Hạ tầng kinh tế

Thực dân Pháp chú trọng cải tạo phát triển sở hạ tầng giao thông tại Việt Nam ngay sau khi chiếm đóng xứ Nam Kỳ vào những năm 1860 nhằm hỗ trợ các hoạt động khai thác thuộc địa động hơn trong việc di chuyển lực lượng quân sự. Với đất nước bờ biển dài địa hình bị chia cắt phức tạp, trong giai đoạn đầu, người Pháp tập trung phát triển hệ thống giao thông đường thủy nội địa cũng như đường biển thông qua việc xây dựng các cảng.

Ngay trong năm 1860, người Pháp đã tiến hành xây dựng cảng Sài Gòn để đón các tàu buôn cỡ lớn tạo dựng hệ thống đường thủy liên thông với cảng sông Chợ Lớn, hình thành hệ thống lưu chuyển hàng hóa hoàn chỉnh, qua đó quy tụ toàn bộ hoạt động xuất khẩu hàng hóa, đặc biệt xuất khẩu gạo của xứ Nam Kỳ về vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Tiếp theo đó, các cảng biển Đà Nẵng, Cam Ranh, Quy Nhơn… dần được người Pháp phát triển.

Đặc biệt, vào năm 1887, chính quyền thuộc địa thành lập thành phố Hải Phòng đầu lớn để biến nơi đây từ một làng chài nhỏ thành cảng biển lớn nhất xứ Bắc Kỳ, đầu mối giao thông quan trọng trên các tuyến hàng hải quốc tế một trung tâm công nghiệp lớn của Liên bang Đông Dương nói chung, Việt Nam nói riêng. Mạng lưới vận tải đường sông tại khu vực Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long các sông lớn tại xứ Trung Kỳ cũng được chính quyền thuộc địa khai thác triệt để với việc nạo vét sông, kênh đào xây dựng các kênh đào mới.

Bên cạnh đó, người Pháp cũng chú trọng phát triển mạng lưới đường sắt từ năm 1885 nhằm tận dụng ưu thế vận chuyển lượng hàng hóa khối lượng lớn, chi phí vận chuyển thấp thể kết nối giữa các khu vực của Liên bang Đông Dương. Đây phương thức vận chuyển hoàn toàn mới, lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam. Đến năm 1902, tuyến đường sắt Nội - Đồng Đăng (162 km) Nội - Hải Phòng (102 km) được người Pháp đưa vào vận hành chỉ sau một thời gian ngắn xây dựng. Một số cầu đường sắt vượt sông quy lớn nhất khu vực cũng như trên thế giới đã được xây dựng như cầu Long Biên cầu Hàm Rồng. Các công ty nhân được chính quyền thuộc địa khuyến khích tham gia phát triển hệ thống đường sắt như tuyến Tháp Chàm - Đà Lạt, Sài Gòn - Lộc Ninh… Vào năm 1936, tuyến đường sắt Bắc - Nam, nối Nội - Sài Gòn với tổng chiều dài 1.730 km đã được người Pháp hoàn thành, giúp rút ngắn việc di chuyển giữa hai thành phố lớn nhất của Liên bang Đông Dương xuống chỉ còn 40 giờ.

Việc phát triển đường bộ được chính quyền thuộc địa chú ý tương đối muộn chỉ triển khai mạnh kể từ năm 1912. Đến năm 1918, đã 18 Đường thuộc địa13 đã được xây dựng tại Đông Dương, giúp kết nối thủ phủ các xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên với khu vực biên giới Thái Lan Trung Quốc. Trục đường Thiên Bắc - Nam dưới thời nhà Nguyễn được chính quyền thuộc địa củng cố thiết lập các bến phà, xây dựng cầu vượt sông hiện đại, trở thành Đường thuộc địa số 1 hay còn gọi đường Mandarine (đường Cái Quan). Từ trục đường xương sống này, các đường tỉnh lộ được phát triển để dẫn về các huyện lỵ, thủ phủ của các tỉnh. Trong đó, các trục đường bộ được phát triển tập trung đến các khu đồn điền, các khu vực mỏ quặng, than đá…

Mặc người Pháp không chủ trương phát triển lĩnh vực chế tạo khí trong quá trình khai thác thuộc địa nhưng nhu cầu phát triển của hoạt động giao thông vận tải đã thúc đẩy sự hình thành một số ít nhà máy khí lớn tại Nội, Vinh Sài Gòn để sửa chữa tàu thuyền, chế tạo toa xe lửa… Điển hình Xưởng Đóng tàu Ba Son được chính quyền thuộc địa xây dựng vào năm 1863 tại Sài Gòn, được trang bị máy công cụ lớn, khí nặng, tàu nổi. Cao điểm, Thủy xưởng Ba Son hơn 200 kỹ 1.500 công nhân lành nghề, năng lực sửa chữa, đóng tàu quân sự lẫn tàu biển tải trọng lên tới 3.500 tấn.

Năm 1919, Công ty Chế tạo khí (Société anonyme de Constructions Mécaniques) được thành lập tại Hải Phòng, chuyên sửa chữa, đóng tàu luyện kim. Đến năm 1929, xưởng đóng tàu của công ty đã thể sửa chữa các loại tàu trọng tải hơn 1.500 tấn. Cũng năm 1919, Công ty Xe đạp Berset chi nhánh Nội (Société des cycles de l’Indochine, établissements Berset) được thành lập, chuyên sản xuất xe đạp phụ tùng xe đạp. Trong năm 1920, Chi nhánh Bainier (Auto-Hall) tại Sài Gòn (Société anonyme des établissements Bainier) được thành lập để sửa chữa các loại xe sản xuất một số phụ tùng ô tô. Hoạt động của doanh nghiệp này dần được mở rộng ra Nội.

Một số thợ người Việt lành nghề sau khi theo làm tại các hãng khí của người Pháp tích lũy được vốn cũng bắt đầu tự mở xưởng trong giai đoạn này nhưng đa phần quy nhỏ chủ yếu sửa chữa giản đơn.

Xét về phương diện giao thông thuần túy, chỉ trong khoảng 60 năm, từ năm 1890 - 1945, sở hạ tầng giao thông tại Việt Nam đã thay đổi mạnh mẽ, toàn diện với nhiều công trình giao thông hiện đại quy lớn trong khu vực cũng như trên thế giới. Tuy việc phát triển sở hạ tầng giao thông của thực dân Pháp chủ yếu để phục vụ việc khai thác thuộc địa, việc mở mang giao thông đã góp phần thúc đẩy sự phát triển tại nhiều khu vực trên cả nước, thúc đẩy giao lưu kinh tế - hội giữa các vùng miền trong nước cũng như với nước ngoài, kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh của cả người bản xứ. Đồng thời, việc du nhập các phương thức vận tải mới chưa từng tại Việt Nam trước kia cũng góp phần đặt nền móng cho sự phát triển lĩnh vực khí, chế tạo máy của người Việt sau này.

so tau Thống các tàu, lan thuộc sở hữu của Nhà sản dân tộc Bạch Thái Bưởi đăng trên Tạp chí Nam Phong số 29 tháng 12/1916.

Sự kiện nhân chứng lịch sử
Giang hải Luân thuyền Bạch Thái Bưởi
Tháng 9/1919, Giang hải Luân thuyền Bạch Thái Bưởi Công ty của nhà sản dân tộc Bạch Thái Bưởi đã hạ thủy thành công tàu chở khách hơi nước Bình Chuẩn trọng tải 600 tấn hoàn toàn do người Việt thiết kế đóng tại Cửa Cấm (Hải Phòng). Sự việc này được xem biểu tượng cho “Phong trào chấn hưng thương trường, cổ động thực nghiệp” của giới sản Việt Nam bấy giờ. Các xưởng khí thuộc sở hữu của Bạch Thái Bưởi được trang bị nhiều máy móc lớn, công nhân lành nghề, không chỉ sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ các tàu còn đóng mới nhiều loại tàu trọng tải lớn phục vụ hoạt động của mình. Đáng chú ý, Bạch Thái Bưởi luôn thể hiện tinh thần tự cường, tự tôn dân tộc trong hoạt động kinh doanh, ông đặt tên các con tàu bằng những tên Việt như Lạc Long, Hồng Bàng, Trưng Trắc, Lợi… sử dụng khẩu hiệu “Người Việt Nam đi tàu Việt Nam” để kêu gọi người Việt giúp đỡ nhau, cùng chấn hưng nền kinh tế. Đầu những năm 1930, quy đội tàu của Bạch Thái Bưởi lên tới 40 tàu lan, hoạt động trên toàn quốc đến các nước lân cận như: Hồng Kông, Trung Quốc, Singapore, Philippines.


13. Đường quan trọng cấp quốc gia, xuyên Liên bang Đông Dương. (Ban biên soạn)

Hạ tầng kinh tế

Thực dân Pháp chú trọng cải tạo phát triển sở hạ tầng giao thông tại Việt Nam ngay sau khi chiếm đóng xứ Nam Kỳ vào những năm 1860 nhằm hỗ trợ các hoạt động khai thác thuộc địa động hơn trong việc di chuyển lực lượng quân sự. Với đất nước bờ biển dài địa hình bị chia cắt phức tạp, trong giai đoạn đầu, người Pháp tập trung phát triển hệ thống giao thông đường thủy nội địa cũng như đường biển thông qua việc xây dựng các cảng.

Ngay trong năm 1860, người Pháp đã tiến hành xây dựng cảng Sài Gòn để đón các tàu buôn cỡ lớn tạo dựng hệ thống đường thủy liên thông với cảng sông Chợ Lớn, hình thành hệ thống lưu chuyển hàng hóa hoàn chỉnh, qua đó quy tụ toàn bộ hoạt động xuất khẩu hàng hóa, đặc biệt xuất khẩu gạo của xứ Nam Kỳ về vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Tiếp theo đó, các cảng biển Đà Nẵng, Cam Ranh, Quy Nhơn… dần được người Pháp phát triển.

Đặc biệt, vào năm 1887, chính quyền thuộc địa thành lập thành phố Hải Phòng đầu lớn để biến nơi đây từ một làng chài nhỏ thành cảng biển lớn nhất xứ Bắc Kỳ, đầu mối giao thông quan trọng trên các tuyến hàng hải quốc tế một trung tâm công nghiệp lớn của Liên bang Đông Dương nói chung, Việt Nam nói riêng. Mạng lưới vận tải đường sông tại khu vực Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long các sông lớn tại xứ Trung Kỳ cũng được chính quyền thuộc địa khai thác triệt để với việc nạo vét sông, kênh đào xây dựng các kênh đào mới.

Bên cạnh đó, người Pháp cũng chú trọng phát triển mạng lưới đường sắt từ năm 1885 nhằm tận dụng ưu thế vận chuyển lượng hàng hóa khối lượng lớn, chi phí vận chuyển thấp thể kết nối giữa các khu vực của Liên bang Đông Dương. Đây phương thức vận chuyển hoàn toàn mới, lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam. Đến năm 1902, tuyến đường sắt Nội - Đồng Đăng (162 km) Nội - Hải Phòng (102 km) được người Pháp đưa vào vận hành chỉ sau một thời gian ngắn xây dựng. Một số cầu đường sắt vượt sông quy lớn nhất khu vực cũng như trên thế giới đã được xây dựng như cầu Long Biên cầu Hàm Rồng. Các công ty nhân được chính quyền thuộc địa khuyến khích tham gia phát triển hệ thống đường sắt như tuyến Tháp Chàm - Đà Lạt, Sài Gòn - Lộc Ninh… Vào năm 1936, tuyến đường sắt Bắc - Nam, nối Nội - Sài Gòn với tổng chiều dài 1.730 km đã được người Pháp hoàn thành, giúp rút ngắn việc di chuyển giữa hai thành phố lớn nhất của Liên bang Đông Dương xuống chỉ còn 40 giờ.

Việc phát triển đường bộ được chính quyền thuộc địa chú ý tương đối muộn chỉ triển khai mạnh kể từ năm 1912. Đến năm 1918, đã 18 Đường thuộc địa13 đã được xây dựng tại Đông Dương, giúp kết nối thủ phủ các xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên với khu vực biên giới Thái Lan Trung Quốc. Trục đường Thiên Bắc - Nam dưới thời nhà Nguyễn được chính quyền thuộc địa củng cố thiết lập các bến phà, xây dựng cầu vượt sông hiện đại, trở thành Đường thuộc địa số 1 hay còn gọi đường Mandarine (đường Cái Quan). Từ trục đường xương sống này, các đường tỉnh lộ được phát triển để dẫn về các huyện lỵ, thủ phủ của các tỉnh. Trong đó, các trục đường bộ được phát triển tập trung đến các khu đồn điền, các khu vực mỏ quặng, than đá…

Mặc người Pháp không chủ trương phát triển lĩnh vực chế tạo khí trong quá trình khai thác thuộc địa nhưng nhu cầu phát triển của hoạt động giao thông vận tải đã thúc đẩy sự hình thành một số ít nhà máy khí lớn tại Nội, Vinh Sài Gòn để sửa chữa tàu thuyền, chế tạo toa xe lửa… Điển hình Xưởng Đóng tàu Ba Son được chính quyền thuộc địa xây dựng vào năm 1863 tại Sài Gòn, được trang bị máy công cụ lớn, khí nặng, tàu nổi. Cao điểm, Thủy xưởng Ba Son hơn 200 kỹ 1.500 công nhân lành nghề, năng lực sửa chữa, đóng tàu quân sự lẫn tàu biển tải trọng lên tới 3.500 tấn.

Năm 1919, Công ty Chế tạo khí (Société anonyme de Constructions Mécaniques) được thành lập tại Hải Phòng, chuyên sửa chữa, đóng tàu luyện kim. Đến năm 1929, xưởng đóng tàu của công ty đã thể sửa chữa các loại tàu trọng tải hơn 1.500 tấn. Cũng năm 1919, Công ty Xe đạp Berset chi nhánh Nội (Société des cycles de l’Indochine, établissements Berset) được thành lập, chuyên sản xuất xe đạp phụ tùng xe đạp. Trong năm 1920, Chi nhánh Bainier (Auto-Hall) tại Sài Gòn (Société anonyme des établissements Bainier) được thành lập để sửa chữa các loại xe sản xuất một số phụ tùng ô tô. Hoạt động của doanh nghiệp này dần được mở rộng ra Nội.

Một số thợ người Việt lành nghề sau khi theo làm tại các hãng khí của người Pháp tích lũy được vốn cũng bắt đầu tự mở xưởng trong giai đoạn này nhưng đa phần quy nhỏ chủ yếu sửa chữa giản đơn.

Xét về phương diện giao thông thuần túy, chỉ trong khoảng 60 năm, từ năm 1890 - 1945, sở hạ tầng giao thông tại Việt Nam đã thay đổi mạnh mẽ, toàn diện với nhiều công trình giao thông hiện đại quy lớn trong khu vực cũng như trên thế giới. Tuy việc phát triển sở hạ tầng giao thông của thực dân Pháp chủ yếu để phục vụ việc khai thác thuộc địa, việc mở mang giao thông đã góp phần thúc đẩy sự phát triển tại nhiều khu vực trên cả nước, thúc đẩy giao lưu kinh tế - hội giữa các vùng miền trong nước cũng như với nước ngoài, kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh của cả người bản xứ. Đồng thời, việc du nhập các phương thức vận tải mới chưa từng tại Việt Nam trước kia cũng góp phần đặt nền móng cho sự phát triển lĩnh vực khí, chế tạo máy của người Việt sau này.

so tau Thống các tàu, lan thuộc sở hữu của Nhà sản dân tộc Bạch Thái Bưởi đăng trên Tạp chí Nam Phong số 29 tháng 12/1916.

Sự kiện nhân chứng lịch sử
Giang hải Luân thuyền Bạch Thái Bưởi
Tháng 9/1919, Giang hải Luân thuyền Bạch Thái Bưởi Công ty của nhà sản dân tộc Bạch Thái Bưởi đã hạ thủy thành công tàu chở khách hơi nước Bình Chuẩn trọng tải 600 tấn hoàn toàn do người Việt thiết kế đóng tại Cửa Cấm (Hải Phòng). Sự việc này được xem biểu tượng cho “Phong trào chấn hưng thương trường, cổ động thực nghiệp” của giới sản Việt Nam bấy giờ. Các xưởng khí thuộc sở hữu của Bạch Thái Bưởi được trang bị nhiều máy móc lớn, công nhân lành nghề, không chỉ sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ các tàu còn đóng mới nhiều loại tàu trọng tải lớn phục vụ hoạt động của mình. Đáng chú ý, Bạch Thái Bưởi luôn thể hiện tinh thần tự cường, tự tôn dân tộc trong hoạt động kinh doanh, ông đặt tên các con tàu bằng những tên Việt như Lạc Long, Hồng Bàng, Trưng Trắc, Lợi… sử dụng khẩu hiệu “Người Việt Nam đi tàu Việt Nam” để kêu gọi người Việt giúp đỡ nhau, cùng chấn hưng nền kinh tế. Đầu những năm 1930, quy đội tàu của Bạch Thái Bưởi lên tới 40 tàu lan, hoạt động trên toàn quốc đến các nước lân cận như: Hồng Kông, Trung Quốc, Singapore, Philippines.


13. Đường quan trọng cấp quốc gia, xuyên Liên bang Đông Dương. (Ban biên soạn)

Tiểu thủ công nghiệp

Quá trình khai thác thuộc địa cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp nhìn chung không ảnh hưởng quá nhiều đến các ngành thủ công nghiệp tại Việt Nam. Mặc dù một số nghề truyền thống như nấu rượu, làm muối bị chế độ độc quyền của chính quyền thuộc địa làm cho tê liệt nhưng nhiều ngành như nghề nuôi tằm, ươm tơ, gốm sứ, đồ mỹ nghệ chạm khảm, sơn mài… có điều kiện phát triển tốt hơn.

Bên cạnh đó, nhiều sản phẩm tiểu thủ công nghiệp mới ra đời theo nhu cầu xã hội như các sản phẩm giày dép da, đồ thủy tinh,… Đáng chú ý, nhờ nâng cao năng suất và cải thiện chất lượng thông qua tiếp cận các kỹ thuật sản xuất mới, nhiều sản phẩm tiểu thủ công nghiệp của người Việt đã dần thay thế các mặt hàng nhập từ Trung Quốc vốn trước chiếm vị thế độc quyền trên thị trường. Sức sống và sự phát triển của nhiều nghề trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp dưới thời chính quyền thuộc địa chủ yếu có hai lý do:

Thứ nhất, chính quyền thuộc địa và giới thương nhân người Pháp đã sớm nhận thấy các sản phẩm thủ công nghiệp của Việt Nam với chất lượng tốt và giá rẻ sẽ đem lại nguồn lợi lớn nên có chủ trương phát huy các ưu thế của thủ công nghiệp bản địa trên thị trường Pháp và thị trường thế giới. Bên cạnh đó, việc quảng bá các sản phẩm thủ công tinh xảo của xứ thuộc địa sẽ giúp nâng cao vị thế của Chính phủ Pháp đối với công chúng nước này và các quốc gia khác. Thông qua các Hội chợ Đấu xảo tại Pháp và ở các nước khác, nhiều mặt hàng như tơ lụa, mây đan, sơn mài, thêu… của Việt Nam đã gây ấn tượng mạnh trên thị trường quốc tế, mở ra nguồn lợi lớn cho người Pháp. Năm 1917, Sở Kinh tế Đông Dương đã được thành lập tại Paris (Pháp), một trong những nhiệm vụ chính của cơ quan này là giới thiệu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Liên bang Đông Dương đến thị trường Pháp và các nước khác.

Thứ hai, chính quyền thuộc địa không có chủ trương phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, trong khi đó, giá các sản phẩm hàng tiêu dùng nhập khẩu quá cao so với đại bộ phận dân chúng nên các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp vẫn còn thị trường. Khi các hoạt động kinh tế được khởi sắc và điều kiện giao thương thuận lợi cũng giúp nhu cầu về các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp trên thị trường nội địa tăng lên.

Các mạng lưới sản xuất đồ thủ công tinh xảo trong khu phố cổ của Hà Nội, các làng nghề truyền thống hàng trăm năm tuổi với lực lượng thợ thủ công lành nghề, siêng năng ở Nam Định, Hà Đông, Bắc Ninh… đã khiến người Pháp sớm tin rằng xứ Bắc Kỳ là nơi có nhiều tiềm năng nhất tại Việt Nam và dành sự quan tâm đặc biệt để đẩy mạnh phát triển các mặt hàng thủ công bản địa tại đây.

Điển hình, Công ty Thương mại châu Á (Société Commerciale Asiatique) được người Pháp thành lập năm 1923, trụ sở tại Nam Định, chuyên xuất khẩu các sản phẩm thủ công sang châu Âu và Hoa Kỳ như tinh dầu các loại, chiếu, sản phẩm mây tre đan. Ngoài việc tuyển dụng hàng nghìn công nhân làm việc trực tiếp tại các xưởng thuộc điều hành của công ty tại Nam Định, công ty còn thu mua sản phẩm của hàng nghìn thợ thủ công tại khu vực Đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, Công ty Thương mại châu Á buộc phải ngưng toàn bộ các đơn hàng xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ và sa thải phần lớn nhân công.

trong dau tam (Nguồn: Tư bản Pháp với thủ công nghiệp Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 37,
năm 1958)

Trong số các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, người Pháp chú trọng phát triển nhóm sản phẩm lụa tơ tằm, do đây là những sản phẩm có sức tiêu thụ “gần như vô hạn tại chính quốc (Pháp), sau khi chế tác còn có sức tiêu thụ rất lớn nữa tại Đông Á”12. Lụa Vạn Phúc (Hà Nội ngày nay) được người Pháp đánh giá là loại sản phẩm tinh xảo nhất Đông Dương, vào các năm 1931 và 1932 từng được chọn tham dự các Hội chợ Đấu xảo lớn ở Marseille và Paris (Pháp). Chính quyền thuộc địa đã miễn, giảm thuế cho hoạt động trồng dâu, thành lập các trạm thí nghiệm chọn, lai tạo giống dâu và giống tằm với kỹ thuật tiên tiến, phổ biến kỹ thuật đến người nuôi. Các tiến bộ cơ khí và sản xuất hiện đại đã được ứng dụng để nâng cao hiệu quả sản xuất. Diện tích canh tác dâu và sản lượng kén, tơ tăng mạnh qua các năm, đồng thời doanh số xuất khẩu tơ lụa tăng cao đã phản ánh sự phát triển của ngành nghề này.

Sự phát triển của ngành công nghiệp dệt hiện đại đã thúc đẩy diện tích trồng bông được mở rộng nhằm đáp ứng nhu cầu nguyên liệu đầu vào của các nhà máy dệt. Đồng thời, các cơ sở dệt vải, kéo sợi thủ công trước đây được hiện đại hóa và mở rộng sản xuất, gia công cho các nhà máy bông sợi. Một số thợ thủ công Việt tích lũy được vốn đã thuê thợ, mở xưởng hiện đại để sản xuất sản phẩm, trực tiếp bán ra thị trường.

Đối với nghề gốm, sứ thủ công, các thợ thủ công đã đẩy mạnh cải tiến chất lượng, kỹ thuật sản xuất, và sử dụng những chất liệu, họa tiết đặc trưng của địa phương để cải thiện mỹ thuật đã cạnh tranh mạnh với các sản phẩm gốm sứ Trung Quốc, Nhật Bản và sản phẩm gốm sứ công nghiệp. Một số sản phẩm gốm sứ có chất lượng cao như men rạn và sứ xanh từ các làng nghề truyền thống tại Bình Định, Quảng Ngãi, Móng Cái (Quảng Ninh)... được lựa chọn xuất hiện trong nhiều cuộc triển lãm, hội chợ trong và ngoài nước, thu hút sự quan tâm lớn của giới thương nhân và người tiêu dùng.

Tuy nhiên, giống như các lĩnh vực kinh tế khác, cuộc Đại khủng hoảng kinh tế trên thế giới vào những năm 1930 đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nhiều nghề thủ công tại Việt Nam trong giai đoạn sau này. Do không tiêu thụ được sản phẩm, hàng loạt xưởng dệt, đan lát, gốm sứ… phải đóng cửa. Trong đó, nghề trồng dâu, nuôi tằm lấy tơ còn chịu áp lực cạnh tranh gay gắt từ lụa nhân tạo khi mặt hàng này được đẩy mạnh nhập khẩu vào Đông Dương sau năm 1930. Giá tơ sống sụt giảm mạnh khiến nhiều làng nghề chuyên nuôi tằm lấy tơ bỏ nghề, đặc biệt là tại xứ Bắc Kỳ.

Sự kiện và nhân chứng lịch sử
Thợ thủ công
Toàn quyền Paul Doumer nhớ lại trong hồi ký L’Indo-Chine française (Souvenirs) (tạm dịch: Xứ Đông Dương):“Các thợ thủ công Bắc Kỳ làm việc chăm chỉ và thuần thục. Họ thành công một cách đáng ngưỡng mộ trong các công việc đòi hỏi tỉ mỉ và tinh xảo. Họ có khiếu thẩm mỹ, và một số người trong bọn họ là những nghệ nhân thực sự. Những thợ đúc đồng, thợ kim hoàn, thợ khảm men huyền, thợ thêu, thợ điêu khắc, thợ khảm đã tạo được một tiếng tăm xứng đáng. Họ không phải là những người thợ bắt chước một nền nghệ thuật ngoại quốc. Dẫu vẻ bề ngoài của những sản vật lộ rõ mối quan hệ với những đồ vật Nhật Bản và Trung Hoa, thì chúng vẫn không phải được lấy cảm hứng từ đó; những người thợ đã tạo ra một nghệ thuật An Nam, với các hình mẫu và cách trang trí của chính họ”.


12. Paul Doumer. (1905). L’Indo-Chine française (Souvenirs). Paris: Vuibert et Nony.

2. Thương mại
Khác với quan điểm “trọng nông, ức thương” và “bế quan tỏa cảng” của triều đình nhà Nguyễn, phát triển thương mại là một trong mục tiêu quan trọng của người Pháp ngay từ khi bắt đầu quá trình khai thác thuộc địa. Tất nhiên, như trên đã nêu ý đồ này không phải để mang lại sự thịnh vượng cho Việt Nam mà nhằm biến vùng đất thuộc địa thành thị trường tiêu thụ hàng hóa do Pháp sản xuất. Đồng thời, cung cấp cho Pháp những hàng hóa, nguyên liệu thô.

cảng HP Một góc Cảng Hải Phòng (chưa rõ năm chụp) (Ảnh: Coll. Dieulefils)

Danh mục

Tùy chỉnh