Công nghiệp kéo sợi, dệt vải

Chế biến bông sợi dệt được xem ngành công nghiệp nhẹ lớn nhất Việt Nam dưới thời chính quyền thuộc địa. Nhà máy kéo sợi cotton đầu tiên tại Bắc Kỳ được thành lập vào năm 1884, dưới sự điều hành của nữ doanh nhân người Pháp Numa Bourgouin Meiffre. Numa Bourgouin Meiffre cũng thiết lập khu đồn điền trồng cây bông dưới chân dãy núi Ba Vì, dần mở rộng hoạt động sang lĩnh vực may đồng phục quân đội thuê nhiều thợ người Việt.

tho may Nhóm nữ thợ may tại xưởng may quân phục của nữ doanh nhân người Pháp -
Bourgouin Meiffre (Ảnh: Nhiếp ảnh gia Pierre Dieulefit)

Nhằm tận dụng vị trí địa thuận lợi, nguồn nguyên liệu lớn, nhân công dồi dào của nhiều làng nghề thủ công truyền thống, chính quyền thuộc địa cũng thành lập một sở nghiên cứu lụa tại Nam Định vào năm 1898. Đến năm 1900, sở nghiên cứu này được rót lượng vốn lớn để hình thành Nhà máy Kéo sợi, dệt Nam Định dưới sự điều hành của Công ty Bông Sợi Bắc Kỳ (Société cotonnière du Tonkin).

Nhờ nhu cầu về sản phẩm tại Pháp các nước trong khu vực tăng nhanh, Nhà máy Kéo sợi Nam Định phát triển nhanh chóng, hoạt động gần như 24 tiếng/ngày, huy động đông đảo lực lượng lao động gồm khoảng 40 kỹ thuật viên người Pháp hơn 14.000 người bản xứ.

Đến những năm 1930, Công ty Bông Sợi Bắc Kỳ đã thiết lập các nhà máy kéo sợi, xưởng dệt - nhuộm - tẩy trắng - xử lý, các xưởng khí động lực… hoàn thiện tại Nam Định, cũng như đầu tổ hợp máy phát điện hệ thống đường ống dẫn nước riêng biệt. Tính riêng năm 1937, nhà máy đã sản xuất ra hơn 700.000 chiếc chăn hơn 2.000 tấn sản phẩm bông sợi các loại1, cung cấp sợi nguyên liệu cho phần lớn các xưởng dệt thợ dệt thủ công tại Việt Nam. Cụm nhà máy kéo sợi dệt Nam Định trở thành một trong những sở kỹ nghệ lớn hiện đại nhất Đông Dương. Nhiều hãng cũng lựa chọn Nam Định địa điểm đặt các xưởng kéo sợi, dệt, chế biến lụa.

keo soi Nam Dinh Nhà máy Kéo sợi, dệt Nam Định (chưa năm chụp)

Người Pháp cũng đầu phát triển ngành công nghiệp kéo sợi, dệt, chế biến lụa tại các địa phương thuộc Nam Kỳ Trung Kỳ nguồn cung cấp bông sống thuận lợi. Điển hình, Nhà máy dệt L. Delignon (Établissements L.Delignon) được đưa vào hoạt động trong năm 1903 tại thị trấn Phú Phong (Bình Định) với trang thiết bị máy móc tinh xảo, nhập khẩu toàn bộ từ Pháp, sử dụng 550 công nhân bản địa. Nhà máy này sở hữu khu trồng dâu nuôi tằm, ươm riêng, các xưởng kéo sợi, xưởng dệt, xưởng khí… Đây được xem nhà máy kéo sợi, dệt quy lớn thứ hai tại Việt Nam giai đoạn này.


1. Robequain. (1939). Géographie de l’Indochine.

Công nghiệp kéo sợi, dệt vải

Chế biến bông sợi dệt được xem ngành công nghiệp nhẹ lớn nhất Việt Nam dưới thời chính quyền thuộc địa. Nhà máy kéo sợi cotton đầu tiên tại Bắc Kỳ được thành lập vào năm 1884, dưới sự điều hành của nữ doanh nhân người Pháp Numa Bourgouin Meiffre. Numa Bourgouin Meiffre cũng thiết lập khu đồn điền trồng cây bông dưới chân dãy núi Ba Vì, dần mở rộng hoạt động sang lĩnh vực may đồng phục quân đội thuê nhiều thợ người Việt.

tho may Nhóm nữ thợ may tại xưởng may quân phục của nữ doanh nhân người Pháp -
Bourgouin Meiffre (Ảnh: Nhiếp ảnh gia Pierre Dieulefit)

Nhằm tận dụng vị trí địa thuận lợi, nguồn nguyên liệu lớn, nhân công dồi dào của nhiều làng nghề thủ công truyền thống, chính quyền thuộc địa cũng thành lập một sở nghiên cứu lụa tại Nam Định vào năm 1898. Đến năm 1900, sở nghiên cứu này được rót lượng vốn lớn để hình thành Nhà máy Kéo sợi, dệt Nam Định dưới sự điều hành của Công ty Bông Sợi Bắc Kỳ (Société cotonnière du Tonkin).

Nhờ nhu cầu về sản phẩm tại Pháp các nước trong khu vực tăng nhanh, Nhà máy Kéo sợi Nam Định phát triển nhanh chóng, hoạt động gần như 24 tiếng/ngày, huy động đông đảo lực lượng lao động gồm khoảng 40 kỹ thuật viên người Pháp hơn 14.000 người bản xứ.

Đến những năm 1930, Công ty Bông Sợi Bắc Kỳ đã thiết lập các nhà máy kéo sợi, xưởng dệt - nhuộm - tẩy trắng - xử lý, các xưởng khí động lực… hoàn thiện tại Nam Định, cũng như đầu tổ hợp máy phát điện hệ thống đường ống dẫn nước riêng biệt. Tính riêng năm 1937, nhà máy đã sản xuất ra hơn 700.000 chiếc chăn hơn 2.000 tấn sản phẩm bông sợi các loại1, cung cấp sợi nguyên liệu cho phần lớn các xưởng dệt thợ dệt thủ công tại Việt Nam. Cụm nhà máy kéo sợi dệt Nam Định trở thành một trong những sở kỹ nghệ lớn hiện đại nhất Đông Dương. Nhiều hãng cũng lựa chọn Nam Định địa điểm đặt các xưởng kéo sợi, dệt, chế biến lụa.

keo soi Nam Dinh Nhà máy Kéo sợi, dệt Nam Định (chưa năm chụp)

Người Pháp cũng đầu phát triển ngành công nghiệp kéo sợi, dệt, chế biến lụa tại các địa phương thuộc Nam Kỳ Trung Kỳ nguồn cung cấp bông sống thuận lợi. Điển hình, Nhà máy dệt L. Delignon (Établissements L.Delignon) được đưa vào hoạt động trong năm 1903 tại thị trấn Phú Phong (Bình Định) với trang thiết bị máy móc tinh xảo, nhập khẩu toàn bộ từ Pháp, sử dụng 550 công nhân bản địa. Nhà máy này sở hữu khu trồng dâu nuôi tằm, ươm riêng, các xưởng kéo sợi, xưởng dệt, xưởng khí… Đây được xem nhà máy kéo sợi, dệt quy lớn thứ hai tại Việt Nam giai đoạn này.


1. Robequain. (1939). Géographie de l’Indochine.

Công nghiệp điện - nước

Song song với quá trình xây dựng hạ tầng đô thị và mở rộng hoạt động khai thác thuộc địa, các hoạt động cung ứng nước sạch và điện dần phát triển tại Việt Nam.

Đối với ngành cấp nước, việc xây dựng hệ thống cung ứng nước sạch được người Pháp xem là vấn đề hệ trọng nhằm đảm bảo sức khỏe và ưu tiên thực hiện ngay từ những năm 1860. Một nhà máy nước sinh hoạt quy mô lớn đầu tiên của Việt Nam đã được chính quyền thuộc địa hoàn thành xây dựng vào năm 1878 tại Sài Gòn1.

Nhà máy này bao gồm một hệ thống nhỏ phân phối nước đến một số vòi cung cấp nước công cộng. Đây là lần đầu tiên người Sài Gòn biết đến “nước máy”, ngoài nước giếng hoặc nước sông rạch vốn được dùng bấy lâu nay. Đến năm 1896, Nhà máy Nước Yên Phụ với công suất 4.000 m3/ngày đêm được đưa vào vận hành tại Hà Nội.

Công suất của hai nhà máy nước tại Sài Gòn và Hà Nội được nâng lên nhanh chóng trong những năm tiếp theo nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của dân cư. Tính đến những năm 1910, các công trình cấp nước quy mô lớn đã hoàn thành tại Hà Nội, Hải Phòng, Huế và Sài Gòn. Một vài khu vực khác cũng có nhưng quy mô nhỏ hơn như Chợ Lớn, Mỹ Tho, Thủ Dầu Một, Vũng Tàu, Nam Định.

Đối với ngành Điện, nguồn điện năng ban đầu đến từ những trạm phát điện nhỏ, cung cấp điện tại chỗ để thắp sáng và chủ yếu phục vụ sinh hoạt cho các gia đình người châu Âu, một bộ phận nhỏ các quan lại người Việt. Vào năm 1892, người Pháp quyết định xây nhà máy nhiệt điện than đầu tiên của xứ Đông Dương tại Hải Phòng do thành phố nằm gần nguồn than Hòn Gai, Quảng Ninh. Nhà đèn Vườn hoa Hải Phòng, với công suất thiết kế 750 kW đi vào hoạt động trong năm 1894, đã đưa Hải Phòng trở thành thành phố đầu tiên tại Đông Dương được thắp sáng bằng đèn điện.

Đến năm 1895, việc ứng dụng điện năng phục vụ sinh hoạt tại Hà Nội được triển khai với sự ra đời của Nhà máy Đèn Bờ Hồ có công suất 500 kW. Tại Nam Kỳ, mặc dù là nơi đầu tiên người Pháp chiếm đóng nhưng phải đến năm 1897 thì nhà máy điện đầu tiên của nơi này mới đi vào vận hành với công suất 500 kW nhằm chiếu sáng một phần khu vực Sài Gòn thời kỳ này. Do nhu cầu chiếu sáng đường phố, công suất các nhà máy điện và hệ thống phân phối điện được phát triển mạnh trong những năm tiếp theo, dần hình thành hệ thống điện lực rộng khắp phục vụ nhu cầu điện năng cho sinh hoạt lẫn sản xuất.

Chính quyền thuộc địa chủ trương giao cho các công ty tư nhân phát triển và kinh doanh điện năng. Trong đó, Công ty Điện Đông Dương (Société indochinoise d’électricité) tại khu vực Bắc Kỳ và Công ty Nước và Điện Đông Dương (Compagnie des eaux et d’électricité d’Indochine) ở Nam Kỳ là hai công ty lớn nhất. Tại các khu mỏ và xưởng sản xuất, người Pháp sử dụng các máy phát điện chạy dầu diesel.

Tại Bắc Kỳ, Công ty Điện Đông Dương được thành lập vào năm 1902 đã liên tục tăng mạnh vốn để mở rộng việc kinh doanh điện. Năm 1925, Nhà máy Điện Yên Phụ với tổng công suất 22.500 kW được xây dựng, đủ khả năng cung cấp điện cho Hà Nội và các tỉnh lỵ Đồng bằng Bắc Bộ lúc bấy giờ. Từ năm 1923 đến năm 1926, chính quyền thuộc địa cho xây dựng hàng loạt đường dây điện cao thế quan trọng như tuyến Hà Nội - Hà Đông, Sơn Tây, Hải Phòng, Hải Phòng - Kiến An và Đồ Sơn. Trong năm 1925, thành phố Nam Định được cấp điện.

Các nhà máy phát điện cũng dần được xây dựng tại các tỉnh như Hải Dương, Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Lạng Sơn... Tại Cao Bằng, Nhà máy Điện Tà Sa được xây dựng và phát điện vào năm 1928 là nhà máy thủy điện đầu tiên tại Việt Nam. Một số thị xã khác như Quảng Yên và Hồng Gai được cấp điện từ những khu công nghiệp lân cận. Tính đến năm 1938, đã có 26/27 thị trấn và 12 khu vực đô thị tại tại Bắc Kỳ được điện khí hóa. Như vậy, tất cả thủ phủ của các tỉnh (ngoại trừ Sơn La) đều đã có điện.

Tại Nam Kỳ, trong giai đoạn đầu, các khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn được chiếu sáng bởi nhiều công ty với các nhà máy điện cỡ vừa và nhỏ. Vào năm 1900, Công ty Nước và Điện Đông Dương được thành lập, chủ yếu cung ứng điện năng cho khu vực Sài Gòn và dần mở rộng ra thị trấn Chợ Lớn và thị trấn Thủ Đức, với sự hình thành Nhà Đèn Cầu Kho có công suất khoảng 3.300 kW vào năm 1912. Đến năm 1922, Nhà Đèn Chợ Quán có công suất 5.000 kW được đưa vào hoạt động, đáp ứng nhu cầu điện của Sài Gòn, Chợ Lớn và một số thị trấn như Lái Thiêu, Búng và Thủ Dầu Một. Điện cũng được cung cấp cho hệ thống điện báo vô tuyến, xe điện và một vài cơ sở công nghiệp. Hệ thống truyền tải điện tại khu Sài Gòn - Chợ Lớn bao gồm cả đường dây cáp ngầm và đường dây trên không.

Đặc biệt, năm 1921, một nhóm các nhà tư bản người Việt được đứng đầu bởi ông Cao Thiện Toàn đã thành lập Công ty Vô danh Điện Rạch Giá (Societe Anonyme d’Electricite de Rach Gia) với số vốn đăng ký 150.000 đồng Đông Dương để kinh doanh điện tại thị xã Rạch Giá (Kiên Giang). Tính đến năm 1922, các thị xã lớn tại Nam Kỳ như Bạc Liêu, Bà Rịa, Bến Tre, Cần Thơ, Mỹ Tho, Sa Đéc… đều có từ 1 đến 2 nhà máy phát điện quy mô nhỏ và vừa.

Tại Trung Kỳ, chính quyền thuộc địa đảm trách việc cung ứng điện năng trong giai đoạn đầu. Đến năm 1919, Nhà máy Đèn Huế được thành lập với công suất khoảng 3.600 kW nhằm cung cấp điện cho khu vực thành phố Huế. Từ năm 1921 - 1926, các nhà máy điện công suất nhỏ lần lượt được xây dựng tại Đà Nẵng, Hội An, Quy Nhơn và Nha Trang. Đến năm 1928, Công ty Nước và Điện Trung Kỳ (Société indochinoise pour les eaux et l’électricité en Annam) được thành lập và nhận các quyền kinh doanh điện tại xứ Trung Kỳ. Sản lượng kinh doanh điện của công ty này tăng nhanh chóng qua các năm; trong năm 1929, sản lượng điện đạt 1.419.000 kWh, tăng 40% so với năm 1928.

Sau khi chính quyền thuộc địa triển khai chương trình khai thác thuộc địa lần 2 (1919 - 1929), tốc độ điện khí hóa tại Việt Nam diễn ra tương đối nhanh. Các hệ thống phát điện cũng được tích hợp tại các cơ sở sản xuất công nghiệp lớn như Nhà máy Xi măng Hải Phòng và Công ty Sợi bông Bắc Kỳ tại Nam Định. Tính đến năm 1939, tổng công suất nguồn điện đạt 116.000 kW và sản lượng điện thương phẩm bán ra đạt 118.000.000 kWh.

Tuy nhiên, điện năng chủ yếu để phục vụ hoạt động của chính quyền thuộc địa, các hoạt động sản xuất của giới tư bản, đặc biệt là tư bản Pháp. Đại bộ phận dân chúng không được sử dụng cũng như hưởng những lợi ích do điện năng đem lại. Chính quyền thuộc địa cũng không có ý định điện khí hóa nông thôn. Trong tổng số gần 20 triệu người Việt Nam thời kỳ này, chỉ có vài chục nghìn người có đăng ký sử dụng điện. Mức tiêu thụ điện tại Đông Dương vào thời điểm này chỉ đạt trung bình 8 kWh/người2, thấp hơn tới 50 lần so với mức tiêu thụ điện tại Pháp.


1. Khu vực hồ Con Rùa, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Tertrais Hugues. (2002). L’électrification de l’Indochine. In: Outre-mers, tome 89, n°334-
335, 1er semestre 2002. L’électrification outre- mer de la fin du XIXe siècle aux premières
décolonisations. p. 589-600.

Công nghiệp chế biến gỗ và sản xuất giấy

Hoạt động chế biến gỗ được người Pháp bắt đầu tiến hành trên quy mô lớn vào đầu những năm 1900 do việc khai thác và chế biến gỗ phụ thuộc nhiều vào mức độ phát triển của cơ sở hạ tầng giao thông để vận chuyển gỗ nguyên liệu cũng như việc cung ứng điện năng để chạy máy móc. 3 lĩnh vực quan trọng nhất thuộc nhóm ngành này là chế biến gỗ xẻ, sản xuất giấy và diêm.

Chế biến gỗ xẻ được chú ý đầu tiên khi nhu cầu sử dụng gỗ trong hoạt động xây dựng và sản xuất đồ nội thất tăng cao, gần như ở địa phương nào cũng có nhà máy chế biến gỗ (hay còn được gọi là nhà máy cưa). Quy trình sản xuất tương đối đơn giản với việc chế biến gỗ tròn thành gỗ xẻ. Đặc biệt, giống cây gỗ tếch (teak) có nguồn gốc từ Ấn Độ đã theo người Pháp du nhập vào xứ Nam Kỳ trong giai đoạn này, trở thành loại cây được trồng phổ biến để làm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nội thất. Một số nhà máy xẻ gỗ quy mô lớn được đặt tại Biên Hòa, Sài Gòn và Hà Nội. Bên cạnh phục vụ nhu cầu nội địa, gỗ nguyên liệu cũng được xuất khẩu sang các thị trường trong khu vực như Hồng Kông, Singapore, Nhật Bản… Hoạt động xuất khẩu gỗ nguyên liệu bắt đầu tăng mạnh sau khi Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất kết thúc. Lượng gỗ tếch xuất khẩu đạt 7.400 tấn trong năm vào năm 1920 và đạt mức cao nhất 15.200 tấn vào năm 19311.

Một lĩnh vực chế biến gỗ quan trọng khác đối với thời kỳ này là sản xuất diêm. Trước năm 1891, diêm được tiêu thụ ở Đông Dương chủ yếu phải nhập khẩu từ Nhật Bản với giá cao do chế độ bảo hộ thương mại của chính quyền thuộc địa. Trước nhu cầu sử dụng ngày càng tăng, Nhà máy Diêm Hà Nội thuộc Công ty Pháp Diêm (Société francaise des allumettes) được thành lập và đi vào hoạt động trong năm 1892.

Trang thiết bị và một số nguyên liệu của nhà máy đều được nhập từ Pháp, gồm nhiều máy móc thường chỉ được sử dụng tại Pháp. Gỗ sử dụng để sản xuất diêm đều lấy từ các khu rừng ở xứ Bắc Kỳ. Diêm do nhà máy cung cấp trên toàn Đông Dương được gọi là “diêm an toàn” vì chỉ bắt lửa khi quẹt vào miếng diêm sinh dán bên cạnh bao diêm.

Đến năm 1897, Công ty Lâm nghiệp và Thương mại Trung Kỳ (Société forestière et commerciale de l’Annam) thành lập một nhà máy diêm tại Bến Thủy với nhãn hiệu Diêm Kim Long. Sản lượng diêm do hai nhà máy này dần đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa, chấm dứt sự lệ thuộc vào diêm nhập khẩu. Năm 1922, hai doanh nghiệp trên được sát nhập thành Công ty Lâm nghiệp và Diêm Đông Dương (Société indo-chinoise forestière et des allumettes), trở thành một trong những doanh nghiệp Pháp lớn nhất tại Đông Dương. Sản lượng của hai nhà máy diêm này đạt cao điểm khoảng 90 triệu bao diêm/năm. Một phần diêm sản xuất được xuất khẩu sang các quốc gia thuộc địa khác của Pháp như Madagascar, Algieria…

Sản xuất giấy ra đời tương đối muộn trong nhóm ngành công nghiệp chế biến gỗ. Mặc dù một số nhà máy sản xuất bột giấy đã được người Pháp thiết lập tại quanh thị xã Phủ Lạng Thương (TP. Bắc Giang ngày nay) từ đầu những năm 1900 nhưng hoạt động sản xuất giấy quy mô công nghiệp đến năm 1913 mới chính thức xuất hiện với sự ra đời của Nhà máy Giấy Đáp Cầu thuộc Công ty Giấy Đông Dương (Société anonyme francaise des Celluloses et papiers indochinois).

Với số vốn đầu tư lên đến 7 triệu Franc, Nhà máy Giấy Đáp Cầu có công suất thiết kế đạt 4.000 tấn/năm. Sản phẩm của Nhà máy tương đối đa dạng, bao gồm bột giấy, giấy viết, giấy in báo, giấy carton… phục vụ cho nhu cầu trong nước như các cơ quan của Pháp, các nhà in sách và báo, các trường học, phần đáng kể bán ra cho dân chúng, chủ yếu là học sinh. Công ty Giấy Đông Dương cũng thành lập một nhà máy sản xuất bột giấy ở Việt Trì để khai thác vùng nguyên liệu rộng lớn ở khu vực thượng du.

Tuy nhiên, hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu giấy do nhu cầu đa dạng và ngày càng tăng cao. Ví dụ, năm 1923, lượng giấy nhập khẩu chỉ chiếm 0,6% tổng giá trị nhập khẩu nhưng đến năm 1940, đã tăng lên mức 4,1%2 tổng giá trị nhập khẩu.

Nhìn chung, các lĩnh vực công nghiệp chế biến đều có giai đoạn “thịnh vượng”, phát triển mạnh mẽ trong những năm 1920 cho đến khi chịu ảnh hưởng tiêu cực của cuộc Đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào đầu những năm 1930. Quy mô hoạt động của nhiều lĩnh vực bị thu hẹp, sản lượng suy giảm mạnh, các nhà máy, xưởng sản xuất buộc phải sa thải lao động. Nhưng một số lĩnh vực sản xuất hàng hóa thiết yếu như xà bông, sơn, dầu thực vật, đường… lại tìm thấy cơ hội phát triển khi hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài suy giảm.

Qua cơn khủng hoảng kinh tế, các hoạt động sản xuất công nghiệp vừa mới khôi phục trở lại được vài năm thì Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra và phát xít Nhật xâm chiếm Đông Dương, áp dụng “chính sách kinh tế thời chiến” để buộc nền kinh tế tập trung cung ứng các loại tài nguyên, hàng hóa phục vụ guồng máy chiến tranh. Đồng thời, giới tư bản Pháp cũng hạn chế đầu tư mở rộng sản xuất mà tăng cường vơ vét, khai thác triệt để các nguồn lợi kinh tế có sẵn.


1. Gouvernement général de l’Indochine. (1941). Résumé Statistique Relatif Aux Années 1913 à 1940. Hanoi: Imprimerie D’extrême-Orient.

2. Gouvernement général de l’Indochine. (1941). Résumé Statistique Relatif Aux Années 1913 à 1940. Hanoi: Imprimerie D’extrême-Orien

Danh mục

Tùy chỉnh