2. Phát triển công nghiệp địa phương

Ngày 07/7/1965, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 123-NQ/TW, yêu cầu các ngành kinh tế “căn cứ vào nhiệm vụ kế hoạch cụ thể của ngành mình việc phân cấp quản giữa trung ương địa phương, giữa cấp trên cấp dưới để xác định cụ thể việc kiện toàn những bộ phận, những cấp cần thiết; nhưng phương hướng chung vẫn chú trọng kiện toàn địa phương các sở sản xuất”1.

Tại Hội nghị về công nghiệp địa phương toàn miền Bắc tháng 11/1965, Phó Thủ tướng Thanh Nghị đánh giá: Sự phát triển công nghiệp địa phương thực sự một bước mới trong sự phát triển công nghiệp nước ta.

Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 12 (tháng 12/1965) cũng nhận định: “Ra sức phát triển công nghiệp địa phương trong lúc này cũng rất phù hợp với yêu cầu lâu dài về công nghiệp hóa hội chủ nghĩa, kinh tế địa phương phát triển sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi, tạo ra thị trường vững chắc cho công nghiệp trung ương, đặc biệt cho công nghiệp nặng phát triển”2. Báo cáo nêu nhiệm vụ kinh tế hai năm 1966 - 1967, như sau: Ra sức phát triển nông nghiệp công nghiệp địa phương, tăng cường năng lực kinh tế do các địa phương quản ,... nâng cao mức tự cung tự cấp, hết sức cố gắng giải quyết các nhu cầu về ăn, mặc, trang bị sửa chữa, nhu cầu về một số nguyên liệu, vật liệu các hàng tiêu dùng để đẩy mạnh sản xuất, chiến đấu bảo đảm đời sống nhân dân từng tỉnh, từng vùng.

Tăng cường năng lực sản xuất công nghiệp do các bộ quản ,... tận dụng công suất của các nghiệp, đẩy mạnh sản xuất để giải quyết nhu cầu thiết bị, về các nguyên liệu, vật liệu hàng tiêu dùng trung ương phải phụ trách, tập trung sức viện trợ cho việc xây dựng phát triển kinh tế địa phương”3.

Thực hiện chỉ đạo của Đảng Chính phủ, ngành Công Thương triển khai nhiệm vụ bảo vệ sản xuất kết hợp chặt chẽ với xây dựng nền công nghiệp đất nước theo hướng:

- Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, giữa sản xuất công nghiệp với sẵn sàng chiến đấu.

- Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp trung ương với công nghiệp địa phương.

- Xây dựng sở nguyên liệu vững chắc cho công nghiệp địa phương.

- Đẩy mạnh trang bị kỹ thuật cho công nghiệp địa phương.

- Chú trọng bổ sung tích cực đào tạo cán bộ, thợ lành nghề cho công nghiệp địa phương.

Các bộ quản ngành Công Thương dành một nguồn lực quan trọng để hỗ trợ công nghiệp địa phương. Bộ Công nghiệp nặng, Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ khí Luyện kim, Bộ Điện Than chú trọng bảo đảm nguồn điện, mở rộng nâng cao năng lực chế tạo, sửa chữa sản xuất khí, tiến hành xây dựng điểm khí huyện các điểm khí sửa chữa xã, kết hợp với xây các trạm phát điện diesel, trạm thủy điện nhỏ, trang bị máy hơi nước khai thác than thủ công; tập trung đầu cho sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, các xưởng công nghiệp nhẹ về xẻ gỗ, đồ mộc, thủy tinh, đường mật, bánh kẹo; một số ngành chế tạo nông cụ cải tiến, máy bơm nước... Bên cạnh đó, hướng dẫn về kỹ thuật, đào tạo cung cấp cán bộ, hướng dẫn làm kế hoạch, giúp đỡ kinh nghiệm quản cho công nghiệp địa phương.

Bộ Nội thương, Bộ Vật đẩy mạnh đặt hàng gia công thu mua hàng công nghiệp địa phương, đặc biệt những mặt hàng cần thiết cho sản xuất, đời sống chiến đấu; cung cấp hoặc hỗ trợ địa phương tự giải quyết phần lớn nhu cầu về liệu sản xuất, nhất trang bị máy móc nhỏ, máy nông cụ, xăng dầu, phân bón...

Bộ Ngoại thương lập kế hoạch giảm nhập thiết bị toàn bộ để tăng nhập thiết bị lẻ trang bị cho công nghiệp địa phương; nghiên cứu các công nghệ thích hợp với trình độ của công nghiệp địa phương, để phục vụ trực tiếp cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Đồng thời, tăng cường xuất khẩu các mặt hàng thế mạnh của địa phương, gồm thủ công nghiệp, hàng mỹ nghệ, hàng nông sản chế biến, cây công nghiệp; duy trì hàng xuất khẩu truyền thống vào thị trường các nước bản để tạo ngoại tệ cho nhập khẩu thiết bị lẻ như phương tiện vận tải, máy khí nhỏ, các thiết bị cho công nghiệp địa phương trong nước chưa sản xuất được.

xã viên Mễ Trì

viên Hợp tác Mễ Trì Thượng, huyện Từ Liêm (nay thuộc quận Nam Từ Liêm, Thành phố Nội) tích cực tăng gia sản xuất, năm 1970 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Với sự giúp đỡ của công nghiệp thương nghiệp trung ương, công nghiệp địa phương đã phát huy được thế mạnh của mình, phục vụ trước hết cho ba mục tiêu trong nông nghiệp lúc đó (mỗi lao động phấn đấu đạt 5 tấn thóc, 2 đầu lợn 1 ha gieo trồng), đặc biệt, tập trung vào các khâu yếu phân bón, thức ăn gia súc, nông cụ thường cải tiến; riêng về sản xuất hàng hóa tiêu dùng, các địa phương đều kế hoạch phấn đấu tự giải quyết 40 - 50% nhu cầu tại chỗ.

Vốn đầu vào công nghiệp địa phương trong ba năm 1965 - 1967 tăng gấp 33 lần 3 năm trước chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Ngay tại các tỉnh bị đánh phá ác liệt nhất như các tỉnh thuộc Khu IV cũ, mỗi tỉnh cũng xây dựng thêm hàng chục nghiệp quy vừa nhỏ. Nếu năm 1965, toàn miền Bắc 1.132 nghiệp, trong đó 205 nghiệp trung ương, 927 nghiệp địa phương; đến năm 1969 toàn miền Bắc 1.352 nghiệp, trong đó 277 nghiệp trung ương, 1075 nghiệp địa phương4. Như vậy, trong cùng thời gian, nghiệp trung ương tăng 72 sở, công nghiệp địa phương tăng 148 sở.

Vốn đầu xây dựng bản công nghiệp địa phương tăng nhanh chóng, tăng từ 8,1 triệu đồng năm 1960 lên 40,3 triệu đồng năm 1965 150,5 triệu đồng năm 1975; chiếm tỷ trọng trong cấu vốn đầu công nghiệp tương ứng 3,2%, 6,7% 20%.

Nhờ vậy, trong bối cảnh các sở thuộc ngành công nghiệp trung ương như điện, than, khí, luyện kim, vải vóc... trọng điểm bắn phá trong chiến tranh phá hoại sản lượng giảm sút, thì những sản phẩm điển hình của công nghiệp địa phương tăng mạnh. Từ năm 1965 đến năm 1970, máy phát diesel từ 1.113 cái tăng lên 1.170 cái; động điện từ 5.712 cái tăng lên 10.206 cái; máy bơm thủy lợi từ 1.915 cái tăng lên 2.476 cái; cày, bừa cải tiến từ 214 nghìn cái tăng lên 366 nghìn cái; xe cải tiến từ 59.580 cái tăng lên 90.570 cái; mai, cuốc xẻng từ 1.250 nghìn cái tăng lên 1.998 nghìn cái; máy tuốt lúa từ 1.930 cái tăng lên 3.530 cái; máy xay xát gạo từ 1.150 cái tăng lên 2.480 cái; máy nghiền thức ăn gia súc từ 200 cái tăng lên 1.150 cái; phân bón hóa học từ 144 nghìn tấn tăng lên 182 nghìn tấn; thuốc trừ sâu từ 3.676 tấn tăng lên 7.314 tấn; vôi bón ruộng từ 580 nghìn tấn tăng lên 611 nghìn tấn; chiếu cói từ 2.638 nghìn đôi tăng lên 4.158 nghìn đôi; đồ thủy tinh từ 9.531 tấn tăng lên 12.512 tấn; đồ sứ dân dụng từ 53,4 triệu cái tăng lên 60,2 triệu cái; vải màn từ 25,42 triệu mét tăng lên 50,61 triệu mét; nước chấm từ 4,24 triệu lít tăng lên 22,36 triệu lít; chính từ 21 tấn tăng lên 67 tấn...

Giá trị tổng sản lượng công nghiệp địa phương cũng tăng nhanh chóng. Chỉ số giá trị năm 1960 100%, thì năm 1965 bằng 148%, năm 1975 287%.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.299.

2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.516-517.

4. Xem Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.255.

2. Phát triển công nghiệp địa phương

Ngày 07/7/1965, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 123-NQ/TW, yêu cầu các ngành kinh tế “căn cứ vào nhiệm vụ kế hoạch cụ thể của ngành mình việc phân cấp quản giữa trung ương địa phương, giữa cấp trên cấp dưới để xác định cụ thể việc kiện toàn những bộ phận, những cấp cần thiết; nhưng phương hướng chung vẫn chú trọng kiện toàn địa phương các sở sản xuất”1.

Tại Hội nghị về công nghiệp địa phương toàn miền Bắc tháng 11/1965, Phó Thủ tướng Thanh Nghị đánh giá: Sự phát triển công nghiệp địa phương thực sự một bước mới trong sự phát triển công nghiệp nước ta.

Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 12 (tháng 12/1965) cũng nhận định: “Ra sức phát triển công nghiệp địa phương trong lúc này cũng rất phù hợp với yêu cầu lâu dài về công nghiệp hóa hội chủ nghĩa, kinh tế địa phương phát triển sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi, tạo ra thị trường vững chắc cho công nghiệp trung ương, đặc biệt cho công nghiệp nặng phát triển”2. Báo cáo nêu nhiệm vụ kinh tế hai năm 1966 - 1967, như sau: Ra sức phát triển nông nghiệp công nghiệp địa phương, tăng cường năng lực kinh tế do các địa phương quản ,... nâng cao mức tự cung tự cấp, hết sức cố gắng giải quyết các nhu cầu về ăn, mặc, trang bị sửa chữa, nhu cầu về một số nguyên liệu, vật liệu các hàng tiêu dùng để đẩy mạnh sản xuất, chiến đấu bảo đảm đời sống nhân dân từng tỉnh, từng vùng.

Tăng cường năng lực sản xuất công nghiệp do các bộ quản ,... tận dụng công suất của các nghiệp, đẩy mạnh sản xuất để giải quyết nhu cầu thiết bị, về các nguyên liệu, vật liệu hàng tiêu dùng trung ương phải phụ trách, tập trung sức viện trợ cho việc xây dựng phát triển kinh tế địa phương”3.

Thực hiện chỉ đạo của Đảng Chính phủ, ngành Công Thương triển khai nhiệm vụ bảo vệ sản xuất kết hợp chặt chẽ với xây dựng nền công nghiệp đất nước theo hướng:

- Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, giữa sản xuất công nghiệp với sẵn sàng chiến đấu.

- Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp trung ương với công nghiệp địa phương.

- Xây dựng sở nguyên liệu vững chắc cho công nghiệp địa phương.

- Đẩy mạnh trang bị kỹ thuật cho công nghiệp địa phương.

- Chú trọng bổ sung tích cực đào tạo cán bộ, thợ lành nghề cho công nghiệp địa phương.

Các bộ quản ngành Công Thương dành một nguồn lực quan trọng để hỗ trợ công nghiệp địa phương. Bộ Công nghiệp nặng, Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ khí Luyện kim, Bộ Điện Than chú trọng bảo đảm nguồn điện, mở rộng nâng cao năng lực chế tạo, sửa chữa sản xuất khí, tiến hành xây dựng điểm khí huyện các điểm khí sửa chữa xã, kết hợp với xây các trạm phát điện diesel, trạm thủy điện nhỏ, trang bị máy hơi nước khai thác than thủ công; tập trung đầu cho sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, các xưởng công nghiệp nhẹ về xẻ gỗ, đồ mộc, thủy tinh, đường mật, bánh kẹo; một số ngành chế tạo nông cụ cải tiến, máy bơm nước... Bên cạnh đó, hướng dẫn về kỹ thuật, đào tạo cung cấp cán bộ, hướng dẫn làm kế hoạch, giúp đỡ kinh nghiệm quản cho công nghiệp địa phương.

Bộ Nội thương, Bộ Vật đẩy mạnh đặt hàng gia công thu mua hàng công nghiệp địa phương, đặc biệt những mặt hàng cần thiết cho sản xuất, đời sống chiến đấu; cung cấp hoặc hỗ trợ địa phương tự giải quyết phần lớn nhu cầu về liệu sản xuất, nhất trang bị máy móc nhỏ, máy nông cụ, xăng dầu, phân bón...

Bộ Ngoại thương lập kế hoạch giảm nhập thiết bị toàn bộ để tăng nhập thiết bị lẻ trang bị cho công nghiệp địa phương; nghiên cứu các công nghệ thích hợp với trình độ của công nghiệp địa phương, để phục vụ trực tiếp cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Đồng thời, tăng cường xuất khẩu các mặt hàng thế mạnh của địa phương, gồm thủ công nghiệp, hàng mỹ nghệ, hàng nông sản chế biến, cây công nghiệp; duy trì hàng xuất khẩu truyền thống vào thị trường các nước bản để tạo ngoại tệ cho nhập khẩu thiết bị lẻ như phương tiện vận tải, máy khí nhỏ, các thiết bị cho công nghiệp địa phương trong nước chưa sản xuất được.

xã viên Mễ Trì

viên Hợp tác Mễ Trì Thượng, huyện Từ Liêm (nay thuộc quận Nam Từ Liêm, Thành phố Nội) tích cực tăng gia sản xuất, năm 1970 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Với sự giúp đỡ của công nghiệp thương nghiệp trung ương, công nghiệp địa phương đã phát huy được thế mạnh của mình, phục vụ trước hết cho ba mục tiêu trong nông nghiệp lúc đó (mỗi lao động phấn đấu đạt 5 tấn thóc, 2 đầu lợn 1 ha gieo trồng), đặc biệt, tập trung vào các khâu yếu phân bón, thức ăn gia súc, nông cụ thường cải tiến; riêng về sản xuất hàng hóa tiêu dùng, các địa phương đều kế hoạch phấn đấu tự giải quyết 40 - 50% nhu cầu tại chỗ.

Vốn đầu vào công nghiệp địa phương trong ba năm 1965 - 1967 tăng gấp 33 lần 3 năm trước chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Ngay tại các tỉnh bị đánh phá ác liệt nhất như các tỉnh thuộc Khu IV cũ, mỗi tỉnh cũng xây dựng thêm hàng chục nghiệp quy vừa nhỏ. Nếu năm 1965, toàn miền Bắc 1.132 nghiệp, trong đó 205 nghiệp trung ương, 927 nghiệp địa phương; đến năm 1969 toàn miền Bắc 1.352 nghiệp, trong đó 277 nghiệp trung ương, 1075 nghiệp địa phương4. Như vậy, trong cùng thời gian, nghiệp trung ương tăng 72 sở, công nghiệp địa phương tăng 148 sở.

Vốn đầu xây dựng bản công nghiệp địa phương tăng nhanh chóng, tăng từ 8,1 triệu đồng năm 1960 lên 40,3 triệu đồng năm 1965 150,5 triệu đồng năm 1975; chiếm tỷ trọng trong cấu vốn đầu công nghiệp tương ứng 3,2%, 6,7% 20%.

Nhờ vậy, trong bối cảnh các sở thuộc ngành công nghiệp trung ương như điện, than, khí, luyện kim, vải vóc... trọng điểm bắn phá trong chiến tranh phá hoại sản lượng giảm sút, thì những sản phẩm điển hình của công nghiệp địa phương tăng mạnh. Từ năm 1965 đến năm 1970, máy phát diesel từ 1.113 cái tăng lên 1.170 cái; động điện từ 5.712 cái tăng lên 10.206 cái; máy bơm thủy lợi từ 1.915 cái tăng lên 2.476 cái; cày, bừa cải tiến từ 214 nghìn cái tăng lên 366 nghìn cái; xe cải tiến từ 59.580 cái tăng lên 90.570 cái; mai, cuốc xẻng từ 1.250 nghìn cái tăng lên 1.998 nghìn cái; máy tuốt lúa từ 1.930 cái tăng lên 3.530 cái; máy xay xát gạo từ 1.150 cái tăng lên 2.480 cái; máy nghiền thức ăn gia súc từ 200 cái tăng lên 1.150 cái; phân bón hóa học từ 144 nghìn tấn tăng lên 182 nghìn tấn; thuốc trừ sâu từ 3.676 tấn tăng lên 7.314 tấn; vôi bón ruộng từ 580 nghìn tấn tăng lên 611 nghìn tấn; chiếu cói từ 2.638 nghìn đôi tăng lên 4.158 nghìn đôi; đồ thủy tinh từ 9.531 tấn tăng lên 12.512 tấn; đồ sứ dân dụng từ 53,4 triệu cái tăng lên 60,2 triệu cái; vải màn từ 25,42 triệu mét tăng lên 50,61 triệu mét; nước chấm từ 4,24 triệu lít tăng lên 22,36 triệu lít; chính từ 21 tấn tăng lên 67 tấn...

Giá trị tổng sản lượng công nghiệp địa phương cũng tăng nhanh chóng. Chỉ số giá trị năm 1960 100%, thì năm 1965 bằng 148%, năm 1975 287%.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.299.

2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.516-517.

4. Xem Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.255.

1. Vừa sản xuất vừa chiến đấu

Phương châm chuyển hướng kinh tế sang điều kiện thời chiến là bảo vệ an toàn, tiếp tục sản xuất và phục vụ chiến đấu. Tại Hội nghị cán bộ Đảng từ ngày 02 đến ngày 08/7/1965, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn đã nhấn mạnh đến vai trò của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa và mối quan hệ gắn bó giữa sản xuất và chiến đấu: “Có chuẩn bị tốt và chiến đấu tốt mới bảo vệ được sản xuất. Có sản xuất dồi dào mới bảo đảm được chiến đấu”; “Phải đem toàn lực ra để đánh giặc và đem toàn lực ra để sản xuất”1.

Trong chiến tranh phá hoại, các xí nghiệp công nghiệp và hệ thống giao thông vận tải huyết mạch là những mục tiêu hàng đầu của không quân Mỹ. Theo thống kê, hầu hết các khu công nghiệp, 100% các nhà máy điện, 345 xí nghiệp bị đánh phá nặng nề (cuộc chiến tranh phá hoại lần đầu có 225 xí nghiệp và lần thứ hai có 120 xí nghiệp).

Đứng trước một thử thách khắc nghiệt khi không quân Mỹ tăng cường bắn phá miền Bắc, ngành Công Thương bước vào cuộc chiến đấu mới, vừa xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, vừa chi viện cho miền Nam, phục vụ sự nghiệp thống nhất đất nước. Trong cuộc không chiến ác liệt, chỉ riêng bầu trời miền Bắc và con đường huyền thoại Trường Sơn đã phải chịu 5 triệu tấn bom, mìn, hóa chất các loại, nhiều gấp 2,5 lần số bom không quân Mỹ rải xuống trong Chiến tranh thế giới thứ hai.

Từ tháng 6/1966, Nhà máy Cơ khí Hà Nội đã di chuyển an toàn gần 1.500 tấn phương tiện, thiết bị đến 16 địa điểm ở Hà Bắc (nay là Bắc Ninh và Bắc Giang); Nhà máy Dệt 8-3 với hơn 7.000 công nhân đã phân tán ra nhiều địa điểm nhưng vẫn duy trì sản xuất liên tục. Các đơn vị sản xuất trọng điểm khác như Nhà máy Xe lửa Gia Lâm, Nhà máy Gỗ Cầu Đuống, Nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo, Xí nghiệp Dược phẩm 1 (nay là Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 1), Xí nghiệp Dược phẩm 2 (nay là Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 2), Nhà máy In Tiến Bộ... có hàng chục nghìn công nhân, viên chức cùng người thân được sơ tán ra khỏi nội thành.

Trong cuộc chiến vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu, các cơ sở công nghiệp và thương mại thành lập các đội tự vệ, sẵn sàng đương đầu với các cuộc tập kích đường không, bảo đảm các điều kiện cho hoạt động sản xuất thời chiến. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, từ ngày 18 đến ngày 29/12/1972, nhiều cán bộ, công chức thuộc khối cơ quan các bộ: Cơ khí và Luyện kim, Công nghiệp nhẹ, Nội thương, Ngoại thương, Vật tư đã trực tiếp tham gia vào các đơn vị tự vệ phòng không. Lưới lửa phòng không từ trên các nóc nhà 54 Hai Bà Trưng, số 7 Tràng Thi, 91 Đinh Tiên Hoàng, 21 - 23 Ngô Quyền đan dày đặc, góp phần tạo nên các hệ thống phòng không tầm thấp, tầm cao hiệu quả của quân và dân Thủ đô Hà Nội.

Công nhân Điện

Cán bộ, công nhân viên Nhà máy Điện Yên Phụ diễn tập đánh địch giáp lá cà tại Hà Nội, tháng 6/1966 (Ảnh: Trần Nguyên Hợi)

Ngành Điện với khẩu hiệu: “Tổ quốc cần điện như cơ thể cần máu”; “Địch đánh ta phục hồi, địch lại đánh ta lại phục hồi” đã ăn sâu vào tiềm thức cán bộ, công nhân viên. Thực tế, nhiều nhà máy điện đã bị bom đạn giặc Mỹ tàn phá tan hoang. Trong điều kiện đó, nhiều sáng kiến đã ra đời. Để tránh thương vong, Nhà máy Nhiệt điện Thái Nguyên đã làm ống trượt chui vào hầm trú ẩn nhằm “thoát nhanh” khi có máy bay địch ném bom. Sáng kiến này đã được áp dụng ở nhiều nhà máy điện trong suốt cuộc chiến chống máy bay Mỹ. Khi trạm bơm tuần hoàn Nhà máy Điện Việt Trì bị phá hỏng, cán bộ, công nhân viên đã tự thiết kế, lắp đặt trạm bơm số 2 cách đó khoảng 800 m, rút ngắn thời gian phục hồi và hạn chế phạm vi đánh phá của máy bay địch.

Năm 1966, công trình “ống khói ngầm” của Nhà máy Điện Uông Bí (đưa ống khói nhà máy chìm dưới lòng sông để ngụy trang, tránh máy bay địch ném bom) ra đời và đã đi vào lịch sử như một sáng kiến đặc biệt, thể hiện nghị lực, ý chí kiên cường, bất khuất của tuổi trẻ - công nhân Nhà máy Điện Uông Bí. Ống khói ngầm khiến cho máy bay Mỹ tưởng Nhà máy đã “chết”, nhưng chúng không thể hình dung nổi dưới đống đổ nát, hoang tàn, Nhà máy vẫn phát điện, trái tim của hệ thống điện miền Bắc vẫn đập với sức sống diệu kỳ.

Tự vệ thép

Đội tự vệ xưởng Luyện cốc - Công ty Gang thép Thái Nguyên chiến đấu bảo vệ Khu Gang thép (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Khu Gang thép Thái Nguyên, một trọng điểm bắn phá của không quân Mỹ, những năm tháng ấy đã thành lập lực lượng tự vệ ở tất cả các đơn vị. Các đơn vị tự vệ được trang bị súng phòng không, sau này còn có pháo cao xạ 37 mm, góp phần cùng Bộ đội chính quy Trung đoàn 256 - Quân khu Việt Bắc giăng lưới lửa khi máy bay địch đánh phá Thái Nguyên, tấn công Nhà máy. Từ năm 1966 đến cuối năm 1972, không quân Mỹ đã huy động hơn 1.700 lần, trong đó 42 lần có máy bay B.52 với 115 trận đánh phá, thả gần 3.000 quả bom các loại xuống Khu Gang thép Thái Nguyên, nhưng chúng không đạt được mục đích phá hoại nhà máy, làm ngưng trệ sản xuất. Công nhân, đội “tự vệ thép” với khẩu hiệu “Bám máy, bám lò” sẵn sàng “đổi máu lấy thép” đã di chuyển phân xưởng, dây chuyền ra khỏi mục tiêu, vừa sản xuất, vừa anh dũng chiến đấu. Những mẻ gang vẫn ra lò đi khắp mọi miền Tổ quốc. Trên bầu trời Khu Gang thép Thái Nguyên đã có 59 máy bay bị bắn hạ, 5 phi công Mỹ bị tự vệ bắt sống tại chỗ.

Trong hai lần chiến tranh phá hoại do không quân Mỹ tiến hành, vùng mỏ Quảng Ninh đã trải qua 1.500 ngày trực tiếp đối mặt với các cuộc oanh kích. Trong 1.500 ngày đêm ấy, không quân Mỹ đã đánh vào vùng mỏ Quảng Ninh 2.340 trận, rải 28.531 quả bom, mìn, thủy lôi các loại, gây thiệt hại về tài sản hết sức nặng nề cho các mỏ than.

Nhưng cũng chính trong điều kiện chiến tranh ác liệt, gian khổ ấy, bản lĩnh và ý chí quyết chiến, quyết thắng của công nhân vùng mỏ Quảng Ninh tỏa sáng, một trong những tấm gương tiêu biểu là Đại đội trưởng tự vệ Than Hòn Gai - Anh hùng Lực lượng vũ trang Đặng Bá Hát. Anh hùng Đặng Bá Hát sinh năm 1936 tại thôn Đồng Tái, xã Thống Kênh, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Ông là bộ đội trở về từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, rồi vào làm tại phân xưởng Đống - Bến của Xí nghiệp Than Hòn Gai (nay là Công ty Tuyển than Hòn Gai).

Ngày 20/8/1960, tự vệ bến Hòn Gai ra đời cùng với ngày thành lập Xí nghiệp Bến Hòn Gai, trận địa pháo phòng không 37 mm thuộc lực lượng tự vệ đã tham gia nhiều trận chiến đấu, bắn rơi nhiều máy bay địch, trong đó có trận đánh trả không quân Mỹ ngày 05/8/1964 là trận đầu đánh thắng giặc Mỹ xâm lược đánh phá miền Bắc đã đi vào lịch sử. Năm 1968, Đại đội pháo cao xạ 37 mm được thành lập thuộc Xí nghiệp Bến Hòn Gai, do Đặng Bá Hát làm Đại đội trưởng, gồm có 4 khẩu đội pháo, với biên chế 45 người.

Ngay khi nhận nhiệm vụ, Đại đội trưởng Đặng Bá Hát đã chỉ huy đơn vị tích cực huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu cao. Ông đã mang kinh nghiệm từ những tháng năm trong quân ngũ vận dụng vào xây dựng lực lượng tự vệ bán vũ trang.

Đặng Bá Hát

Đại đội trưởng Đặng Bá Hát và đồng đội trên trận địa (Ảnh: Công ty Tuyển than Hòn Gai)

Chiều 12/7/1972, không quân Mỹ đánh phá bến phà Bãi Cháy. Đại đội trưởng Đặng Bá Hát và toàn khẩu đội tập trung cao độ quan sát mục tiêu, bắn trả quyết liệt. Không quân Mỹ đã nghi binh, dùng 2 máy bay bay thấp, ném bom trúng trận địa. Đặng Bá Hát bị mảnh bom xuyên thủng bụng, một tay giữ chặt vết thương, tay kia ông vẫn phất cờ lệnh và miệng còn hô: Bắn! Nhưng vết thương quá nặng, Đặng Bá Hát đã anh dũng hy sinh bên mâm pháo.

Sau khi Đặng Bá Hát hy sinh, lá cờ lệnh trong trận đánh ngày 12/7/1972 được sưu tầm và hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Quân khu III. Đây là một kỷ vật vô cùng thiêng liêng và có sức lan tỏa sâu rộng đối với khách tham quan trong công tác tuyên truyền giáo dục lòng yêu nước, sự hy sinh quên mình vì sự nghiệp cách mạng của các thế hệ đi trước cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.

Liệt sĩ Đặng Bá Hát được Đảng và Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang. Tấm gương người chiến sĩ tự vệ anh hùng Đặng Bá Hát mãi khắc sâu trong lòng người dân vùng Mỏ, tên anh đã đi vào các tác phẩm thơ ca và được đặt cho một con đường của thành phố Hạ Long.

Tại Hà Nội, cả ngành Công nghiệp nhẹ - ngành hàng sản xuất hàng tiêu dùng cũng nằm trong số mục tiêu phá hoại của không quân Mỹ. Những đôi tay quen cầm thoi, dệt vải... của chị em công nhân Nhà máy Dệt 8-3 đã buộc phải cầm súng. Hệ thống phòng không được triển khai nhanh chóng. Từ các cửa phân xưởng, hệ thống hào giao thông được xây bằng gạch chắc chắn, đường hào chữ chi chạy xung quanh nhà máy; khi có báo động, công nhân xách súng chạy theo hào giao thông đến trận địa. Năm 1966, nhà máy tổ chức được một tiểu đoàn tự vệ gồm 5 đại đội, 134 trung đội, 2 tiểu đội trực thuộc; bộ phận hành chính tổ chức các đội công binh, hóa học, cứu sập, cứu thương, thông tin liên lạc... Phối hợp với trận địa cao xạ của Bộ Tư lệnh Quân khu Thủ đô, tự vệ nhà máy bố trí lưới lửa theo hai tuyến: tuyến trên cao gồm 8 tổ súng trường, 2 đại liên, 1 trung liên, đặt trên nóc phân xưởng đay, sợi, dệt. Tuyến mặt đất gồm 7 tổ, bố trí trận địa ở phân xưởng Nhuộm, Thoi suốt, Cơ khí. Đội hình chiến đấu hiệp đồng chặt chẽ với trận địa của Nhà máy Cơ khí Mai Động, Nhà máy Kẹo Hải Châu, Nhà máy Xay Lương Yên, tạo thành lưới lửa phía đông nam thành phố.

Tại Nhà máy Liên hiệp Dệt Nam Định, có ngày, Mỹ ném bom 2 - 3 trận. Vì vậy, thời gian này, nhiều người gọi Nhà máy là “Cồn Cỏ của Thành Nam”. Từ tháng 7/1965 đến tháng 12/1972, máy bay Mỹ đã gây ra hậu quả rất nặng nề: phá hủy 22% thiết bị máy móc và 70% nhà xưởng, 151 cán bộ, công nhân viên chức hy sinh, 197 người bị thương.

Để bảo vệ sản xuất, Nhà máy thành lập 1 tiểu đoàn tự vệ (gồm 3 đại đội) và 1 trung đội trực chiến lưu động gồm 283 cán bộ, chiến sĩ, trong đó có 131 là nữ dưới sự chỉ đạo của Tỉnh đội. “Đội bom mà sản xuất” là hình ảnh công nhân Nhà máy Dệt Nam Định thời kỳ này. Vừa hăng hái sản xuất, lực lượng tự vệ nhà máy còn tham gia chiến đấu tất cả các trận cùng quân và dân thành phố, đánh trả quyết liệt máy bay Mỹ. Có trận tự vệ nhà máy đã bổ sung, tăng cường 18 pháo thủ cho một đơn vị pháo cao xạ của bộ đội trên địa bàn thị xã Phủ Lý. Không chỉ nam công nhân tham gia chiến đấu, mà các chị em công nhân cũng rất anh dũng trên mọi mặt trận, nhiều chị đã hy sinh khi tuổi đời còn trẻ, như chị Vũ Thị Minh Nguyệt, đảng viên Đảng bộ Nhà máy Dệt Nam Định. Chị Nguyệt đã cùng đồng đội đánh trả máy bay Mỹ 21 trận. Trận thứ 22 chiến đấu bảo vệ cầu Phủ Lý, diễn ra vào chiều 07/7/1967, chị bị thương nhưng không cho đồng đội biết, vẫn tiếp tục chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng.

công nhân dệt

Công nhân Nhà máy Liên hiệp Dệt Nam Định vừa sản xuất, vừa đeo súng sẵn sàng chiến đấu (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Trong những trận quyết chiến bảo vệ sản xuất, bảo vệ nguồn lực của hậu phương miền Bắc để chi viện cho miền Nam, cán bộ, người lao động ngành Công Thương đã ghi nhiều chiến công vào trang vàng lịch sử của dân tộc. Khu Gang thép Thái Nguyên đã bắn hạ 59 máy bay của không quân Mỹ, 5 phi công Mỹ bị tự vệ bắt sống tại chỗ; ngày 10/12/1967, chị Lưu Thị Xuân cùng tự vệ Nhà máy Dệt 8-3 bắn rơi một máy bay phản lực Mỹ; ngày 13/8/1968, chỉ với 14 viên đạn 12 ly 7, tự vệ Nhà máy Dệt 8-3 lại bắn rơi một máy bay không người lái; tháng 7/1968, đội tự vệ của May 10 hiệp đồng với đơn vị bạn bắn rơi 1 máy bay phản lực Mỹ ở xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội; ngày 07/02/1972, lực lượng tự vệ của Đèo Nai đã anh dũng chiến đấu và bắn rơi được 1 máy bay Mỹ, góp phần vào thành tích bắn rơi chiếc máy bay thứ 200 của vùng Mỏ trên bầu trời miền Bắc; ngày 10/5/1972, tự vệ Nhà máy Điện Yên Phụ bắn rơi 1 máy bay F4 của Mỹ; ngày 27/6/1972 tự vệ Nhà máy Phân lân Văn Điển bắn rơi 1 máy bay F4 của Mỹ; đêm 19/12/1972, tự vệ Kho xăng dầu Thượng Lý bắn rơi chiếc máy bay AD6 của Mỹ; đêm ngày 22/12/1972, tự vệ Nhà máy Cơ khí Mai Động phối hợp với tự vệ Nhà máy Dệt kim Đông Xuân Hà Nội bắn rơi 1 chiếc F-111A “cánh cụp cánh xòe”... Những chiến công đó không những bảo đảm cho dòng điện, nguồn xăng dầu, vật tư, nguyên liệu, hàng tiêu dùng lưu thông mạnh mẽ trên thị trường, mà còn góp phần cùng quân và dân miền Bắc đập tan các cuộc tập kích đường không chiến lược của không quân Hoa Kỳ.

Mặc dù đã sơ tán những phân xưởng, thậm chí cả nhà máy công nghiệp quan trọng ra khỏi đô thị và bảo vệ khá hữu hiệu cơ sở sản xuất, nhưng sản xuất công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, do lực lượng lao động trẻ khỏe được huy động vào chiến trường. Mặt khác, tình trạng thiếu nguyên, nhiên, vật liệu trầm trọng, các thiết bị máy móc bị đánh phá hư hỏng chưa kịp sửa chữa hoặc sửa chữa vội vã không đảm bảo an toàn, sự cố thường xảy ra. Do đó, sản xuất công nghiệp bị giảm sút trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, đặc biệt những ngành là trọng điểm đánh phá của không quân Mỹ

Tự vệ Bánh kẹo

Tự vệ Nhà máy Bánh kẹo Hà Nội đẩy mạnh sản xuất, luyện chắc tay súng, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Thời kỳ 1965 - 1970, sản lượng điện giảm từ 633,6 triệu kWh xuống còn 501 triệu kWh, than giảm từ 4,2 triệu tấn xuống còn 2,7 triệu tấn, máy cắt gọt kim loại giảm từ 1.866 cái xuống còn 1.857 cái, ximăng giảm từ 573 nghìn tấn xuống còn 524 nghìn tấn, vải giảm từ 100,3 triệu mét xuống còn 89,4 triệu mét... Tính theo tỷ lệ, những sản phẩm giảm nhiều trong khoảng 30 - 50%. Những sản phẩm có mức sản xuất tăng lên chủ yếu thuộc công nghiệp địa phương do chủ trương đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương, do công nghiệp địa phương chú trọng khai thác nguyên vật liệu tại chỗ, nên ít bị ảnh hưởng bởi chiến tranh.

Đến năm 1971 (năm cuối cùng của thời kỳ ba năm khôi phục kinh tế), tình hình thực hiện kế hoạch đã có tiến bộ hơn, giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đã tăng 14% so với kế hoạch đề ra, cụ thể công nghiệp trung ương tăng 17,5% và công nghiệp địa phương tăng 11,2%, nhìn chung đã vượt so với mức trước chiến tranh 2,7%. Các sản phẩm quan trọng như điện, than, supe lân, vải, giấy... đều vượt kế hoạch.

Nữ tự vệ

Nữ tự vệ Phạm Thị Viễn, Khẩu đội 1, Trung đội dân quân tự vệ Nhà máy Cơ khí Mai Động đã bắn rơi một chiếc F-111A “cánh cụp cánh xòe” (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Công cuộc khôi phục đang tiến hành được 3 năm thì vào giữa năm 1972, đế quốc Mỹ lại bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai. Tuy chiến tranh phá hoại lần này chỉ kéo dài chưa đầy 1 năm, nhưng mức độ hủy diệt của nó bằng cả 4 năm của lần trước cộng lại.

Ngay khi chiến tranh leo thang vừa chấm dứt, ngày 23/01/1973, ký tắt Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, thì ngày 24/01/1973, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 200-CT/TW, yêu cầu mỗi cấp chính quyền và ngành kinh tế phải nắm chắc, giải quyết nhanh và có hiệu quả các vấn đề về ổn định sản xuất2.

Tiếp đến, ngày 25/6/1973, Bộ Chính trị có Thông báo số 04-TB/TW về nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế 1973 - 1975, nhấn mạnh: 1973, 1974, 1975 là ba năm khôi phục và phát triển kinh tế, nằm trong quá trình thực hiện bước đi ban đầu của thời kỳ công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc3.

Nghị quyết số 229-NQ/TW ngày 22/01/1974 Hội nghị lần thứ 22 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nhiệm vụ, phương hướng khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc trong hai năm 1974 - 1975 đã đề ra nhiệm vụ cấp bách là khẩn trương hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục mức sản xuất công nghiệp ngang trước chiến tranh hoặc chí ít bằng năm 1971, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc4.

Công cuộc khôi phục và phát triển công nghiệp lần này tập trung vào một số ngành cơ bản như các ngành sản xuất vật liệu xây dựng và năng lượng; phát triển các ngành cơ khí chế tạo xà lan, tàu kéo, sửa chữa ôtô, xe máy phục vụ cho khôi phục giao thông vận tải; sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; ngoài ra, đẩy mạnh các ngành khai thác cá, muối, nước mắm...

Vốn đầu tư xây dựng cơ bản công nghiệp trong ba năm 1973 - 1975 là 3 tỉ đồng, gấp hơn 1,2 lần so với tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của 6 năm trước (1965 - 1971); trong đó, vốn cho khởi công các công trình mới là 465 triệu đồng và chiếm 15% vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Riêng năm 1973, vốn đầu tư 823 triệu đồng, vốn xây lắp tăng lên 378 triệu đồng, được ưu tiên cho các ngành: Điện: 53 triệu đồng (14%), Thực phẩm: 46 triệu đồng (11%), Cơ khí: 42 triệu đồng (10%), Luyện kim: 23 triệu đồng (7%)... Vốn đầu tư trên hạn ngạch là 200 triệu đồng dành cho khôi phục và tiếp tục các công trình dở dang trong chiến tranh; vốn cho khởi công các công trình mới là 35 triệu đồng5.

Những ngành đã thực hiện khôi phục và cải tạo tốt là điện, than, vật liệu xây dựng, cơ khí sửa chữa và đóng mới phương tiện vận tải, sản xuất phụ tùng, phụ kiện cho khôi phục và phát triển kinh tế. Những công trình quan trọng được khôi phục, cải tạo và mở rộng là mỏ than Vàng Danh: 1,8 triệu tấn/năm, mỏ than Mông Dương: 0,9 triệu tấn/năm, cải tạo Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí đợt II và III: công suất 50 MW, Nhiệt điện Thái Nguyên: 24 MW, Cơ khí Hà Nội: 2.410 tấn sản phẩm, Supe Phốtphát Lâm Thao đợt II: 30 vạn tấn/năm, Ximăng Hải Phòng: 80 vạn tấn/năm...

Các công trình dở dang trong chiến tranh được tiếp tục đầu tư và các công trình mới được xây dựng đã đi vào sản xuất là các nhà máy: Dệt Minh Phương (Vĩnh Phú): 50 triệu mét vải/năm, In nhãn hiệu Vĩnh Phú: 1.000 tấn/năm, Nhiệt điện Ninh Bình: công suất 100 MW, Thủy điện Thác Bà: công suất 108 MW, Luyện thép Thái Nguyên: 12 vạn tấn, Cán thép Gia Sàng: 5 vạn tấn, Phân đạm Hà Bắc: 6 vạn tấn, Cơ khí Trung tâm Cẩm Phả: 17.000 tấn sản phẩm, Đóng tàu Bạch Đằng: 3 nghìn tấn, Khóa Minh Khai: 1.000 tấn sản phẩm, Động cơ Điện Hunggari: 1.600 tấn sản phẩm, Cơ khí Nông nghiệp: 5.000 tấn sản phẩm (máy kéo nhỏ), Gạch Bỉm Sơn và Gạch Xuân Hòa: 15 triệu viên/năm...

Tổng đầu tư cho công nghiệp giai đoạn 1973 - 1975 tăng 9,7 lần so với giai đoạn khôi phục kinh tế 1955 - 19576.

Nhờ đẩy nhanh tốc độ khôi phục, cải tạo và xây dựng mới, cơ sở vật chất - kỹ thuật và năng lực sản xuất của ngành Công nghiệp miền Bắc năm 1975 đã được khôi phục và tăng lên đáng kể, không những chỉ thay đổi về lượng mà còn có thay đổi về chất. Tính chung, trong cả thời kỳ 10 năm (1965 - 1975), vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho công nghiệp là 4.325 triệu đồng, chiếm 35 - 37% vốn đầu tư kiến thiết của cả nền kinh tế và gấp 2 lần tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản công nghiệp của thời kỳ 10 năm trước gộp lại (1955 - 1965). Nhờ thế, tài sản cố định trong công nghiệp tăng 107%.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp vẫn được duy trì. Trong giai đoạn này đã xây dựng 11 trường công nhân kỹ thuật, trong đó 3 trường được khởi công ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, đó là các trường: Cơ khí Việt Đức, Kỹ thuật Khoan Sông Đà, Cơ khí Thủy lợi. Năm 1974, tuyển và đào tạo 11 vạn công nhân kỹ thuật, trong đó gửi đi học nước ngoài 8,5 nghìn người, học ở các trường dạy nghề trung ương 7,5 vạn người và các trường dạy nghề địa phương 2,65 vạn người; đào tạo đại học 1,8 vạn người và trung học chuyên nghiệp 29 vạn người7. Như vậy, tổng số đào tạo từ bậc đại học trở xuống tới công nhân kỹ thuật và học nghề trong năm 1974 là khoảng 42 vạn người - đây quả là một con số không nhỏ.

công nhân Supe

Các cán bộ, công nhân viên Nhà máy Supe Phốtphát Lâm Thao điều chế phân bón qua hệ thống cánh khuấy chạy điện8 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Công tác nghiên cứu khoa học vẫn được chú ý trong những năm chiến tranh, đặc biệt trong thời kỳ khôi phục. Hướng tập trung nghiên cứu là sử dụng các nguyên, vật liệu thay thế, chế tạo các sản phẩm mới, cải tiến các sản phẩm đã có, tăng cường công tác quản lý chất lượng và tiêu chuẩn hóa, công bố cấp giấy chứng nhận chỉ tiêu chất lượng, cải tiến kỹ thuật và hợp lý hóa sản xuất, áp dụng các tiến bộ công nghệ mới để tăng hiệu quả và chất lượng sản phẩm.

lốp xe đạp

Những chiếc lốp xe đạp vừa được tháo ra từ khuôn hấp của dây chuyền sản xuất mới của Nhà máy Cao su Sao Vàng Hà Nội, tháng 10/1974 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Những chủ trương và nỗ lực kể trên đã đem lại kết quả khá tốt: Năm 1975, ngành Công nghiệp làm ra giá trị sản lượng 4.100 triệu đồng (tính theo giá cũ), tăng 77% so với năm 1965 là năm bước vào chiến tranh phá hoại và gấp 2,8 lần năm 1960. Về tốc độ phát triển giá trị sản lượng công nghiệp, trong giai đoạn 1965 - 1968 có giảm sút, giai đoạn 1971 - 1975 đã có sự tăng trưởng khá hơn, đạt tốc độ tăng bình quân 10,3%/năm. Tỷ trọng công nghiệp trong tổng giá trị sản lượng công - nông nghiệp được duy trì ở mức trên 50%, cụ thể là: năm 1965 chiếm 53,3%, năm 1969 chiếm 53,9% và năm 1975 chiếm 55%. Mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh, song công nghiệp địa phương và công nghiệp nhẹ đã nhanh chóng vươn lên trong các năm 1966 - 1970; bình quân hằng năm, công nghiệp nặng chỉ tăng 0,5% thì công nghiệp nhẹ lại tăng 1,5%, công nghiệp trung ương giảm 1,8% thì công nghiệp địa phương lại tăng 3,6%.

Những chủ trương và nỗ lực kể trên đã đem lại kết quả khá tốt: Năm 1975, ngành Công nghiệp làm ra giá trị sản lượng 4.100 triệu đồng (tính theo giá cũ), tăng 77% so với năm 1965 là năm bước vào chiến tranh phá hoại và gấp 2,8 lần năm 1960. Về tốc độ phát triển giá trị sản lượng công nghiệp, trong giai đoạn 1965 - 1968 có giảm sút, giai đoạn 1971 - 1975 đã có sự tăng trưởng khá hơn, đạt tốc độ tăng bình quân 10,3%/năm. Tỷ trọng công nghiệp trong tổng giá trị sản lượng công - nông nghiệp được duy trì ở mức trên 50%, cụ thể là: năm 1965 chiếm 53,3%, năm 1969 chiếm 53,9% và năm 1975 chiếm 55%. Mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh, song công nghiệp địa phương và công nghiệp nhẹ đã nhanh chóng vươn lên trong các năm 1966 - 1970; bình quân hằng năm, công nghiệp nặng chỉ tăng 0,5% thì công nghiệp nhẹ lại tăng 1,5%, công nghiệp trung ương giảm 1,8% thì công nghiệp địa phương lại tăng 3,6%.

Sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 1975 đã đạt và vượt so với năm 1965: điện phát ra đạt 1.333,9 triệu kWh (tương đương 210%), than sạch: 5,2 triệu tấn (tương đương 123%), máy phát điện diesel: 2.075 cái (tương đương 242%), động cơ điện: 10.069 cái (tương đương 176,2%), tàu kéo và ca nô: 115 cái (tương đương 130,6%), cày bừa cải tiến: 302,5 nghìn cái (tương đương 141%), phân bón hóa học: 423 nghìn tấn (tương đương 293,7%), thuốc trừ sâu: 4.683 tấn (tương đương 127,4%), vải mặc: 105,2 triệu mét (tương đương 105%), quần áo dệt kim: 19,1 triệu cái (tương đương 241%), nước chấm: 20 triệu lít (tương đương 471,6%)9...

Cùng với thắng lợi của khôi phục và phát triển công nghiệp, vào năm 1975, lần đầu tiên nền kinh tế miền Bắc đã đạt được chỉ tiêu “Ba số 5”, đó là: 5 triệu tấn than, 5 triệu tấn thóc và 5 triệu con lợn. Điều này thật có ý nghĩa với một nước nghèo vừa ra khỏi chiến tranh ác liệt; đây là căn cứ để đánh giá miền Bắc căn bản hoàn thành công cuộc khôi phục lần thứ hai vào năm 1975.

Binh đoàn Than

Năm 1967, gần 2.000 thợ mỏ và một số đơn vị khác được tập hợp thành Binh đoàn Than gồm Tiểu đoàn 385, Tiểu đoàn 386 và Tiểu đoàn 9. Kể từ khi được thành lập đến ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, những người lính Binh đoàn Than đã tham gia hàng trăm trận đánh lớn nhỏ.

Rất nhiều đồng chí chiến đấu anh dũng, lập chiến công, được phong tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, Dũng sĩ diệt xe cơ giới, Huân chương Giải phóng. Điển hình như: Chiến sĩ Nguyễn Xuân Hùng (công nhân Tuyển than Hòn Gai) cùng đồng đội bắn cháy 2 xe tăng, 1 xe cơ giới; chiến sĩ Nguyễn Đức Bình (thợ mỏ Đèo Nai) cùng đồng đội đánh Kho xăng Nhà Bè, thiêu hủy hàng vạn lít xăng dầu; Tiểu đội trưởng Phạm Ngọc Niếp (thợ mỏ Thống Nhất) dũng cảm mưu trí, cùng đồng đội bắn chìm 1 tàu chiến của Mỹ - ngụy...

Thống kê sau năm 1975, trong gần 2.000 thợ mỏ vào chiến trường năm ấy, có hơn 300 người lính Binh đoàn Than không bao giờ trở lại; gần 400 là thương binh hoặc bị phơi nhiễm chất độc da cam.

Nguồn: Website của Vinacomin và báo Quảng Ninh.

binh đoàn Than

Binh đoàn Than làm lễ xuất quân, năm 1967 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)


1. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 13 (Từ năm 1965 đến năm 1975), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2017, tr.42.

2, 3. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.34, tr.440, 71.

4. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.35, tr.9.

5. Xem Bộ Công Thương: Sơ lược lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.146.

6. Xem Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.375.

7. Xem Bộ Công Thương: Sơ lược lịch sử ngành Công Thương, Sđd, tr.147.

8. Năm 1974, Nhà máy Supe Phốtphát Lâm Thao (Vĩnh Phú) đã sản xuất vượt mức 220 tấn phân bón phục vụ vụ Đông Xuân.

9. Xem Bộ Công Thương: Sơ lược lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.148.

3. Sự phát triển của một số ngành công nghiệp chủ yếu

a) Điện lực

Điện lực là mục tiêu bị đánh phá ác liệt trong chiến tranh; hầu như 100% các nhà máy điện bị đánh phá, trong đó nhiều nhà máy bị đánh nhiều lần. Với khẩu hiệu “giữ vững dòng điện như mạch máu”, cán bộ, công nhân viên ngành Điện tập trung cao độ cho công tác khôi phục các nhà máy điện, đảm bảo đường điện luôn thông suốt phục vụ kịp thời cho sản xuất và đời sống và đáp ứng các yêu cầu chiến đấu. Sau cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, ta đã lập tức khôi phục các lò hơi số 4 Nhà máy Điện Việt Trì, lò hơi số 2 Nhà máy Điện Uông Bí, nồi hơi Nhà máy Điện Yên Phụ và 25 cụm lò hơi nhỏ khác, đồng thời phát triển các trạm diesel để cung cấp cho các cơ sở không được dùng điện lưới.

thủy điện

Sau cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mỹ, Điện lực cũng là ngành hoàn thành sớm nhất việc khôi phục 100% các nhà máy điện bị hư hỏng vào năm 1974, cải tạo và mở rộng một loạt các nhà máy điện quan trọng: Uông Bí đợt II và III, đưa công suất từ 48 MW lên 55 MW, Thái Nguyên: công suất 24 MW, Hà Bắc và Việt Trì: công suất 12 MW. Hoàn thành xây dựng các nhà máy điện lớn như Nhiệt điện Ninh Bình: 100 MW, Thủy điện Thác Bà: 108 MW; chuẩn bị cho xây dựng Nhà máy điện Phả Lại, mở rộng các trạm biến áp 110 kV Đông Anh, Hà Đông, An Lạc; khôi phục các trạm biến áp Mông Dương, Trình Xuyên và các đường dây 110 kV quan trọng Ninh Bình - Thanh Hóa, Phả Lại - Hải Hưng, đường dây 220 kV Thanh Hóa - Vinh; xây dựng thêm các trạm diesel ở Khu IV cũ, các trạm bù công suất ở các khu công nghiệp lớn và các trạm biến thế phục vụ nông nghiệp.

Số lượng các nhà máy điện đã tăng từ 40 cơ sở năm 1965 lên hơn 50 cơ sở năm 1975. Năm 1975, lần đầu tiên miền Bắc đạt sản lượng điện 1,34 tỉ kWh, gấp hơn 2 lần mức của năm 1965, trong đó tỷ lệ điện dành cho sản xuất nông nghiệp tăng từ 2% (năm 1960) lên 6,1% (năm 1965) và 14,8% (năm 1975).

b) Luyện kim

Ngành Luyện kim bị đánh phá ác liệt và thiệt hại nặng nề, đặc biệt là Luyện kim đen. Dự kiến sản xuất 20 vạn tấn thép vào kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1965 - 1970) đã không thực hiện được. Hầu hết các sản phẩm khác đều giảm sút mạnh: gang giảm từ 127,8 nghìn tấn (năm 1965) xuống còn 95,1 nghìn tấn (năm 1975), quặng cromit giảm từ 13,1 nghìn tấn xuống còn 10,4 nghìn tấn, thiếc thỏi giảm từ 436 tấn xuống còn 263 tấn, riêng thép, năm 1975 bắt đầu sản xuất được 36 nghìn tấn.

Tuy nhiên, trong chiến tranh, chúng ta đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ nghiên cứu, thiết kế, xây dựng và luyện kim có trình độ, tiến hành khảo sát thăm dò được một trữ lượng trên 200 triệu tấn quặng sắt. Ngay khi chiến tranh vừa kết thúc vào năm 1975, khu Liên hợp Gang thép Thái Nguyên được khôi phục và cải tạo mở rộng với công suất 12 vạn tấn thép và 15 vạn tấn gang/năm, tiếp tục xây dựng Nhà máy Luyện cán thép Gia Sàng, khôi phục và mở rộng các mỏ Cromit Cổ Định (Thanh Hóa): 2 vạn tấn, Nhà máy Luyện thiếc Tĩnh Túc: 550 nghìn tấn quặng, mỏ graphite (Yên Bái): 600 nghìn tấn.

c) Cơ khí

Đây cũng là ngành bị đánh phá nặng nề và giảm sút mạnh trong thời kỳ chiến tranh. Năm 1968, khi đế quốc Mỹ tuyên bố ngừng ném bom phá hoại miền Bắc, một số sản phẩm cơ khí quan trọng đã sụt giảm so với cùng kỳ năm 1967 và không hoàn thành kế hoạch như bơm nước, rơmoóc, lốp ôtô, động cơ điện, tầu kéo, phụ tùng ôtô; sản xuất dụng cụ đồ nghề, nông cụ. Năm 1970, đế quốc Mỹ đã ngừng ném bom, nhưng so với năm 1969, sản lượng của ngành vẫn bị giảm nhiều do phải ngừng sản xuất các mặt hàng ứ đọng để chuyển sang sản xuất phụ tùng và sửa chữa.

Trong những năm 1973 - 1975, ngành Cơ khí đã tiến hành sắp xếp theo nhóm sản phẩm, tập trung đảm bảo sửa chữa nhanh chóng các phương tiện giao thông vận tải, mở rộng mạng lưới các trạm trại cơ khí nông nghiệp, chế tạo các thiết bị cho công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm.

d) Khai thác than

Trong chiến tranh, sản lượng than khai thác bị giảm mạnh và chỉ cung cấp đủ cho các nhà máy điện: cho các ngành như rèn, đúc, nung vôi, nung gạch thiếu than nghiêm trọng... Cũng lấy mốc kết thúc cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, là quý I/1968, khai thác đạt 70% kế hoạch và bằng 71% so với cùng kỳ năm 1967. Lượng than dự trữ tại các cảng còn rất mỏng: cảng Tiên Kiên còn 11 nghìn tấn, cảng Hải Phòng chỉ còn 3,4 nghìn tấn.

Từ năm 1973, miền Bắc trở lại thời kỳ hòa bình, ta đã khôi phục lại Nhà máy Sàng than Hòn Gai: 1 triệu tấn; Nhà máy Sàng than Cửa Ông: 2 triệu tấn (tương đương 2/3 công suất cũ); khôi phục và cải tạo 3 mỏ than lộ thiên ở Quảng Ninh có công suất 3,5 triệu tấn; xây dựng tiếp mỏ than Mông Dương: 0,9 triệu tấn; các mỏ than Vàng Danh: 1,8 triệu tấn; mỏ than Hà Lầm, Hữu Nghị: 0,3 triệu tấn; mỏ than Phấn Mễ: 10 vạn tấn; khởi công mỏ than Cao Sơn: 2 triệu tấn, Nhà máy Phân lân nung chảy Văn Điển... Sản lượng ngành Than cũng nhanh chóng được khôi phục và có bước nhảy vọt: Năm 1975, lần đầu tiên miền Bắc đạt sản lượng 5,2 triệu tấn than, vượt 1 triệu tấn so với mức năm 1965; trong đó chủ yếu nhờ vào tăng sản lượng khai thác mỏ than Hòn Gai từ 2,3 triệu tấn (năm 1971) lên 4,1 triệu tấn (năm 1975).

đ) Hóa chất phân bón

Khôi phục, cải tạo và mở rộng các cơ sở quan trọng như Hóa chất Việt Trì: 4.500 tấn, Supe Phốtphát Lâm Thao đợt II từ 18 vạn tấn lên 30 vạn tấn, Cao su Sao Vàng: 5 vạn bộ lốp ôtô và 3 triệu lốp xe đạp... Xây dựng thêm nhiều nhà máy mới như Phân đạm Hà Bắc: công suất 6 vạn tấn, Phân lân nung chảy Ninh Bình: 10 vạn tấn, Ắc quy Vĩnh Phú: 6 vạn kWh, các cơ sở nhỏ đắp lốp xe thuộc Bộ Giao thông vận tải, thuộc Tổng cục Hóa chất và thuộc các địa phương. Chuẩn bị khởi công Nhà máy Phân lân nung chảy Thanh Hóa, công suất 2 vạn tấn...

e) Sản xuất hàng tiêu dùng

Sản xuất hàng tiêu dùng cũng không tránh khỏi có những thời gian sút giảm và căng thẳng về cung ứng hàng hóa tiêu dùng, như giấy viết, chiếu cói, đồ sành sứ thủy tinh, đường mật, nước mắm, cá muối... Sau khi buộc Mỹ chấm dứt chiến tranh phá hoại, ta đã nhanh chóng khôi phục và cải tạo các cơ sở quan trọng như Dệt 8-3 với công suất 40 triệu mét vải, Dệt Nam Định: 60 triệu mét vải, Tơ lụa Nam Định: 7 triệu mét lụa, Sứ Hải Dương: 2.250 tấn sản phẩm, Bóng đèn Rạng Đông: 7 triệu cái. Khởi công xây dựng Nhà máy Dệt Minh Phương (Vĩnh Phú) do Trung Quốc giúp, Giấy Bãi Bằng (Vĩnh Phú) do Thuỵ Điển giúp, Dệt kim Thắng Lợi, May Xuất khẩu; thành lập các quốc doanh đánh cá và cảng cá Hạ Long, Cát Bà, Hải Phòng, Sông Gianh; xây dựng các nhà máy chè Nghĩa Lộ, Yên Bái, Trần Phú, Cửu Long, In nhãn hiệu Vĩnh Phú... Các địa phương cũng tự xây dựng nhiều cơ sở nhỏ chế biến chè, bột mì, ngô, khoai, sắn, đậu phụ, nước mắm, rau quả...

Danh mục

Tùy chỉnh