1. Khôi phục cải tạo thương nghiệp hội chủ nghĩa (1955 - 1960)

a) Chủ trương

Thương mại chức năng phục vụ sản xuất tiêu dùng, “người nội trợ của hội”. Với chức năng này, thương mại được Đảng, Chính phủ giao 5 trọng trách chính:

Thứ nhất, đảm bảo cung cấp bình ổn vật giá một số mặt hàng thiết yếu cho lực lượng trang, cán bộ nhân dân. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Bộ Công Thương đã giao cho Sở Mậu dịch mật tỏa vào các vùng Pháp chiếm đóng mua thóc gạo. Đến khi tiếp quản Thủ đô, Chính phủ tới 200 nghìn tấn thóc dự trữ đủ sức ứng phó với nạn đầu tích trữ, giữ cho giá gạo không tăng, một thành tích cực kỳ to lớn đối với việc ổn định lòng dân thời hậu chiến. Ngoài thóc gạo, thương mại phải đảm bảo bình ổn vật giá các mặt hàng thiết yếu gồm vải, sợi, giấy, dầu, thịt, đường, sữa... Qua thời gian, danh sách mặt hàng bình ổn nối dài thêm theo nhu cầu của từng giai đoạn.

Thứ hai, đảm bảo cung cấp liệu sản xuất, vật đi đôi với tiêu thụ sản phẩm cho các ngành kinh tế.

Thứ ba, đẩy mạnh lưu thông hàng hóa để kích thích hướng dẫn các ngành sản xuất theo yêu cầu của nền kinh tế quốc dân kế hoạch của Nhà nước.

Thứ tư, phát triển thương nghiệp quốc doanh để cải tạo hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp bản doanh, đối với thủ công nghiệp những người buôn bán nhỏ.

Thứ năm, ngoại thương phải độc quyền, do Nhà nước quản lý.

Để thực hiện 5 trọng trách trên, giai đoạn 1955 - 1960, chúng ta nhiều chính sách phát triển hệ thống thương nghiệp quốc doanh thông qua phát triển mậu dịch quốc doanh, hợp tác mua bán, thành lập các tổng công ty xuất, nhập khẩu trung ương công ty xuất, nhập khẩu địa phương: “Việc trao đổi hàng hóa bây giờ không phải chỉ trong phạm vi nước ta, còn phải mở rộng ra với các nước”1.

“Mậu dịch quốc doanh hợp tác phải chiếm khoảng 41% tổng số bán lẻ. Phải bình ổn giá những thứ hàng cần thiết cho đời sống nhân dân những thị trường chính, lãnh đạo giá các loại hàng cần thiết khác, tránh những sự đột biến về giá cả. Kiên quyết chống đầu cơ, gian lậu. Thực hiện thống nhất thu mua cung cấp kế hoạch đối với một số hàng cần thiết sản xuất chưa đủ cung cấp cho nhu cầu”2.

“Để tăng cường lực lượng hàng hóa của mậu dịch quốc doanh:

a) Cần tiến hành gấp các biện pháp đẩy mạnh sản xuất tiểu công nghiệp thủ công nghiệp trong nước, đồng thời cần vận động hướng dẫn nhân dân tiết kiệm tiêu dùng đối với những hàng hóa hiện nay cung không đủ cầu.

b) Cần tranh thủ nhập khẩu kịp thời hàng tiêu dùng nguyên liệu, vật liệu cần thiết (đặc biệt chú ý làm nhanh các đơn hàng với Liên Xô, Trung Quốc).

c) Đối với các nông sản, năm nay thể nghiên cứu việc Chính phủ cho thống nhất thu mua một số loại thật cần thiết ta điều kiện lãnh đạo (như gỗ, chè...). Đối với loại không thống nhất thu mua, phải chú trọng giáo dục nông dân bán nông sản phẩm cho Nhà nước, tăng cường tổ chức thu mua của mậu dịch hợp tác các biện pháp sử dụng thương nhân thu mua”3.

Phải phát triển củng cố mậu dịch quốc doanh hợp tác mua bán nhằm đến năm 1960, sẽ nắm hầu hết thị trường bán buôn hơn một nửa tổng ngạch hàng hóa bán lẻ”4.

b) Cải tạo thương nghiệp doanh

Từ năm 1957, phương châm chung trong cải tạo thương nghiệp doanh “sử dụng - hạn chế - đi tới cải tạo”. Sử dụng mậu dịch quốc doanh đặt hàng bao tiêu sản phẩm cho các sở thương nghiệp doanh gia công. Hạn chế thương nghiệp quốc doanh khoanh vùng thu mua những nguyên liệu cần thiết như chè, phê, gỗ, thuốc lá; thống nhất xuất khẩu đối với những mặt hàng Nhà nước cần nắm để trao đổi với bên ngoài (cà phê, sa nhân, hoa hồi, sơn...); đánh thuế thực lãi vào kinh doanh thương nghiệp bản chủ nghĩa, nâng cao thuế buôn chuyến.

Cải tạo gồm 2 bước: (i) Chuyển sở thương nghiệp doanh thành đại cho thương nghiệp quốc doanh; (ii) Chuyển các đại thành công hợp doanh. “Cần tiếp tục thi hành chính sách hạn chế, sử dụng cải tạo đối với thương nghiệp bản doanh với một mức độ khẩn trương hơn. Nói chung cần hạn chế không cho phát triển, hạn chế doanh số mức lãi đủ duy trì mức sống bình thường của họ, loại trừ ngành bán buôn của họ một số ngành kinh doanh không lợi cho kinh tế quốc dân. Đối với số khả năng, phải mở đường cho họ chuyển sang sản xuất, bỏ vốn vào sản xuất dưới những hình thức thích hợp; số người còn lại sẽ sử dụng chủ yếu qua các hình thức bản nhà nước”5.

23.000 tiểu thương được tổ chức học tập chính sách cải tạo thương nghiệp doanh. Đến cuối năm 1960, “kể cả số người đã chuyển sang sản xuất số người làm kinh tiêu, đại cho thương nghiệp quốc doanh từ mấy năm trước, thì số người buôn bán nhỏ được cải tạo đã chiếm tới 82%”6.

Sau tiến hành cải tạo thương nghiệp quốc doanh, cấu nền thương nghiệp nước ta thay đổi nhanh chóng. Bán buôn thương nghiệp quốc doanh chiếm 28,1% năm 1955, tăng lên 93,6% năm 1960, thương nghiệp doanh từ 79,1% giảm xuống còn 6,4%. Đối với bán lẻ, năm 1955, thương nghiệp quốc doanh chiếm 19,8%, đến năm 1960 tăng lên 91,2%; ngược lại, thương nghiệp doanh từ 80,2% giảm xuống 8,8%. “Trong 3 năm, mức bán ra của mậu dịch quốc doanh tăng 142%. Khối lượng thu mua năm 1960 đã tăng 170% so với năm 1957. Giá hàng công nghiệp được ổn định trên sở vững chắc hơn trước. Về giá các loại hàng nông sản, do ảnh hưởng của mùa màng, năm 1960, giá một số mặt hàng lương thực thực phẩm trên thị trường tự do tăng lên cao hơn giá chỉ đạo của Nhà nước. Về ngoại thương tổng giá trị hàng xuất nhập năm 1960 tăng hơn năm 1957 38,4%. Chúng ta đã cố gắng tăng mức xuất khẩu, đồng thời nhập những máy móc, thiết bị cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội”7.

Tương tự như cải tạo công nghiệp, kết quả của cải tạo thương nghiệp doanh cũng được nhìn nhận trên hai bình diện. Một mặt, miền Bắc đã hình thành được thị trường hội chủ nghĩa thống nhất; thực hiện kết quả nghị quyết Hội nghị Trung ương 14 (tháng 11/1958) “đến năm 1960, sẽ nắm hầu hết thị trường bán buôn hơn một nửa tổng ngạch hàng hóa bán lẻ”8; thị trường ổn định, vật giá không leo thang. Nhưng mặt khác, miền Bắc đã bỏ qua một nguồn lực không được tận dụng triệt để, trong khi thương nghiệp quốc doanh “chưa dự tính đúng sức mua, chưa nắm vững nhu cầu thiết yếu của các tầng lớp nhân dân”9. Nói cách khác, nguồn lực thực hiện theo kế hoạch nhà nước chiếm tỷ trọng lớn, nguồn lực điều tiết theo tín hiệu thị trường quá nhỏ nên cung - cầu sự lệch pha.

Trong thực hiện, Đảng cũng nhận ra sẽ phát sinh những vấn đề khi đẩy nhanh cải tạo thương nghiệp doanh: “Phương thức thu mua bán hàng của mậu dịch chưa hợp lý, tổ chức yếu, nhưng lại ôm đồm...”10; “Đối với những người buôn bán hạng trung hạng lớn, chưa chú ý sử dụng hết khả năng về vốn kinh nghiệm kinh doanh của họ trong việc đẩy mạnh lưu thông hàng hóa”11. Nhưng hàng loạt vấn đề khiến Đảng đặt lòng tin vào một thị trường thống nhất, được kế hoạch hóa do thương nghiệp quốc doanh chi phối.

Thứ nhất, âm của cuộc khủng hoảng thiếu (giai đoạn 1919 - 1924) khủng hoảng thừa (1929 - 1933) của chủ nghĩa bản khiến Đảng Nhà nước tin rằng thương mại theo kế hoạch sẽ hướng dẫn sản xuất đúng với nhu cầu hơn.

Thứ hai, quan niệm “Nhà nước phải lo cho dân” dẫn đến ý muốn sử dụng công cụ của Nhà nước để thực hiện.

Thứ ba, những vấn đề cụ thể của giai đoạn đó như nạn đầu tích trữ, trốn thuế, lậu thuế (được cho xuất phát từ thương) cũng thúc đẩy quá trình cải tạo.

Cuối cùng, viện trợ của các nước hội chủ nghĩa đã phần nào che khuất sự thiếu hụt hàng hóa trong nước, nên động lực huy động các thành phần kinh tế vào sản xuất phân phối không còn mạnh mẽ như giai đoạn 1954 - 1956.

c) Phát triển nội thương

Trong nguyên kinh tế - hội chủ nghĩa, thương nghiệp không phải sở kinh doanh, chức năng hội: phục vụ sản xuất người tiêu dùng. Thương nghiệp cũng không tìm kiếm lợi nhuận bản thân nó, lợi nhuận để dành cho tích lũy hội chủ nghĩa. Những nguyên này thúc đẩy một cách tự nhiên việc hình thành thương nghiệp quốc doanh, công cụ chủ yếu để thực hiện.

Ngay từ lúc còn khuyến khích thương nghiệp doanh phát triển, ta đã chủ trương đẩy nhanh hình thành thương nghiệp quốc doanh.

Ngày 04/12/1954, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 419/TTg về thành lập các tổng công ty chuyên nghiệp mậu dịch quốc doanh.

Ngày 15/3/1955, Bộ Công Thương ra Chỉ thị số 454-BCT/KB tổ chức lại ngành mậu dịch quốc doanh, thành lập sắp xếp lại hệ thống công ty chuyên nghiệp mậu dịch quốc doanh. Theo Chỉ thị, Trung ương các tổng công ty, các liên khu các phân công ty khu, các tỉnh công ty tỉnh.

Từ chỗ chỉ Sở Mậu dịch Trung ương trong thời kỳ kháng chiến, đến năm 1957 đã 10 tổng công ty ngành hàng với trên 900 cửa hàng rải khắp các địa phương miền Bắc. Trước tình hình nhiều sở tiểu thủ công nghiệp bị đình đốn không cạnh tranh được với hàng ngoại thời tạm chiếm thiếu vốn, thiếu nguyên liệu, máy móc phụ tùng sau giải phóng, mậu dịch quốc doanh đã thực sự hỗ trợ bằng cách đặt hàng gia công, thu mua, bao tiêu sản phẩm hàng hóa cho các sở sản xuất, tạo đầu ra cho sản phẩm, góp phần đắc lực vào việc khôi phục phát triển sản xuất.

Năm 1956, sản xuất tiểu thủ công nghiệp gần 67.000 sở với khoảng 188.000 lao động. Năm 1957, đã tăng lên gần 150.000 sở với 474.000 lao động năm 1958, Bộ Nội thương đã tổ chức được cuộc triển lãm “Bàn tay Vàng” tại nhà Đấu Xảo - Nội với hơn 100 gian hàng, cùng hàng nghìn mặt hàng, đánh dấu thời kỳ khôi phục phát triển rực rỡ của tiểu thủ công nghiệp miền Bắc.

Như vậy, chỉ hơn hai năm sau khi hòa bình được lập lại, sản xuất nông nghiệp tiểu thủ công nghiệp không những đã được khôi phục, còn phát triển vượt mức năm 1939 - năm được coi sản xuất cao nhất trước chiến tranh. Đời sống nông dân nhân dân lao động được từng bước cải thiện, ổn định.

Cùng với mậu dịch quốc doanh, hệ thống hợp tác mua bán được quan tâm phát triển khắp các tỉnh, thành phố, đặc biệt khu vực nông thôn miền núi. Ngày 26/12/1955, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 641/TTg thành lập các quan quản hợp tác các cấp: Trung ương, khu, tỉnh thành phố. Theo đó, hệ thống tổ chức quan quản hợp tác các cấp được xác định như sau:

- Trung ương Cục Quản hợp tác trực thuộc Thủ tướng phủ.

- các Khu tự trị Phân cục Quản hợp tác xã.

- tỉnh, thành phố khu Hồng Quảng Chi cục Quản hợp tác xã.

- các Liên khu Việt Bắc, III, IV Khu Tả Ngạn không tổ chức quan quản hợp tác xã, chỉ tổ chức một bộ phận chuyên trách đặt trong văn phòng Ủy ban hành chính để giúp Ủy ban hành chính lãnh đạo, kiểm tra, theo dõi phong trào hợp tác trong Liên khu.

- huyện, việc lãnh đạo, kiểm tra theo dõi phong trào hợp tác do một ủy viên Ủy ban hành chính huyện phụ trách.

Đến cuối năm 1957, tất cả 28 tỉnh, thành phố miền Bắc đã tổ chức được 207 hợp tác mua bán sở (lúc đó, cấp huyện đơn vị sở của hợp tác mua bán, bao gồm 1,5 triệu viên trong 4.000 xã).

Với hệ thống mậu dịch quốc doanh cùng các đại của mậu dịch quốc doanh hợp tác mua bán, hoạt động nội thương trong giai đoạn này phục vụ khôi phục kinh tế, giảm bớt khó khăn, ổn định đời sống nhân dân, đấu tranh bình ổn vật giá.

Tháng 01/1955, sau khi việc điều chỉnh giá hàng công nghiệp vừa được thực hiện, một khó khăn lớn xuất hiện: Giá gạo trên thị trường tăng nhanh, lượng gạo của mậu dịch quốc doanh giảm mạnh, nếu cứ tiếp tục bán tự do thì chỉ sau một thời gian ngắn hết. Mậu dịch quốc doanh đã tiến hành những biện pháp mới để đấu tranh bình ổn giá gạo. Cụ thể, việc bán gạo được điều chỉnh như sau:

bảng 19

- Đối với công nhân, viên chức các thành viên trong gia đình, vẫn tiếp tục cung cấp theo định lượng giá ổn định.

- Đối với các tầng lớp nhân dân khác, tạm thời điều chỉnh giá bán lên sát với giá thị trường, nhằm thu hút nguồn gạo còn trong nông dân nguồn gạo từ miền Nam ra. Nhờ đó, thị trường thêm nguồn gạo, tạm đáp ứng được nhu cầu, đà tăng giá bị chặn lại.

Thôi đừng “ích kỷ hại nhân”

Gạo để tiếp tế cho nhân dân. Chính phủ luôn luôn lo cho nhân dân đủ gạo. gạo đủ chứ không thiếu.

Song, một bọn đầu cơ, ngày nào cũng kéo tất cả vợ chồng, cha mẹ, con cháu, anh em, người nhà lớn đến choán chỗ trước cửa mậu dịch, để tranh mua gạo. Rồi họ bán lại ngay bên lề đường, với một giá đắt hơn. Làm như thế “vi phú bất nhân”, tranh bữa ăn của đồng bào, bóp hầu bóp họng đồng bào, không lương tâm.

Những người đầu ấy đã làm cho chính quyền vất vả, làm cho nhân dân thiệt thòi.

Nhân dân nên phê bình họ, giáo dục họ, ngăn cản không để họ làm những việc “ích kỷ hại nhân” như vậy. Chính quyền thì nên dùng cách bán gạo cho hợp lý, bán theo hoặc bán theo sổ gia đình, làm thế nào nhân dân ai cũng đủ gạo, chứ không để những người đầu làm giàu.

Chính quyền nhân dân hợp sức lại thì nhất định chặn được tay của bọn đầu nhân dân nhất định gạo đầy đủ.

Nguồn: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.263.

Từ tháng 6/1955, lúa chiêm được thu hoạch. Nguồn lực của mậu dịch quốc doanh được bổ sung bằng thóc thuế thu mua. Gạo viện trợ của các nước trong khối hội chủ nghĩa cũng bắt đầu về. gạo, lại phải nghiên cứu cách bán ra để kéo giá xuống. vậy, Chính phủ đã chấp thuận biện pháp Bộ Công Thương kiến nghị. Theo đó, mậu dịch quốc doanh từng bước mở rộng việc bán gạo cho nhân dân từng bước kéo giá xuống; khi xuống đến mức 400 đồng/kg, tương ứng với mức giá dự kiến chỉ đạo mua thóc (240 đồng/kg) thì ngưng lại Nhà nước sẽ công bố ổn định mức giá này trong một thời gian dài, áp dụng chung cho mọi đối tượng, chấm dứt vụ đột biến giá đầu tiên sau khi miền Bắc được giải phóng.

Cuộc đấu tranh bình ổn giá gạo lần thứ hai vào giữa năm 1957, mậu dịch quốc doanh mua không kịp, không đủ tiền mua không đủ kho chứa thóc. Giá thóc gạo trên thị trường bị thương dìm xuống thấp.

Trước tình hình này, Bộ Thương nghiệp đã chỉ đạo Tổng Công ty Lương thực phải mua hết lúa gạo của nông dân. Cuộc đấu tranh này kéo dài sang cả những năm 1958 - 1959, không những đối với lúa gạo, cả đối với một số nông sản khác như mía, đường mật... Kết quả đã giữ được giá thị trường mức giá chỉ đạo lợi cho sản xuất, thúc đẩy nhanh chóng việc phục hồi phát triển nông nghiệp.

Cuối năm 1956, nguồn hàng công nghiệp của thương nghiệp quốc doanh giảm sút, lượng hàng giao cho đại giảm. Lợi dụng tình hình này, nhiều kinh tiêu, đại găm hàng hoặc tuồn hàng cho thương bên ngoài đầu đẩy giá thị trường lên cao. Để đấu tranh bình ổn giá, Bộ Thương nghiệp đã đề ra một loạt biện pháp:

- Tăng cường quản việc bán hàng của các kinh tiêu, đại lý. Trừng trị nghiêm những kẻ đầu lợi dụng hàng của mậu dịch quốc doanh để nâng giá kiếm lời bất chính.

- Nhanh chóng mở rộng mạng lưới bán lẻ của mậu dịch quốc doanh thành thị hợp tác mua bán nông thôn. Đến cuối năm 1957, mậu dịch quốc doanh đã hơn 900 cửa hàng doanh số bán lẻ tăng gấp 2,2 lần năm 1955. Riêng Nội, trong một thời gian ngắn đã mở được ba cửa hàng lớn, gồm: Bách hóa Tràng Tiền, Bách hóa số 5 Nam Bộ, Vải sợi Đinh Tiên Hoàng...

- Tích cực tiếp nhận đưa nhanh nguồn hàng viện trợ của các nước vào lưu thông.

- Yêu cầu các tổng công ty phải đẩy mạnh gia công, thu mua sản phẩm, khuyến khích tạo ra nhiều mặt hàng mới.

Để thực hiện chức năng hội: phục vụ sản xuất người tiêu dùng, thương nghiệp ba nguồn hàng bản. Nguồn thứ nhất quan trọng nhất các nghiệp quốc doanh các sở gia công của mậu dịch quốc doanh giao nộp sản phẩm. Nguồn hàng này thực hiện qua chế cấp phát giao nộp: Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vật (qua thương nghiệp) cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước (qua thương nghiệp) để cấp phát hoặc bán lẻ trên thị trường. Nguồn thứ hai, từ nhập khẩu, qua ba hình thức: nhận viện trợ, vay nợ của các nước hội chủ nghĩa trao đổi mậu dịch. Nguồn thứ ba, hệ thống thương nghiệp quốc doanh thu mua nông, lâm sản của các hợp tác nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Đây nguồn hàng quan trọng, được tập trung cao độ vào thương nghiệp quốc doanh. Đến năm 1959 - 1960, hàng nông sản do mậu dịch quốc doanh mua vào đã đạt tỷ trọng rất cao trong hàng hóa nông nghiệp: thóc: 86,1%; ngô: 63,5%; đỗ tương: 75%; lạc: 70%; đỗ các loại: 81,8%; bông: 100%; đay: 95%; thuốc lá: 67%.

Nhìn chung, thương nghiệp quốc doanh đã sự phát triển rất nhanh chóng, tổng trị giá hàng hóa mua vào trong 5 năm (1955 - 1960) tăng 6,3 lần, tổng mức lưu chuyển bán lẻ năm 1960 so với năm 1955 tăng hơn 6 lần. Hàng nghìn cửa hàng bán buôn, bán lẻ, thu mua phục vụ ăn uống, dịch vụ ra đời, tạo nên mạng lưới kinh doanh thương nghiệp trải khắp các thành phố, tỉnh, huyện thị trấn. Nếu năm 1955 mới 511 cửa hàng thì đến năm 1960 đã 1.987 cửa hàng...

Giai đoạn này, ngành Nội thương rất nỗ lực trong tổ chức tiếp nhận, thu mua phân phối cho hoạt động sản xuất tiêu dùng; góp phần hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định sản xuất đời sống nhân dân; thị trường giá cả bình ổn; hàng hóa trên thị trường ngày càng phong phú hơn, việc mua bán dễ dàng, thuận tiện hơn. “Công tác thương nghiệp được mở rộng tăng cường, trong 3 năm, mức bán ra của mậu dịch quốc doanh tăng 142%. Khối lượng thu mua năm 1960 đã tăng 170% so với năm 1957”12.

Nhưng việc khai thác các nguồn hàng phục vụ không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Ngày 19/12/1959, Phủ Thủ tướng ban hành Chỉ thị số 459/TTg về việc đẩy mạnh công tác thu thuế, thu nợ mua thóc, nhấn mạnh: “Có hợp tác nông nghiệp dành thóc tốt để chia hoa lợi cho viên để bỏ vào quỹ chung, đem thóc xấu nộp thuế, một số nông dân giữ thóc tốt lại để dành hoặc làm gạo bán ra, đem nộp thuế thóc vừa hoặc xấu của nhà mình, thậm chí người đem bán thóc tốt lấy giá cao, mua thóc xấu nộp cho Nhà nước. Một số nơi tính thuế cho hợp tác nông nghiệp chậm, nên thu chậm”.

“Việc vận động trung nông thừa thóc bán cho Nhà nước còn yếu, nên ít kết quả. Một số khá đông hợp tác nông nghiệp còn những ý nghĩa không đúng, còn so đo, tính toán chưa chịu bán thóc quỹ của hợp tác cho Nhà nước, chưa vận động viên thừa thóc gương mẫu trong việc bán cho Nhà nước. Việc quản thị trường nhiều nơi còn lỏng lẻo”;

“Diện thu mua vẫn còn để quá dày, việc ủy thác vẫn chưa bố trí theo đúng sự hướng dẫn của Bộ Nội thương. Việc bảo quản, vận chuyển thóc những nơi mua dồn dập đang gặp khó khăn, một số thóc phải để ngoài trời đã bị mưa”.

Hàng công nghiệp giao nộp cũng tương tự, thường xuyên thiếu, nhất hàng may mặc, phương tiện đi lại như xe đạp phụ tùng, hóa phẩm như phòng, kem đánh răng...

d) Phát triển ngoại thương

Ngoại thương thuộc hoạt động độc quyền của Nhà nước. Giai đoạn này, xuất khẩu không nhiều, chủ yếu nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu chiếm tỷ trọng rất lớn tiếp nhận viện trợ của các nước hội chủ nghĩa, một phần nhỏ hơn sử dụng ngoại tệ của Nhà nước để mua hàng hóa. ba phương châm chính chỉ đạo hoạt động ngoại thương, gồm: (1) Tăng cường quan hệ với nước ngoài trên sở đảm bảo chủ quyền dân tộc; (2) Tranh thủ viện trợ quốc tế (3) Đẩy mạnh xuất khẩu để duy trì nhập khẩu.

Tháng 4/1958, Bộ Thương nghiệp tách ra thành Bộ Nội thương (Bộ trưởng Đỗ Mười) Bộ Ngoại thương (Bộ trưởng Phan Anh). Về mặt tổ chức, trong từng thời kỳ những sự điều chỉnh, nhưng đại thể, trong Bộ Ngoại thương Vụ Khu vực I (với các nước hội chủ nghĩa); Vụ Khu vực II (với các nước bản chủ nghĩa) 8 tổng công ty xuất, nhập khẩu trực tiếp hàng hóa (Agrexport, Vegetexco, Tocontap, Naforimex, Minexport, Artexport, Machinoimport, Technoimport). Một số quan khác trực thuộc Bộ Ngoại thương trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ công tác xuất, nhập khẩu Cục Kiểm nghiệm, Tổng Công ty Thuê tàu (Vietfracht), Công ty Giao nhận hàng xuất, nhập khẩu (Vietrans), Phòng Thương mại...

thu mua thóc

Mỗi ngày, trạm thu mua của hợp tác mua bán huyện Thanh Trì thu mua của nông dân khoảng 10 tấn thóc (tháng 12/1958) (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

các tỉnh, thành phố công ty ngoại thương địa phương với nhiệm vụ tổ chức các trạm thu mua, gia công hàng xuất khẩu đặt những nơi trung tâm (huyện, thị xã) nhiều hàng xuất khẩu. Ngoài ra, một số ít nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu (mây tre đan, mành tre...) trực thuộc các tổng công ty xuất, nhập khẩu của Bộ Ngoại thương. Các công ty ngoại thương các tỉnh không được trực tiếp xuất, nhập khẩu với nước ngoài, mọi hàng hóa đều bán cho các tổng công ty trung ương hoặc ủy thác xuất qua các tổng công ty trung ương.

Về hàng hóa: Lực lượng làm công tác ngoại thương cũng đã tích cực tạo thêm nguồn hàng xuất khẩu, gồm các loại nông, lâm sản như lạc, vừng, chè, gỗ ván sàn, ba kích, thảo quả, hạt sen khô, nhãn, vải sấy khô...; tạp phẩm cao Sao Vàng, giầy vải...; khoáng sản Apatít Lào Cai, Than Quảng Ninh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ hàng mây tre đan.

Giá trị xuất khẩu tăng khá nhanh. Năm 1955, kim ngạch mới đạt 6,6 triệu USD, đến năm 1960 đã đạt 71 triệu USD. cấu hàng xuất khẩu khá tích cực, năm 1959, hàng hóa công nghiệp thủ công nghiệp chiếm trên 62%, hàng nông, lâm, hải sản chiếm 38% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu13. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu thời gian này còn manh mún, giá trị thấp, phân tán khắp nơi, nên đa số phải thu gom dần, chưa mặt hàng nào hàng xuất khẩu chủ lực.

Hàng nhập khẩu: Ngoài việc tiếp nhận viện trợ xây dựng các công trình, như xây dựng hệ thống các nhà máy điện, nhà máy nước, gang thép, ximăng, hệ thống các nghiệp khí, các công trình giao thông, bến cảng, sân bay, các công trình phục vụ quốc phòng, phục vụ chiến đấu, hệ thống các nhà máy phục vụ dân sinh xuất khẩu như dệt may, chế biến rau quả..., hàng nhập khẩu chủ yếu những máy móc lẻ, những bộ phận linh kiện để duy trì sản xuất một số ngành công nghiệp nhẹ, phục vụ đời sống như một số hóa chất, dược liệu, dược phẩm, giấy báo..., thậm chí một vài loại nhạc cụ, một số bộ phận, linh kiện để duy trì sản xuất của một số nghiệp công nghiệp.

Giá trị nhập khẩu giai đoạn này cao hơn nhiều so với xuất khẩu. Năm 1955, kim ngạch nhập khẩu gấp hơn 10 lần xuất khẩu, 68,3 triệu USD. Năm 1960, cán cân ngoại thương thu hẹp hơn, nhập khẩu trị giá 116,5 triệu USD, so với xuất khẩu 71 triệu USD, bằng 164% kim ngạch xuất khẩu.

thu mua bông

Cửa hàng Bách hóa huyện Quỳnh Côi (Thái Bình) thu mua bông của nông dân, năm 1956 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Trên phương diện kinh tế đối ngoại, ta đã thực hiện phương châm không ngừng củng cố phát triển quan hệ kinh tế - thương mại với các nước hội chủ nghĩa, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước ngoài hội chủ nghĩa thuộc “thế giới thứ ba”, như Nam Á, Bắc Phi, Trung Cận Đông...

Bên cạnh các hiệp định thương mại, kinh tế, kỹ thuật với các nước hội chủ nghĩa, Việt Nam đã Hiệp định thương mại với Chính phủ Pháp (cuối năm 1955), Ấn Độ (cuối năm 1956), Inđônêxia (đầu năm 1957), tiếp theo sau Cộng hòa rập Thống nhất, Campuchia, Irắc,... Việt Nam cũng mở rộng quan hệ buôn bán với nhiều thị trường trong khu vực trên thế giới. Tính đến năm 1960, Việt Nam đã quan hệ thương mại với 22 nước.

Mậu dịch tiểu ngạch biên giới Việt - Trung

Từ năm 1958, Chính phủ hai nước Việt Nam Trung Quốc thống nhất về chính sách mậu dịch tiểu ngạch nhân dân trong khu vực biên giới Việt - Trung nhằm tạo thuận lợi cho dân biên giới hai nước được đi lại dễ dàng qua biên giới trao đổi những hàng hóa cần thiết cho đời sống hằng ngày.

Ngày 04/11/1958, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 486/ TTg về bản điều lệ quản mậu dịch tiểu ngạch nhân dân trong khu vực biên giới Việt - Trung. Theo đó, dân trong khu vực biên giới (từ biên giới đi vào nội địa mỗi bên 20 cây số) phía Việt Nam muốn sang thị trường khu vực biên giới phía Trung Quốc để trao đổi phải giấy phép thông hành do quan Công an biên phòng cấp.

Mỗi ngày, mỗi người chỉ được phép qua lại một lần, mỗi lần chỉ được trao đổi một số hàng trị giá không quá 10 đồng nhân dân tệ hay số tiền Việt Nam trị giá tương đương phải tuân theo các thể lệ hải quan, thuế khóa các luật lệ do Chính phủ hai nước đã công bố.

dân biên giới chỉ được trao đổi trên những thị trường nhất định qua những cửa khẩu nhất định do Bộ Ngoại thương công bố. Đồng thời, chỉ được mang đi trao đổi những hàng hóa do mình sản xuất ra (chủ yếu hàng nông sản, thực phẩm). Chẳng hạn, không được trao đổi những thứ được Nhà nước cung cấp với giá bao cấp như vải may quần áo chỉ được phép mua về những hàng hóa cần thiết cho đời sống hằng ngày, trừ những hàng thuộc loại hàng cấm hoặc hạn chế nhập khẩu.

Bộ Ngoại thương quan thay mặt Chính phủ quy định những hàng hóa được phép trao đổi công bố cho nhân dân biên giới biết; việc đánh thuế xuất, nhập khẩu vào các hàng hóa trao đổi giữa dân biên giới sẽ theo chính sách thuế xuất, nhập khẩu riêng áp dụng cho mậu dịch tiểu ngạch biên giới Việt - Trung. Khi cần thiết, Bộ Ngoại thương sẽ căn cứ vào tình hình trao đổi thực tế đề nghị Chính phủ sửa đổi danh mục hàng cần đánh thuế thuế suất.

Đối với tiền tệ, không ai được mang tiền Việt Nam ra khỏi biên giới hoặc mang nhân dân tệ vào Việt Nam, trừ khi nào được Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cho phép. dân trong khu vực biên giới hai nước chỉ được đổi số tiền thừa sau khi trao đổi hàng, số tiền này không được quá một đồng nhân dân tệ hoặc số tiền Việt Nam trị giá tương đương.

dân trong khu vực biên giới phía Việt Nam, khi mang hàng sang thị trường biên giới phía Trung Quốc trao đổi thể được Ngân hàng đổi cho một số nhân dân tệ nhỏ để chi tiêu những khoản thật cần thiết trước khi bán hàng. Trường hợp cần thiết được đổi tiền mức tiền thể được đổi sẽ do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ấn định cho từng cửa khẩu.

Để quản việc trao đổi hàng hóa theo đường mậu dịch tiểu ngạch, Chính phủ những quy định để xử những dân vi phạm. Đối với những hành động như trao đổi hàng hóa không đúng cửa khẩu, không đúng loại hàng hóa được phép trao đổi; giá trị hàng trao đổi vượt quá 10 nhân dân tệ, hay trốn thuế... sẽ tùy trường hợp nặng nhẹ, tình hay hữu ý áp dụng một hoặc nhiều trong các hình thức xử sau đây:

- Cảnh cáo, rút giấy thông hành không cho phép xuất biên một thời gian.

- Tịch thu một phần hay toàn bộ số hàng trái phép; phạt tiền nhiều nhất 3 lần trị giá số hàng trái phép, hoặc vừa tịch thu vừa phạt tiền.

Riêng đối với những hành động mang tiền Việt Nam trái phép ra khỏi biên giới hay mang tiền nhân dân tệ vào Việt Nam, sẽ tùy theo trường hợp nhẹ hay nặng áp dụng một hoặc nhiều trong các hình thức xử sau đây:

- Phạt tiền từ 10 đến 50% trị giá số tiền mang trái phép.

- Tịch thu một phần hoặc toàn bộ số tiền mang trái phép.

- Tịch thu toàn bộ tang vật phạt tiền từ 1 đến 5 lần trị giá tiền mang trái phép.

- Những người phạm các điểm sau đây thể bị truy tố trước tòa án nhân dân tỉnh:

+ Đã bị xử nhiều lần vẫn ngoan cố tái phạm;

+ Buôn lậu chuyên nghiệp, buôn lậu tổ chức;

+ Cầm đầu tổ chức buôn lậu, buôn lậu gây tác hại nghiêm trọng.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.208.

2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.18, tr.269, 79-80.

4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.19, tr.493, 495.

6. https://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?AnPhamItemID=1344.

7. https://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?AnPhamItemID=1344

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.19, tr.493.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.729.

10, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.729, 730.

12. Quốc hội nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam: Văn kiện Quốc hội toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Nội, 2007, t.2, tr.276.

13. Xem Viện Hàn lâm Khoa học hội Việt Nam, Viện Sử học, Trần Đức Cường (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 12 (Từ năm 1954 đến năm 1965), Nxb. Khoa học hội, Nội, 2014, tr.97.

1. Khôi phục cải tạo thương nghiệp hội chủ nghĩa (1955 - 1960)

a) Chủ trương

Thương mại chức năng phục vụ sản xuất tiêu dùng, “người nội trợ của hội”. Với chức năng này, thương mại được Đảng, Chính phủ giao 5 trọng trách chính:

Thứ nhất, đảm bảo cung cấp bình ổn vật giá một số mặt hàng thiết yếu cho lực lượng trang, cán bộ nhân dân. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Bộ Công Thương đã giao cho Sở Mậu dịch mật tỏa vào các vùng Pháp chiếm đóng mua thóc gạo. Đến khi tiếp quản Thủ đô, Chính phủ tới 200 nghìn tấn thóc dự trữ đủ sức ứng phó với nạn đầu tích trữ, giữ cho giá gạo không tăng, một thành tích cực kỳ to lớn đối với việc ổn định lòng dân thời hậu chiến. Ngoài thóc gạo, thương mại phải đảm bảo bình ổn vật giá các mặt hàng thiết yếu gồm vải, sợi, giấy, dầu, thịt, đường, sữa... Qua thời gian, danh sách mặt hàng bình ổn nối dài thêm theo nhu cầu của từng giai đoạn.

Thứ hai, đảm bảo cung cấp liệu sản xuất, vật đi đôi với tiêu thụ sản phẩm cho các ngành kinh tế.

Thứ ba, đẩy mạnh lưu thông hàng hóa để kích thích hướng dẫn các ngành sản xuất theo yêu cầu của nền kinh tế quốc dân kế hoạch của Nhà nước.

Thứ tư, phát triển thương nghiệp quốc doanh để cải tạo hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp bản doanh, đối với thủ công nghiệp những người buôn bán nhỏ.

Thứ năm, ngoại thương phải độc quyền, do Nhà nước quản lý.

Để thực hiện 5 trọng trách trên, giai đoạn 1955 - 1960, chúng ta nhiều chính sách phát triển hệ thống thương nghiệp quốc doanh thông qua phát triển mậu dịch quốc doanh, hợp tác mua bán, thành lập các tổng công ty xuất, nhập khẩu trung ương công ty xuất, nhập khẩu địa phương: “Việc trao đổi hàng hóa bây giờ không phải chỉ trong phạm vi nước ta, còn phải mở rộng ra với các nước”1.

“Mậu dịch quốc doanh hợp tác phải chiếm khoảng 41% tổng số bán lẻ. Phải bình ổn giá những thứ hàng cần thiết cho đời sống nhân dân những thị trường chính, lãnh đạo giá các loại hàng cần thiết khác, tránh những sự đột biến về giá cả. Kiên quyết chống đầu cơ, gian lậu. Thực hiện thống nhất thu mua cung cấp kế hoạch đối với một số hàng cần thiết sản xuất chưa đủ cung cấp cho nhu cầu”2.

“Để tăng cường lực lượng hàng hóa của mậu dịch quốc doanh:

a) Cần tiến hành gấp các biện pháp đẩy mạnh sản xuất tiểu công nghiệp thủ công nghiệp trong nước, đồng thời cần vận động hướng dẫn nhân dân tiết kiệm tiêu dùng đối với những hàng hóa hiện nay cung không đủ cầu.

b) Cần tranh thủ nhập khẩu kịp thời hàng tiêu dùng nguyên liệu, vật liệu cần thiết (đặc biệt chú ý làm nhanh các đơn hàng với Liên Xô, Trung Quốc).

c) Đối với các nông sản, năm nay thể nghiên cứu việc Chính phủ cho thống nhất thu mua một số loại thật cần thiết ta điều kiện lãnh đạo (như gỗ, chè...). Đối với loại không thống nhất thu mua, phải chú trọng giáo dục nông dân bán nông sản phẩm cho Nhà nước, tăng cường tổ chức thu mua của mậu dịch hợp tác các biện pháp sử dụng thương nhân thu mua”3.

Phải phát triển củng cố mậu dịch quốc doanh hợp tác mua bán nhằm đến năm 1960, sẽ nắm hầu hết thị trường bán buôn hơn một nửa tổng ngạch hàng hóa bán lẻ”4.

b) Cải tạo thương nghiệp doanh

Từ năm 1957, phương châm chung trong cải tạo thương nghiệp doanh “sử dụng - hạn chế - đi tới cải tạo”. Sử dụng mậu dịch quốc doanh đặt hàng bao tiêu sản phẩm cho các sở thương nghiệp doanh gia công. Hạn chế thương nghiệp quốc doanh khoanh vùng thu mua những nguyên liệu cần thiết như chè, phê, gỗ, thuốc lá; thống nhất xuất khẩu đối với những mặt hàng Nhà nước cần nắm để trao đổi với bên ngoài (cà phê, sa nhân, hoa hồi, sơn...); đánh thuế thực lãi vào kinh doanh thương nghiệp bản chủ nghĩa, nâng cao thuế buôn chuyến.

Cải tạo gồm 2 bước: (i) Chuyển sở thương nghiệp doanh thành đại cho thương nghiệp quốc doanh; (ii) Chuyển các đại thành công hợp doanh. “Cần tiếp tục thi hành chính sách hạn chế, sử dụng cải tạo đối với thương nghiệp bản doanh với một mức độ khẩn trương hơn. Nói chung cần hạn chế không cho phát triển, hạn chế doanh số mức lãi đủ duy trì mức sống bình thường của họ, loại trừ ngành bán buôn của họ một số ngành kinh doanh không lợi cho kinh tế quốc dân. Đối với số khả năng, phải mở đường cho họ chuyển sang sản xuất, bỏ vốn vào sản xuất dưới những hình thức thích hợp; số người còn lại sẽ sử dụng chủ yếu qua các hình thức bản nhà nước”5.

23.000 tiểu thương được tổ chức học tập chính sách cải tạo thương nghiệp doanh. Đến cuối năm 1960, “kể cả số người đã chuyển sang sản xuất số người làm kinh tiêu, đại cho thương nghiệp quốc doanh từ mấy năm trước, thì số người buôn bán nhỏ được cải tạo đã chiếm tới 82%”6.

Sau tiến hành cải tạo thương nghiệp quốc doanh, cấu nền thương nghiệp nước ta thay đổi nhanh chóng. Bán buôn thương nghiệp quốc doanh chiếm 28,1% năm 1955, tăng lên 93,6% năm 1960, thương nghiệp doanh từ 79,1% giảm xuống còn 6,4%. Đối với bán lẻ, năm 1955, thương nghiệp quốc doanh chiếm 19,8%, đến năm 1960 tăng lên 91,2%; ngược lại, thương nghiệp doanh từ 80,2% giảm xuống 8,8%. “Trong 3 năm, mức bán ra của mậu dịch quốc doanh tăng 142%. Khối lượng thu mua năm 1960 đã tăng 170% so với năm 1957. Giá hàng công nghiệp được ổn định trên sở vững chắc hơn trước. Về giá các loại hàng nông sản, do ảnh hưởng của mùa màng, năm 1960, giá một số mặt hàng lương thực thực phẩm trên thị trường tự do tăng lên cao hơn giá chỉ đạo của Nhà nước. Về ngoại thương tổng giá trị hàng xuất nhập năm 1960 tăng hơn năm 1957 38,4%. Chúng ta đã cố gắng tăng mức xuất khẩu, đồng thời nhập những máy móc, thiết bị cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội”7.

Tương tự như cải tạo công nghiệp, kết quả của cải tạo thương nghiệp doanh cũng được nhìn nhận trên hai bình diện. Một mặt, miền Bắc đã hình thành được thị trường hội chủ nghĩa thống nhất; thực hiện kết quả nghị quyết Hội nghị Trung ương 14 (tháng 11/1958) “đến năm 1960, sẽ nắm hầu hết thị trường bán buôn hơn một nửa tổng ngạch hàng hóa bán lẻ”8; thị trường ổn định, vật giá không leo thang. Nhưng mặt khác, miền Bắc đã bỏ qua một nguồn lực không được tận dụng triệt để, trong khi thương nghiệp quốc doanh “chưa dự tính đúng sức mua, chưa nắm vững nhu cầu thiết yếu của các tầng lớp nhân dân”9. Nói cách khác, nguồn lực thực hiện theo kế hoạch nhà nước chiếm tỷ trọng lớn, nguồn lực điều tiết theo tín hiệu thị trường quá nhỏ nên cung - cầu sự lệch pha.

Trong thực hiện, Đảng cũng nhận ra sẽ phát sinh những vấn đề khi đẩy nhanh cải tạo thương nghiệp doanh: “Phương thức thu mua bán hàng của mậu dịch chưa hợp lý, tổ chức yếu, nhưng lại ôm đồm...”10; “Đối với những người buôn bán hạng trung hạng lớn, chưa chú ý sử dụng hết khả năng về vốn kinh nghiệm kinh doanh của họ trong việc đẩy mạnh lưu thông hàng hóa”11. Nhưng hàng loạt vấn đề khiến Đảng đặt lòng tin vào một thị trường thống nhất, được kế hoạch hóa do thương nghiệp quốc doanh chi phối.

Thứ nhất, âm của cuộc khủng hoảng thiếu (giai đoạn 1919 - 1924) khủng hoảng thừa (1929 - 1933) của chủ nghĩa bản khiến Đảng Nhà nước tin rằng thương mại theo kế hoạch sẽ hướng dẫn sản xuất đúng với nhu cầu hơn.

Thứ hai, quan niệm “Nhà nước phải lo cho dân” dẫn đến ý muốn sử dụng công cụ của Nhà nước để thực hiện.

Thứ ba, những vấn đề cụ thể của giai đoạn đó như nạn đầu tích trữ, trốn thuế, lậu thuế (được cho xuất phát từ thương) cũng thúc đẩy quá trình cải tạo.

Cuối cùng, viện trợ của các nước hội chủ nghĩa đã phần nào che khuất sự thiếu hụt hàng hóa trong nước, nên động lực huy động các thành phần kinh tế vào sản xuất phân phối không còn mạnh mẽ như giai đoạn 1954 - 1956.

c) Phát triển nội thương

Trong nguyên kinh tế - hội chủ nghĩa, thương nghiệp không phải sở kinh doanh, chức năng hội: phục vụ sản xuất người tiêu dùng. Thương nghiệp cũng không tìm kiếm lợi nhuận bản thân nó, lợi nhuận để dành cho tích lũy hội chủ nghĩa. Những nguyên này thúc đẩy một cách tự nhiên việc hình thành thương nghiệp quốc doanh, công cụ chủ yếu để thực hiện.

Ngay từ lúc còn khuyến khích thương nghiệp doanh phát triển, ta đã chủ trương đẩy nhanh hình thành thương nghiệp quốc doanh.

Ngày 04/12/1954, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 419/TTg về thành lập các tổng công ty chuyên nghiệp mậu dịch quốc doanh.

Ngày 15/3/1955, Bộ Công Thương ra Chỉ thị số 454-BCT/KB tổ chức lại ngành mậu dịch quốc doanh, thành lập sắp xếp lại hệ thống công ty chuyên nghiệp mậu dịch quốc doanh. Theo Chỉ thị, Trung ương các tổng công ty, các liên khu các phân công ty khu, các tỉnh công ty tỉnh.

Từ chỗ chỉ Sở Mậu dịch Trung ương trong thời kỳ kháng chiến, đến năm 1957 đã 10 tổng công ty ngành hàng với trên 900 cửa hàng rải khắp các địa phương miền Bắc. Trước tình hình nhiều sở tiểu thủ công nghiệp bị đình đốn không cạnh tranh được với hàng ngoại thời tạm chiếm thiếu vốn, thiếu nguyên liệu, máy móc phụ tùng sau giải phóng, mậu dịch quốc doanh đã thực sự hỗ trợ bằng cách đặt hàng gia công, thu mua, bao tiêu sản phẩm hàng hóa cho các sở sản xuất, tạo đầu ra cho sản phẩm, góp phần đắc lực vào việc khôi phục phát triển sản xuất.

Năm 1956, sản xuất tiểu thủ công nghiệp gần 67.000 sở với khoảng 188.000 lao động. Năm 1957, đã tăng lên gần 150.000 sở với 474.000 lao động năm 1958, Bộ Nội thương đã tổ chức được cuộc triển lãm “Bàn tay Vàng” tại nhà Đấu Xảo - Nội với hơn 100 gian hàng, cùng hàng nghìn mặt hàng, đánh dấu thời kỳ khôi phục phát triển rực rỡ của tiểu thủ công nghiệp miền Bắc.

Như vậy, chỉ hơn hai năm sau khi hòa bình được lập lại, sản xuất nông nghiệp tiểu thủ công nghiệp không những đã được khôi phục, còn phát triển vượt mức năm 1939 - năm được coi sản xuất cao nhất trước chiến tranh. Đời sống nông dân nhân dân lao động được từng bước cải thiện, ổn định.

Cùng với mậu dịch quốc doanh, hệ thống hợp tác mua bán được quan tâm phát triển khắp các tỉnh, thành phố, đặc biệt khu vực nông thôn miền núi. Ngày 26/12/1955, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 641/TTg thành lập các quan quản hợp tác các cấp: Trung ương, khu, tỉnh thành phố. Theo đó, hệ thống tổ chức quan quản hợp tác các cấp được xác định như sau:

- Trung ương Cục Quản hợp tác trực thuộc Thủ tướng phủ.

- các Khu tự trị Phân cục Quản hợp tác xã.

- tỉnh, thành phố khu Hồng Quảng Chi cục Quản hợp tác xã.

- các Liên khu Việt Bắc, III, IV Khu Tả Ngạn không tổ chức quan quản hợp tác xã, chỉ tổ chức một bộ phận chuyên trách đặt trong văn phòng Ủy ban hành chính để giúp Ủy ban hành chính lãnh đạo, kiểm tra, theo dõi phong trào hợp tác trong Liên khu.

- huyện, việc lãnh đạo, kiểm tra theo dõi phong trào hợp tác do một ủy viên Ủy ban hành chính huyện phụ trách.

Đến cuối năm 1957, tất cả 28 tỉnh, thành phố miền Bắc đã tổ chức được 207 hợp tác mua bán sở (lúc đó, cấp huyện đơn vị sở của hợp tác mua bán, bao gồm 1,5 triệu viên trong 4.000 xã).

Với hệ thống mậu dịch quốc doanh cùng các đại của mậu dịch quốc doanh hợp tác mua bán, hoạt động nội thương trong giai đoạn này phục vụ khôi phục kinh tế, giảm bớt khó khăn, ổn định đời sống nhân dân, đấu tranh bình ổn vật giá.

Tháng 01/1955, sau khi việc điều chỉnh giá hàng công nghiệp vừa được thực hiện, một khó khăn lớn xuất hiện: Giá gạo trên thị trường tăng nhanh, lượng gạo của mậu dịch quốc doanh giảm mạnh, nếu cứ tiếp tục bán tự do thì chỉ sau một thời gian ngắn hết. Mậu dịch quốc doanh đã tiến hành những biện pháp mới để đấu tranh bình ổn giá gạo. Cụ thể, việc bán gạo được điều chỉnh như sau:

bảng 19

- Đối với công nhân, viên chức các thành viên trong gia đình, vẫn tiếp tục cung cấp theo định lượng giá ổn định.

- Đối với các tầng lớp nhân dân khác, tạm thời điều chỉnh giá bán lên sát với giá thị trường, nhằm thu hút nguồn gạo còn trong nông dân nguồn gạo từ miền Nam ra. Nhờ đó, thị trường thêm nguồn gạo, tạm đáp ứng được nhu cầu, đà tăng giá bị chặn lại.

Thôi đừng “ích kỷ hại nhân”

Gạo để tiếp tế cho nhân dân. Chính phủ luôn luôn lo cho nhân dân đủ gạo. gạo đủ chứ không thiếu.

Song, một bọn đầu cơ, ngày nào cũng kéo tất cả vợ chồng, cha mẹ, con cháu, anh em, người nhà lớn đến choán chỗ trước cửa mậu dịch, để tranh mua gạo. Rồi họ bán lại ngay bên lề đường, với một giá đắt hơn. Làm như thế “vi phú bất nhân”, tranh bữa ăn của đồng bào, bóp hầu bóp họng đồng bào, không lương tâm.

Những người đầu ấy đã làm cho chính quyền vất vả, làm cho nhân dân thiệt thòi.

Nhân dân nên phê bình họ, giáo dục họ, ngăn cản không để họ làm những việc “ích kỷ hại nhân” như vậy. Chính quyền thì nên dùng cách bán gạo cho hợp lý, bán theo hoặc bán theo sổ gia đình, làm thế nào nhân dân ai cũng đủ gạo, chứ không để những người đầu làm giàu.

Chính quyền nhân dân hợp sức lại thì nhất định chặn được tay của bọn đầu nhân dân nhất định gạo đầy đủ.

Nguồn: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.263.

Từ tháng 6/1955, lúa chiêm được thu hoạch. Nguồn lực của mậu dịch quốc doanh được bổ sung bằng thóc thuế thu mua. Gạo viện trợ của các nước trong khối hội chủ nghĩa cũng bắt đầu về. gạo, lại phải nghiên cứu cách bán ra để kéo giá xuống. vậy, Chính phủ đã chấp thuận biện pháp Bộ Công Thương kiến nghị. Theo đó, mậu dịch quốc doanh từng bước mở rộng việc bán gạo cho nhân dân từng bước kéo giá xuống; khi xuống đến mức 400 đồng/kg, tương ứng với mức giá dự kiến chỉ đạo mua thóc (240 đồng/kg) thì ngưng lại Nhà nước sẽ công bố ổn định mức giá này trong một thời gian dài, áp dụng chung cho mọi đối tượng, chấm dứt vụ đột biến giá đầu tiên sau khi miền Bắc được giải phóng.

Cuộc đấu tranh bình ổn giá gạo lần thứ hai vào giữa năm 1957, mậu dịch quốc doanh mua không kịp, không đủ tiền mua không đủ kho chứa thóc. Giá thóc gạo trên thị trường bị thương dìm xuống thấp.

Trước tình hình này, Bộ Thương nghiệp đã chỉ đạo Tổng Công ty Lương thực phải mua hết lúa gạo của nông dân. Cuộc đấu tranh này kéo dài sang cả những năm 1958 - 1959, không những đối với lúa gạo, cả đối với một số nông sản khác như mía, đường mật... Kết quả đã giữ được giá thị trường mức giá chỉ đạo lợi cho sản xuất, thúc đẩy nhanh chóng việc phục hồi phát triển nông nghiệp.

Cuối năm 1956, nguồn hàng công nghiệp của thương nghiệp quốc doanh giảm sút, lượng hàng giao cho đại giảm. Lợi dụng tình hình này, nhiều kinh tiêu, đại găm hàng hoặc tuồn hàng cho thương bên ngoài đầu đẩy giá thị trường lên cao. Để đấu tranh bình ổn giá, Bộ Thương nghiệp đã đề ra một loạt biện pháp:

- Tăng cường quản việc bán hàng của các kinh tiêu, đại lý. Trừng trị nghiêm những kẻ đầu lợi dụng hàng của mậu dịch quốc doanh để nâng giá kiếm lời bất chính.

- Nhanh chóng mở rộng mạng lưới bán lẻ của mậu dịch quốc doanh thành thị hợp tác mua bán nông thôn. Đến cuối năm 1957, mậu dịch quốc doanh đã hơn 900 cửa hàng doanh số bán lẻ tăng gấp 2,2 lần năm 1955. Riêng Nội, trong một thời gian ngắn đã mở được ba cửa hàng lớn, gồm: Bách hóa Tràng Tiền, Bách hóa số 5 Nam Bộ, Vải sợi Đinh Tiên Hoàng...

- Tích cực tiếp nhận đưa nhanh nguồn hàng viện trợ của các nước vào lưu thông.

- Yêu cầu các tổng công ty phải đẩy mạnh gia công, thu mua sản phẩm, khuyến khích tạo ra nhiều mặt hàng mới.

Để thực hiện chức năng hội: phục vụ sản xuất người tiêu dùng, thương nghiệp ba nguồn hàng bản. Nguồn thứ nhất quan trọng nhất các nghiệp quốc doanh các sở gia công của mậu dịch quốc doanh giao nộp sản phẩm. Nguồn hàng này thực hiện qua chế cấp phát giao nộp: Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vật (qua thương nghiệp) cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước (qua thương nghiệp) để cấp phát hoặc bán lẻ trên thị trường. Nguồn thứ hai, từ nhập khẩu, qua ba hình thức: nhận viện trợ, vay nợ của các nước hội chủ nghĩa trao đổi mậu dịch. Nguồn thứ ba, hệ thống thương nghiệp quốc doanh thu mua nông, lâm sản của các hợp tác nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Đây nguồn hàng quan trọng, được tập trung cao độ vào thương nghiệp quốc doanh. Đến năm 1959 - 1960, hàng nông sản do mậu dịch quốc doanh mua vào đã đạt tỷ trọng rất cao trong hàng hóa nông nghiệp: thóc: 86,1%; ngô: 63,5%; đỗ tương: 75%; lạc: 70%; đỗ các loại: 81,8%; bông: 100%; đay: 95%; thuốc lá: 67%.

Nhìn chung, thương nghiệp quốc doanh đã sự phát triển rất nhanh chóng, tổng trị giá hàng hóa mua vào trong 5 năm (1955 - 1960) tăng 6,3 lần, tổng mức lưu chuyển bán lẻ năm 1960 so với năm 1955 tăng hơn 6 lần. Hàng nghìn cửa hàng bán buôn, bán lẻ, thu mua phục vụ ăn uống, dịch vụ ra đời, tạo nên mạng lưới kinh doanh thương nghiệp trải khắp các thành phố, tỉnh, huyện thị trấn. Nếu năm 1955 mới 511 cửa hàng thì đến năm 1960 đã 1.987 cửa hàng...

Giai đoạn này, ngành Nội thương rất nỗ lực trong tổ chức tiếp nhận, thu mua phân phối cho hoạt động sản xuất tiêu dùng; góp phần hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định sản xuất đời sống nhân dân; thị trường giá cả bình ổn; hàng hóa trên thị trường ngày càng phong phú hơn, việc mua bán dễ dàng, thuận tiện hơn. “Công tác thương nghiệp được mở rộng tăng cường, trong 3 năm, mức bán ra của mậu dịch quốc doanh tăng 142%. Khối lượng thu mua năm 1960 đã tăng 170% so với năm 1957”12.

Nhưng việc khai thác các nguồn hàng phục vụ không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Ngày 19/12/1959, Phủ Thủ tướng ban hành Chỉ thị số 459/TTg về việc đẩy mạnh công tác thu thuế, thu nợ mua thóc, nhấn mạnh: “Có hợp tác nông nghiệp dành thóc tốt để chia hoa lợi cho viên để bỏ vào quỹ chung, đem thóc xấu nộp thuế, một số nông dân giữ thóc tốt lại để dành hoặc làm gạo bán ra, đem nộp thuế thóc vừa hoặc xấu của nhà mình, thậm chí người đem bán thóc tốt lấy giá cao, mua thóc xấu nộp cho Nhà nước. Một số nơi tính thuế cho hợp tác nông nghiệp chậm, nên thu chậm”.

“Việc vận động trung nông thừa thóc bán cho Nhà nước còn yếu, nên ít kết quả. Một số khá đông hợp tác nông nghiệp còn những ý nghĩa không đúng, còn so đo, tính toán chưa chịu bán thóc quỹ của hợp tác cho Nhà nước, chưa vận động viên thừa thóc gương mẫu trong việc bán cho Nhà nước. Việc quản thị trường nhiều nơi còn lỏng lẻo”;

“Diện thu mua vẫn còn để quá dày, việc ủy thác vẫn chưa bố trí theo đúng sự hướng dẫn của Bộ Nội thương. Việc bảo quản, vận chuyển thóc những nơi mua dồn dập đang gặp khó khăn, một số thóc phải để ngoài trời đã bị mưa”.

Hàng công nghiệp giao nộp cũng tương tự, thường xuyên thiếu, nhất hàng may mặc, phương tiện đi lại như xe đạp phụ tùng, hóa phẩm như phòng, kem đánh răng...

d) Phát triển ngoại thương

Ngoại thương thuộc hoạt động độc quyền của Nhà nước. Giai đoạn này, xuất khẩu không nhiều, chủ yếu nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu chiếm tỷ trọng rất lớn tiếp nhận viện trợ của các nước hội chủ nghĩa, một phần nhỏ hơn sử dụng ngoại tệ của Nhà nước để mua hàng hóa. ba phương châm chính chỉ đạo hoạt động ngoại thương, gồm: (1) Tăng cường quan hệ với nước ngoài trên sở đảm bảo chủ quyền dân tộc; (2) Tranh thủ viện trợ quốc tế (3) Đẩy mạnh xuất khẩu để duy trì nhập khẩu.

Tháng 4/1958, Bộ Thương nghiệp tách ra thành Bộ Nội thương (Bộ trưởng Đỗ Mười) Bộ Ngoại thương (Bộ trưởng Phan Anh). Về mặt tổ chức, trong từng thời kỳ những sự điều chỉnh, nhưng đại thể, trong Bộ Ngoại thương Vụ Khu vực I (với các nước hội chủ nghĩa); Vụ Khu vực II (với các nước bản chủ nghĩa) 8 tổng công ty xuất, nhập khẩu trực tiếp hàng hóa (Agrexport, Vegetexco, Tocontap, Naforimex, Minexport, Artexport, Machinoimport, Technoimport). Một số quan khác trực thuộc Bộ Ngoại thương trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ công tác xuất, nhập khẩu Cục Kiểm nghiệm, Tổng Công ty Thuê tàu (Vietfracht), Công ty Giao nhận hàng xuất, nhập khẩu (Vietrans), Phòng Thương mại...

thu mua thóc

Mỗi ngày, trạm thu mua của hợp tác mua bán huyện Thanh Trì thu mua của nông dân khoảng 10 tấn thóc (tháng 12/1958) (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

các tỉnh, thành phố công ty ngoại thương địa phương với nhiệm vụ tổ chức các trạm thu mua, gia công hàng xuất khẩu đặt những nơi trung tâm (huyện, thị xã) nhiều hàng xuất khẩu. Ngoài ra, một số ít nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu (mây tre đan, mành tre...) trực thuộc các tổng công ty xuất, nhập khẩu của Bộ Ngoại thương. Các công ty ngoại thương các tỉnh không được trực tiếp xuất, nhập khẩu với nước ngoài, mọi hàng hóa đều bán cho các tổng công ty trung ương hoặc ủy thác xuất qua các tổng công ty trung ương.

Về hàng hóa: Lực lượng làm công tác ngoại thương cũng đã tích cực tạo thêm nguồn hàng xuất khẩu, gồm các loại nông, lâm sản như lạc, vừng, chè, gỗ ván sàn, ba kích, thảo quả, hạt sen khô, nhãn, vải sấy khô...; tạp phẩm cao Sao Vàng, giầy vải...; khoáng sản Apatít Lào Cai, Than Quảng Ninh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ hàng mây tre đan.

Giá trị xuất khẩu tăng khá nhanh. Năm 1955, kim ngạch mới đạt 6,6 triệu USD, đến năm 1960 đã đạt 71 triệu USD. cấu hàng xuất khẩu khá tích cực, năm 1959, hàng hóa công nghiệp thủ công nghiệp chiếm trên 62%, hàng nông, lâm, hải sản chiếm 38% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu13. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu thời gian này còn manh mún, giá trị thấp, phân tán khắp nơi, nên đa số phải thu gom dần, chưa mặt hàng nào hàng xuất khẩu chủ lực.

Hàng nhập khẩu: Ngoài việc tiếp nhận viện trợ xây dựng các công trình, như xây dựng hệ thống các nhà máy điện, nhà máy nước, gang thép, ximăng, hệ thống các nghiệp khí, các công trình giao thông, bến cảng, sân bay, các công trình phục vụ quốc phòng, phục vụ chiến đấu, hệ thống các nhà máy phục vụ dân sinh xuất khẩu như dệt may, chế biến rau quả..., hàng nhập khẩu chủ yếu những máy móc lẻ, những bộ phận linh kiện để duy trì sản xuất một số ngành công nghiệp nhẹ, phục vụ đời sống như một số hóa chất, dược liệu, dược phẩm, giấy báo..., thậm chí một vài loại nhạc cụ, một số bộ phận, linh kiện để duy trì sản xuất của một số nghiệp công nghiệp.

Giá trị nhập khẩu giai đoạn này cao hơn nhiều so với xuất khẩu. Năm 1955, kim ngạch nhập khẩu gấp hơn 10 lần xuất khẩu, 68,3 triệu USD. Năm 1960, cán cân ngoại thương thu hẹp hơn, nhập khẩu trị giá 116,5 triệu USD, so với xuất khẩu 71 triệu USD, bằng 164% kim ngạch xuất khẩu.

thu mua bông

Cửa hàng Bách hóa huyện Quỳnh Côi (Thái Bình) thu mua bông của nông dân, năm 1956 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Trên phương diện kinh tế đối ngoại, ta đã thực hiện phương châm không ngừng củng cố phát triển quan hệ kinh tế - thương mại với các nước hội chủ nghĩa, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước ngoài hội chủ nghĩa thuộc “thế giới thứ ba”, như Nam Á, Bắc Phi, Trung Cận Đông...

Bên cạnh các hiệp định thương mại, kinh tế, kỹ thuật với các nước hội chủ nghĩa, Việt Nam đã Hiệp định thương mại với Chính phủ Pháp (cuối năm 1955), Ấn Độ (cuối năm 1956), Inđônêxia (đầu năm 1957), tiếp theo sau Cộng hòa rập Thống nhất, Campuchia, Irắc,... Việt Nam cũng mở rộng quan hệ buôn bán với nhiều thị trường trong khu vực trên thế giới. Tính đến năm 1960, Việt Nam đã quan hệ thương mại với 22 nước.

Mậu dịch tiểu ngạch biên giới Việt - Trung

Từ năm 1958, Chính phủ hai nước Việt Nam Trung Quốc thống nhất về chính sách mậu dịch tiểu ngạch nhân dân trong khu vực biên giới Việt - Trung nhằm tạo thuận lợi cho dân biên giới hai nước được đi lại dễ dàng qua biên giới trao đổi những hàng hóa cần thiết cho đời sống hằng ngày.

Ngày 04/11/1958, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 486/ TTg về bản điều lệ quản mậu dịch tiểu ngạch nhân dân trong khu vực biên giới Việt - Trung. Theo đó, dân trong khu vực biên giới (từ biên giới đi vào nội địa mỗi bên 20 cây số) phía Việt Nam muốn sang thị trường khu vực biên giới phía Trung Quốc để trao đổi phải giấy phép thông hành do quan Công an biên phòng cấp.

Mỗi ngày, mỗi người chỉ được phép qua lại một lần, mỗi lần chỉ được trao đổi một số hàng trị giá không quá 10 đồng nhân dân tệ hay số tiền Việt Nam trị giá tương đương phải tuân theo các thể lệ hải quan, thuế khóa các luật lệ do Chính phủ hai nước đã công bố.

dân biên giới chỉ được trao đổi trên những thị trường nhất định qua những cửa khẩu nhất định do Bộ Ngoại thương công bố. Đồng thời, chỉ được mang đi trao đổi những hàng hóa do mình sản xuất ra (chủ yếu hàng nông sản, thực phẩm). Chẳng hạn, không được trao đổi những thứ được Nhà nước cung cấp với giá bao cấp như vải may quần áo chỉ được phép mua về những hàng hóa cần thiết cho đời sống hằng ngày, trừ những hàng thuộc loại hàng cấm hoặc hạn chế nhập khẩu.

Bộ Ngoại thương quan thay mặt Chính phủ quy định những hàng hóa được phép trao đổi công bố cho nhân dân biên giới biết; việc đánh thuế xuất, nhập khẩu vào các hàng hóa trao đổi giữa dân biên giới sẽ theo chính sách thuế xuất, nhập khẩu riêng áp dụng cho mậu dịch tiểu ngạch biên giới Việt - Trung. Khi cần thiết, Bộ Ngoại thương sẽ căn cứ vào tình hình trao đổi thực tế đề nghị Chính phủ sửa đổi danh mục hàng cần đánh thuế thuế suất.

Đối với tiền tệ, không ai được mang tiền Việt Nam ra khỏi biên giới hoặc mang nhân dân tệ vào Việt Nam, trừ khi nào được Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cho phép. dân trong khu vực biên giới hai nước chỉ được đổi số tiền thừa sau khi trao đổi hàng, số tiền này không được quá một đồng nhân dân tệ hoặc số tiền Việt Nam trị giá tương đương.

dân trong khu vực biên giới phía Việt Nam, khi mang hàng sang thị trường biên giới phía Trung Quốc trao đổi thể được Ngân hàng đổi cho một số nhân dân tệ nhỏ để chi tiêu những khoản thật cần thiết trước khi bán hàng. Trường hợp cần thiết được đổi tiền mức tiền thể được đổi sẽ do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ấn định cho từng cửa khẩu.

Để quản việc trao đổi hàng hóa theo đường mậu dịch tiểu ngạch, Chính phủ những quy định để xử những dân vi phạm. Đối với những hành động như trao đổi hàng hóa không đúng cửa khẩu, không đúng loại hàng hóa được phép trao đổi; giá trị hàng trao đổi vượt quá 10 nhân dân tệ, hay trốn thuế... sẽ tùy trường hợp nặng nhẹ, tình hay hữu ý áp dụng một hoặc nhiều trong các hình thức xử sau đây:

- Cảnh cáo, rút giấy thông hành không cho phép xuất biên một thời gian.

- Tịch thu một phần hay toàn bộ số hàng trái phép; phạt tiền nhiều nhất 3 lần trị giá số hàng trái phép, hoặc vừa tịch thu vừa phạt tiền.

Riêng đối với những hành động mang tiền Việt Nam trái phép ra khỏi biên giới hay mang tiền nhân dân tệ vào Việt Nam, sẽ tùy theo trường hợp nhẹ hay nặng áp dụng một hoặc nhiều trong các hình thức xử sau đây:

- Phạt tiền từ 10 đến 50% trị giá số tiền mang trái phép.

- Tịch thu một phần hoặc toàn bộ số tiền mang trái phép.

- Tịch thu toàn bộ tang vật phạt tiền từ 1 đến 5 lần trị giá tiền mang trái phép.

- Những người phạm các điểm sau đây thể bị truy tố trước tòa án nhân dân tỉnh:

+ Đã bị xử nhiều lần vẫn ngoan cố tái phạm;

+ Buôn lậu chuyên nghiệp, buôn lậu tổ chức;

+ Cầm đầu tổ chức buôn lậu, buôn lậu gây tác hại nghiêm trọng.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.208.

2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.18, tr.269, 79-80.

4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.19, tr.493, 495.

6. https://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?AnPhamItemID=1344.

7. https://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?AnPhamItemID=1344

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.19, tr.493.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.729.

10, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.729, 730.

12. Quốc hội nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam: Văn kiện Quốc hội toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Nội, 2007, t.2, tr.276.

13. Xem Viện Hàn lâm Khoa học hội Việt Nam, Viện Sử học, Trần Đức Cường (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 12 (Từ năm 1954 đến năm 1965), Nxb. Khoa học hội, Nội, 2014, tr.97.

III. THƯƠNG MẠI

thu mua thóc

Mỗi ngày, trạm thu mua của hợp tác xã mua bán huyện Thanh Trì thu mua của nông dân khoảng 10 tấn thóc (tháng 12/1958) (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

thu mua bông

Cửa hàng Bách hóa huyện Quỳnh Côi (Thái Bình) thu mua bông của nông dân, năm 1956 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

2. Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965)

a) Nội thương

Căn cứ vào đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, Trung ương nhận định nhiệm vụ đặt ra trong kế hoạch 5 năm là: “Chuyển trọng tâm vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”1.

Phục vụ sự nghiệp “xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”, ngành Nội thương được giao nhiệm vụ tăng cường nguồn lực của thương nghiệp quốc doanh, thu mua và cấp phát đảm bảo nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế. Phương thức thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là, Nhà nước nắm toàn bộ lương thực hàng hóa và đại bộ phận các nông sản hàng hóa khác, quản lý chặt chẽ việc mua bán, định rõ nghĩa vụ cho nông dân bán thóc và các nông sản khác cho Nhà nước và thực hiện chế độ hợp đồng thu mua giữa các cơ quan thu mua của Nhà nước và các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Đối với hàng công nghiệp, thực hiện chế độ hợp đồng bán nguyên liệu và đặt mua sản phẩm, bảo đảm thu mua và tiêu thụ toàn bộ sản phẩm của công nghiệp quốc doanh và của các xí nghiệp công tư hợp doanh; và thu mua phần lớn các hàng thủ công nghiệp có phẩm chất nhất định. Trong việc thực hiện chế độ hợp đồng thu mua, đối với hàng nông sản cũng như hàng công nghiệp, hết sức khuyến khích cải tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất, trên cơ sở đó bảo đảm vững chắc lực lượng vật tư của Nhà nước.

Về mặt tiêu thụ, quy định các chính sách cần thiết, bảo đảm nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, đồng thời hướng dẫn nhân dân tiết kiệm tiêu dùng. Đối với hàng thiết yếu, những loại hàng mà yêu cầu tiêu thụ nhiều nhưng khả năng cung cấp có hạn, thì cần tổ chức cung cấp có kế hoạch để giữ vững cung và cầu.

Như vậy, tư tưởng “Nhà nước phải lo cho dân” được thể hiện mạnh mẽ nhất trong giai đoạn này; và bắt đầu bước vào mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung điển hình, thông qua việc tập trung nguồn lực vào cơ sở kinh doanh nhà nước, định hình mô thức thu mua - cấp phát trong hệ thống thương nghiệp.

Mặt trận chính của hoạt động thương mại giai đoạn này là thu mua nắm hàng công nghiệp, lương thực, thực phẩm và các hàng nông sản khác. Bằng nhiều biện pháp thu mua thiết thực và hiệu quả, tổng giá trị hàng hóa trong nước do ngành Thương mại thu mua không ngừng tăng lên qua các năm. Năm 1965, tổng giá trị thu mua bằng 159,1% năm 1960; trong đó, trị giá về lương thực bằng 139,6%; thực phẩm và hàng nông sản khác bằng 196,75%. Khối lượng hàng công nghiệp thu mua được cũng tăng lên đáng kể qua các năm; năm 1965 bằng 156,3% năm 1960. Mức độ lưu chuyển hàng hóa bán lẻ trong 5 năm đã tăng bình quân hằng năm 7,1%, vượt mức kế hoạch Nhà nước đề ra.

Lưu thông hàng hóa trong nước ngày càng nhanh, tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội tăng 51,2%, trong đó lương thực tăng 46%, vải các loại tăng 51%. Khối lượng sản phẩm của các ngành sản xuất đã được ngành Thương mại quốc doanh tiêu thụ tăng 57,4%, các thành phần kinh tế khác trong ngành Thương nghiệp tăng 23,2% và chiếm 18% thu nhập quốc dân. Thương nghiệp nội địa đã bảo đảm được 75 - 76% nhu cầu mua sắm của gia đình công nhân, viên chức.

Mạng lưới thương nghiệp nội địa bao gồm các cửa hàng, kho trạm cùng các trang thiết bị thương nghiệp và sự phân bố hợp lý mạng lưới giữa các khu vực, các ngành hàng và các khâu kinh doanh đã được tăng cường đáng kể trong kế hoạch 5 năm, điều đó đã làm tăng thêm năng lực tổ chức lưu chuyển hàng hóa và chỉ đạo toàn bộ hoạt động của thị trường.

Tuy nhiên, tình hình có những diễn biến phức tạp: Sản xuất lương thực giảm sút do thiên tai trong khi dân số mỗi năm tăng thêm 0,5 triệu người; dân số phi nông nghiệp tăng với việc tập trung nhiều lao động tại thành thị, khu công nghiệp, các công trường xây dựng lớn; và nhu cầu chi viện cho miền Nam. Đồng thời, có những khó khăn trong cân đối tiền hàng do nhu cầu đầu tư xây dựng những công trình quy mô lớn, như Gang thép Thái Nguyên, Thủy điện Thác Bà, Nhiệt điện Uông Bí, Phân đạm Hà Bắc, Khu công nghiệp Việt Trì,...

Với chức năng phục vụ sản xuất và tiêu dùng, mặc dù ngành Thương mại tích cực tổ chức thu mua hàng hóa, nhập khẩu theo các hình thức viện trợ, vay nợ, và trao đổi mậu dịch nhưng có những lúc không đủ để cung cấp cho xã hội nên xuất hiện “chế độ tem, phiếu”. Tem phiếu - một sản phẩm chính sách đặc trưng của tình trạng cung không đáp ứng đủ nhu cầu.

Tháng 01/1955, các cửa hàng lương thực ở Hà Nội quyết định bán gạo theo phiếu. Từ tháng 3/1955, Hà Nội cấp phiếu gạo chính thức cho người dân. Đây là chế độ tem phiếu không phải do thiếu hụt nguồn cung, mà để ứng phó với hoạt động đầu cơ gạo nhất thời lúc đó; nhưng nó “gợi ý” cho chế độ tem phiếu sau này. Trước năm 1960, trừ mặt hàng gạo có lúc dùng tem phiếu, còn gần như các mặt hàng đều theo chế độ bán lẻ thông thường. Đến năm 1963, áp lực dân số tăng mỗi năm khoảng nửa triệu người, cùng với việc công nghiệp hóa khiến lực lượng lao động từ nông thôn ra các xí nghiệp, khu công nghiệp làm ngày càng nhiều, thương nghiệp buộc phải thực hiện cung cấp lương thực bằng “sổ gạo”. Với tư tưởng “Nhà nước phải lo cho dân”, danh sách các mặt hàng sử dụng tem phiếu liên tục được bổ sung. Từ vải, cá, trứng, nước mắm đến thịt, đường, sữa, quần áo, chất đốt... Chế độ tem phiếu nhằm mục đích cung cấp một cách hạn chế theo định lượng. Ví dụ, nhân viên hành chính sự nghiệp 13 kg gạo/người/tháng; công nhân sản xuất 15 kg gạo/người/tháng; công nhân, viên chức 5 m vải/người/ năm; nhân dân thành thị 4 m vải/người/năm...

Thực tế, không phải việc cung cấp này lúc nào cũng đảm bảo, do sản xuất trong nước còn hạn chế, việc nhập khẩu từ các nước xã hội chủ nghĩa cũng không suôn sẻ: “Cuối năm 1963, Chính phủ đề nghị các nước bạn cung cấp cho ta 12.000 tấn bông, nhưng Trung Quốc chỉ nhận cung cấp 7.000 tấn, Liên Xô do bị mất mùa bông nên không nhận cung cấp cho Việt Nam. Về phân bón, Liên Xô nhận cung cấp 20.000 tấn, nhưng chúng ta chỉ được 7.000 tấn; Chính phủ ta đề nghị Triều Tiên bán cho Việt Nam 40.000 tấn phân bón, nhưng Triều Tiên trả lời “đó là vấn đề rất khó”2.

Định lượng (vốn đã hạn chế) nhu yếu phẩm theo tem phiếu cung cấp cho cán bộ, công nhân, nhân dân cũng gặp phải những khó khăn tương tự. “Sau khi nghe Tổng cục Lương thực báo cáo về tình hình thiếu hụt lương thực năm 1962, Hội đồng Chính phủ đã quyết định lấy 16.000 tấn thóc dự trữ để giải quyết tình hình thiếu đói, rồi sẽ lấy thóc chiêm bù lại, đồng thời rút tiêu chuẩn lương thực của cán bộ, công nhân viên trong 3 tháng hè bình quân 0,5 kg/người/tháng”3. Tình trạng Nhà nước “nợ” nhân dân không hiếm; hoặc nhân dân bị buộc phải chuyển đổi, thay vì 1 lạng thịt sẽ được nhận 5 bìa đậu phụ, hoặc 3 lạng cá khô; phiếu vải, nếu không có vải, có thể được mua phụ tùng xe đạp, phiếu lương thực có thể chuyển thành đường sữa...

Chuyện Nông trường giao nộp sản phẩm

Từ năm 1956, hằng năm, trong kế hoạch nhà nước vẫn có ghi chỉ tiêu sản phẩm do nông trường sản xuất và giao nộp cho Nhà nước. Nhưng một mặt, do số nông trường còn ít, quy mô còn nhỏ, sản phẩm làm ra chưa nhiều, nhiều khi thu hoạch không đạt kế hoạch; mặt khác do việc giao nộp sản phẩm của nông trường chưa được quy định thành chế độ rõ ràng, nên phần đông cán bộ và công nhân viên nông trường chưa nhận thức đầy đủ nông trường là một xí nghiệp quốc doanh, sản xuất và hưởng thụ theo chế độ quốc doanh và có trách nhiệm phải ra sức phát triển sản xuất để cung cấp sản phẩm ngày một nhiều hơn cho Nhà nước.

Một số không ít còn quan niệm sản phẩm làm ra, nông trường có quyền tiêu thụ hoặc tự ý bán cho các cơ quan, đơn vị khác, khi nào thừa mới giao cho Nhà nước, giao hay không giao cũng được. Hơn nữa, việc phân phối sản phẩm của nông trường cho các ngành tiêu thụ chưa theo một kế hoạch nhất định do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước phối hợp với các Bộ có liên quan xây dựng thống nhất và theo một chính sách giá cả cụ thể, rõ ràng.

Do đó, ngày 30/8/1961 Phủ Thủ tướng đã ban hành Thông tư số 348/TTg quy định chế độ nông trường quốc doanh giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Thông tư quy định các nông trường quốc doanh là những đơn vị xí nghiệp của Nhà nước, quản lý theo chế độ kinh tế hạch toán, được Nhà nước cấp vốn để sản xuất theo kế hoạch của Nhà nước. Toàn bộ sản phẩm của nông trường làm ra thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, do Nhà nước phân phối theo kế hoạch. Nông trường có trách nhiệm giao nộp sản phẩm cho Nhà nước theo số lượng đã quy định, và cho các cơ quan, đơn vị được phân phối, theo giá cả điều động nội bộ và Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã công bố. Quan hệ giữa các nông trường và các cơ quan tiêu thụ giải quyết theo chế độ hợp đồng kinh tế do Chính phủ quy định.

Các ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh chỉ được nhận sản phẩm của các nông trường khi được trung ương phân phối, không được tự điều động hoặc giữ sản phẩm ngay của nông trường cho địa phương mình.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng công nhận sản phẩm do công đoàn đứng ra tổ chức cho cán bộ và công nhân viên tranh thủ giờ rỗi hoặc trong ngày nghỉ để sản xuất tập thể thêm, hoặc do cá nhân nông trường viên làm ra để cải thiện sinh hoạt, thuộc quyền công đoàn hoặc nông trường viên tự do sử dụng, không phải giao nộp cho Nhà nước. Nhưng nếu sản xuất được nhiều, tiêu dùng không hết, thì nên bán cho các cơ quan nhà nước theo giá có khuyến khích.

Việc phân phối sản phẩm của các nông trường quốc doanh căn cứ theo những nguyên tắc sau đây:

- Chỉ tiêu kế hoạch phân phối sản phẩm gắn liền với kế hoạch sản xuất hằng năm, hằng quý của nông trường. Bộ Nông trường quốc doanh căn cứ vào chỉ tiêu chung đã ghi trong kế hoạch nhà nước để giao chỉ tiêu cụ thể cho từng nông trường và quyết định điều chỉnh nếu xét cần nhưng phải đảm bảo chỉ tiêu chung. Đối với những sản phẩm chủ yếu, việc điều chỉnh kế hoạch sản xuất và phân phối phải được Ủy ban Kế hoạch Nhà nước thẩm tra lại và trình Hội đồng Chính phủ quyết định.

- Trong kế hoạch phân phối sản phẩm, phải ghi rõ đối với từng loại sản phẩm:

a) Phần nào nông trường được giữ lại để dùng vào việc tái sản xuất (như để giống, thức ăn chăn nuôi,...), để chế biến tại chỗ (ví dụ: khoai, sắn để làm ra khoai, sắn khô; bột, hạt để ép dầu; sữa để làm sữa hộp, mía để ép đường,...) hoặc để cung cấp cho nhu cầu đời sống hằng ngày của cán bộ, công nhân viên nông trường theo chế độ và tiêu chuẩn cung cấp do Nhà nước quy định (như đối với lương thực, thực phẩm).

b) Phần nào nông trường giao nộp cho Nhà nước để điều đi cho các ngành khác và các nông trường khác dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Căn cứ chỉ tiêu phân phối của Nhà nước, Bộ Nông trường quốc doanh ký những hợp đồng nguyên tắc với các Bộ có liên quan để làm cơ sở cho các nông trường trực tiếp ký hợp đồng cụ thể với các đơn vị xí nghiệp tiêu thụ (mậu dịch nội địa, tổng công ty xuất, nhập khẩu, nhà máy), không cần qua khâu trung gian và hai bên hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành hợp đồng đã ký theo đúng chế độ hợp đồng đã ban hành.

- Các nông trường quốc doanh giao dịch với nhau cũng theo chế độ hợp đồng và căn cứ kế hoạch phân phối của Bộ Nông trường. Trường hợp nông trường sản xuất hoặc thu hoạch vượt mức kế hoạch, các ngành tiêu thụ (gồm mậu dịch quốc doanh và các tổng công ty xuất, nhập khẩu) có trách nhiệm bảo đảm tiêu thụ sản phẩm cho nông trường để phục vụ sản xuất phát triển. Trường hợp gặp khó khăn trong sản xuất, thu hoạch hụt mức kế hoạch được Bộ Nông trường công nhận, nông trường có thể đề nghị các cơ quan tiêu thụ điều chỉnh hợp đồng, nhưng phải báo trước kịp thời để các cơ quan trên khỏi bị động.

- Đối với một số sản phẩm phụ sản xuất ngoài kế hoạch nông trường tiêu dùng không hết và không điều đi xa được (ví dụ rau tươi), nông trường có thể tổ chức tiêu thụ tại thị trường địa phương, bán cho các cơ quan, đơn vị và các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp ở chung quanh, nói chung theo giá cả quy định của Nhà nước, vì nông trường không thể chạy theo giá cả của thị trường tự do.

b) Ngoại thương

Cũng nhằm phục vụ sự nghiệp “xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”, Ngoại thương được giao nhiệm vụ đẩy mạnh xuất khẩu; phối hợp chặt chẽ với các ngành công nghiệp, nông nghiệp, nội thương... và các địa phương để mở rộng khối lượng hàng hóa trao đổi với nước ngoài, nhất là khối các nước xã hội chủ nghĩa.

Đồng thời, tham mưu cho Đảng, Nhà nước giải quyết đúng đắn quan hệ giữa tiêu thụ trong nước và ngoài nước, tiết kiệm tiêu dùng đúng mức những thứ có thể và cần phải tiết kiệm. Về mặt nhập khẩu, trên tinh thần hết sức tiết kiệm ngoại hối, phối hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan để bảo đảm cung cấp kịp thời, đúng quy cách phẩm chất các loại vật tư cần thiết cho xây dựng và sản xuất.

thuyền gạo

Các thuyền đang chuyển gạo lên bến bán cho nhân dân và để bình ổn giá thị trường, năm 1955 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Về tổ chức, ngày 23/11/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 203-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Ngoại thương. Theo đó, Bộ Ngoại thương có trách nhiệm quản lý toàn bộ công tác ngoại thương theo đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ và kế hoạch ngoại thương, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển nguồn thu về ngoại hối cho Nhà nước, nhằm phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, tăng cường quan hệ giao dịch buôn bán với các nước, góp phần nâng cao địa vị của Việt Nam trên trường quốc tế. Như vậy, xét về thực chất, Bộ Nội thương và Bộ Ngoại thương tuy khác “địa bàn”, lĩnh vực nhưng cùng chung nhiệm vụ: Phục vụ sự nghiệp “xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”, ổn định và nâng cao mức sống cho người dân. Về quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu, có Vụ Xuất khẩu, Vụ Nhập khẩu thuộc Bộ Ngoại thương. Nhà nước tiến hành các hoạt động ngoại thương thông qua các tổng công ty xuất nhập khẩu ở Trung ương (thuộc Bộ Ngoại thương) và các công ty xuất nhập khẩu ở địa phương. Có 6 tổng công ty xuất nhập khẩu thuộc Bộ Ngoại thương, gồm: Tổng Công ty Xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm; Tổng Công ty Xuất nhập khẩu lâm thổ sản; Tổng Công ty Xuất nhập khẩu tạp phẩm; Tổng Công ty Xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ; Tổng Công ty Máy và phụ tùng; Tổng Công ty Xuất nhập khẩu khoáng sản. Trong lĩnh vực thu mua hàng xuất khẩu, Nhà nước trực tiếp thu mua, trực tiếp định giá cho từng mặt hàng, trực tiếp định ra khối lượng hàng hóa và phân bổ chỉ tiêu xuất khẩu cho từng địa phương, từng xí nghiệp. Hằng năm, Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch về cho các tỉnh và tổng công ty ở trung ương, sau đó tỉnh và tổng công ty lại giao chỉ tiêu kế hoạch về cho các công ty ở địa phương.

Trong lĩnh vực phân phối hàng nhập khẩu, Bộ Ngoại thương phân bổ theo kế hoạch của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Các mặt hàng nhập khẩu bán theo giá quy định của Nhà nước cho những địa chỉ được quy định trong kế hoạch.

Theo thống kê, cán cân xuất, nhập khẩu giai đoạn này tiếp tục nhập siêu. Năm 1962, xuất khẩu 81 triệu rúp-USD, thâm hụt 54 triệu rúp-USD; năm 1964, xuất khẩu 97 triệu rúp USD, thâm hụt 40 triệu rúp-USD4. Năm 1965, xuất khẩu hàng công nghiệp chiếm 62,7%; hàng thủ công nghiệp chiếm 23,3%; hàng nông sản chưa chế biến chiếm 14%. Hàng nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất, bao gồm: thiết bị toàn bộ, nguyên liệu, nhiên liệu và vật liệu thường chiếm gần 80%. Qua việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ, miền Bắc đã cải tạo và xây dựng mới nhiều công trình quan trọng thuộc các ngành Năng lượng, Chế tạo máy, Hóa chất, Khai khoáng,...

đồ da

Sản phẩm đồ da và các loại da hàng Việt Nam tại Hội chợ Budapest - Hunggari năm 1956 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Hoạt động ngoại thương ngày càng được mở rộng. Nếu năm 1955 có 10 nước (trong đó có 7 nước xã hội chủ nghĩa) quan hệ buôn bán, trao đổi với miền Bắc, thì đến năm 1965 đã có 35 nước, trong đó có 12 nước xã hội chủ nghĩa5.

*****

Trong chặng đường 10 năm đầu tiên xây dựng nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa (1955 - 1965), ngành Công Thương đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa; củng cố nền kinh tế miền Bắc về mọi mặt, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.

Các ngành công nghiệp nặng đã có những cơ sở đầu tiên đi vào sản xuất và xây dựng, công nghiệp nhẹ và công nghiệp địa phương có bước phát triển nhanh chóng. Sản xuất công nghiệp đã giải quyết được một phần trang thiết bị kỹ thuật; cung cấp một số tư liệu sản xuất, nguyên vật liệu ngày càng lớn cho các ngành kinh tế quốc dân; bảo đảm được đại bộ phận hàng tiêu dùng cho đời sống nhân dân.

Đã bước đầu hình thành một cơ cấu công nghiệp theo hướng hiện đại, tự chủ; có sự phân công tương đối rõ nét; trong đó, công nghiệp trung ương phát triển chủ yếu về cơ khí, luyện kim, hóa chất, phân bón, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng. Công nghiệp địa phương dựa trên nguồn nguyên liệu tại chỗ để sản xuất các hàng hóa tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng thông dụng.

Trong thương mại, thành tựu quan trọng nhất là xây dựng mạng lưới thương nghiệp quốc doanh, gồm mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán rộng khắp, nắm vững nguồn hàng; phát huy vai trò đòn bẩy, phục vụ thúc đẩy khôi phục và phát triển sản xuất; làm cầu nối giữa sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Hoạt động xuất khẩu được quan tâm, góp phần tăng tích lũy cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ buôn bán với nước ngoài.

Mặc dù vậy, do xuất phát điểm ban đầu thấp, đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu và phân tán, nên sau 10 năm tích lũy xã hội chủ nghĩa, quy mô nền công nghiệp vẫn còn nhỏ bé, một số nguyên liệu quan trọng vẫn phải mua bên ngoài và một phần nhờ các nước trong khối xã hội chủ nghĩa giúp đỡ như bông, sợi, sắt thép, nhôm, xăng dầu và một số hóa chất. Hoạt động thương nghiệp chưa đủ sức cân đối cung - cầu, có những lúc không đủ để cung cấp cho xã hội, nên bắt đầu xuất hiện “chế độ tem phiếu” để cung cấp một cách hạn chế theo định lượng.

Từ năm 1960 đã ghi nhận những nỗ lực cải tiến nhằm làm cho kinh tế kế hoạch hóa vận hành trơn tru và hiệu quả hơn, như mở cuộc vận động thi đua “Hợp lý hóa sản xuất và cải tiến kỹ thuật”; triển khai cuộc vận động cải tiến quản lý “Ba xây ba chống” (với nội dung “nâng cao ý thức trách nhiệm; tăng cường quản lý kinh tế tài chính; chống tham ô, lãng phí, quan liêu”); áp dụng hạch toán tới phân xưởng và tổ sản xuất; để quần chúng tham gia xây dựng định mức, tự phấn đấu hoàn thành và vượt định mức, tham gia công tác quản lý và dân chủ hóa quản lý xí nghiệp; quy định những nguyên tắc về giá bán buôn công nghiệp, hướng dẫn cách xác định giá điều động tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng nội bộ xí nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh... nhưng nhìn chung, chưa thể tháo gỡ căn bản sự “nặng nề” trong điều hành nền kinh tế kế hoạch hóa.

Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung thường đạt kết quả khả quan nhất trong giai đoạn đầu, khi tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào lao động và vốn. Hơn nữa, nó cho phép tập trung tối đa nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhưng càng về sau, những khiếm khuyết bộc lộ thường xuyên hơn, sức mạnh ban đầu của kinh tế kế hoạch hóa sẽ giảm sút. Điều này được thể hiện rõ hơn ở giai đoạn sau (1964 - 1975).


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.841-842.

2, 3. Ban chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam (Tập 2), Sđd, tr.161, 147.

4. Bộ Thương mại: 60 năm thương mại Việt Nam (1946 - 2006), Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2006, tr.489.

5. Xem Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Trần Đức Cường (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 12 (Từ năm 1954 đến năm 1965), Sđd, tr.315.

Danh mục

Tùy chỉnh