1. Khôi phục và cải tạo thương nghiệp xã hội chủ nghĩa (1955 - 1960)
a) Chủ trương
Thương mại có chức năng phục vụ sản xuất và tiêu dùng, “người nội trợ của xã hội”. Với chức năng này, thương mại được Đảng, Chính phủ giao 5 trọng trách chính:
Thứ nhất, đảm bảo cung cấp và bình ổn vật giá một số mặt hàng thiết yếu cho lực lượng vũ trang, cán bộ và nhân dân. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Bộ Công Thương đã giao cho Sở Mậu dịch bí mật tỏa vào các vùng Pháp chiếm đóng mua thóc gạo. Đến khi tiếp quản Thủ đô, Chính phủ có tới 200 nghìn tấn thóc dự trữ đủ sức ứng phó với nạn đầu cơ tích trữ, giữ cho giá gạo không tăng, một thành tích cực kỳ to lớn đối với việc ổn định lòng dân thời hậu chiến. Ngoài thóc gạo, thương mại phải đảm bảo bình ổn vật giá các mặt hàng thiết yếu gồm vải, sợi, giấy, dầu, thịt, đường, sữa... Qua thời gian, danh sách mặt hàng bình ổn nối dài thêm theo nhu cầu của từng giai đoạn.
Thứ hai, đảm bảo cung cấp tư liệu sản xuất, vật tư đi đôi với tiêu thụ sản phẩm cho các ngành kinh tế.
Thứ ba, đẩy mạnh lưu thông hàng hóa để kích thích và hướng dẫn các ngành sản xuất theo yêu cầu của nền kinh tế quốc dân và kế hoạch của Nhà nước.
Thứ tư, phát triển thương nghiệp quốc doanh để cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, đối với thủ công nghiệp và những người buôn bán nhỏ.
Thứ năm, ngoại thương phải độc quyền, do Nhà nước quản lý.
Để thực hiện 5 trọng trách trên, giai đoạn 1955 - 1960, chúng ta có nhiều chính sách phát triển hệ thống thương nghiệp quốc doanh thông qua phát triển mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã mua bán, thành lập các tổng công ty xuất, nhập khẩu ở trung ương và công ty xuất, nhập khẩu ở địa phương: “Việc trao đổi hàng hóa bây giờ không phải chỉ trong phạm vi nước ta, mà còn phải mở rộng ra với các nước”1.
“Mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã phải chiếm khoảng 41% tổng số bán lẻ. Phải bình ổn giá những thứ hàng cần thiết cho đời sống nhân dân ở những thị trường chính, lãnh đạo giá các loại hàng cần thiết khác, tránh những sự đột biến về giá cả. Kiên quyết chống đầu cơ, gian lậu. Thực hiện thống nhất thu mua và cung cấp có kế hoạch đối với một số hàng cần thiết mà sản xuất chưa đủ cung cấp cho nhu cầu”2.
“Để tăng cường lực lượng hàng hóa của mậu dịch quốc doanh:
a) Cần tiến hành gấp các biện pháp đẩy mạnh sản xuất tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp trong nước, đồng thời cần vận động và hướng dẫn nhân dân tiết kiệm tiêu dùng đối với những hàng hóa mà hiện nay cung không đủ cầu.
b) Cần tranh thủ nhập khẩu kịp thời hàng tiêu dùng và nguyên liệu, vật liệu cần thiết (đặc biệt chú ý làm nhanh các đơn hàng với Liên Xô, Trung Quốc).
c) Đối với các nông sản, năm nay có thể nghiên cứu việc Chính phủ cho thống nhất thu mua một số loại thật cần thiết mà ta có điều kiện lãnh đạo (như gỗ, chè...). Đối với loại không thống nhất thu mua, phải chú trọng giáo dục nông dân bán nông sản phẩm cho Nhà nước, tăng cường tổ chức thu mua của mậu dịch và hợp tác xã và các biện pháp sử dụng thương nhân thu mua”3.
“Phải phát triển và củng cố mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán nhằm đến năm 1960, sẽ nắm hầu hết thị trường bán buôn và hơn một nửa tổng ngạch hàng hóa bán lẻ”4.
b) Cải tạo thương nghiệp tư doanh
Từ năm 1957, phương châm chung trong cải tạo thương nghiệp tư doanh là “sử dụng - hạn chế - đi tới cải tạo”. Sử dụng là mậu dịch quốc doanh đặt hàng và bao tiêu sản phẩm cho các cơ sở thương nghiệp tư doanh gia công. Hạn chế là thương nghiệp quốc doanh khoanh vùng thu mua những nguyên liệu cần thiết như chè, cà phê, gỗ, thuốc lá; thống nhất xuất khẩu đối với những mặt hàng mà Nhà nước cần nắm để trao đổi với bên ngoài (cà phê, sa nhân, hoa hồi, sơn...); đánh thuế thực lãi vào kinh doanh thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, nâng cao thuế buôn chuyến.
Cải tạo gồm 2 bước: (i) Chuyển cơ sở thương nghiệp tư doanh thành đại lý cho thương nghiệp quốc doanh; (ii) Chuyển các đại lý thành công tư hợp doanh. “Cần tiếp tục thi hành chính sách hạn chế, sử dụng và cải tạo đối với thương nghiệp tư bản tư doanh với một mức độ khẩn trương hơn. Nói chung cần hạn chế không cho phát triển, hạn chế doanh số và mức lãi đủ duy trì mức sống bình thường của họ, loại trừ ngành bán buôn của họ và một số ngành kinh doanh không có lợi cho kinh tế quốc dân. Đối với số có khả năng, phải mở đường cho họ chuyển sang sản xuất, bỏ vốn vào sản xuất dưới những hình thức thích hợp; số người còn lại sẽ sử dụng chủ yếu qua các hình thức tư bản nhà nước”5.
Có 23.000 tiểu thương được tổ chức học tập chính sách cải tạo thương nghiệp tư doanh. Đến cuối năm 1960, “kể cả số người đã chuyển sang sản xuất và số người làm kinh tiêu, đại lý cho thương nghiệp quốc doanh từ mấy năm trước, thì số người buôn bán nhỏ được cải tạo đã chiếm tới 82%”6.
Sau tiến hành cải tạo thương nghiệp quốc doanh, cơ cấu nền thương nghiệp nước ta thay đổi nhanh chóng. Bán buôn thương nghiệp quốc doanh chiếm 28,1% năm 1955, tăng lên 93,6% năm 1960, thương nghiệp tư doanh từ 79,1% giảm xuống còn 6,4%. Đối với bán lẻ, năm 1955, thương nghiệp quốc doanh chiếm 19,8%, đến năm 1960 tăng lên 91,2%; ngược lại, thương nghiệp tư doanh từ 80,2% giảm xuống 8,8%. “Trong 3 năm, mức bán ra của mậu dịch quốc doanh tăng 142%. Khối lượng thu mua năm 1960 đã tăng 170% so với năm 1957. Giá hàng công nghiệp được ổn định trên cơ sở vững chắc hơn trước. Về giá các loại hàng nông sản, do ảnh hưởng của mùa màng, năm 1960, giá một số mặt hàng lương thực và thực phẩm trên thị trường tự do tăng lên cao hơn giá chỉ đạo của Nhà nước. Về ngoại thương tổng giá trị hàng xuất và nhập năm 1960 tăng hơn năm 1957 là 38,4%. Chúng ta đã cố gắng tăng mức xuất khẩu, đồng thời nhập những máy móc, thiết bị cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”7.
Tương tự như cải tạo công nghiệp, kết quả của cải tạo thương nghiệp tư doanh cũng được nhìn nhận trên hai bình diện. Một mặt, miền Bắc đã hình thành được thị trường xã hội chủ nghĩa thống nhất; thực hiện có kết quả nghị quyết Hội nghị Trung ương 14 (tháng 11/1958) là “đến năm 1960, sẽ nắm hầu hết thị trường bán buôn và hơn một nửa tổng ngạch hàng hóa bán lẻ”8; thị trường ổn định, vật giá không leo thang. Nhưng mặt khác, miền Bắc đã bỏ qua một nguồn lực không được tận dụng triệt để, trong khi thương nghiệp quốc doanh “chưa dự tính đúng sức mua, chưa nắm vững nhu cầu thiết yếu của các tầng lớp nhân dân”9. Nói cách khác, nguồn lực thực hiện theo kế hoạch nhà nước chiếm tỷ trọng lớn, nguồn lực điều tiết theo tín hiệu thị trường quá nhỏ nên cung - cầu có sự lệch pha.
Trong thực hiện, Đảng cũng nhận ra sẽ phát sinh những vấn đề khi đẩy nhanh cải tạo thương nghiệp tư doanh: “Phương thức thu mua và bán hàng của mậu dịch chưa hợp lý, tổ chức yếu, nhưng lại ôm đồm...”10; “Đối với những người buôn bán hạng trung và hạng lớn, chưa chú ý sử dụng hết khả năng về vốn và kinh nghiệm kinh doanh của họ trong việc đẩy mạnh lưu thông hàng hóa”11. Nhưng có hàng loạt vấn đề khiến Đảng đặt lòng tin vào một thị trường thống nhất, được kế hoạch hóa do thương nghiệp quốc doanh chi phối.
Thứ nhất, dư âm của cuộc khủng hoảng thiếu (giai đoạn 1919 - 1924) và khủng hoảng thừa (1929 - 1933) của chủ nghĩa tư bản khiến Đảng và Nhà nước tin rằng thương mại theo kế hoạch sẽ hướng dẫn sản xuất đúng với nhu cầu hơn.
Thứ hai, quan niệm “Nhà nước phải lo cho dân” dẫn đến ý muốn sử dụng công cụ của Nhà nước để thực hiện.
Thứ ba, những vấn đề cụ thể của giai đoạn đó như nạn đầu cơ tích trữ, trốn thuế, lậu thuế (được cho là xuất phát từ tư thương) cũng thúc đẩy quá trình cải tạo.
Cuối cùng, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa đã phần nào che khuất sự thiếu hụt hàng hóa trong nước, nên động lực huy động các thành phần kinh tế vào sản xuất và phân phối không còn mạnh mẽ như giai đoạn 1954 - 1956.
c) Phát triển nội thương
Trong nguyên lý kinh tế - xã hội chủ nghĩa, thương nghiệp không phải là cơ sở kinh doanh, mà có chức năng xã hội: phục vụ sản xuất và người tiêu dùng. Thương nghiệp cũng không tìm kiếm lợi nhuận vì bản thân nó, mà lợi nhuận là để dành cho tích lũy xã hội chủ nghĩa. Những nguyên lý này thúc đẩy một cách tự nhiên việc hình thành thương nghiệp quốc doanh, là công cụ chủ yếu để thực hiện.
Ngay từ lúc còn khuyến khích thương nghiệp tư doanh phát triển, ta đã có chủ trương đẩy nhanh hình thành thương nghiệp quốc doanh.
Ngày 04/12/1954, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 419/TTg về thành lập các tổng công ty chuyên nghiệp mậu dịch quốc doanh.
Ngày 15/3/1955, Bộ Công Thương ra Chỉ thị số 454-BCT/KB tổ chức lại ngành mậu dịch quốc doanh, thành lập và sắp xếp lại hệ thống công ty chuyên nghiệp mậu dịch quốc doanh. Theo Chỉ thị, ở Trung ương có các tổng công ty, ở các liên khu có các phân công ty khu, ở các tỉnh có công ty tỉnh.
Từ chỗ chỉ có Sở Mậu dịch Trung ương trong thời kỳ kháng chiến, đến năm 1957 đã có 10 tổng công ty ngành hàng với trên 900 cửa hàng rải khắp các địa phương ở miền Bắc. Trước tình hình nhiều cơ sở tiểu thủ công nghiệp bị đình đốn vì không cạnh tranh được với hàng ngoại thời tạm chiếm và thiếu vốn, thiếu nguyên liệu, máy móc phụ tùng sau giải phóng, mậu dịch quốc doanh đã thực sự hỗ trợ bằng cách đặt hàng gia công, thu mua, bao tiêu sản phẩm hàng hóa cho các cơ sở sản xuất, tạo đầu ra cho sản phẩm, góp phần đắc lực vào việc khôi phục và phát triển sản xuất.
Năm 1956, sản xuất tiểu thủ công nghiệp có gần 67.000 cơ sở với khoảng 188.000 lao động. Năm 1957, đã tăng lên gần 150.000 cơ sở với 474.000 lao động và năm 1958, Bộ Nội thương đã tổ chức được cuộc triển lãm “Bàn tay Vàng” tại nhà Đấu Xảo - Hà Nội với hơn 100 gian hàng, cùng hàng nghìn mặt hàng, đánh dấu thời kỳ khôi phục và phát triển rực rỡ của tiểu thủ công nghiệp ở miền Bắc.
Như vậy, chỉ hơn hai năm sau khi hòa bình được lập lại, sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp không những đã được khôi phục, mà còn phát triển vượt mức năm 1939 - năm được coi là sản xuất cao nhất trước chiến tranh. Đời sống nông dân và nhân dân lao động được từng bước cải thiện, ổn định.
Cùng với mậu dịch quốc doanh, hệ thống hợp tác xã mua bán được quan tâm phát triển ở khắp các tỉnh, thành phố, đặc biệt ở khu vực nông thôn và miền núi. Ngày 26/12/1955, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 641/TTg thành lập các cơ quan quản lý hợp tác xã ở các cấp: Trung ương, khu, tỉnh và thành phố. Theo đó, hệ thống tổ chức cơ quan quản lý hợp tác xã các cấp được xác định như sau:
- Ở Trung ương có Cục Quản lý hợp tác xã trực thuộc Thủ tướng phủ.
- Ở các Khu tự trị có Phân cục Quản lý hợp tác xã.
- Ở tỉnh, thành phố và ở khu Hồng Quảng có Chi cục Quản lý hợp tác xã.
- Ở các Liên khu Việt Bắc, III, IV và Khu Tả Ngạn không tổ chức cơ quan quản lý hợp tác xã, mà chỉ tổ chức một bộ phận chuyên trách đặt trong văn phòng Ủy ban hành chính để giúp Ủy ban hành chính lãnh đạo, kiểm tra, theo dõi phong trào hợp tác xã trong Liên khu.
- Ở huyện, việc lãnh đạo, kiểm tra theo dõi phong trào hợp tác xã do một ủy viên Ủy ban hành chính huyện phụ trách.
Đến cuối năm 1957, ở tất cả 28 tỉnh, thành phố ở miền Bắc đã tổ chức được 207 hợp tác xã mua bán cơ sở (lúc đó, cấp huyện là đơn vị cơ sở của hợp tác xã mua bán, bao gồm 1,5 triệu xã viên trong 4.000 xã).
Với hệ thống mậu dịch quốc doanh cùng các đại lý của mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán, hoạt động nội thương trong giai đoạn này là phục vụ khôi phục kinh tế, giảm bớt khó khăn, ổn định đời sống nhân dân, đấu tranh bình ổn vật giá.
Tháng 01/1955, sau khi việc điều chỉnh giá hàng công nghiệp vừa được thực hiện, một khó khăn lớn xuất hiện: Giá gạo trên thị trường tăng nhanh, lượng gạo của mậu dịch quốc doanh giảm mạnh, nếu cứ tiếp tục bán tự do thì chỉ sau một thời gian ngắn là hết. Mậu dịch quốc doanh đã tiến hành những biện pháp mới để đấu tranh bình ổn giá gạo. Cụ thể, việc bán gạo được điều chỉnh như sau:
- Đối với công nhân, viên chức và các thành viên trong gia đình, vẫn tiếp tục cung cấp theo định lượng và giá ổn định.
- Đối với các tầng lớp nhân dân khác, tạm thời điều chỉnh giá bán lên sát với giá thị trường, nhằm thu hút nguồn gạo còn trong nông dân và nguồn gạo từ miền Nam ra. Nhờ đó, thị trường có thêm nguồn gạo, tạm đáp ứng được nhu cầu, đà tăng giá bị chặn lại.
Thôi đừng “ích kỷ hại nhân”
Gạo là để tiếp tế cho nhân dân. Chính phủ luôn luôn lo cho nhân dân đủ gạo. Và gạo có đủ chứ không thiếu.
Song, có một bọn đầu cơ, ngày nào cũng kéo tất cả vợ chồng, cha mẹ, con cháu, anh em, người nhà lớn bé đến choán chỗ trước cửa mậu dịch, để tranh mua gạo. Rồi họ bán lại ngay ở bên lề đường, với một giá đắt hơn. Làm như thế là “vi phú bất nhân”, là tranh bữa ăn của đồng bào, là bóp hầu bóp họng đồng bào, là không có lương tâm.
Những người đầu cơ ấy đã làm cho chính quyền vất vả, làm cho nhân dân thiệt thòi.
Nhân dân nên phê bình họ, giáo dục họ, ngăn cản không để họ làm những việc “ích kỷ hại nhân” như vậy. Chính quyền thì nên dùng cách bán gạo cho hợp lý, bán theo vé hoặc bán theo sổ gia đình, làm thế nào nhân dân ai cũng đủ gạo, chứ không để những người đầu cơ làm giàu.
Chính quyền và nhân dân hợp sức lại thì nhất định chặn được tay của bọn đầu cơ và nhân dân nhất định có gạo đầy đủ.
Nguồn: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.263.
Từ tháng 6/1955, lúa chiêm được thu hoạch. Nguồn lực của mậu dịch quốc doanh được bổ sung bằng thóc thuế và thu mua. Gạo viện trợ của các nước trong khối xã hội chủ nghĩa cũng bắt đầu về. Có gạo, lại phải nghiên cứu cách bán ra để kéo giá xuống. Vì vậy, Chính phủ đã chấp thuận biện pháp mà Bộ Công Thương kiến nghị. Theo đó, mậu dịch quốc doanh từng bước mở rộng việc bán gạo cho nhân dân và từng bước kéo giá xuống; khi xuống đến mức 400 đồng/kg, tương ứng với mức giá dự kiến chỉ đạo mua thóc (240 đồng/kg) thì ngưng lại và Nhà nước sẽ công bố ổn định mức giá này trong một thời gian dài, áp dụng chung cho mọi đối tượng, chấm dứt vụ đột biến giá đầu tiên sau khi miền Bắc được giải phóng.
Cuộc đấu tranh bình ổn giá gạo lần thứ hai vào giữa năm 1957, mậu dịch quốc doanh mua không kịp, vì không có đủ tiền mua và không có đủ kho chứa thóc. Giá thóc gạo trên thị trường bị tư thương dìm xuống thấp.
Trước tình hình này, Bộ Thương nghiệp đã chỉ đạo Tổng Công ty Lương thực phải mua hết lúa gạo của nông dân. Cuộc đấu tranh này kéo dài sang cả những năm 1958 - 1959, không những đối với lúa gạo, mà cả đối với một số nông sản khác như mía, đường mật... Kết quả là đã giữ được giá thị trường ở mức giá chỉ đạo có lợi cho sản xuất, thúc đẩy nhanh chóng việc phục hồi và phát triển nông nghiệp.
Cuối năm 1956, nguồn hàng công nghiệp của thương nghiệp quốc doanh giảm sút, lượng hàng giao cho đại lý giảm. Lợi dụng tình hình này, nhiều kinh tiêu, đại lý găm hàng hoặc tuồn hàng cho tư thương bên ngoài đầu cơ đẩy giá thị trường lên cao. Để đấu tranh bình ổn giá, Bộ Thương nghiệp đã đề ra một loạt biện pháp:
- Tăng cường quản lý việc bán hàng của các kinh tiêu, đại lý. Trừng trị nghiêm những kẻ đầu cơ lợi dụng hàng của mậu dịch quốc doanh để nâng giá kiếm lời bất chính.
- Nhanh chóng mở rộng mạng lưới bán lẻ của mậu dịch quốc doanh ở thành thị và hợp tác xã mua bán ở nông thôn. Đến cuối năm 1957, mậu dịch quốc doanh đã có hơn 900 cửa hàng và doanh số bán lẻ tăng gấp 2,2 lần năm 1955. Riêng ở Hà Nội, trong một thời gian ngắn đã mở được ba cửa hàng lớn, gồm: Bách hóa Tràng Tiền, Bách hóa số 5 Nam Bộ, Vải sợi Đinh Tiên Hoàng...
- Tích cực tiếp nhận và đưa nhanh nguồn hàng viện trợ của các nước vào lưu thông.
- Yêu cầu các tổng công ty phải đẩy mạnh gia công, thu mua sản phẩm, khuyến khích tạo ra nhiều mặt hàng mới.
Để thực hiện chức năng xã hội: phục vụ sản xuất và người tiêu dùng, thương nghiệp có ba nguồn hàng cơ bản. Nguồn thứ nhất và quan trọng nhất là các xí nghiệp quốc doanh và các cơ sở gia công của mậu dịch quốc doanh giao nộp sản phẩm. Nguồn hàng này thực hiện qua cơ chế cấp phát và giao nộp: Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vật tư (qua thương nghiệp) cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước (qua thương nghiệp) để cấp phát hoặc bán lẻ trên thị trường. Nguồn thứ hai, từ nhập khẩu, qua ba hình thức: nhận viện trợ, vay nợ của các nước xã hội chủ nghĩa và trao đổi mậu dịch. Nguồn thứ ba, hệ thống thương nghiệp quốc doanh thu mua nông, lâm sản của các hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Đây là nguồn hàng quan trọng, được tập trung cao độ vào thương nghiệp quốc doanh. Đến năm 1959 - 1960, hàng nông sản do mậu dịch quốc doanh mua vào đã đạt tỷ trọng rất cao trong hàng hóa nông nghiệp: thóc: 86,1%; ngô: 63,5%; đỗ tương: 75%; lạc: 70%; đỗ các loại: 81,8%; bông: 100%; đay: 95%; thuốc lá: 67%.
Nhìn chung, thương nghiệp quốc doanh đã có sự phát triển rất nhanh chóng, tổng trị giá hàng hóa mua vào trong 5 năm (1955 - 1960) tăng 6,3 lần, tổng mức lưu chuyển bán lẻ năm 1960 so với năm 1955 tăng hơn 6 lần. Hàng nghìn cửa hàng bán buôn, bán lẻ, thu mua và phục vụ ăn uống, dịch vụ ra đời, tạo nên mạng lưới kinh doanh thương nghiệp trải khắp các thành phố, tỉnh, huyện và thị trấn. Nếu năm 1955 mới có 511 cửa hàng thì đến năm 1960 đã có 1.987 cửa hàng...
Giai đoạn này, ngành Nội thương rất nỗ lực trong tổ chức tiếp nhận, thu mua và phân phối cho hoạt động sản xuất và tiêu dùng; góp phần hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định sản xuất và đời sống nhân dân; thị trường giá cả bình ổn; hàng hóa trên thị trường ngày càng phong phú hơn, việc mua bán dễ dàng, thuận tiện hơn. “Công tác thương nghiệp được mở rộng và tăng cường, trong 3 năm, mức bán ra của mậu dịch quốc doanh tăng 142%. Khối lượng thu mua năm 1960 đã tăng 170% so với năm 1957”12.
Nhưng việc khai thác các nguồn hàng phục vụ không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Ngày 19/12/1959, Phủ Thủ tướng ban hành Chỉ thị số 459/TTg về việc đẩy mạnh công tác thu thuế, thu nợ và mua thóc, nhấn mạnh: “Có hợp tác xã nông nghiệp dành thóc tốt để chia hoa lợi cho xã viên và để bỏ vào quỹ chung, đem thóc xấu nộp thuế, một số nông dân giữ thóc tốt lại để dành hoặc làm gạo bán ra, đem nộp thuế thóc vừa hoặc xấu của nhà mình, thậm chí có người đem bán thóc tốt lấy giá cao, mua thóc xấu nộp cho Nhà nước. Một số nơi tính thuế cho hợp tác xã nông nghiệp chậm, nên thu chậm”.
“Việc vận động trung nông thừa thóc bán cho Nhà nước còn yếu, nên ít kết quả. Một số khá đông hợp tác xã nông nghiệp còn có những ý nghĩa không đúng, còn so đo, tính toán chưa chịu bán thóc quỹ của hợp tác xã cho Nhà nước, chưa vận động xã viên thừa thóc gương mẫu trong việc bán cho Nhà nước. Việc quản lý thị trường nhiều nơi còn lỏng lẻo”;
“Diện thu mua vẫn còn để quá dày, việc ủy thác xã vẫn chưa bố trí theo đúng sự hướng dẫn của Bộ Nội thương. Việc bảo quản, vận chuyển thóc ở những nơi mua dồn dập đang gặp khó khăn, một số thóc phải để ngoài trời đã bị mưa”.
Hàng công nghiệp giao nộp cũng tương tự, thường xuyên thiếu, nhất là hàng may mặc, phương tiện đi lại như xe đạp và phụ tùng, hóa phẩm như xà phòng, kem đánh răng...
d) Phát triển ngoại thương
Ngoại thương thuộc hoạt động độc quyền của Nhà nước. Giai đoạn này, xuất khẩu không nhiều, chủ yếu là nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu chiếm tỷ trọng rất lớn là tiếp nhận viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, một phần nhỏ hơn là sử dụng ngoại tệ của Nhà nước để mua hàng hóa. Có ba phương châm chính chỉ đạo hoạt động ngoại thương, gồm: (1) Tăng cường quan hệ với nước ngoài trên cơ sở đảm bảo chủ quyền dân tộc; (2) Tranh thủ viện trợ quốc tế và (3) Đẩy mạnh xuất khẩu để duy trì nhập khẩu.
Tháng 4/1958, Bộ Thương nghiệp tách ra thành Bộ Nội thương (Bộ trưởng Đỗ Mười) và Bộ Ngoại thương (Bộ trưởng Phan Anh). Về mặt tổ chức, trong từng thời kỳ có những sự điều chỉnh, nhưng đại thể, trong Bộ Ngoại thương có Vụ Khu vực I (với các nước xã hội chủ nghĩa); Vụ Khu vực II (với các nước tư bản chủ nghĩa) và 8 tổng công ty xuất, nhập khẩu trực tiếp hàng hóa (Agrexport, Vegetexco, Tocontap, Naforimex, Minexport, Artexport, Machinoimport, Technoimport). Một số cơ quan khác trực thuộc Bộ Ngoại thương trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ công tác xuất, nhập khẩu là Cục Kiểm nghiệm, Tổng Công ty Thuê tàu (Vietfracht), Công ty Giao nhận hàng xuất, nhập khẩu (Vietrans), Phòng Thương mại...
Mỗi ngày, trạm thu mua của hợp tác xã mua bán huyện Thanh Trì thu mua của nông dân khoảng 10 tấn thóc (tháng 12/1958) (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Ở các tỉnh, thành phố có công ty ngoại thương địa phương với nhiệm vụ tổ chức các trạm thu mua, gia công hàng xuất khẩu đặt ở những nơi trung tâm (huyện, thị xã) có nhiều hàng xuất khẩu. Ngoài ra, có một số ít xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu (mây tre đan, mành tre...) trực thuộc các tổng công ty xuất, nhập khẩu của Bộ Ngoại thương. Các công ty ngoại thương các tỉnh không được trực tiếp xuất, nhập khẩu với nước ngoài, mọi hàng hóa đều bán cho các tổng công ty trung ương hoặc ủy thác xuất qua các tổng công ty trung ương.
Về hàng hóa: Lực lượng làm công tác ngoại thương cũng đã tích cực tạo thêm nguồn hàng xuất khẩu, gồm các loại nông, lâm sản như lạc, vừng, chè, gỗ ván sàn, ba kích, thảo quả, hạt sen khô, nhãn, vải sấy khô...; tạp phẩm có cao Sao Vàng, giầy vải...; khoáng sản có Apatít Lào Cai, Than Quảng Ninh và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ là hàng mây tre đan.
Giá trị xuất khẩu tăng khá nhanh. Năm 1955, kim ngạch mới đạt 6,6 triệu USD, đến năm 1960 đã đạt 71 triệu USD. Cơ cấu hàng xuất khẩu khá tích cực, năm 1959, hàng hóa công nghiệp và thủ công nghiệp chiếm trên 62%, hàng nông, lâm, hải sản chiếm 38% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu13. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu thời gian này còn manh mún, giá trị thấp, phân tán khắp nơi, nên đa số phải thu gom dần, chưa có mặt hàng nào là hàng xuất khẩu chủ lực.
Hàng nhập khẩu: Ngoài việc tiếp nhận viện trợ xây dựng các công trình, như xây dựng hệ thống các nhà máy điện, nhà máy nước, gang thép, ximăng, hệ thống các xí nghiệp cơ khí, các công trình giao thông, bến cảng, sân bay, các công trình phục vụ quốc phòng, phục vụ chiến đấu, hệ thống các nhà máy phục vụ dân sinh và xuất khẩu như dệt may, chế biến rau quả..., hàng nhập khẩu chủ yếu là những máy móc lẻ, những bộ phận linh kiện để duy trì sản xuất một số ngành công nghiệp nhẹ, phục vụ đời sống như một số hóa chất, dược liệu, dược phẩm, giấy báo..., thậm chí một vài loại nhạc cụ, một số bộ phận, linh kiện để duy trì sản xuất của một số xí nghiệp công nghiệp.
Giá trị nhập khẩu giai đoạn này cao hơn nhiều so với xuất khẩu. Năm 1955, kim ngạch nhập khẩu gấp hơn 10 lần xuất khẩu, 68,3 triệu USD. Năm 1960, cán cân ngoại thương thu hẹp hơn, nhập khẩu trị giá 116,5 triệu USD, so với xuất khẩu 71 triệu USD, bằng 164% kim ngạch xuất khẩu.
Cửa hàng Bách hóa huyện Quỳnh Côi (Thái Bình) thu mua bông của nông dân, năm 1956 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Trên phương diện kinh tế đối ngoại, ta đã thực hiện phương châm không ngừng củng cố và phát triển quan hệ kinh tế - thương mại với các nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước ngoài xã hội chủ nghĩa thuộc “thế giới thứ ba”, như Nam Á, Bắc Phi, Trung Cận Đông...
Bên cạnh các hiệp định thương mại, kinh tế, kỹ thuật với các nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại với Chính phủ Pháp (cuối năm 1955), Ấn Độ (cuối năm 1956), Inđônêxia (đầu năm 1957), tiếp theo sau là Cộng hòa Ả rập Thống nhất, Campuchia, Irắc,... Việt Nam cũng mở rộng quan hệ buôn bán với nhiều thị trường trong khu vực và trên thế giới. Tính đến năm 1960, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 22 nước.
Mậu dịch tiểu ngạch ở biên giới Việt - Trung
Từ năm 1958, Chính phủ hai nước Việt Nam và Trung Quốc thống nhất về chính sách mậu dịch tiểu ngạch nhân dân trong khu vực biên giới Việt - Trung nhằm tạo thuận lợi cho cư dân biên giới hai nước được đi lại dễ dàng qua biên giới trao đổi những hàng hóa cần thiết cho đời sống hằng ngày.
Ngày 04/11/1958, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 486/ TTg về bản điều lệ quản lý mậu dịch tiểu ngạch nhân dân trong khu vực biên giới Việt - Trung. Theo đó, cư dân trong khu vực biên giới (từ biên giới đi vào nội địa mỗi bên 20 cây số) phía Việt Nam muốn sang thị trường ở khu vực biên giới phía Trung Quốc để trao đổi phải có giấy phép thông hành do cơ quan Công an biên phòng cấp.
Mỗi ngày, mỗi người chỉ được phép qua lại một lần, mỗi lần chỉ được trao đổi một số hàng trị giá không quá 10 đồng nhân dân tệ hay số tiền Việt Nam trị giá tương đương và phải tuân theo các thể lệ hải quan, thuế khóa và các luật lệ do Chính phủ hai nước đã công bố.
Cư dân biên giới chỉ được trao đổi trên những thị trường nhất định và qua những cửa khẩu nhất định do Bộ Ngoại thương công bố. Đồng thời, chỉ được mang đi trao đổi những hàng hóa do mình sản xuất ra (chủ yếu hàng nông sản, thực phẩm). Chẳng hạn, không được trao đổi những thứ được Nhà nước cung cấp với giá bao cấp như vải may quần áo và chỉ được phép mua về những hàng hóa cần thiết cho đời sống hằng ngày, trừ những hàng thuộc loại hàng cấm hoặc hạn chế nhập khẩu.
Bộ Ngoại thương là cơ quan thay mặt Chính phủ quy định những hàng hóa được phép trao đổi và công bố cho nhân dân biên giới biết; việc đánh thuế xuất, nhập khẩu vào các hàng hóa trao đổi giữa cư dân biên giới sẽ theo chính sách thuế xuất, nhập khẩu riêng áp dụng cho mậu dịch tiểu ngạch biên giới Việt - Trung. Khi cần thiết, Bộ Ngoại thương sẽ căn cứ vào tình hình trao đổi thực tế mà đề nghị Chính phủ sửa đổi danh mục hàng cần đánh thuế và thuế suất.
Đối với tiền tệ, không ai được mang tiền Việt Nam ra khỏi biên giới hoặc mang nhân dân tệ vào Việt Nam, trừ khi nào được Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cho phép. Cư dân trong khu vực biên giới hai nước chỉ được đổi số tiền thừa sau khi trao đổi hàng, số tiền này không được quá một đồng nhân dân tệ hoặc số tiền Việt Nam trị giá tương đương.
Cư dân trong khu vực biên giới phía Việt Nam, khi mang hàng sang thị trường biên giới phía Trung Quốc trao đổi có thể được Ngân hàng đổi cho một số nhân dân tệ nhỏ để chi tiêu những khoản thật cần thiết trước khi bán hàng. Trường hợp cần thiết được đổi tiền và mức tiền có thể được đổi sẽ do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ấn định cho từng cửa khẩu.
Để quản lý việc trao đổi hàng hóa theo đường mậu dịch tiểu ngạch, Chính phủ có những quy định để xử lý những cư dân vi phạm. Đối với những hành động như trao đổi hàng hóa không đúng cửa khẩu, không đúng loại hàng hóa được phép trao đổi; giá trị hàng trao đổi vượt quá 10 nhân dân tệ, hay trốn thuế... sẽ tùy trường hợp nặng nhẹ, vô tình hay hữu ý mà áp dụng một hoặc nhiều trong các hình thức xử lý sau đây:
- Cảnh cáo, rút giấy thông hành không cho phép xuất biên một thời gian.
- Tịch thu một phần hay toàn bộ số hàng trái phép; phạt tiền nhiều nhất là 3 lần trị giá số hàng trái phép, hoặc vừa tịch thu vừa phạt tiền.
Riêng đối với những hành động mang tiền Việt Nam trái phép ra khỏi biên giới hay mang tiền nhân dân tệ vào Việt Nam, sẽ tùy theo trường hợp nhẹ hay nặng mà áp dụng một hoặc nhiều trong các hình thức xử lý sau đây:
- Phạt tiền từ 10 đến 50% trị giá số tiền mang trái phép.
- Tịch thu một phần hoặc toàn bộ số tiền mang trái phép.
- Tịch thu toàn bộ tang vật và phạt tiền từ 1 đến 5 lần trị giá tiền mang trái phép.
- Những người phạm các điểm sau đây có thể bị truy tố trước tòa án nhân dân tỉnh:
+ Đã bị xử lý nhiều lần mà vẫn ngoan cố tái phạm;
+ Buôn lậu chuyên nghiệp, buôn lậu có tổ chức;
+ Cầm đầu tổ chức buôn lậu, buôn lậu gây tác hại nghiêm trọng.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.208.
2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.18, tr.269, 79-80.
4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.19, tr.493, 495.
6. https://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?AnPhamItemID=1344.
7. https://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?AnPhamItemID=1344
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.19, tr.493.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.729.
10, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.729, 730.
12. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Văn kiện Quốc hội toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.2, tr.276.
13. Xem Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Trần Đức Cường (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 12 (Từ năm 1954 đến năm 1965), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2014, tr.97.
1. Khôi phục và cải tạo thương nghiệp xã hội chủ nghĩa (1955 - 1960)
a) Chủ trương
Thương mại có chức năng phục vụ sản xuất và tiêu dùng, “người nội trợ của xã hội”. Với chức năng này, thương mại được Đảng, Chính phủ giao 5 trọng trách chính:
Thứ nhất, đảm bảo cung cấp và bình ổn vật giá một số mặt hàng thiết yếu cho lực lượng vũ trang, cán bộ và nhân dân. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Bộ Công Thương đã giao cho Sở Mậu dịch bí mật tỏa vào các vùng Pháp chiếm đóng mua thóc gạo. Đến khi tiếp quản Thủ đô, Chính phủ có tới 200 nghìn tấn thóc dự trữ đủ sức ứng phó với nạn đầu cơ tích trữ, giữ cho giá gạo không tăng, một thành tích cực kỳ to lớn đối với việc ổn định lòng dân thời hậu chiến. Ngoài thóc gạo, thương mại phải đảm bảo bình ổn vật giá các mặt hàng thiết yếu gồm vải, sợi, giấy, dầu, thịt, đường, sữa... Qua thời gian, danh sách mặt hàng bình ổn nối dài thêm theo nhu cầu của từng giai đoạn.
Thứ hai, đảm bảo cung cấp tư liệu sản xuất, vật tư đi đôi với tiêu thụ sản phẩm cho các ngành kinh tế.
Thứ ba, đẩy mạnh lưu thông hàng hóa để kích thích và hướng dẫn các ngành sản xuất theo yêu cầu của nền kinh tế quốc dân và kế hoạch của Nhà nước.
Thứ tư, phát triển thương nghiệp quốc doanh để cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, đối với thủ công nghiệp và những người buôn bán nhỏ.
Thứ năm, ngoại thương phải độc quyền, do Nhà nước quản lý.
Để thực hiện 5 trọng trách trên, giai đoạn 1955 - 1960, chúng ta có nhiều chính sách phát triển hệ thống thương nghiệp quốc doanh thông qua phát triển mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã mua bán, thành lập các tổng công ty xuất, nhập khẩu ở trung ương và công ty xuất, nhập khẩu ở địa phương: “Việc trao đổi hàng hóa bây giờ không phải chỉ trong phạm vi nước ta, mà còn phải mở rộng ra với các nước”1.
“Mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã phải chiếm khoảng 41% tổng số bán lẻ. Phải bình ổn giá những thứ hàng cần thiết cho đời sống nhân dân ở những thị trường chính, lãnh đạo giá các loại hàng cần thiết khác, tránh những sự đột biến về giá cả. Kiên quyết chống đầu cơ, gian lậu. Thực hiện thống nhất thu mua và cung cấp có kế hoạch đối với một số hàng cần thiết mà sản xuất chưa đủ cung cấp cho nhu cầu”2.
“Để tăng cường lực lượng hàng hóa của mậu dịch quốc doanh:
a) Cần tiến hành gấp các biện pháp đẩy mạnh sản xuất tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp trong nước, đồng thời cần vận động và hướng dẫn nhân dân tiết kiệm tiêu dùng đối với những hàng hóa mà hiện nay cung không đủ cầu.
b) Cần tranh thủ nhập khẩu kịp thời hàng tiêu dùng và nguyên liệu, vật liệu cần thiết (đặc biệt chú ý làm nhanh các đơn hàng với Liên Xô, Trung Quốc).
c) Đối với các nông sản, năm nay có thể nghiên cứu việc Chính phủ cho thống nhất thu mua một số loại thật cần thiết mà ta có điều kiện lãnh đạo (như gỗ, chè...). Đối với loại không thống nhất thu mua, phải chú trọng giáo dục nông dân bán nông sản phẩm cho Nhà nước, tăng cường tổ chức thu mua của mậu dịch và hợp tác xã và các biện pháp sử dụng thương nhân thu mua”3.
“Phải phát triển và củng cố mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán nhằm đến năm 1960, sẽ nắm hầu hết thị trường bán buôn và hơn một nửa tổng ngạch hàng hóa bán lẻ”4.
b) Cải tạo thương nghiệp tư doanh
Từ năm 1957, phương châm chung trong cải tạo thương nghiệp tư doanh là “sử dụng - hạn chế - đi tới cải tạo”. Sử dụng là mậu dịch quốc doanh đặt hàng và bao tiêu sản phẩm cho các cơ sở thương nghiệp tư doanh gia công. Hạn chế là thương nghiệp quốc doanh khoanh vùng thu mua những nguyên liệu cần thiết như chè, cà phê, gỗ, thuốc lá; thống nhất xuất khẩu đối với những mặt hàng mà Nhà nước cần nắm để trao đổi với bên ngoài (cà phê, sa nhân, hoa hồi, sơn...); đánh thuế thực lãi vào kinh doanh thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, nâng cao thuế buôn chuyến.
Cải tạo gồm 2 bước: (i) Chuyển cơ sở thương nghiệp tư doanh thành đại lý cho thương nghiệp quốc doanh; (ii) Chuyển các đại lý thành công tư hợp doanh. “Cần tiếp tục thi hành chính sách hạn chế, sử dụng và cải tạo đối với thương nghiệp tư bản tư doanh với một mức độ khẩn trương hơn. Nói chung cần hạn chế không cho phát triển, hạn chế doanh số và mức lãi đủ duy trì mức sống bình thường của họ, loại trừ ngành bán buôn của họ và một số ngành kinh doanh không có lợi cho kinh tế quốc dân. Đối với số có khả năng, phải mở đường cho họ chuyển sang sản xuất, bỏ vốn vào sản xuất dưới những hình thức thích hợp; số người còn lại sẽ sử dụng chủ yếu qua các hình thức tư bản nhà nước”5.
Có 23.000 tiểu thương được tổ chức học tập chính sách cải tạo thương nghiệp tư doanh. Đến cuối năm 1960, “kể cả số người đã chuyển sang sản xuất và số người làm kinh tiêu, đại lý cho thương nghiệp quốc doanh từ mấy năm trước, thì số người buôn bán nhỏ được cải tạo đã chiếm tới 82%”6.
Sau tiến hành cải tạo thương nghiệp quốc doanh, cơ cấu nền thương nghiệp nước ta thay đổi nhanh chóng. Bán buôn thương nghiệp quốc doanh chiếm 28,1% năm 1955, tăng lên 93,6% năm 1960, thương nghiệp tư doanh từ 79,1% giảm xuống còn 6,4%. Đối với bán lẻ, năm 1955, thương nghiệp quốc doanh chiếm 19,8%, đến năm 1960 tăng lên 91,2%; ngược lại, thương nghiệp tư doanh từ 80,2% giảm xuống 8,8%. “Trong 3 năm, mức bán ra của mậu dịch quốc doanh tăng 142%. Khối lượng thu mua năm 1960 đã tăng 170% so với năm 1957. Giá hàng công nghiệp được ổn định trên cơ sở vững chắc hơn trước. Về giá các loại hàng nông sản, do ảnh hưởng của mùa màng, năm 1960, giá một số mặt hàng lương thực và thực phẩm trên thị trường tự do tăng lên cao hơn giá chỉ đạo của Nhà nước. Về ngoại thương tổng giá trị hàng xuất và nhập năm 1960 tăng hơn năm 1957 là 38,4%. Chúng ta đã cố gắng tăng mức xuất khẩu, đồng thời nhập những máy móc, thiết bị cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”7.
Tương tự như cải tạo công nghiệp, kết quả của cải tạo thương nghiệp tư doanh cũng được nhìn nhận trên hai bình diện. Một mặt, miền Bắc đã hình thành được thị trường xã hội chủ nghĩa thống nhất; thực hiện có kết quả nghị quyết Hội nghị Trung ương 14 (tháng 11/1958) là “đến năm 1960, sẽ nắm hầu hết thị trường bán buôn và hơn một nửa tổng ngạch hàng hóa bán lẻ”8; thị trường ổn định, vật giá không leo thang. Nhưng mặt khác, miền Bắc đã bỏ qua một nguồn lực không được tận dụng triệt để, trong khi thương nghiệp quốc doanh “chưa dự tính đúng sức mua, chưa nắm vững nhu cầu thiết yếu của các tầng lớp nhân dân”9. Nói cách khác, nguồn lực thực hiện theo kế hoạch nhà nước chiếm tỷ trọng lớn, nguồn lực điều tiết theo tín hiệu thị trường quá nhỏ nên cung - cầu có sự lệch pha.
Trong thực hiện, Đảng cũng nhận ra sẽ phát sinh những vấn đề khi đẩy nhanh cải tạo thương nghiệp tư doanh: “Phương thức thu mua và bán hàng của mậu dịch chưa hợp lý, tổ chức yếu, nhưng lại ôm đồm...”10; “Đối với những người buôn bán hạng trung và hạng lớn, chưa chú ý sử dụng hết khả năng về vốn và kinh nghiệm kinh doanh của họ trong việc đẩy mạnh lưu thông hàng hóa”11. Nhưng có hàng loạt vấn đề khiến Đảng đặt lòng tin vào một thị trường thống nhất, được kế hoạch hóa do thương nghiệp quốc doanh chi phối.
Thứ nhất, dư âm của cuộc khủng hoảng thiếu (giai đoạn 1919 - 1924) và khủng hoảng thừa (1929 - 1933) của chủ nghĩa tư bản khiến Đảng và Nhà nước tin rằng thương mại theo kế hoạch sẽ hướng dẫn sản xuất đúng với nhu cầu hơn.
Thứ hai, quan niệm “Nhà nước phải lo cho dân” dẫn đến ý muốn sử dụng công cụ của Nhà nước để thực hiện.
Thứ ba, những vấn đề cụ thể của giai đoạn đó như nạn đầu cơ tích trữ, trốn thuế, lậu thuế (được cho là xuất phát từ tư thương) cũng thúc đẩy quá trình cải tạo.
Cuối cùng, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa đã phần nào che khuất sự thiếu hụt hàng hóa trong nước, nên động lực huy động các thành phần kinh tế vào sản xuất và phân phối không còn mạnh mẽ như giai đoạn 1954 - 1956.
c) Phát triển nội thương
Trong nguyên lý kinh tế - xã hội chủ nghĩa, thương nghiệp không phải là cơ sở kinh doanh, mà có chức năng xã hội: phục vụ sản xuất và người tiêu dùng. Thương nghiệp cũng không tìm kiếm lợi nhuận vì bản thân nó, mà lợi nhuận là để dành cho tích lũy xã hội chủ nghĩa. Những nguyên lý này thúc đẩy một cách tự nhiên việc hình thành thương nghiệp quốc doanh, là công cụ chủ yếu để thực hiện.
Ngay từ lúc còn khuyến khích thương nghiệp tư doanh phát triển, ta đã có chủ trương đẩy nhanh hình thành thương nghiệp quốc doanh.
Ngày 04/12/1954, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 419/TTg về thành lập các tổng công ty chuyên nghiệp mậu dịch quốc doanh.
Ngày 15/3/1955, Bộ Công Thương ra Chỉ thị số 454-BCT/KB tổ chức lại ngành mậu dịch quốc doanh, thành lập và sắp xếp lại hệ thống công ty chuyên nghiệp mậu dịch quốc doanh. Theo Chỉ thị, ở Trung ương có các tổng công ty, ở các liên khu có các phân công ty khu, ở các tỉnh có công ty tỉnh.
Từ chỗ chỉ có Sở Mậu dịch Trung ương trong thời kỳ kháng chiến, đến năm 1957 đã có 10 tổng công ty ngành hàng với trên 900 cửa hàng rải khắp các địa phương ở miền Bắc. Trước tình hình nhiều cơ sở tiểu thủ công nghiệp bị đình đốn vì không cạnh tranh được với hàng ngoại thời tạm chiếm và thiếu vốn, thiếu nguyên liệu, máy móc phụ tùng sau giải phóng, mậu dịch quốc doanh đã thực sự hỗ trợ bằng cách đặt hàng gia công, thu mua, bao tiêu sản phẩm hàng hóa cho các cơ sở sản xuất, tạo đầu ra cho sản phẩm, góp phần đắc lực vào việc khôi phục và phát triển sản xuất.
Năm 1956, sản xuất tiểu thủ công nghiệp có gần 67.000 cơ sở với khoảng 188.000 lao động. Năm 1957, đã tăng lên gần 150.000 cơ sở với 474.000 lao động và năm 1958, Bộ Nội thương đã tổ chức được cuộc triển lãm “Bàn tay Vàng” tại nhà Đấu Xảo - Hà Nội với hơn 100 gian hàng, cùng hàng nghìn mặt hàng, đánh dấu thời kỳ khôi phục và phát triển rực rỡ của tiểu thủ công nghiệp ở miền Bắc.
Như vậy, chỉ hơn hai năm sau khi hòa bình được lập lại, sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp không những đã được khôi phục, mà còn phát triển vượt mức năm 1939 - năm được coi là sản xuất cao nhất trước chiến tranh. Đời sống nông dân và nhân dân lao động được từng bước cải thiện, ổn định.
Cùng với mậu dịch quốc doanh, hệ thống hợp tác xã mua bán được quan tâm phát triển ở khắp các tỉnh, thành phố, đặc biệt ở khu vực nông thôn và miền núi. Ngày 26/12/1955, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 641/TTg thành lập các cơ quan quản lý hợp tác xã ở các cấp: Trung ương, khu, tỉnh và thành phố. Theo đó, hệ thống tổ chức cơ quan quản lý hợp tác xã các cấp được xác định như sau:
- Ở Trung ương có Cục Quản lý hợp tác xã trực thuộc Thủ tướng phủ.
- Ở các Khu tự trị có Phân cục Quản lý hợp tác xã.
- Ở tỉnh, thành phố và ở khu Hồng Quảng có Chi cục Quản lý hợp tác xã.
- Ở các Liên khu Việt Bắc, III, IV và Khu Tả Ngạn không tổ chức cơ quan quản lý hợp tác xã, mà chỉ tổ chức một bộ phận chuyên trách đặt trong văn phòng Ủy ban hành chính để giúp Ủy ban hành chính lãnh đạo, kiểm tra, theo dõi phong trào hợp tác xã trong Liên khu.
- Ở huyện, việc lãnh đạo, kiểm tra theo dõi phong trào hợp tác xã do một ủy viên Ủy ban hành chính huyện phụ trách.
Đến cuối năm 1957, ở tất cả 28 tỉnh, thành phố ở miền Bắc đã tổ chức được 207 hợp tác xã mua bán cơ sở (lúc đó, cấp huyện là đơn vị cơ sở của hợp tác xã mua bán, bao gồm 1,5 triệu xã viên trong 4.000 xã).
Với hệ thống mậu dịch quốc doanh cùng các đại lý của mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán, hoạt động nội thương trong giai đoạn này là phục vụ khôi phục kinh tế, giảm bớt khó khăn, ổn định đời sống nhân dân, đấu tranh bình ổn vật giá.
Tháng 01/1955, sau khi việc điều chỉnh giá hàng công nghiệp vừa được thực hiện, một khó khăn lớn xuất hiện: Giá gạo trên thị trường tăng nhanh, lượng gạo của mậu dịch quốc doanh giảm mạnh, nếu cứ tiếp tục bán tự do thì chỉ sau một thời gian ngắn là hết. Mậu dịch quốc doanh đã tiến hành những biện pháp mới để đấu tranh bình ổn giá gạo. Cụ thể, việc bán gạo được điều chỉnh như sau:
- Đối với công nhân, viên chức và các thành viên trong gia đình, vẫn tiếp tục cung cấp theo định lượng và giá ổn định.
- Đối với các tầng lớp nhân dân khác, tạm thời điều chỉnh giá bán lên sát với giá thị trường, nhằm thu hút nguồn gạo còn trong nông dân và nguồn gạo từ miền Nam ra. Nhờ đó, thị trường có thêm nguồn gạo, tạm đáp ứng được nhu cầu, đà tăng giá bị chặn lại.
Thôi đừng “ích kỷ hại nhân”
Gạo là để tiếp tế cho nhân dân. Chính phủ luôn luôn lo cho nhân dân đủ gạo. Và gạo có đủ chứ không thiếu.
Song, có một bọn đầu cơ, ngày nào cũng kéo tất cả vợ chồng, cha mẹ, con cháu, anh em, người nhà lớn bé đến choán chỗ trước cửa mậu dịch, để tranh mua gạo. Rồi họ bán lại ngay ở bên lề đường, với một giá đắt hơn. Làm như thế là “vi phú bất nhân”, là tranh bữa ăn của đồng bào, là bóp hầu bóp họng đồng bào, là không có lương tâm.
Những người đầu cơ ấy đã làm cho chính quyền vất vả, làm cho nhân dân thiệt thòi.
Nhân dân nên phê bình họ, giáo dục họ, ngăn cản không để họ làm những việc “ích kỷ hại nhân” như vậy. Chính quyền thì nên dùng cách bán gạo cho hợp lý, bán theo vé hoặc bán theo sổ gia đình, làm thế nào nhân dân ai cũng đủ gạo, chứ không để những người đầu cơ làm giàu.
Chính quyền và nhân dân hợp sức lại thì nhất định chặn được tay của bọn đầu cơ và nhân dân nhất định có gạo đầy đủ.
Nguồn: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.263.
Từ tháng 6/1955, lúa chiêm được thu hoạch. Nguồn lực của mậu dịch quốc doanh được bổ sung bằng thóc thuế và thu mua. Gạo viện trợ của các nước trong khối xã hội chủ nghĩa cũng bắt đầu về. Có gạo, lại phải nghiên cứu cách bán ra để kéo giá xuống. Vì vậy, Chính phủ đã chấp thuận biện pháp mà Bộ Công Thương kiến nghị. Theo đó, mậu dịch quốc doanh từng bước mở rộng việc bán gạo cho nhân dân và từng bước kéo giá xuống; khi xuống đến mức 400 đồng/kg, tương ứng với mức giá dự kiến chỉ đạo mua thóc (240 đồng/kg) thì ngưng lại và Nhà nước sẽ công bố ổn định mức giá này trong một thời gian dài, áp dụng chung cho mọi đối tượng, chấm dứt vụ đột biến giá đầu tiên sau khi miền Bắc được giải phóng.
Cuộc đấu tranh bình ổn giá gạo lần thứ hai vào giữa năm 1957, mậu dịch quốc doanh mua không kịp, vì không có đủ tiền mua và không có đủ kho chứa thóc. Giá thóc gạo trên thị trường bị tư thương dìm xuống thấp.
Trước tình hình này, Bộ Thương nghiệp đã chỉ đạo Tổng Công ty Lương thực phải mua hết lúa gạo của nông dân. Cuộc đấu tranh này kéo dài sang cả những năm 1958 - 1959, không những đối với lúa gạo, mà cả đối với một số nông sản khác như mía, đường mật... Kết quả là đã giữ được giá thị trường ở mức giá chỉ đạo có lợi cho sản xuất, thúc đẩy nhanh chóng việc phục hồi và phát triển nông nghiệp.
Cuối năm 1956, nguồn hàng công nghiệp của thương nghiệp quốc doanh giảm sút, lượng hàng giao cho đại lý giảm. Lợi dụng tình hình này, nhiều kinh tiêu, đại lý găm hàng hoặc tuồn hàng cho tư thương bên ngoài đầu cơ đẩy giá thị trường lên cao. Để đấu tranh bình ổn giá, Bộ Thương nghiệp đã đề ra một loạt biện pháp:
- Tăng cường quản lý việc bán hàng của các kinh tiêu, đại lý. Trừng trị nghiêm những kẻ đầu cơ lợi dụng hàng của mậu dịch quốc doanh để nâng giá kiếm lời bất chính.
- Nhanh chóng mở rộng mạng lưới bán lẻ của mậu dịch quốc doanh ở thành thị và hợp tác xã mua bán ở nông thôn. Đến cuối năm 1957, mậu dịch quốc doanh đã có hơn 900 cửa hàng và doanh số bán lẻ tăng gấp 2,2 lần năm 1955. Riêng ở Hà Nội, trong một thời gian ngắn đã mở được ba cửa hàng lớn, gồm: Bách hóa Tràng Tiền, Bách hóa số 5 Nam Bộ, Vải sợi Đinh Tiên Hoàng...
- Tích cực tiếp nhận và đưa nhanh nguồn hàng viện trợ của các nước vào lưu thông.
- Yêu cầu các tổng công ty phải đẩy mạnh gia công, thu mua sản phẩm, khuyến khích tạo ra nhiều mặt hàng mới.
Để thực hiện chức năng xã hội: phục vụ sản xuất và người tiêu dùng, thương nghiệp có ba nguồn hàng cơ bản. Nguồn thứ nhất và quan trọng nhất là các xí nghiệp quốc doanh và các cơ sở gia công của mậu dịch quốc doanh giao nộp sản phẩm. Nguồn hàng này thực hiện qua cơ chế cấp phát và giao nộp: Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vật tư (qua thương nghiệp) cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước (qua thương nghiệp) để cấp phát hoặc bán lẻ trên thị trường. Nguồn thứ hai, từ nhập khẩu, qua ba hình thức: nhận viện trợ, vay nợ của các nước xã hội chủ nghĩa và trao đổi mậu dịch. Nguồn thứ ba, hệ thống thương nghiệp quốc doanh thu mua nông, lâm sản của các hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Đây là nguồn hàng quan trọng, được tập trung cao độ vào thương nghiệp quốc doanh. Đến năm 1959 - 1960, hàng nông sản do mậu dịch quốc doanh mua vào đã đạt tỷ trọng rất cao trong hàng hóa nông nghiệp: thóc: 86,1%; ngô: 63,5%; đỗ tương: 75%; lạc: 70%; đỗ các loại: 81,8%; bông: 100%; đay: 95%; thuốc lá: 67%.
Nhìn chung, thương nghiệp quốc doanh đã có sự phát triển rất nhanh chóng, tổng trị giá hàng hóa mua vào trong 5 năm (1955 - 1960) tăng 6,3 lần, tổng mức lưu chuyển bán lẻ năm 1960 so với năm 1955 tăng hơn 6 lần. Hàng nghìn cửa hàng bán buôn, bán lẻ, thu mua và phục vụ ăn uống, dịch vụ ra đời, tạo nên mạng lưới kinh doanh thương nghiệp trải khắp các thành phố, tỉnh, huyện và thị trấn. Nếu năm 1955 mới có 511 cửa hàng thì đến năm 1960 đã có 1.987 cửa hàng...
Giai đoạn này, ngành Nội thương rất nỗ lực trong tổ chức tiếp nhận, thu mua và phân phối cho hoạt động sản xuất và tiêu dùng; góp phần hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định sản xuất và đời sống nhân dân; thị trường giá cả bình ổn; hàng hóa trên thị trường ngày càng phong phú hơn, việc mua bán dễ dàng, thuận tiện hơn. “Công tác thương nghiệp được mở rộng và tăng cường, trong 3 năm, mức bán ra của mậu dịch quốc doanh tăng 142%. Khối lượng thu mua năm 1960 đã tăng 170% so với năm 1957”12.
Nhưng việc khai thác các nguồn hàng phục vụ không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Ngày 19/12/1959, Phủ Thủ tướng ban hành Chỉ thị số 459/TTg về việc đẩy mạnh công tác thu thuế, thu nợ và mua thóc, nhấn mạnh: “Có hợp tác xã nông nghiệp dành thóc tốt để chia hoa lợi cho xã viên và để bỏ vào quỹ chung, đem thóc xấu nộp thuế, một số nông dân giữ thóc tốt lại để dành hoặc làm gạo bán ra, đem nộp thuế thóc vừa hoặc xấu của nhà mình, thậm chí có người đem bán thóc tốt lấy giá cao, mua thóc xấu nộp cho Nhà nước. Một số nơi tính thuế cho hợp tác xã nông nghiệp chậm, nên thu chậm”.
“Việc vận động trung nông thừa thóc bán cho Nhà nước còn yếu, nên ít kết quả. Một số khá đông hợp tác xã nông nghiệp còn có những ý nghĩa không đúng, còn so đo, tính toán chưa chịu bán thóc quỹ của hợp tác xã cho Nhà nước, chưa vận động xã viên thừa thóc gương mẫu trong việc bán cho Nhà nước. Việc quản lý thị trường nhiều nơi còn lỏng lẻo”;
“Diện thu mua vẫn còn để quá dày, việc ủy thác xã vẫn chưa bố trí theo đúng sự hướng dẫn của Bộ Nội thương. Việc bảo quản, vận chuyển thóc ở những nơi mua dồn dập đang gặp khó khăn, một số thóc phải để ngoài trời đã bị mưa”.
Hàng công nghiệp giao nộp cũng tương tự, thường xuyên thiếu, nhất là hàng may mặc, phương tiện đi lại như xe đạp và phụ tùng, hóa phẩm như xà phòng, kem đánh răng...
d) Phát triển ngoại thương
Ngoại thương thuộc hoạt động độc quyền của Nhà nước. Giai đoạn này, xuất khẩu không nhiều, chủ yếu là nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu chiếm tỷ trọng rất lớn là tiếp nhận viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, một phần nhỏ hơn là sử dụng ngoại tệ của Nhà nước để mua hàng hóa. Có ba phương châm chính chỉ đạo hoạt động ngoại thương, gồm: (1) Tăng cường quan hệ với nước ngoài trên cơ sở đảm bảo chủ quyền dân tộc; (2) Tranh thủ viện trợ quốc tế và (3) Đẩy mạnh xuất khẩu để duy trì nhập khẩu.
Tháng 4/1958, Bộ Thương nghiệp tách ra thành Bộ Nội thương (Bộ trưởng Đỗ Mười) và Bộ Ngoại thương (Bộ trưởng Phan Anh). Về mặt tổ chức, trong từng thời kỳ có những sự điều chỉnh, nhưng đại thể, trong Bộ Ngoại thương có Vụ Khu vực I (với các nước xã hội chủ nghĩa); Vụ Khu vực II (với các nước tư bản chủ nghĩa) và 8 tổng công ty xuất, nhập khẩu trực tiếp hàng hóa (Agrexport, Vegetexco, Tocontap, Naforimex, Minexport, Artexport, Machinoimport, Technoimport). Một số cơ quan khác trực thuộc Bộ Ngoại thương trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ công tác xuất, nhập khẩu là Cục Kiểm nghiệm, Tổng Công ty Thuê tàu (Vietfracht), Công ty Giao nhận hàng xuất, nhập khẩu (Vietrans), Phòng Thương mại...
Mỗi ngày, trạm thu mua của hợp tác xã mua bán huyện Thanh Trì thu mua của nông dân khoảng 10 tấn thóc (tháng 12/1958) (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Ở các tỉnh, thành phố có công ty ngoại thương địa phương với nhiệm vụ tổ chức các trạm thu mua, gia công hàng xuất khẩu đặt ở những nơi trung tâm (huyện, thị xã) có nhiều hàng xuất khẩu. Ngoài ra, có một số ít xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu (mây tre đan, mành tre...) trực thuộc các tổng công ty xuất, nhập khẩu của Bộ Ngoại thương. Các công ty ngoại thương các tỉnh không được trực tiếp xuất, nhập khẩu với nước ngoài, mọi hàng hóa đều bán cho các tổng công ty trung ương hoặc ủy thác xuất qua các tổng công ty trung ương.
Về hàng hóa: Lực lượng làm công tác ngoại thương cũng đã tích cực tạo thêm nguồn hàng xuất khẩu, gồm các loại nông, lâm sản như lạc, vừng, chè, gỗ ván sàn, ba kích, thảo quả, hạt sen khô, nhãn, vải sấy khô...; tạp phẩm có cao Sao Vàng, giầy vải...; khoáng sản có Apatít Lào Cai, Than Quảng Ninh và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ là hàng mây tre đan.
Giá trị xuất khẩu tăng khá nhanh. Năm 1955, kim ngạch mới đạt 6,6 triệu USD, đến năm 1960 đã đạt 71 triệu USD. Cơ cấu hàng xuất khẩu khá tích cực, năm 1959, hàng hóa công nghiệp và thủ công nghiệp chiếm trên 62%, hàng nông, lâm, hải sản chiếm 38% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu13. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu thời gian này còn manh mún, giá trị thấp, phân tán khắp nơi, nên đa số phải thu gom dần, chưa có mặt hàng nào là hàng xuất khẩu chủ lực.
Hàng nhập khẩu: Ngoài việc tiếp nhận viện trợ xây dựng các công trình, như xây dựng hệ thống các nhà máy điện, nhà máy nước, gang thép, ximăng, hệ thống các xí nghiệp cơ khí, các công trình giao thông, bến cảng, sân bay, các công trình phục vụ quốc phòng, phục vụ chiến đấu, hệ thống các nhà máy phục vụ dân sinh và xuất khẩu như dệt may, chế biến rau quả..., hàng nhập khẩu chủ yếu là những máy móc lẻ, những bộ phận linh kiện để duy trì sản xuất một số ngành công nghiệp nhẹ, phục vụ đời sống như một số hóa chất, dược liệu, dược phẩm, giấy báo..., thậm chí một vài loại nhạc cụ, một số bộ phận, linh kiện để duy trì sản xuất của một số xí nghiệp công nghiệp.
Giá trị nhập khẩu giai đoạn này cao hơn nhiều so với xuất khẩu. Năm 1955, kim ngạch nhập khẩu gấp hơn 10 lần xuất khẩu, 68,3 triệu USD. Năm 1960, cán cân ngoại thương thu hẹp hơn, nhập khẩu trị giá 116,5 triệu USD, so với xuất khẩu 71 triệu USD, bằng 164% kim ngạch xuất khẩu.
Cửa hàng Bách hóa huyện Quỳnh Côi (Thái Bình) thu mua bông của nông dân, năm 1956 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Trên phương diện kinh tế đối ngoại, ta đã thực hiện phương châm không ngừng củng cố và phát triển quan hệ kinh tế - thương mại với các nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước ngoài xã hội chủ nghĩa thuộc “thế giới thứ ba”, như Nam Á, Bắc Phi, Trung Cận Đông...
Bên cạnh các hiệp định thương mại, kinh tế, kỹ thuật với các nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại với Chính phủ Pháp (cuối năm 1955), Ấn Độ (cuối năm 1956), Inđônêxia (đầu năm 1957), tiếp theo sau là Cộng hòa Ả rập Thống nhất, Campuchia, Irắc,... Việt Nam cũng mở rộng quan hệ buôn bán với nhiều thị trường trong khu vực và trên thế giới. Tính đến năm 1960, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 22 nước.
Mậu dịch tiểu ngạch ở biên giới Việt - Trung
Từ năm 1958, Chính phủ hai nước Việt Nam và Trung Quốc thống nhất về chính sách mậu dịch tiểu ngạch nhân dân trong khu vực biên giới Việt - Trung nhằm tạo thuận lợi cho cư dân biên giới hai nước được đi lại dễ dàng qua biên giới trao đổi những hàng hóa cần thiết cho đời sống hằng ngày.
Ngày 04/11/1958, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 486/ TTg về bản điều lệ quản lý mậu dịch tiểu ngạch nhân dân trong khu vực biên giới Việt - Trung. Theo đó, cư dân trong khu vực biên giới (từ biên giới đi vào nội địa mỗi bên 20 cây số) phía Việt Nam muốn sang thị trường ở khu vực biên giới phía Trung Quốc để trao đổi phải có giấy phép thông hành do cơ quan Công an biên phòng cấp.
Mỗi ngày, mỗi người chỉ được phép qua lại một lần, mỗi lần chỉ được trao đổi một số hàng trị giá không quá 10 đồng nhân dân tệ hay số tiền Việt Nam trị giá tương đương và phải tuân theo các thể lệ hải quan, thuế khóa và các luật lệ do Chính phủ hai nước đã công bố.
Cư dân biên giới chỉ được trao đổi trên những thị trường nhất định và qua những cửa khẩu nhất định do Bộ Ngoại thương công bố. Đồng thời, chỉ được mang đi trao đổi những hàng hóa do mình sản xuất ra (chủ yếu hàng nông sản, thực phẩm). Chẳng hạn, không được trao đổi những thứ được Nhà nước cung cấp với giá bao cấp như vải may quần áo và chỉ được phép mua về những hàng hóa cần thiết cho đời sống hằng ngày, trừ những hàng thuộc loại hàng cấm hoặc hạn chế nhập khẩu.
Bộ Ngoại thương là cơ quan thay mặt Chính phủ quy định những hàng hóa được phép trao đổi và công bố cho nhân dân biên giới biết; việc đánh thuế xuất, nhập khẩu vào các hàng hóa trao đổi giữa cư dân biên giới sẽ theo chính sách thuế xuất, nhập khẩu riêng áp dụng cho mậu dịch tiểu ngạch biên giới Việt - Trung. Khi cần thiết, Bộ Ngoại thương sẽ căn cứ vào tình hình trao đổi thực tế mà đề nghị Chính phủ sửa đổi danh mục hàng cần đánh thuế và thuế suất.
Đối với tiền tệ, không ai được mang tiền Việt Nam ra khỏi biên giới hoặc mang nhân dân tệ vào Việt Nam, trừ khi nào được Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cho phép. Cư dân trong khu vực biên giới hai nước chỉ được đổi số tiền thừa sau khi trao đổi hàng, số tiền này không được quá một đồng nhân dân tệ hoặc số tiền Việt Nam trị giá tương đương.
Cư dân trong khu vực biên giới phía Việt Nam, khi mang hàng sang thị trường biên giới phía Trung Quốc trao đổi có thể được Ngân hàng đổi cho một số nhân dân tệ nhỏ để chi tiêu những khoản thật cần thiết trước khi bán hàng. Trường hợp cần thiết được đổi tiền và mức tiền có thể được đổi sẽ do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ấn định cho từng cửa khẩu.
Để quản lý việc trao đổi hàng hóa theo đường mậu dịch tiểu ngạch, Chính phủ có những quy định để xử lý những cư dân vi phạm. Đối với những hành động như trao đổi hàng hóa không đúng cửa khẩu, không đúng loại hàng hóa được phép trao đổi; giá trị hàng trao đổi vượt quá 10 nhân dân tệ, hay trốn thuế... sẽ tùy trường hợp nặng nhẹ, vô tình hay hữu ý mà áp dụng một hoặc nhiều trong các hình thức xử lý sau đây:
- Cảnh cáo, rút giấy thông hành không cho phép xuất biên một thời gian.
- Tịch thu một phần hay toàn bộ số hàng trái phép; phạt tiền nhiều nhất là 3 lần trị giá số hàng trái phép, hoặc vừa tịch thu vừa phạt tiền.
Riêng đối với những hành động mang tiền Việt Nam trái phép ra khỏi biên giới hay mang tiền nhân dân tệ vào Việt Nam, sẽ tùy theo trường hợp nhẹ hay nặng mà áp dụng một hoặc nhiều trong các hình thức xử lý sau đây:
- Phạt tiền từ 10 đến 50% trị giá số tiền mang trái phép.
- Tịch thu một phần hoặc toàn bộ số tiền mang trái phép.
- Tịch thu toàn bộ tang vật và phạt tiền từ 1 đến 5 lần trị giá tiền mang trái phép.
- Những người phạm các điểm sau đây có thể bị truy tố trước tòa án nhân dân tỉnh:
+ Đã bị xử lý nhiều lần mà vẫn ngoan cố tái phạm;
+ Buôn lậu chuyên nghiệp, buôn lậu có tổ chức;
+ Cầm đầu tổ chức buôn lậu, buôn lậu gây tác hại nghiêm trọng.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.208.
2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.18, tr.269, 79-80.
4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.19, tr.493, 495.
6. https://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?AnPhamItemID=1344.
7. https://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?AnPhamItemID=1344
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.19, tr.493.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.729.
10, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.729, 730.
12. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Văn kiện Quốc hội toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.2, tr.276.
13. Xem Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Trần Đức Cường (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 12 (Từ năm 1954 đến năm 1965), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2014, tr.97.
III. THƯƠNG MẠI
Mỗi ngày, trạm thu mua của hợp tác xã mua bán huyện Thanh Trì thu mua của nông dân khoảng 10 tấn thóc (tháng 12/1958) (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Cửa hàng Bách hóa huyện Quỳnh Côi (Thái Bình) thu mua bông của nông dân, năm 1956 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)