem là điểm độc đáo trong hoạt động thương mại thời chiến tranh. Các luồng hàng hóa này tập trung vào một số loại hàng hóa dân sinh chính, thiết yếu như thóc gạo, muối, vải... Điển hình là luồng muối từ Nam Định, Thái Bình thuộc Liên khu III lên Việt Bắc và Tây Bắc. Nếu so sánh với giá gạo thì giá muối tại Nam Định, Thái Bình có mức quy đổi 1 muối đổi 1 gạo, nhưng tại Việt Bắc thì mức quy đổi này lên tới 1 muối đổi 5 gạo, tạo ra mức lợi nhuận lớn cho thương nhân tham gia kinh doanh. Đồng thời, khi trở về, thương nhân còn có thể kiếm thêm lãi bằng việc vận chuyển hàng lâm thổ sản của Việt Bắc, Tây Bắc về bán lại tại Liên khu III, Liên khu IV, cũng như vùng tạm bị địch chiếm. Đường di chuyển của các luồng hàng hóa này thường xuyên thay đổi theo tình hình chiến sự giữa ta với địch. Mặc dù hình thức kinh doanh này nguy hiểm, vất vả, nhưng do mức lợi nhuận cao, nên hầu như các luồng hàng hóa gạo và muối ít khi bị ách tắc quá lâu, chỉ tạm ngưng do lũ lụt hoặc địch càn quét mạnh.

Nhận thấy tác dụng tích cực của các luồng giao thương hàng hóa này cũng như vai trò của thương nhân trong việc phát triển kinh tế vùng tự do, Chính phủ hết sức khuyến khích hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho thương nhân lưu thông hàng hóa.

Quan hệ giữa Nhà nước với lực lượng thương nhân trong thời kỳ này là quan hệ hợp tác. Nhà nước tạo mọi điều kiện để thương nhân hoạt động thuận lợi, cung ứng hàng hóa phục vụ nhân dân và công cuộc kháng chiến. Thương nhân cần đến Nhà nước để được tự do di chuyển giữa hai vùng; bên cạnh việc tìm kiếm lợi nhuận thì phần nhiều giới thương nhân có tinh thần yêu nước, mong muốn độc lập và cũng muốn giúp đỡ Chính phủ kháng chiến thành công.

Trước khi hệ thống mậu dịch quốc doanh được kiện toàn, hầu như tất cả các cơ quan chuyên trách quản lý thương mại của ta đều sử dụng thương nhân như là cầu nối với thị trường và tận dụng hệ thống thương nhân để điều hòa thị trường, bình ổn vật giá.

Trong thời kỳ này, hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa tập trung chủ yếu tại ba nơi: các chợ quê truyền thống, các cửa hàng gần tuyến đường giao thông chính và các thị trấn, trung tâm của vùng kháng chiến; trong đó, các chợ quê truyền thống vốn được hình thành từ rất lâu tại các địa phương, có chức năng giao thương hàng hóa cho nhân dân một vài làng, xã hoặc trong vùng. Các loại hàng hóa được bày bán tại đây chủ yếu là hàng nông sản, sản phẩm tiểu, thủ công nghiệp địa phương và một số ít sản phẩm công nghiệp tiêu dùng.

Các cửa hàng gần tuyến đường giao thông chính chủ yếu do người dân tản cư từ vùng đô thị lập ra và xuất hiện nhiều, tập trung ở một số đầu mối giao thông quan trọng, hình thành nên một số trung tâm kinh doanh sầm uất với nhiều loại hàng hóa, đặc biệt là sản phẩm công nghiệp tiêu dùng như giấy in, mực viết, vải các loại...

Tại hầu hết các vùng tự do của ta đều hình thành một hoặc một số trung tâm kháng chiến, hành chính và kinh tế đầu não như Ấm Thượng (Phú Thọ), Cầu Bố (Thanh Hóa), Tam Kỳ (Quảng Nam)... với lượng dân cư sinh sống đông, cán bộ và bộ đội qua lại nhiều. Tại đây, hoạt động giao thương hàng hóa diễn ra sôi động với khối lượng hàng hóa tập trung đông, trong đó có cả sản phẩm thuộc vùng tạm bị địch chiếm.

Các thương nhân sử dụng những trung tâm kinh tế này là nơi phân phối bán lẻ chính, cũng là nơi tập kết, thu mua các loại hàng hóa mà họ cần, từ đó hình thành giá các loại hàng hóa và tác động đến giá hàng hóa tại các vùng lân cận.

Vùng tự do

Trong quá trình di chuyển đến gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh vào tháng 5/1947 để trao đổi về điều kiện ngừng bắn giữa phía Việt Nam và Pháp, Đặc phái viên của Cao ủy Pháp ở Đông Dương - ông Paul Mus nhận thấy càng đi sâu vào vùng kháng chiến (vùng tự do theo cách gọi từ phía ta), hoạt động của mọi tầng lớp nhân dân càng nhộn nhịp.

Ông Paul Mus nhớ lại: “Đã có những khu phố mới hình thành ở cạnh đường, nhìn cách ăn mặc thì biết ngay những người ở đây đến từ Hà Nội. Họ buôn bán đủ các thứ hàng hóa. Có cả những quán giải khát, quán cơm và quán phở. Rất nhiều người đi lại tấp nập, có từng đoàn xe đạp thồ những bao nặng hai bên xe”. Paul Mus đoán những kiện hàng này là gạo hoặc muối - hai thứ mặt hàng cực kỳ thiết yếu tại Việt Bắc nói riêng và vùng tự do nói chung. Nhiều lần qua những ngã tư, có dân quân ngăn đường, để bộ đội hành quân, Paul Mus và những người đi đường phải đợi rất lâu. Đi trong đêm tối, các khách bộ hành mang nặng hàng hóa, nhưng họ vẫn cười nói vui vẻ.

Một đêm, trước khi gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 12/5/1947, ông Paul Mus cho biết được dẫn vào ven một đô thị. Đô thị cũ đã bị phá, nhưng nhiều phố có nhiều nhà mới làm bằng tre lợp lá cọ. Nhà nào cũng thắp đèn sáng để bán hàng. Rất đông người đi lại mua bán. Một đô thị buôn bán sầm uất như những khu phố ở ngoại thành Hà Nội mà Paul Mus đã biết. Mãi về sau, Paul Mus mới biết nơi đó là thị xã Thái Nguyên.

Nguồn: “Hồ Chí Minh và cuộc gặp cuối cùng với chính quyền Pháp”, Infonet, Chuyên trang của Báo VietnamNet, ngày 19/5/2016.

b) Hoạt động thương mại ở vùng tự do trước năm 1950

Trong những năm đầu kháng chiến 1946 - 1947, mặc dù các thành phố, khu sản xuất công nghiệp bị quân đội Pháp tái chiếm khiến ta bị thiếu hụt nguồn cung hàng hóa công nghiệp, nhưng ta vẫn giữ được một số khu vực sản xuất nông nghiệp lớn, đảm bảo nguồn cung nông sản. Bên cạnh đó, vì chiến tranh mới xảy ra, nhu cầu của bộ đội cũng chưa nhiều, còn nhân dân thì chủ yếu lo ổn định sinh hoạt, nên tuy nguồn hàng sinh hoạt có thiếu hụt nhưng chưa bị ảnh hưởng nặng nề. Tình hình lưu thông hàng hóa và giá cả chưa diễn biến quá phức tạp.

Tuy nhiên, sau một loạt thất bại quân sự tại chiến trường Đông Dương những năm 1947 - 1949, quân đội Pháp dần xoay sang tấn công ta mạnh hơn về mặt kinh tế. Địch tăng cường bắn phá các thị trấn, bến đò, các đường giao thông chính trong vùng tự do của ta. Năm 1949, chúng đánh rộng ra nhiều nơi, khiến các vùng tự do bị chia cắt mạnh, hoạt động giao thương hàng hóa giữa các vùng do ta kiểm soát bị ảnh hưởng nặng nề. Khối lượng hàng hóa lưu thông giữa các vùng tự do bị hạn chế cho dù hoạt động sản xuất của ta có phát triển hơn giai đoạn đầu của cuộc chiến. Bên cạnh đó, địch chủ tâm chiếm các khu sản xuất lúa gạo và muối chính của ta. Trong khi đó, nhu cầu về nhiều loại hàng hóa lại đang tăng mạnh khi cuộc kháng chiến của ta bước sang giai đoạn mới. Do đó, ta thường xuyên rơi vào tình trạng căng thẳng, thiếu hụt hàng hóa, nhất là đối với thóc gạo, muối và vải.

Liên khu Việt Bắc là nơi gặp nhiều khó khăn nhất, vì đây là nơi tập trung nhiều nhất các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến, với đông đảo lực lượng bộ đội, cán bộ và có địa hình hiểm trở. Hàng nông, lâm, thổ sản của các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang thuộc Liên khu Việt Bắc bị ứ đọng, không có nơi tiêu thụ, trong khi đó, lại rất thiếu các mặt hàng như gạo, muối, nước mắm, sợi, vải vốn hay được chuyển từ Liên khu III và Liên khu IV. Tình trạng khan hiếm hàng đẩy giá trên thị trường tăng nhanh: giá 1 kg gạo trong năm 1948 là 4 đồng thì đến năm 1949 đã lên tới 18 đồng, cao gấp 2 lần so với giá gạo tại Liên khu III và Liên khu IV.

Ngược lại, các tỉnh tại Liên khu III thì thừa gạo, nhiều loại nông sản và thủy hải sản nhưng lại thiếu các loại nông, lâm sản đặc thù của Liên khu Việt Bắc như chè, quế, sa nhân,... Tình hình tại các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh thuộc Liên khu IV, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên thuộc Liên khu V tương đối ổn hơn, do có thể tự cung, tự cấp nhiều loại hàng hóa thiết yếu, giá hàng hóa tuy có tăng nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với Liên khu Việt Bắc. Các tỉnh tại Nam Bộ thì nhiều nơi thừa thóc gạo nhưng lại thiếu sợi, vải bông.

Từ cuối năm 1948, hoạt động đầu cơ, tích trữ hàng bắt đầu xuất hiện mạnh. Ngày 19/11/1948, Chủ tịch Chính phủ ký Sắc lệnh số 257/SL về cấm chỉ mọi sự tích trữ có tính cách đầu cơ những hàng hóa cần thiết cho đời sống nhân dân; nếu phạm pháp sẽ bị trừng phạt với các khung hình phạt nghiêm khắc được Chính phủ ban hành. Tuy nhiên, việc thực hiện máy móc chính sách này khiến một số địa phương còn cấm nhân dân chuyên chở thóc gạo sang địa bàn khác, buộc Bộ Kinh tế phối hợp với Bộ Nội vụ nhắc nhở các địa phương thực hiện đúng nguyên tắc tự do buôn bán nhằm điều hòa sự phân phối hàng hóa và giá cả trong các địa phương.

Để ngăn chặn tình trạng tăng giá hàng hóa, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 8/SL ngày 25/02/1949 về việc định việc hóa giá những loại cần thiết cho đời sống nhân dân và công cuộc kháng chiến; trong đó quy định “cấm không được bán những loại hàng cần thiết cho đời sống nhân dân và công cuộc kháng chiến quá một giá tối đa do Chính phủ ấn định”. Đồng thời, Liên bộ Kinh tế - Nội vụ ra quy định yêu cầu người dân kê khai hàng hóa thiết yếu đang tích trữ, tổ chức Hội đồng hóa giá liên khu, tỉnh và thành phố, tổ chức thu mua thóc gạo theo giá quy định, hay còn gọi là hóa giá.

Chủ trương này mới chỉ được thực hiện trong một thời gian ngắn trên một phạm vi hẹp ở Liên khu Việt Bắc nhưng đã gây ra những tác động tiêu cực: hàng hóa biến mất khỏi thị trường, thương nhân rút vào buôn bán lén lút. Người tiêu dùng không mua được những hàng hóa cần thiết cho đời sống hằng ngày, giá thị trường không giảm mà còn tăng vọt. Sở dĩ có tình trạng trên là do hàng hóa trên thị trường lúc này thường là sản phẩm tự sản, tự tiêu của những người sản xuất nhỏ hoặc là sản phẩm thương nhân mua gom và bán ra để kiếm lời, giá mua và bán hình thành trên thị trường theo quan hệ cung cầu. Cách mua bán của những thành phần này trên thị trường để đối phó với việc Nhà nước áp đặt giá không phù hợp với tình hình cung cầu trên thị trường, họ có thể nhanh chóng rút vào bí mật khiến thị trường không còn hàng hóa, trong khi đó, Nhà nước lại không có lực lượng hàng hóa và mạng lưới phân phối thay thế thương nhân để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Cho nên, chủ trương hóa giá đã thất bại.

Trước tình trạng này, đến ngày 17/3/1949, Sắc lệnh số 8/SL và quy định về hóa giá được hủy bỏ, cho phép tự do buôn bán các hàng hóa thiết yếu trở lại. Giá hàng hóa càng diễn biến phức tạp khi giá muối tại các liên khu chênh lệch lớn sau khi địch đánh chiếm Phát Diệm (Ninh Bình) vào tháng 10/1949. Giá muối tháng 4/1950, tại Hà Tĩnh (Liên khu IV) là 2,45 đồng/kg, tại Hưng Yên (Liên khu III) là 14 đồng/kg và tại Thái Nguyên (Liên khu Việt Bắc) lên tới 120 đồng/kg. Ngay trong cùng một liên khu, giá hàng hóa cũng khác nhau.

Chính phủ đưa ra một giải pháp tạm thời là trả lương cho đội ngũ cán bộ, công chức bằng gạo3 vào tháng 5/1950. Bằng nhiều biện pháp kết hợp, nhất là đẩy mạnh phát triển tăng gia sản xuất, tăng cường tiết kiệm và nỗ lực cung ứng một số loại hàng hóa thiết yếu với giá rẻ ra thị trường, tình hình giá cả tạm được cải thiện. Như vậy, hai năm 1949 - 1950 là thời gian khó khăn nhất đối với quân và dân ta từ khi cuộc kháng chiến diễn ra.

Sau Chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950, vùng tự do được mở rộng và nối liền với một dải biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Nhu cầu kháng chiến cũng như nhu cầu của đời sống nhân dân tăng lên, nhu cầu lưu thông hàng hóa phát triển mạnh. Để nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động nội thương trong giai đoạn mới, ngày 17/11/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 168/SL về việc thành lập Sở Nội thương thuộc Bộ Kinh tế, thay cho Cục Tiếp tế vận tải. Theo đó, các phân sở, chi sở và chi điếm, Cửa hàng thuộc Sở Nội thương được thành lập tại các vùng tự do để trực tiếp thực hiện việc thu mua và phân phối hàng hóa, điều hòa thị trường.

c) Hoạt động thương mại ở vùng tự do sau năm 1950

Các khó khăn và thách thức chính

Sau thắng lợi Chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta bước sang giai đoạn tổng phản công với tương quan chính trị, quân sự và kinh tế giữa ta với địch dần nghiêng về phía ta, kéo theo đó là những thuận lợi cũng như các khó khăn mới trong công tác điều hành hoạt động giao thương hàng hóa tại vùng tự do.

Trong đó, nhiều khu vực rộng lớn được giải phóng, thế kìm kẹp và bao vây vùng tự do của Pháp bị phá vỡ, nhờ đó, hoạt động giao thông và liên lạc giữa các vùng tự do diễn ra ổn định, an toàn, thuận lợi hơn, điều này giúp mở rộng đáng kể thị trường sản xuất, tiêu thụ hàng hóa tại vùng tự do, khối lượng hàng hóa lưu thông tăng mạnh. Đặc biệt, tuyến biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc được khơi thông; đồng thời, lần lượt các quốc gia thuộc khối xã hội chủ nghĩa gồm Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Liên bang Xôviết, Cộng hòa Dân chủ Đức... công nhận và chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao - kinh tế với Việt Nam. Qua đó, nguồn cung nhiều loại hàng hóa vốn trước đây phải phụ thuộc chủ yếu vào vùng tạm bị địch chiếm đã trở nên đa dạng hơn. Mặt khác, đồng bào trên cả nước ngày càng tin tưởng, ủng hộ Chính phủ và công cuộc kháng chiến, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao thương hàng hóa giữa vùng tự do và vùng tạm bị địch chiếm.

Tuy nhiên, việc xây dựng bộ đội chủ lực và chuẩn bị các chiến dịch quân sự lớn đòi hỏi Nhà nước phải chi tiêu nhiều hơn, kéo theo đó là lượng giấy bạc được phát hành ra thị trường, nền kinh tế vùng tự do đối mặt với áp lực mất cân đối tiền - hàng căng thẳng. Đặc biệt, những nơi nào mà lực lượng quân đội tập trung đông để chuẩn bị cho các hoạt động quân sự thì nhu cầu hàng hóa tại nơi đó tăng mạnh, kéo theo giá hầu hết các mặt hàng đều tăng. Giá cả sau khi thiết lập mặt bằng mới lại không giảm xuống. Gạo và muối là hai mặt hàng thực phẩm tối cần thiết hằng ngày, có nhiều đột biến về giá nhất. Ví dụ, chỉ trong năm 1949, giá gạo tại Quảng Nam tăng 2,4 lần, tại Lạng Sơn đã tăng gấp 4 lần, tại Thái Nguyên tăng tới 5,1 lần so với năm 1947. Năm 1950, giá cả tiếp tục tăng lên với nhịp độ nhanh hơn.

HCM thăm Bắc Kan Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm bà con nông dân tỉnh Bắc Kạn đang thu hoạch lúa mùa năm 1950 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Trong khi đó, quân đội Pháp cũng tăng cường các hoạt động chống phá trên cả mặt trận quân sự lẫn kinh tế. Tại vùng tạm bị địch chiếm, giá nhiều loại hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa công nghiệp thấp hơn nhiều so với tại vùng tự do và bắt đầu tràn vào vùng tự do. Tình trạng này không chỉ đe dọa nghiêm trọng nền kinh tế vùng tự do, nhất là các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, mà còn khiến nạn buôn lậu, đầu cơ, lũng đoạn thị trường trở nên phức tạp hơn. Tất cả những điều này đòi hỏi Bộ Kinh tế phải có các biện pháp kinh tế, quản lý giá, bình ổn thị trường chặt chẽ và phù hợp hơn.

Những thành công nổi bật

Tiếp thu các chủ trương của Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (tháng 02/1951), xây dựng chính sách giá được Bộ Kinh tế xác định là vấn đề mấu chốt đầu tiên cần giải quyết để tháo gỡ các khó khăn hiện tại, giúp nền kinh tế vùng tự do vận hành ăn khớp với những thay đổi trên mặt trận quân sự - chính trị, đáp ứng những nhu cầu khi cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn mới. Chính sách giá bao gồm các mức giá cụ thể của một số loại hàng hóa quan trọng trên thị trường, các quan hệ giá giữa các loại hàng hóa và các loại chênh lệch giá được dùng để làm cơ sở cho việc bình ổn giá.

Chính sách giá mới cần đáp ứng các yêu cầu sau: Phải thúc đẩy được sản xuất tại vùng tự do trong điều kiện sản xuất quy mô nhỏ, kỹ thuật thô sơ, vật tư sản xuất là dựa vào nguồn cung tại chỗ, chất lượng hàng hóa còn thấp so với hàng hóa cùng loại từ vùng tạm bị địch chiếm; phải khuyến khích giao thương hàng hóa giữa nơi sản xuất và nơi tiêu thụ, giữa các địa phương; phải tạo động lực cho thương nhân khơi thông các luồng giao thương, tích cực phân phối hàng hóa trong điều kiện chiến tranh; phải giúp cải thiện đời sống của nhân dân so với giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Do hoạt động nông nghiệp vẫn chiếm chủ đạo trong nền kinh tế vùng tự do, đa số người dân vẫn là nông dân với sản phẩm chính là lúa gạo; nguồn thu nhập và sức mua của nông dân chủ yếu là từ tiền bán lúa gạo; đồng thời do điều kiện chiến tranh nên việc điều tra, nghiên cứu yếu tố hình thành giá trên thị trường bị hạn chế; vì vậy, Bộ Kinh tế đề xuất lấy giá lúa gạo làm cơ sở tính giá. Bộ Kinh tế cũng điều chỉnh giá một số loại nông sản cần thiết để khuyến khích nông dân đẩy mạnh canh tác như bông, mía đường...

Đối với giá hàng công nghiệp tiêu dùng, Bộ Kinh tế tham khảo các quan hệ giá giữa những loại hàng công nghiệp thiết yếu nhất so với giá gạo; đồng thời, có những điều chỉnh phù hợp để cải thiện đời sống người nông dân. Mức giá gạo được dùng làm cơ sở để xác định giá các loại hàng công nghiệp tiêu dùng là mức giá trên thị trường vùng tự do Việt Bắc lúc này.

Đối với các loại lâm, thổ sản chuyên xuất khẩu, việc định giá thu mua căn cứ vào giá xuất khẩu để khuyến khích nhân dân đẩy mạnh sản xuất, khai thác và khuyến khích thương nhân tham gia thu mua, xuất khẩu.

Mức giá cụ thể của một số mặt hàng thiết yếu được dùng làm cơ sở để bình ổn vật giá lúc này như sau: gạo: 400 đồng/kg, vải diềm bâu4: 1.600 đồng/mét, dầu hỏa: 1.200 đồng/lít.

Các mức giá cũng được tính toán để duy trì chênh lệch giá ở mức hợp lý giữa các vùng và giữa giá bán buôn với giá bán lẻ nhằm dành cho thương nhân một mức lãi thích đáng, khuyến khích họ mở rộng giao thương, khơi thông các luồng hàng quan trọng và đẩy mạnh việc phân phối hàng hóa đến người tiêu dùng. Các mức chênh lệnh giá này được Bộ Kinh tế tính toán cẩn thận dựa theo từng loại hàng, tính chất hàng, mức độ khó khăn trong vận chuyển, thu mua... nhằm tránh cho người tiêu dùng phải chi trả giá quá cao.

biến động giá cả

Chính sách giá mới đã phát huy tác dụng giúp hoạt động sản xuất, đặc biệt là sản xuất tiểu thủ công nghiệp diễn ra ổn định tại vùng tự do. Đời sống của người nông dân được cải thiện hơn khi chênh lệch giữa giá nông sản và giá hàng công nghiệp tiêu dùng được thu hẹp về mức hợp lý hơn. Nhiều luồng hàng như: muối, vải, gạo... từ Liên khu IV, Liên khu III lên Việt Bắc, luồng hàng lâm, thổ sản từ Việt Bắc về Liên khu III hay ra các cửa khẩu được khơi thông và phát triển nhộn nhịp.

Song song với việc xây dựng chính sách giá, Bộ Kinh tế xây dựng các giải pháp chống đột biến giá, điều hòa thị trường thông qua hệ thống mậu dịch quốc doanh. Theo đó, Sở Mậu dịch thuộc Bộ Công Thương được thành lập theo Sắc lệnh số 22/SL ngày 14/5/1951 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sở Mậu dịch có trách nhiệm đảm bảo cung cấp hàng hóa cần thiết phục vụ cho công cuộc kháng chiến, đời sống nhân dân, hoạt động sản xuất, cũng như bình ổn giá cả, đấu tranh chống đầu cơ, lũng đoạn thị trường, đấu tranh kinh tế với địch. Điều này đánh dấu bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển hoạt động thương mại tại nước ta, nhằm thích ứng với những điều kiện đặc thù trong chiến tranh, tạo tiền đề cho việc xây dựng ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa sau này.

Đáng chú ý, phương châm hoạt động của Sở Mậu dịch trong thời kỳ này là “nắm hàng chính, nắm thị trường chính, nắm bán buôn là chính”, tận dụng mạng lưới thương nhân để điều hòa giá trên toàn thị trường. Thương nhân được tổ chức thành các tổ, nhóm. Cán bộ mậu dịch sinh hoạt thường kỳ để cung cấp các thông tin quân sự, kinh tế, chính trị mới, nhằm định hướng, hỗ trợ hoạt động kinh doanh của họ, cũng như lắng nghe ý kiến phản ánh của thương nhân về chính sách và thu thập các thông tin thị trường thực tế.

Ngoài mặt hàng gạo, muối và chất đốt, Sở Mậu dịch gần như không bán lẻ trực tiếp đại trà các loại hàng hóa cho nhân dân, mà chỉ tập trung cung ứng hàng hóa cho các đơn vị nhà nước, bán buôn hàng hóa cho thương nhân để thương nhân trực tiếp phân phối cho người tiêu dùng với mức chênh lệch giá hợp lý. Bên cạnh đó, Sở Mậu dịch đứng ra thu mua trong nhân dân các loại hàng hóa mà thương nhân cần cho kinh doanh tại vùng tạm bị địch chiếm. Thông qua đó, Sở Mậu dịch điều hòa thị trường, điều chỉnh hoạt động của thương nhân phù hợp với định hướng của Nhà nước, từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế vùng tự do.

Sở Mậu dịch chủ động dự trữ những mặt hàng chính, thiết yếu nhằm xử lý tình trạng mất cân đối tạm thời, đặc biệt là đối với mặt hàng gạo và muối. Lực lượng mậu dịch được giao nhiệm vụ dự trữ lúa gạo theo tình hình cung - cầu, tình hình canh tác của các địa phương, gom mua khi vào vụ thu hoạch và bán ra khi vào thời điểm giáp hạt, bố trí kế hoạch vận chuyển để sẵn sàng bổ sung hàng hóa cho những nơi có nhu cầu tăng đột xuất. Với những biện pháp trên, từ năm 1952, những vụ đột biến giá gạo xảy ra ở một số nơi như Phú Thọ, Thanh Hóa và Thái Nguyên đã nhanh chóng được khắc phục.

dân công Phú Thọ Dân công tỉnh Phú Thọ gánh gạo phục vụ Chiến dịch Trung du trong những năm 1950 - 1951 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Bên cạnh đó, Bộ Kinh tế phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và Bộ Quốc phòng để cân đối tiền - hàng tại các địa phương chuẩn bị có chiến dịch quân sự lớn. Sở Mậu dịch căn cứ vào lượng tiền dự kiến chi ra để chuẩn bị lượng hàng bán ra tương ứng, thu tiền về. Các mặt hàng được chuẩn bị kỹ theo nhu cầu mà bộ đội, dân công và nhân dân hay mua trong các hoạt động quân sự. Kết quả là trong các chiến dịch được triển khai, đặc biệt trong hai chiến dịch lớn là Đông Xuân 1953 - 1954 và Điện Biên Phủ, nhu cầu hàng hóa và chi tiêu tập trung rất lớn trên một số địa bàn tại Việt Bắc, nhưng tình trạng đột biến giá không xảy ra.

Hệ thống mậu dịch quốc doanh ngày càng đóng vai trò lớn trong việc đảm bảo cung ứng đầy đủ những loại hàng hóa thiết yếu cho các cơ quan nhà nước, bình ổn giá và điều hành giới thương nhân phân phối hàng hóa hiệu quả cho nhân dân. Điều này được thể hiện qua khối lượng hàng hóa được hệ thống mậu dịch quốc doanh thu mua và phân phối cho quân đội, cơ quan nhà nước cũng như nhân dân tăng cao qua các năm.

lượng hàng hóa bán ra Nguồn: Viện Kinh tế học: Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi (1945 - 1954), Sđd, tr.244.

Công tác bình ổn vật giá được thực hiện hiệu quả đã giúp tốc độ tăng giá hằng năm chậm lại, cụ thể: giá năm 1951 so với năm 1950 tăng 3,6 lần; năm 1952 so với năm 1951 tăng 3,35 lần; năm 1953 so với năm 1952 tăng 1,17 lần. Đến năm 1954 giảm so với năm 1953 chỉ còn bằng 0,97 lần, trong đó, giá muối năm 1953 giảm so với năm 1952 tại khu vực thượng du hạ 32%, trung du giảm 52%. Giá vải tại Việt Bắc giảm chỉ còn 1 m vải tương đương 10 kg gạo, so với mức 15 - 20 kg gạo trước đây. Tốc độ tăng giá cũng giảm mạnh so với tốc độ phát hành tiền mặt, cụ thể: 5 tháng đầu năm 1951, tiền mặt phát hành tăng 1 lần thì giá tăng 2,6 lần; năm 1952 giá tăng không tới 1 lần và đến năm 1953 giá chỉ còn tăng 0,7 lần.

Giải quyết được vấn đề điều hòa thị trường được xem là một thắng lợi lớn không chỉ về mặt kinh tế mà cả về chính trị trong giai đoạn này. Thông qua việc bình ổn giá, vấn đề đột biến giá được ngăn chặn triệt để, nhân dân ngày càng thêm tin tưởng vào Đảng và Chính phủ, góp phần củng cố vững chắc nền kinh tế vùng tự do.


1. Sắc lệnh số 140/SL ngày 29/02/1948 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc thành lập Cục Tiếp tế vận tải trong Bộ Kinh tế và bãi bỏ Nha Tiếp tế.

2. Sắc lệnh số 168/SL ngày 17/11/1950 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc thành lập Sở Nội thương trong Bộ Kinh tế.

3. Sắc lệnh số 81/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc ấn định thang lương chung cho công chức làm việc trong các cơ quan Chính phủ.

4. Loại vải trắng dày, thô, được dệt bằng sợi thông thường; là loại vải phổ biến trên thị trường thời kỳ này (B.T).

4. Xây dựng và phát triển hoạt động xuất, nhập khẩu

a) Hoạt động xuất, nhập khẩu trước năm 1950

Trước khi Chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950 diễn ra, hoạt động xuất, nhập khẩu phần nhiều được hiểu là hoạt động giao thương hàng hóa qua “biên giới chính trị” - giữa vùng tự do và vùng tạm bị địch chiếm.

Hoạt động giao thương hàng hóa thực sự qua biên giới địa lý giữa Việt Nam với các thị trường khác tại vùng tự do chủ yếu có quy mô nhỏ, không thường xuyên, gặp rất nhiều khó khăn, phụ thuộc vào tình hình chiến sự giữa ta với địch. Mặc dù Chính phủ chủ trương nắm độc quyền hoạt động xuất, nhập khẩu trong giai đoạn này, nhưng trên thực tế, chính quyền cách mạng tại các địa phương hoặc Chi cục, Chi điếm Ngoại thương tại các nơi đã thiết lập được hoạt động phải kết hợp với giới thương nhân để tổ chức xuất khẩu, kết nối với giới thương nhân nước ngoài tại Trung Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc), Thái Lan... để nhập khẩu về các mặt hàng cần thiết.

Hàng hóa được xuất khẩu chủ yếu là các loại nông, lâm sản địa phương; trong khi đó, các mặt hàng được nhập khẩu về đại đa phần là các mặt hàng cần thiết cho kháng chiến như thuốc nổ, dây cháy chậm, xăng dầu và cả vũ khí. Một số ít mặt hàng dân sinh vốn khan hiếm trên vùng tự do, có giá trị cao cũng được nhập khẩu.

Điển hình, trong Báo cáo thường niên năm 19481, Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Hà Tiên đề xuất Ban Kinh tế Nam Bộ ủy quyền cho Ban Kinh tế Hà Tiên phối hợp với “những người thạo đường bí mật”, sử dụng các loại ghe nhỏ, lẩn tránh địch để xuất khẩu dừa Phú Quốc sang Thái Lan dưới sự tổ chức của chính quyền địa phương. Thời gian tổ chức hoạt động này kéo dài từ 6 tháng đến 1 năm. Báo cáo cũng nêu rõ tiền thu được từ việc xuất khẩu dừa sẽ chia 50% cho người chở, còn lại sẽ được chính quyền dùng mua vũ khí hoặc hàng hóa cần thiết cho công cuộc kháng chiến.

Tại Bắc Bộ, mặc dù địch phong tỏa gắt gao vùng biển nhưng một số thuyền buôn tư nhân xuất phát từ Trung Quốc vẫn tới được các cửa biển nhỏ tại khu vực Bắc Bộ như Diêm Điền (Thái Bình), Quất Lâm (Nam Định), Lạch Trường (Thanh Hóa), Cửa Hội (Nghệ An)... Tuy nhiên, khối lượng hàng hóa được giao dịch ở mức thấp, không đáng kể do các tàu buôn này nhỏ, dễ lẩn tránh kiểm soát nhưng khối lượng chuyên chở cũng hạn chế nhằm lẩn tránh sự kiểm soát của địch; khi địch tăng cường càn quét và khủng bố, các hoạt động giao thương theo hình thức này bị hủy bỏ.

b) Hoạt động xuất, nhập khẩu sau năm 1950

Chiến thắng bước ngoặt của quân và dân ta trong Chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950 đã buộc quân đội Pháp phải rút bỏ khỏi nhiều vị trí quan trọng trên tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc, mở ra cơ hội đẩy mạnh giao thương giữa ta với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Ngày 03/5/1951, đoàn đại biểu Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Thứ trưởng Bộ Kinh tế Đặng Việt Châu dẫn đầu đã có cuộc gặp với đoàn đại biểu Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để thảo luận, đàm phán về việc giao thương hàng hóa giữa hai nước.

Năm 1952, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Hiệp định thương mại với Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đây được xem là hiệp định thương mại quốc tế đầu tiên của Việt Nam. Theo Hiệp định này, Trung Quốc nhập khẩu nhiều mặt hàng nông, lâm sản từ nước ta như chè, gỗ, hồi, quế, tre, gia súc và da gia súc... và xuất khẩu sang nước ta các loại máy móc, vải sợi, giấy in, sắt thép, hóa chất, dược phẩm, hàng tiêu dùng... Bên cạnh đó, Trung Quốc còn viện trợ không hoàn lại một số loại hàng hóa, vật tư. Bộ Công Thương chịu trách nhiệm quản lý, điều khiển hoạt động xuất, nhập khẩu tại biên giới Việt Nam - Trung Quốc thông qua các Ty quản lý xuất, nhập khẩu. Hàng hóa xuất, nhập khẩu phải được chuyển qua các cửa khẩu, gồm: Chi Ma, Đồng Đăng, Bình Nghi (Lạng Sơn); Phục Hòa, Long Định, Sóc Giang (Cao Bằng); Bát Xát (Lào Cai) và Thanh Thủy (Hà Giang)2.

Đáng chú ý, trước khi hai nước ký kết chính thức Hiệp định thương mại, Bộ Ngoại thương Trung Quốc đã chủ động chuyển cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhiều loại hàng hóa cấp thiết. Đến khi có Hiệp định thương mại, Trung Quốc mới đề xuất cách thanh toán theo hướng hàng đổi hàng, hai bên cùng hợp tác cân đối hàng để thực hiện việc giao thương thuận lợi.

Đến tháng 01/1953, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp tục ký Nghị định thư về mậu dịch tiểu ngạch với Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, cho phép nhân dân sinh sống dọc biên giới hai nước được đi lại, trao đổi những sản phẩm địa phương, cần thiết hằng ngày. Đến tháng 10/1954, hoạt động xuất, nhập khẩu thông qua tuyến đường sắt giữa hai nước được triển khai.

Bên cạnh đó, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu xây dựng quan hệ ngoại thương với Liên Xô, xúc tiến mở rộng quan hệ thương mại với các nước xã hội chủ nghĩa khác. Tuy nhiên, giao thương với Trung Quốc vẫn chiếm vai trò chủ đạo trong quan hệ thương mại quốc tế của Việt Nam thời kỳ này.

Việc mở ra thị trường Trung Quốc là dấu mốc lớn trong hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ này. Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam được đẩy mạnh, nhiều loại hàng hóa có sức tiêu thụ thấp trong vùng tạm bị địch chiếm nay được tiêu thụ mạnh tại Trung Quốc. Đơn cử, trong năm 1953, riêng giá trị hàng xuất khẩu sang Trung Quốc do Chính phủ ta thực hiện đã bằng 120% giá trị hàng xuất khẩu từ vùng tự do sang vùng tạm bị địch chiếm. Đặc biệt, xuất khẩu theo đường tiểu ngạch (xuất khẩu của tư nhân) từ Việt Nam sang Trung Quốc đạt trạng thái xuất siêu cao như giá trị xuất khẩu gấp 3 lần giá trị nhập khẩu theo đường tiểu ngạch trong năm 19533.

Nhiều mặt hàng tiêu dùng của Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè quốc tế trở nên phổ biến, góp phần quan trọng trong việc bình ổn giá tại vùng tự do, cũng như giành thắng lợi trước thực dân Pháp trên mặt trận kinh tế.


1. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, phông Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, hồ sơ 453, tờ 8-14.

2. Điều lệ tạm thời số 165/TTg ngày 01/5/1952 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý xuất, nhập khẩu ở biên giới Việt - Hoa.

3. Xem Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 11 (Từ năm 1951 đến năm 1954), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2017, tr.313.

Danh mục

Tùy chỉnh