CHƯƠNG III: CÔNG NGHIỆP - THƯƠNG MẠI MIỀN BẮC GIAI ĐOẠN KHÔI PHỤC KINH TẾ, XÂY DỰNG SỞ VẬT CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA HỘI ĐẤU TRANH THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1954 - 1965)

nhà máy xi măng

Nhà máy Xi măng Hải Phòng phục hồi sản xuất sau khi bị phá hoại nặng nề bởi chiến tranh, năm 1955 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

công thương toàn quốc

Cuộc họp mặt các nhà công thương toàn quốc để phổ biến kế hoạch nhà nước năm 1956 tại Nhà hát lớn Nội, ngày 20 - 21/01/1956 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

quầy hàng đồ chơi 1960

Quầy hàng đồ chơi trẻ em tại Bách hóa Tổng hợp Nội dịp Tết Trung thu, tháng 10/1960 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

CHƯƠNG III: CÔNG NGHIỆP - THƯƠNG MẠI MIỀN BẮC GIAI ĐOẠN KHÔI PHỤC KINH TẾ, XÂY DỰNG SỞ VẬT CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA HỘI ĐẤU TRANH THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1954 - 1965)

nhà máy xi măng

Nhà máy Xi măng Hải Phòng phục hồi sản xuất sau khi bị phá hoại nặng nề bởi chiến tranh, năm 1955 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

công thương toàn quốc

Cuộc họp mặt các nhà công thương toàn quốc để phổ biến kế hoạch nhà nước năm 1956 tại Nhà hát lớn Nội, ngày 20 - 21/01/1956 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

quầy hàng đồ chơi 1960

Quầy hàng đồ chơi trẻ em tại Bách hóa Tổng hợp Nội dịp Tết Trung thu, tháng 10/1960 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

2. Chuẩn bị hàng hóa

Sở Mậu dịch khẩn trương tổ chức hàng loạt trạm thu mua dọc các đường ranh giới giữa vùng tự do và vùng tạm bị địch chiếm trước đây, với nhiệm vụ gom mua càng nhiều càng tốt các loại hàng hóa thiết yếu như lương thực, chất đốt... được chuyển từ vùng mới được giải phóng vào vùng tự do. Giải pháp này nhanh chóng phát huy tác dụng, đà giảm của giá hàng hóa tại vùng tự do được chặn đứng, hoạt động sản xuất kinh doanh tại vùng tự do diễn ra như bình thường.

Mặt khác, Bộ Công Thương tổ chức các đoàn cán bộ bí mật vào Hà Nội để đàm phán mua lại hàng tồn kho của các hãng buôn đang cần bán thu hồi vốn trước khi di tản vào miền Nam, lên kế hoạch bố trí các điểm bán hàng thuận lợi, cũng như chuẩn bị cho công tác quản lý các hoạt động kinh tế tại Thủ đô sau này. Đồng thời, phối hợp với các đơn vị cùng vào tiếp quản để giải thích, tuyên truyền với quần chúng nhân dân về các chính sách quản lý kinh tế của ta, nhằm ổn định các hoạt động kinh tế tại vùng mới được giải phóng.

Qua thương lượng và tích cực vận động, một số hãng buôn của người Việt và người nước ngoài đồng ý cho tận dụng cơ sở kinh doanh, kho hàng sẵn có của họ để cán bộ mậu dịch thiết lập các điểm bán hàng cho nhân dân.

Theo Hiệp định Giơnevơ, những vùng nông thôn tại đồng bằng sông Hồng là nơi được ta tiếp quản sớm. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai điều chỉnh giá các mặt hàng nông sản, cũng như công tác chuẩn bị hàng hóa phục vụ tiếp quản Hà Nội.

Sở Mậu dịch đã tổ chức thu mua thóc gạo từ các tỉnh Hà Nam, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên... và thu mua muối tại Nam Định, với giá mua vào trong thời gian đầu cao hơn giá thị trường ở một mức được tính toán kỹ, nhằm khuyến khích nông dân bán trực tiếp cho hệ thống mậu dịch, nhưng các thương nhân không thể trục lợi để gom mua lúa rồi bán lại cho ta. Sở Mậu dịch cũng bố trí phương tiện để đảm bảo việc thu mua, vận chuyển hàng diễn ra thông suốt và liên tục.

Khi giá thị trường đã lên ngang giá thu mua của hệ thống mậu dịch, ta lại điều chỉnh giá thu mua lên cao thêm mức nữa. Cứ như vậy cho đến khi giá thóc gạo lên tới mức giá dự kiến điều chỉnh và lượng thu mua trong kho dự trữ mậu dịch đáp ứng đủ thì ta ngưng thu mua và giá trên thị trường biến động quanh ngưỡng giá này.

Kết quả là, Sở Mậu dịch gom mua được hàng chục vạn tấn thóc gạo; nông dân phấn khởi, đẩy mạnh hoạt động canh tác trở lại; giá thị trường tăng lên theo đúng dự kiến mà giới thương lái không trục lợi được. Hoạt động điều chỉnh giá sản phẩm nông nghiệp đã giúp Bộ Công Thương thu nhiều kinh nghiệm quý giá cho việc điều chỉnh giá sản phẩm công nghiệp trong năm 1955.

Đối với mặt hàng than, Bộ Công Thương chỉ đạo các mỏ khai thác tại vùng tự do nỗ lực tăng sản lượng nhằm đáp ứng thêm một phần nhu cầu tại vùng mới được giải phóng. Điển hình, cán bộ và công nhân mỏ than Quán Triều (Thái Nguyên) đã phát động phong trào thi đua sản xuất, tăng cường thời gian làm việc, thêm ca khai thác, giúp nâng sản lượng khai thác lên hơn 1.300 tấn chỉ trong vòng 1 tháng để chuyển về Hà Nội.

Đồng thời, nhiều cán bộ mậu dịch được cử tìm kiếm, liên hệ với các hãng kinh doanh than tại Hà Nội để ký hợp đồng mua. Thay vì chỉ đặt cọc, Sở Mậu dịch chủ động đề nghị thanh toán trước một phần hợp đồng bằng tiền Đông Dương, tiền Việt Nam hoặc thậm chí bằng hàng lâm, thổ sản có giá trị cao, nhằm khuyến khích các hãng kinh doanh nghiêm túc thực hiện hợp đồng trong bối cảnh thị trường có nhiều biến động. Sau ngày 10/10/1954, các hãng buôn đều chuyển giao đầy đủ than chất lượng tốt theo hợp đồng và Sở Mậu dịch thanh toán nhanh gọn cho họ.

Qua nắm bắt tình hình, Bộ Công Thương cũng biết được Công ty Than Hòn Gai của Pháp vốn nằm trong khu vực tập kết 300 ngày vẫn có nhu cầu tiêu thụ sản phẩm; trong khi đó, Công ty Xe lửa Đông Dương (cũng thuộc Pháp) với nhiều cơ sở tại các vùng đã được ta giải phóng cần than chạy tàu để có doanh thu. Đồng thời, Chính phủ Pháp muốn có một biểu thị thiện chí với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bộ Công Thương đã tận dụng điều này để đề xuất mua than từ Công ty Than Hòn Gai dựa trên nhu cầu vận hành hệ thống đường sắt của Công ty Xe lửa Đông Dương. Đề xuất này được phía Pháp chấp thuận và thực hiện nghiêm túc, đảm bảo việc vận chuyển lượng lớn than về Hà Nội.

Tương tự, Việt Nam cũng yêu cầu phía Pháp đảm bảo duy trì việc vận chuyển xăng dầu từ Hải Phòng về Hà Nội diễn ra như bình thường. Đặc biệt, lực lượng công nhân yêu nước tại Sở Dầu Thượng Lý đã đấu tranh quyết liệt trước âm mưu tháo gỡ, phá hủy các trang thiết bị, máy móc tại kho, bể chứa dầu của giới chủ Pháp, kiên quyết yêu cầu phải tiếp tục thực hiện các hợp đồng cung ứng nhiên liệu cho các đơn vị tại Hà Nội như bình thường trong suốt thời gian quân đội Pháp còn tập kết tại Hải Phòng. Hoạt động đấu tranh này không chỉ góp phần duy trì các hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra bình thường sau ngày giải phóng, mà còn tạo điều kiện cơ sở vật chất cần thiết để ngành Xăng dầu Việt Nam ra đời.

Bằng nhiều biện pháp kết hợp, một lượng lớn hàng hóa tiêu dùng, vật tư sản xuất cần thiết như vải các loại, dầu hỏa, sợi dệt... cũng được Sở Mậu dịch thu mua với mức giá phù hợp. Hầu hết hàng hóa này lại nằm sẵn tại các kho ở Hà Nội, cho phép Sở Mậu dịch tổ chức bán hàng ra cho nhân dân ngay khi tiếp quản.

Ngày 10/10/1954, cả Hà Nội nhộn nhịp, ngập trong rừng cờ, hoa, biểu ngữ. Hàng vạn người dân tràn ra đường chào đón đoàn quân chiến thắng trở về sau 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Theo sau các lực lượng vũ trang là các cán bộ mậu dịch. Sở Mậu dịch tổ chức ngay việc bán những mặt hàng dân sinh thiết yếu như gạo, muối, chất đốt...; nhân dân lại phấn khởi khi đêm xuống thì ánh điện vẫn bừng sáng trên toàn thành phố, xóa đi tâm lý lo lắng người Pháp sẽ cắt điện sau khi rút đi. Hôm sau, các khu chợ, cửa hàng kinh doanh, nhà máy, các cơ sở sản xuất cũng mở cửa hoạt động trở lại ngay trong bầu không khí hân hoan, nhân dân càng thêm tin tưởng vào chính quyền cách mạng. Sau đó vài ngày, ba công ty quốc doanh gồm Công ty Lương thực, Công ty Bách hóa và Công ty Lâm thổ sản được thành lập để thúc đẩy việc lưu thông hàng hóa, cung ứng ra thị trường nhiều loại hàng hóa hơn, góp phần đảm bảo đời sống cho nhân dân. Nhiều nhà quan sát quốc tế ngạc nhiên vì hiếm có thủ đô của một quốc gia được giải phóng sau một cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài mà được tiếp quản trọn vẹn, các hoạt động kinh tế - xã hội vẫn diễn ra bình thường.

mậu dịch Mậu dịch quốc doanh mở cửa, hoạt động kinh tế trở lại ngay sau ngày giải phóng Thủ đô (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Nhà máy Điện Yên Phụ những ngày tiếp quản Thủ đô

Trước khi lực lượng cách mạng tiến vào tiếp quản Nhà máy Điện Yên Phụ, thực dân Pháp từng tuyên truyền rằng Việt Minh sẽ không thể tự quản lý nổi nhà máy điện lớn nhất miền Bắc, chỉ sau vài ba ngày nhà máy sẽ bị tê liệt, Hà Nội sẽ bị chìm trong bóng đêm. Giới chủ Pháp đã âm mưu di tản các thiết bị, phụ tùng và sử dụng cạn kiệt nguồn than dự trữ làm cho nhà máy phải ngừng hoạt động, hòng gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng xấu đến đời sống của người dân. Đông đảo công nhân nhà máy đã kiên quyết đấu tranh bảo vệ thiết bị, yêu cầu tăng lượng than dự trữ, đòi giới chủ tiếp tục mua than như bình thường. Nhân viên kỹ thuật người Pháp cũng được vận động đứng về phía công nhân, tham gia bảo vệ nhà máy. Hoạt động đấu tranh đã giúp nhà máy duy trì được lượng than dự trữ lên đến 4.000 tấn, đủ để phát điện trong vòng 32 ngày. Khi các đơn vị ta đến tiếp quản, Nhà máy Đèn Bờ Hồ và Nhà máy Điện Yên Phụ vẫn hoạt động.

Chia sẻ về thời kỳ tiếp quản ngành điện tại Hà Nội tháng 10/1954, ông Trịnh Trọng Thực, nguyên Vụ trưởng Vụ Kỹ thuật Bộ Điện và Than - Phó ban tiếp quản Nhà máy Đèn Bờ Hồ cho biết: “Khi vào Nhà máy Điện Yên Phụ, tôi phát hiện ra những chiếc rotor, tuốcbin hỏng đang nằm chờ để đưa về Pháp sửa chữa. Vì lý do nào đó, nên các quản đốc Pháp đã vội vàng đưa chúng vào hoạt động trong lúc hơi chưa sấy khô đủ độ ở bộ quá nhiệt của lò hơi. Tôi đã nói điều đó với những đốc công người Pháp. Họ hết sức ngạc nhiên về kinh nghiệm nghề điện của cán bộ Việt Minh khi vào tiếp quản Thủ đô, chứ không chỉ là “những sĩ quan quân đội trá hình” vào tiếp quản như họ đã nghĩ trước kia”.

Ngày 21/12/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm Nhà máy Điện Yên Phụ và Nhà máy Đèn Bờ Hồ. Ở cả hai nơi, Người đã thăm hỏi sức khỏe, tình hình công tác và sinh hoạt của anh chị em cán bộ, công nhân viên, khen ngợi ngành điện đã sản xuất điện đều, đảm bảo cho sinh hoạt của người dân trong thời kỳ toàn quốc kháng chiến cũng như lúc giải phóng Thủ đô. Người căn dặn: “Nhà máy này bây giờ là của nhân dân, của Chính phủ, của các cô, các chú. Các cô, các chú là chủ thì phải gìn giữ nhà máy làm cho nó phát triển hơn nữa”. Người còn căn dặn cán bộ, công nhân viên Nhà máy điện phải đoàn kết, thi đua, tiết kiệm. Trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải đoàn kết, thi đua nhằm tăng năng suất, tiết kiệm nguyên liệu, vật liệu. Ngày 21/12/1954 trở thành dấu mốc quan trọng và được chọn làm ngày truyền thống ngành điện Việt Nam.

công nhân điện Yên Phụ Công nhân Nhà máy điện Yên Phụ ký đơn đấu tranh yêu cầu không được mang máy móc vào miền Nam (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

*****

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do, dân chủ cho dân tộc Việt Nam sau hơn 80 năm chịu cảnh nô dịch của thực dân Pháp và phátxít Nhật.

Bên cạnh những thuận lợi, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn khi tiếp quản một nền kinh tế kiệt quệ, công nghiệp gần như bị tê liệt, thương mại bị suy giảm bởi chính sách khai thác, bóc lột cạn kiệt của thực dân Pháp và phátxít Nhật, cũng như bởi chiến tranh, thiên tai liên miên. Đồng thời, thực dân Pháp nhanh chóng quay trở lại, quyết tâm xâm lược Việt Nam một lần nữa. Chính phủ nói chung, Bộ Kinh tế nói riêng đã nhanh chóng đưa ra các giải pháp toàn diện, kịp thời, thích ứng với từng hoàn cảnh để giải quyết hàng loạt khó khăn.

Trong giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến ngày toàn quốc kháng chiến (ngày 19/12/1946), những mục tiêu chính của Bộ Kinh tế là giải quyết tình trạng thiếu lương thực, khuyến khích giới công thương phục hồi hoạt động sản xuất và giao thương trên cả nước, chuẩn bị tiềm lực kinh tế, sẵn sàng cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Các chính sách điều hành, quản lý đều mang tinh thần cởi mở, linh hoạt nhằm phát huy cao độ lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước của giới công thương trong nước. Đặc biệt, ta cho phép giới tư bản nước ngoài, bao gồm cả giới tư bản Pháp tiếp tục duy trì công việc kinh doanh. Chỉ trong thời gian ngắn, tình trạng thiếu lương thực đã được giải quyết triệt để, hoạt động sản xuất được khôi phục phần nào và giao thương hàng hóa giữa các vùng được khơi thông.

Ngay khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, nền kinh tế được định hướng trở thành nền kinh tế tự cấp, tự túc nhằm tự giải quyết các nhu cầu cho công cuộc kháng chiến mà không phải phụ thuộc vào các nguồn lực từ bên ngoài, là sự kết hợp giữa kháng chiến và kiến quốc, kiến quốc để có sức mạnh kháng chiến và kháng chiến để tiêu diệt địch, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.

Xuyên suốt cuộc kháng chiến, công tác quản lý nhà nước về kinh tế của Bộ Kinh tế (sau này là Bộ Công Thương) tập trung thực hiện ba nhiệm vụ chính: cơ bản đảm bảo đời sống của các tầng lớp nhân dân; đáp ứng nhu cầu của công cuộc kháng chiến, đặc biệt là về vật lực cho lực lượng vũ trang, cơ quan nhà nước và doanh nghiệp quốc doanh; bước đầu xây dựng một số nhân tố của nền kinh tế dân chủ mới. Phương thức lãnh đạo, quản lý được Bộ Kinh tế đề cao tính linh hoạt, cơ cấu bộ máy được tổ chức nhỏ gọn.

Theo đó, các hoạt động sản xuất công nghiệp dân dụng trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến được định hướng tập trung vào các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế thời chiến, gồm cơ khí, khai thác than, hóa chất, dệt may và giấy. Mặc dù đối mặt với chiến tranh khốc liệt, thiếu hụt nhiều nguồn lực, nhưng hoạt động sản xuất vẫn được duy trì và từng bước mở rộng, thậm chí một số lĩnh vực công nghiệp nặng như luyện kim bắt đầu hình thành.

Các ngành tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng thiết yếu như kéo sợi, dệt vải, đan lát, rèn... được đặc biệt quan tâm phát triển. Nhiều chính sách, giải pháp khuyến công được triển khai như cung cấp tín dụng ưu đãi, hỗ trợ nguyên vật liệu, phổ biến kỹ thuật... Qua đó, nhiều nghề truyền thống được vực dậy và phát triển, giúp đáp ứng tốt nhu cầu kháng chiến, cải thiện đời sống nhân dân trong vùng tự do.

Trong lĩnh vực thương mại, Bộ Kinh tế chủ trương tạo mọi điều kiện thuận lợi và hợp tác với thương nhân để duy trì, phát triển các luồng lưu thông hàng hóa giữa các vùng, giữa các liên khu, giúp đáp ứng tốt yêu cầu tiếp tế cho bộ đội, cán bộ cũng như ổn định sinh hoạt của nhân dân. Với những giải pháp sáng tạo, phù hợp với thực tiễn, Bộ Kinh tế đã giải quyết thành công vấn đề bình ổn giá, điều hòa thị trường, triệt để ngăn chặn đột biến giá trong bối cảnh sản xuất phân tán, thị trường bị chia cắt phức tạp giữa vùng tự do và vùng tạm bị địch chiếm, khả năng kinh tế mỗi vùng mỗi khác. Qua đó, góp phần tích cực xây dựng nền kinh tế kháng chiến có khả năng tự cấp, tự túc về mọi mặt.

Đặc biệt, năm 1952, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký Hiệp định thương mại với Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đây được xem là hiệp định thương mại quốc tế đầu tiên của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng bắt đầu xúc tiến quan hệ ngoại thương với Liên Xô, cũng như mở rộng quan hệ thương mại với các nước xã hội chủ nghĩa, đặt nền móng cho sự hợp tác giữa Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa trong những năm sau này.

Đối với hoạt động bao vây, đấu tranh kinh tế với địch, tuy có một số nhược điểm trong công tác thi hành và cách tiếp cận vào những năm đầu của cuộc kháng chiến, nhưng Bộ Kinh tế đã điều chỉnh kịp thời, khéo léo khai thác triệt để những điểm yếu trong nền kinh tế vùng tạm bị địch chiếm để bổ sung sức mạnh cho nền kinh tế vùng tự do, góp phần tích cực trong việc giành thắng lợi cuối cùng của quân và dân ta.

Một vấn đề rất mới trong giai đoạn này cũng được Bộ Kinh tế tích cực triển khai là thường xuyên đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ dưới nhiều hình thức đa dạng, từ vừa học, vừa làm đến các lớp đào tạo chính quy chuyên sâu, góp phần đáp ứng những yêu cầu phức tạp của cuộc kháng chiến, cũng như tạo nguồn nhân lực quan trọng cho quá trình tái thiết nền kinh tế sau chiến tranh. Công cuộc kháng chiến đã tôi luyện đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế với nhiều bài học kinh nghiệm quý giá. Cụ thể:

Thứ nhất, để đạt được mục tiêu, các giải pháp phải luôn linh hoạt gắn với thực tiễn. Điều này đã được minh chứng qua việc chúng ta sáng tạo tổ chức sản xuất công nghiệp theo hình thức phân tán, quy mô nhỏ, cơ động cao trong những ngày đầu chiến tranh, rồi mới dần hình thành các cơ sở sản xuất cố định, quy mô lớn. Hay việc xoay chuyển cách tiếp cận từ bao vây sang đấu tranh kinh tế với địch theo diễn biến cuộc chiến và theo đặc điểm giao thương hàng hóa giữa vùng tự do với vùng tạm bị địch chiếm.

Thứ hai, các chính sách, giải pháp điều hành kinh tế cần có phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp. Đơn cử, kể từ sau năm 1950, khi ta phối hợp đồng bộ chính sách giá, chính sách lưu thông hàng hóa, chính sách tiền tệ và các kế hoạch quân sự với nhau thì tình trạng đột biến giá kéo dài đã được giải quyết dứt điểm.
Thứ ba, việc kết hợp hài hòa giữa “bàn tay hữu hình” của Nhà nước với “bàn tay vô hình” của thị trường vừa đảm bảo hài hòa lợi ích cho người dân, vừa đảm bảo duy trì động lực phát triển thị trường. Điều này được minh chứng qua việc mậu dịch quốc doanh tận dụng hệ thống thương nhân để chống đột biến giá, điều hòa thị trường hiệu quả mà Nhà nước không cần dự trữ quá nhiều hàng hóa.

Thứ tư, việc xây dựng chính sách cần tôn trọng quy luật thị trường và cầu thị, sẵn sàng sửa sai nhằm tạo sự đồng thuận xã hội, giúp phát huy hiệu quả mọi nguồn lực cùng tham gia phát triển kinh tế, tránh tình trạng duy ý chí như tình trạng áp đặt giá thu mua thóc gạo không theo quy luật thị trường, gây tác dụng ngược trong những tháng đầu năm 1949.

Sau chín năm, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi. Chín năm kháng chiến là chín năm tự lực xây dựng nền công nghiệp, phát triển hoạt động thương mại, với những thắng lợi kinh tế quan trọng của nhân dân ta. Qua đó, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng thành công một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đặt nền móng căn bản cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trong giai đoạn sau này.

I- BỐI CẢNH LỊCH SỬ, HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ NGÀNH CÔNG THƯƠNG

1. Tình hình miền Bắc sau Hội nghị Giơnevơ

công thương toàn quốc

Cuộc họp mặt các nhà công thương toàn quốc để phổ biến kế hoạch nhà nước năm 1956 tại Nhà hát lớn Hà Nội, ngày 20 - 21/01/1956 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

2. Hệ thống tổ chức và quản lý ngành Công Thương

quầy hàng đồ chơi Quầy hàng đồ chơi trẻ em tại Bách hóa Tổng hợp Hà Nội dịp Tết Trung thu, tháng 10/1960 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

3. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

Danh mục

Tùy chỉnh