1. Hoạt động nội thương

Sản xuất phát triển, đời sống của các tầng lớp dân nhìn chung được cải thiện đã làm cho sức mua của thị trường trong nước tăng lên đáng kể. Mặt khác, việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đã tạo điều kiện cho hoạt động của thương mại ngày càng phù hợp với chế thị trường, nên thị trường trong nước duy trì được mức tăng trưởng ổn định, lưu thông hàng hóa thông suốt, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng đa dạng không ngừng tăng lên của sản xuất đời sống. Tốc độ tăng trưởng của khu vực thương mại - dịch vụ qua 5 năm 1996 - 2000, 2001 - 2005 2006 - 2010 đều theo hướng đi lên.

bảng 62

bảng 63

bảng 64

So sánh tốc độ tăng của ba khu vực: Tăng trưởng của khu vực nông, lâm, thủy sản xu hướng giảm qua các năm, từ 4,30% mỗi năm giai đoạn 1996 - 2000, giảm xuống 3,83%/năm giai đoạn 2001 - 2005, giảm tiếp xuống 3,34%/năm giai đoạn 2006 - 2010. Tương tự, tăng trưởng khu vực công nghiệp - xây dựng cũng giảm dần từ 10,6% mỗi năm giai đoạn 1996 - 2000, giảm xuống 10,25%/năm giai đoạn 2001 - 2005, giảm tiếp xuống 7,94%/năm giai đoạn 2006 - 2010. Duy nhất khu vực thương mại - dịch vụ xu hướng tăng, từ 5,75%/năm giai đoạn 1996 - 2000, tăng lên 6,96%/năm giai đoạn 2001 - 2005, tăng tiếp lên 7,73%/năm giai đoạn 2006 - 2010.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa doanh thu dịch vụ cuối giai đoạn 2001 - 2010 gấp 1,5 lần đầu giai đoạn, đạt 219.400 tỉ đồng so với 145.874 tỉ đồng, mức tăng trưởng bình quân 5,75%/năm. Giá trị hàng hóa doanh thu dịch vụ của ba khu vực quốc doanh, tập thể, nhân đều tăng, nhưng xét về cấu, khu vực quốc doanh tập thể xu hướng giảm, ngược lại, khu vực nhân xu hướng tăng.

Về cấu, không những biến động đáng kể, thể hiện trên hai mặt: Thứ nhất, không sự “đổi ngôi” của ba khu vực. Trong 10 năm 2001 - 2010, dẫn đầu luôn bán lẻ, tiếp theo dịch vụ lưu trú, ăn uống, cuối cùng du lịch dịch vụ khác. Thứ hai, mức dao động của mỗi khu vực không cao. Lấy tỷ trọng cao nhất của khu vực du lịch các dịch vụ khác năm 2008 11% với năm thấp nhất 2001 6%, dao động cũng chỉ 5%. Mức dao động của hai khu vực tiếp theo còn thấp hơn nữa. Tỷ trọng cao nhất của dịch vụ lưu trú, ăn uống năm 2002 12,7%, so với năm thấp nhất 2010 11,1%, mức dao động 1,6%. Tương tự, tỷ trọng cao nhất của bán lẻ năm 2001 81,5% so với năm thấp nhất 2007 77%, dao động cũng chỉ 4,5%.

Xét về giá trị tuyệt đối, qua từng 5 năm, tổng mức lưu chuyển hàng hóa doanh thu dịch vụ ngày càng tăng cao. Trong 5 năm đầu (2001 - 2005), tổng mức lưu chuyển hàng hóa doanh thu dịch vụ của năm cuối kỳ (2005) 480,3 nghìn tỉ đồng, cao gấp 1,96 lần năm đầu kỳ (2001) 245,3 nghìn tỉ đồng. Đến 5 năm tiếp theo (2006 - 2010), tổng mức lưu chuyển hàng hóa doanh thu dịch vụ năm cuối kỳ (năm 2010) đã tăng 2,58 lần so với năm đầu kỳ (2006). Tổng mức bán lẻ hàng hóa doanh thu dịch vụ của 5 năm 2006 - 2010 đạt 5,105 triệu tỉ đồng, gấp 2,86 lần so với 1,738 triệu tỉ đồng của 5 năm 2001 - 2005. Hoạt động bán lẻ ngày càng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Trong 5 năm 1996 - 2000, tổng mức bán lẻ hàng hóa doanh thu dịch vụ đạt 913,694 nghìn tỉ đồng, tương đương 18,01% GDP cùng thời kỳ (5,072 triệu tỉ đồng). Tương tự, giai đoạn 2001 - 2005 tổng mức bán lẻ đạt 1,738 triệu tỉ đồng, tương đương 25,06% GDP (6,934 triệu tỉ đồng); giai đoạn 2006 - 2010 tổng mức bán lẻ đạt 5,105 triệu tỉ đồng, tương đương 53% GDP (9,631 triệu tỉ đồng).

Tốc độ tăng trưởng khối lượng luân chuyển của khu vực thương mại - dịch vụ được coi ấn tượng nhờ sự đóng góp quan trọng của các chính sách liên tục được cập nhật, điều chỉnh sát với thực tiễn trong thời kỳ này. Đó sự ra đời của Luật thương mại năm 1997, quy định một cách hệ thống về các hoạt động thương mại hàng hóa như mua bán hàng hóa, đại diện, môi giới, ủy thác, đại lý, gia công, đấu giá, đấu thầu; các dịch vụ thương mại như giao nhận hàng hóa, giám định hàng hóa các hoạt động xúc tiến thương mại như khuyến mại, quảng cáo... Tiếp đó, Luật thương mại năm 2005 đã điều chỉnh theo hướng mở rộng nội hàm của khái niệm hoạt động thương mại. So với Luật thương mại năm 1997, phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại năm 2005 không còn bị giới hạn bởi 14 hành vi thương mại đã được mở rộng ra tất cả các hoạt động “nhằm mục đích sinh lợi”. Đối tượng điều chỉnh của Luật thương mại năm 2005 hoạt động thương mại của thương nhân vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Những lĩnh vực Luật thương mại điều chỉnh sự tiếp cận của Bộ luật dân sự, chừng mực nào đó Bộ luật dân sự được xem luật “mẹ” được sử dụng để điều chỉnh đối với các hoạt động kinh doanh sinh lời.

Hoạt động xúc tiến thương mại bắt đầu được chú trọng, hệ thống các quan xúc tiến thương mại hình thành phát triển mạnh trong giai đoạn này. Trước năm 1996, 3 trung tâm xúc tiến thương mại địa phương được thành lập (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thái Bình). Trong giai đoạn 1996 - 2010, 51/63 địa phương thành lập trung tâm xúc tiến thương mại.

Lần đầu tiên chế hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại được hình thành thông qua các Chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 57/2003/QĐ-TTg nhằm hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thông qua các hiệp hội ngành hàng, tổng công ty. Năm 2005, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg (được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 80/2009/QĐ-TTg ngày 21/5/2009) ban hành Quy chế xây dựng thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006 - 2010. Đến năm 2010 chế chính sách hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại thông qua Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia thực hiện theo Quyết định số 72/2010/QĐ-TTg. chế theo Quyết định 72/2010/QĐ-TTg toàn diện hơn, bao trùm cả hoạt động xúc tiến thương mại cho phát triển xuất khẩu, thị trường trong nước, thị trường miền núi, biên giới, hải đảo. Từ đó hoạt động xúc tiến thương mại đóng góp vai trò ngày càng quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; củng cố, giữ vững thị phần phát triển thị trường trong nước trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp nước ngoài, khai thác tối ưu các thị trường nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo.

Hệ thống siêu thị thuần Việt lâu đời nhất

Nguyễn Thị Nghĩa - nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Saigon Co.op, thường được biết đến với tên gọi Chín Ngân - danh khi hoạt động Sài Gòn trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ - kể lại:

Vào những năm 1990, Sài Gòn khoảng 300 hợp tác nhưng mất dần chỉ còn trên 100 đơn vị. Lúc đó, Ban quản hợp tác Mua bán Trưởng ban cũng trong tình thế khó khăn. Đây cũng lúc ý tưởng hình thành siêu thị bùng cháy trong bà.

Tuy nhiên, hợp tác không đủ tiền nên quyết định liên doanh với một công ty bán lẻ Nhật Bản. Mối “lương duyên” không thành. Phía Nhật rút vốn trước hạn chấp nhận đền bù. lấy 3 tỉ đồng đền mở siêu thị.

Ngày 09/02/1996, Saigon Co.op chính thức ra mắt siêu thị Co.opmart đầu tiên - Co.opmart Cống Quỳnh được khai trương trở thành một sự kiện đáng nhớ. Mọi người kéo nhau đến xem, phần đông hiếu kỳ, dẫn tới cảnh đẩy nhau vỡ cả cửa kính.

Năm 1996 đã siêu thị Maximart Citimart, nhưng đó không phải đối thủ của Saigon Co.op. Hai siêu thị này tập trung vào hàng ngoại nhập, hướng tới giới nhà giàu, còn Co.opmart tập trung vào phân khúc bình dân, bán hàng Việt Nam, giá cả vừa phải.

Mục tiêu chính của Saigon Co.op lúc bấy giờ cố gắng chiếm lĩnh thị trường Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng đến năm 2003, nguyên Thủ tướng Văn Kiệt động viên nên đem loại hình mua bán “văn minh” tới những vùng đất mới. Kết quả, hai siêu thị được đóng chốt tại hai tỉnh Bình Định Cần Thơ.

Trải qua 1/4 thế kỷ, hệ thống siêu thị Co.opmart vẫn đều đặn phát triển. Saigon Co.op đã nâng tổng số lượng siêu thị cao hơn 128 lần so với ban đầu. Quy phân bố Co.opmart cũng được mở rộng từ Thành phố Hồ Chí Minh đến 45 tỉnh, thành phố trên cả nước. Cho đến nay, Saigon Co.op vẫn đơn vị sáng tạo, đi đầu trong Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” xuyên suốt đồng bộ trên toàn hệ thống bán lẻ.

Tháng 4/2021, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam (VietKings) công bố Co.opmart hệ thống siêu thị thuần Việt lâu đời nhất trên sở tồn tại phát triển ổn định liên tục trong 25 năm.

Nguồn: VnExpress.net.

siêu thị

1. Hoạt động nội thương

Sản xuất phát triển, đời sống của các tầng lớp dân nhìn chung được cải thiện đã làm cho sức mua của thị trường trong nước tăng lên đáng kể. Mặt khác, việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đã tạo điều kiện cho hoạt động của thương mại ngày càng phù hợp với chế thị trường, nên thị trường trong nước duy trì được mức tăng trưởng ổn định, lưu thông hàng hóa thông suốt, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng đa dạng không ngừng tăng lên của sản xuất đời sống. Tốc độ tăng trưởng của khu vực thương mại - dịch vụ qua 5 năm 1996 - 2000, 2001 - 2005 2006 - 2010 đều theo hướng đi lên.

bảng 62

bảng 63

bảng 64

So sánh tốc độ tăng của ba khu vực: Tăng trưởng của khu vực nông, lâm, thủy sản xu hướng giảm qua các năm, từ 4,30% mỗi năm giai đoạn 1996 - 2000, giảm xuống 3,83%/năm giai đoạn 2001 - 2005, giảm tiếp xuống 3,34%/năm giai đoạn 2006 - 2010. Tương tự, tăng trưởng khu vực công nghiệp - xây dựng cũng giảm dần từ 10,6% mỗi năm giai đoạn 1996 - 2000, giảm xuống 10,25%/năm giai đoạn 2001 - 2005, giảm tiếp xuống 7,94%/năm giai đoạn 2006 - 2010. Duy nhất khu vực thương mại - dịch vụ xu hướng tăng, từ 5,75%/năm giai đoạn 1996 - 2000, tăng lên 6,96%/năm giai đoạn 2001 - 2005, tăng tiếp lên 7,73%/năm giai đoạn 2006 - 2010.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa doanh thu dịch vụ cuối giai đoạn 2001 - 2010 gấp 1,5 lần đầu giai đoạn, đạt 219.400 tỉ đồng so với 145.874 tỉ đồng, mức tăng trưởng bình quân 5,75%/năm. Giá trị hàng hóa doanh thu dịch vụ của ba khu vực quốc doanh, tập thể, nhân đều tăng, nhưng xét về cấu, khu vực quốc doanh tập thể xu hướng giảm, ngược lại, khu vực nhân xu hướng tăng.

Về cấu, không những biến động đáng kể, thể hiện trên hai mặt: Thứ nhất, không sự “đổi ngôi” của ba khu vực. Trong 10 năm 2001 - 2010, dẫn đầu luôn bán lẻ, tiếp theo dịch vụ lưu trú, ăn uống, cuối cùng du lịch dịch vụ khác. Thứ hai, mức dao động của mỗi khu vực không cao. Lấy tỷ trọng cao nhất của khu vực du lịch các dịch vụ khác năm 2008 11% với năm thấp nhất 2001 6%, dao động cũng chỉ 5%. Mức dao động của hai khu vực tiếp theo còn thấp hơn nữa. Tỷ trọng cao nhất của dịch vụ lưu trú, ăn uống năm 2002 12,7%, so với năm thấp nhất 2010 11,1%, mức dao động 1,6%. Tương tự, tỷ trọng cao nhất của bán lẻ năm 2001 81,5% so với năm thấp nhất 2007 77%, dao động cũng chỉ 4,5%.

Xét về giá trị tuyệt đối, qua từng 5 năm, tổng mức lưu chuyển hàng hóa doanh thu dịch vụ ngày càng tăng cao. Trong 5 năm đầu (2001 - 2005), tổng mức lưu chuyển hàng hóa doanh thu dịch vụ của năm cuối kỳ (2005) 480,3 nghìn tỉ đồng, cao gấp 1,96 lần năm đầu kỳ (2001) 245,3 nghìn tỉ đồng. Đến 5 năm tiếp theo (2006 - 2010), tổng mức lưu chuyển hàng hóa doanh thu dịch vụ năm cuối kỳ (năm 2010) đã tăng 2,58 lần so với năm đầu kỳ (2006). Tổng mức bán lẻ hàng hóa doanh thu dịch vụ của 5 năm 2006 - 2010 đạt 5,105 triệu tỉ đồng, gấp 2,86 lần so với 1,738 triệu tỉ đồng của 5 năm 2001 - 2005. Hoạt động bán lẻ ngày càng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Trong 5 năm 1996 - 2000, tổng mức bán lẻ hàng hóa doanh thu dịch vụ đạt 913,694 nghìn tỉ đồng, tương đương 18,01% GDP cùng thời kỳ (5,072 triệu tỉ đồng). Tương tự, giai đoạn 2001 - 2005 tổng mức bán lẻ đạt 1,738 triệu tỉ đồng, tương đương 25,06% GDP (6,934 triệu tỉ đồng); giai đoạn 2006 - 2010 tổng mức bán lẻ đạt 5,105 triệu tỉ đồng, tương đương 53% GDP (9,631 triệu tỉ đồng).

Tốc độ tăng trưởng khối lượng luân chuyển của khu vực thương mại - dịch vụ được coi ấn tượng nhờ sự đóng góp quan trọng của các chính sách liên tục được cập nhật, điều chỉnh sát với thực tiễn trong thời kỳ này. Đó sự ra đời của Luật thương mại năm 1997, quy định một cách hệ thống về các hoạt động thương mại hàng hóa như mua bán hàng hóa, đại diện, môi giới, ủy thác, đại lý, gia công, đấu giá, đấu thầu; các dịch vụ thương mại như giao nhận hàng hóa, giám định hàng hóa các hoạt động xúc tiến thương mại như khuyến mại, quảng cáo... Tiếp đó, Luật thương mại năm 2005 đã điều chỉnh theo hướng mở rộng nội hàm của khái niệm hoạt động thương mại. So với Luật thương mại năm 1997, phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại năm 2005 không còn bị giới hạn bởi 14 hành vi thương mại đã được mở rộng ra tất cả các hoạt động “nhằm mục đích sinh lợi”. Đối tượng điều chỉnh của Luật thương mại năm 2005 hoạt động thương mại của thương nhân vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Những lĩnh vực Luật thương mại điều chỉnh sự tiếp cận của Bộ luật dân sự, chừng mực nào đó Bộ luật dân sự được xem luật “mẹ” được sử dụng để điều chỉnh đối với các hoạt động kinh doanh sinh lời.

Hoạt động xúc tiến thương mại bắt đầu được chú trọng, hệ thống các quan xúc tiến thương mại hình thành phát triển mạnh trong giai đoạn này. Trước năm 1996, 3 trung tâm xúc tiến thương mại địa phương được thành lập (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thái Bình). Trong giai đoạn 1996 - 2010, 51/63 địa phương thành lập trung tâm xúc tiến thương mại.

Lần đầu tiên chế hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại được hình thành thông qua các Chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 57/2003/QĐ-TTg nhằm hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thông qua các hiệp hội ngành hàng, tổng công ty. Năm 2005, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg (được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 80/2009/QĐ-TTg ngày 21/5/2009) ban hành Quy chế xây dựng thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006 - 2010. Đến năm 2010 chế chính sách hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại thông qua Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia thực hiện theo Quyết định số 72/2010/QĐ-TTg. chế theo Quyết định 72/2010/QĐ-TTg toàn diện hơn, bao trùm cả hoạt động xúc tiến thương mại cho phát triển xuất khẩu, thị trường trong nước, thị trường miền núi, biên giới, hải đảo. Từ đó hoạt động xúc tiến thương mại đóng góp vai trò ngày càng quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; củng cố, giữ vững thị phần phát triển thị trường trong nước trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp nước ngoài, khai thác tối ưu các thị trường nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo.

Hệ thống siêu thị thuần Việt lâu đời nhất

Nguyễn Thị Nghĩa - nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Saigon Co.op, thường được biết đến với tên gọi Chín Ngân - danh khi hoạt động Sài Gòn trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ - kể lại:

Vào những năm 1990, Sài Gòn khoảng 300 hợp tác nhưng mất dần chỉ còn trên 100 đơn vị. Lúc đó, Ban quản hợp tác Mua bán Trưởng ban cũng trong tình thế khó khăn. Đây cũng lúc ý tưởng hình thành siêu thị bùng cháy trong bà.

Tuy nhiên, hợp tác không đủ tiền nên quyết định liên doanh với một công ty bán lẻ Nhật Bản. Mối “lương duyên” không thành. Phía Nhật rút vốn trước hạn chấp nhận đền bù. lấy 3 tỉ đồng đền mở siêu thị.

Ngày 09/02/1996, Saigon Co.op chính thức ra mắt siêu thị Co.opmart đầu tiên - Co.opmart Cống Quỳnh được khai trương trở thành một sự kiện đáng nhớ. Mọi người kéo nhau đến xem, phần đông hiếu kỳ, dẫn tới cảnh đẩy nhau vỡ cả cửa kính.

Năm 1996 đã siêu thị Maximart Citimart, nhưng đó không phải đối thủ của Saigon Co.op. Hai siêu thị này tập trung vào hàng ngoại nhập, hướng tới giới nhà giàu, còn Co.opmart tập trung vào phân khúc bình dân, bán hàng Việt Nam, giá cả vừa phải.

Mục tiêu chính của Saigon Co.op lúc bấy giờ cố gắng chiếm lĩnh thị trường Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng đến năm 2003, nguyên Thủ tướng Văn Kiệt động viên nên đem loại hình mua bán “văn minh” tới những vùng đất mới. Kết quả, hai siêu thị được đóng chốt tại hai tỉnh Bình Định Cần Thơ.

Trải qua 1/4 thế kỷ, hệ thống siêu thị Co.opmart vẫn đều đặn phát triển. Saigon Co.op đã nâng tổng số lượng siêu thị cao hơn 128 lần so với ban đầu. Quy phân bố Co.opmart cũng được mở rộng từ Thành phố Hồ Chí Minh đến 45 tỉnh, thành phố trên cả nước. Cho đến nay, Saigon Co.op vẫn đơn vị sáng tạo, đi đầu trong Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” xuyên suốt đồng bộ trên toàn hệ thống bán lẻ.

Tháng 4/2021, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam (VietKings) công bố Co.opmart hệ thống siêu thị thuần Việt lâu đời nhất trên sở tồn tại phát triển ổn định liên tục trong 25 năm.

Nguồn: VnExpress.net.

siêu thị

III- THƯƠNG MẠI

Năm 1996, sau 10 năm thực hiện đổi mới, những mục tiêu của kế hoạch 5 năm (1991 - 1995) đã hoàn thành, Việt Nam bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; nhiệm vụ đặt ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa cũng cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, bối cảnh trong nước và quốc tế có những đổi thay nhanh chóng đòi hỏi phải có những chính sách kịp thời nhằm thích ứng với bối cảnh mới.

Với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, sức sản xuất ngày càng nâng cao, đòi hỏi một khung khổ pháp lý cao hơn, tạo thuận lợi cho dòng chảy hàng hóa trong và ngoài nước. Trên bình diện quốc tế, các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết về kinh tế, thương mại; mọi cơ hội mở ra cho tất cả các quốc gia. Nhưng ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường,... thuộc về các nước phát triển và các công ty đa quốc gia, nên doanh nhân các nước chậm phát triển và đang phát triển, trong đó có Việt Nam, luôn dễ bị tổn thương trong cuộc cạnh tranh không cân sức.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về: đa dạng hóa, đa phương hóa, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, các Bộ quản lý ngành Công Thương đã tham mưu, đề xuất, xây dựng nhiều chính sách thương mại theo hướng mở rộng các hoạt động thương mại trong nước, đi đôi với mở rộng quyền kinh doanh của các chủ thể Việt Nam trong các hoạt động thương mại với nước ngoài, góp phần từng bước thực hiện tự do hóa thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho sự lớn mạnh của tầng lớp thương nhân đủ sức tự bảo vệ mình trước những thách thức và sức ép ngày càng lớn trong dòng chảy thương mại quốc tế.

Ngày 10/5/1997, Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật thương mại (có hiệu lực từ ngày 01/01/1998). Đây là đạo luật thương mại đầu tiên, là văn bản quan trọng ghi nhận giai đoạn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước khi Luật thương mại được ban hành, các hoạt động thương mại ở nước ta được quy định ở một số văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và các bộ, ngành. Sự thiếu vắng một văn bản có giá trị pháp lý cao đã hạn chế sự phát triển các hoạt động thương mại. Luật thương mại là đạo luật đầu tiên thể chế các chính sách của Đảng và Nhà nước về thương mại, cụ thể là:

- Công nhận quyền bình đẳng trước pháp luật của các tổ chức, cá nhân kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Các chủ thể được tham gia bình đẳng trước pháp luật vào các hoạt động thương mại.

- Thể hiện xu hướng mở rộng quyền kinh doanh thương mại, thúc đẩy hoạt động thương mại trên mọi lĩnh vực mà Nhà nước không cấm.

- Làm cho pháp luật thương mại Việt Nam phù hợp với pháp luật và tập quán thương mại quốc tế, tạo cơ sở pháp lý để xử lý các quan hệ kinh tế, thương mại trong đàm phán song phương và đa phương với các nước, các tổ chức thương mại khu vực và thế giới.

Để từng bước đưa các quy định của Luật thương mại vào cuộc sống, Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) tiếp tục tham mưu xây dựng các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật thương mại. Trên cơ sở các nghị định, các bộ, ngành đã ban hành hàng chục thông tư và các văn bản hướng dẫn khác để thực hiện Luật. Có thể kể đến một số nghị định như:

- Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hóa với nước ngoài (ngày 02/8/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/2001/ NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/1998/ NĐ-CP). Nghị định này cùng với các văn bản hướng dẫn đã tạo ra một bước đột phá trong hoạt động xuất, nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia ngoại thương. Các phương thức mua bán phổ biến trong thương mại quốc tế như ủy thác, đại lý, tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu... cũng đã được pháp quy hóa trong Luật góp phần đa dạng hóa các loại hình hoạt động xuất, nhập khẩu.

- Nghị định số 11/1999/NĐ-CP ngày 03/3/1999 của Chính phủ về hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện; hàng hóa, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện (được bổ sung bởi Nghị định số 73/2002/NĐ-CP ngày 20/8/2002); Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện. Đây là văn bản quan trọng nhằm định hướng cho các hoạt động thương mại và cụ thể hóa nguyên tắc thương nhân được kinh doanh những mặt hàng mà pháp luật không cấm.

- Nghị định số 20/1999/NĐ-CP ngày 12/4/1999 của Chính phủ về kinh doanh dịch vụ giám định hàng hóa; Nghị định số 20/2006/NĐ-CP ngày 20/02/2006 của Chính phủ quy đinh chi tiết Luật thương mại về kinh doanh dịch vụ giám định thương mại. Các nghị định hướng dẫn chi tiết những quy định trong Luật thương mại, đặc biệt là phân biệt giữa kiểm tra bắt buộc và giám định theo trưng cầu của Nhà nước đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu với giám định theo yêu cầu của các bên trong hợp đồng.

- Nghị định số 32/1999/NĐ-CP ngày 05/5/1999 của Chính phủ về khuyến mại, quảng cáo thương mại và hội chợ, triển lãm thương mại; Nghị định số 24/2003/NĐ-CP ngày 13/3/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành pháp luật quảng cáo. Các nghị định này tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các hình thức xúc tiến thương mại phát triển, góp phần thúc đẩy các hoạt động mua bán hàng hóa trong nước cũng như giao lưu thương mại quốc tế.

- Nghị định số 48/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ quy định về văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân và của doanh nghiệp du lịch Việt Nam ở trong nước, ở nước ngoài; Nghị định số 45/2000/NĐ-CP ngày 06/9/2000 của Chính phủ về văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân nước ngoài và của doanh nghiệp du lịch nước ngoài tại Việt Nam; Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều kiện của Luật du lịch. Các văn bản này là cơ sở pháp lý quan trọng để thương nhân Việt Nam mở rộng hoạt động thương mại ra nước ngoài và cũng là cơ sở pháp lý tạo thuận lợi thu hút các hoạt động thương mại - du lịch của thương nhân nước ngoài vào Việt Nam.

Để tăng cường quản lý nhà nước về thương mại, tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam tự chủ hơn khi hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, năm 1999, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng; năm 2001, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế; năm 2002, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam và Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế; năm 2004, ban hành Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và Pháp lệnh chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, Luật cạnh tranh; năm 2005 ban hành Luật thương mại; năm 2006, ban hành Nghị định thư gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); năm 2010, ban hành Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Bên cạnh đó, Bộ Thương mại cũng ban hành các quyết định sau: Quyết định số 1681/QĐ-BTM ngày 15/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Thương mại quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý thị trường; Quyết định số 1249/QĐ-BTM ngày 31/7/2007 của Bộ trưởng Bộ Thương mại về việc sửa đổi, bổ sung Điều 3 Quyết định số 1681/QĐ-BTM về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý thị trường.

Việc hình thành khung khổ pháp lý hoạt động thương mại trong và ngoài nước đã góp phần quan trọng vào phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng và thương mại - dịch vụ, đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp.

2. Hoạt động ngoại thương

Vào thời điểm khủng hoảng tiền tệ Đông Á 1997 - 1998, hoạt động ngoại thương nước ta bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tăng trưởng xuất khẩu đang từ hai con số giảm xuống còn 1,9% năm 1998. Nhưng đây cũng là năm chính sách xuất, nhập khẩu có bước đột phá mạnh mẽ, với Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua, bán hàng hóa với nước ngoài.

Nghị định số 57/1998/NĐ-CP đã xóa bỏ nhiều rào cản trước đó như chế độ giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu, tạo môi trường pháp lý thông thoáng, bình đẳng hơn, tạo ra sự chuyển biến về chất cho cơ chế xuất - nhập khẩu, tôn trọng quyền kinh doanh và quyền tự chủ của doanh nghiệp, giảm thiểu cơ chế xin - cho, hầu hết hàng hóa được làm thủ tục xuất, nhập khẩu trực tiếp tại hải quan, chỉ chịu sự điều tiết về thuế; đối với biện pháp phi thuế chỉ còn áp dụng đối với một số lượng rất ít mặt hàng. Hàng hóa xuất khẩu theo hạn ngạch chỉ có hai mặt hàng là gạo và hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường có hạn ngạch (theo hạn ngạch của nước ngoài). Các hàng hóa khác nhập khẩu không bị áp dụng hạn ngạch.

bảng 65

Nhờ khai thông vấn đề quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu, xóa bỏ giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu, tháo bỏ các rào cản, tăng cường các biện pháp khuyến khích, đặc biệt là các biện pháp tài chính, nên số lượng các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất, nhập khẩu tăng lên nhanh chóng qua các thời kỳ. Năm 1998 có 2.800 đơn vị trực tiếp xuất, nhập khẩu, nhưng đến năm 2000 đã có khoảng trên 12.000 doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia, trong đó có các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn FDI. Kim ngạch xuất khẩu năm 1999 đã tăng 23,3% so với năm 1998, năm 2000 tăng 25,4% so với năm 1999.

Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu và cơ cấu thị trường xuất, nhập khẩu tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỷ trọng của các nhóm hàng đã qua chế biến tăng dần. Hàng nguyên liệu thô năm 1996 chiếm trên 70%, đến năm 2000 còn khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hàng chế biến, trong đó có cả hàng chế tạo, năm 1996 chỉ chiếm khoảng trên 20%, đến năm 2000 đã lên khoảng 40%. Đồng thời, có sự gia tăng nhanh chóng của những mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dầu thô, gạo, hàng điện tử, máy tính, hàng dệt may, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ, thủy sản, cà phê, hạt điều... Năm 1996, có hai mặt hàng dầu thô và dệt may vượt mức 1 tỉ USD, đến năm 2000 đã có 4 mặt hàng vượt qua mức 1 tỉ USD là dầu thô, hàng may mặc, giày dép và thủy sản. Xuất khẩu bình quân đầu người năm 2000 đạt 184,2 USD, đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước có nền ngoại thương kém phát triển.

Thị trường xuất khẩu được mở rộng và chuyển hướng tích cực. Từ chỗ chỉ tập trung vào thị trường Đông Âu những năm 1986 - 1991 đã chuyển sang thị trường các nước Đông Nam Á và EU, tỷ trọng thị trường EU tăng nhanh trong giai đoạn 1996 - 2000. Năm 1996, xuất khẩu sang thị trường ASEAN đạt 1.177,5 triệu USD, chiếm 24,4%, đến năm 2000 đạt 2.619 triệu USD, chiếm 18%. Ngược lại, xuất khẩu sang thị trường EU đã tăng từ 16,1% năm 1996 (1.174,6 triệu USD) lên 19,6% năm 2000 (2.845,1 triệu USD). Quan hệ buôn bán với các nước châu Đại Dương được mở rộng. Năm 1996, xuất khẩu sang Ôxtrâylia mới đạt 64,8 triệu USD, đến năm 2000 đã vượt ngưỡng 1 tỉ USD (1.272,5 triệu USD)1.

Ba năm sau khi Nghị định số 57/NĐ-CP ra đời, với sự tham mưu, đề xuất của Bộ Thương mại, Chính phủ ban hành Nghị định số 44/2001/ NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/1998/NĐ-CP và Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 04/4/2001 về cơ chế quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2001 - 2005 (được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 150/2003/QĐ-TTg ngày 22/7/2003; được gia hạn bởi Quyết định số 323/2005/QĐ-TTg ngày 07/12/2005). Nghị định số 44/2001/NĐ-CP và Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg đã tạo một cơ chế quản lý xuất, nhập khẩu rõ ràng, minh bạch, ổn định trong thời gian 5 năm, với 3 danh mục: hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; hàng xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại và hàng xuất khẩu, nhập khẩu theo các quy định quản lý chuyên ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạch định kế hoạch sản xuất - kinh doanh; cho công tác quản lý nhà nước, công bố rõ ràng lộ trình bãi bỏ giấy phép của Bộ Thương mại.

May Sông Hồng

Nghị định số 57/1998/NĐ-CP và Nghị định số 44/2001/NĐ-CP đã tạo quyền chủ động cho các chủ thể tham gia xuất, nhập khẩu, từ chỗ phải có giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu với những điều kiện rất chặt chẽ về vốn lưu động, về loại hình kinh doanh, sản xuất, về kinh tế quốc doanh hay ngoài quốc doanh... đến chỗ mọi thương nhân Việt Nam đều có quyền xuất, nhập khẩu không cần giấy phép, mở rộng quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu cho doanh nghiệp FDI, của chi nhánh công ty nước ngoài, huy động các thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu.

Ngày 23/01/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2006/NĐ- CP quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, bao gồm xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu; các hoạt động ủy thác và nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu, đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa, thay thế cho Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 44/2001/NĐ-CP ngày 02/8/2001) của Chính phủ. Quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu của doanh nghiệp theo nghị định này được mở rộng hơn nữa, cho phép thương nhân được xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu, gia công, đại lý mua, bán hàng hóa theo quy định và trong phạm vi Nghị định số 12/2006/NĐ-CP không phụ thuộc vào ngành hàng, ngành nghề ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Bên cạnh đó, Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg đã điều chỉnh lại danh mục hàng hóa cấm xuất, cấm nhập cho phù hợp hơn, loại bỏ ngay một số hàng nhập khẩu ra ngoài danh mục hàng nhập khẩu có giấy phép, đồng thời xác định lộ trình loại bỏ giấy phép đối với các mặt hàng nhập khẩu thời kỳ 2001 - 2005. Xác định các nguyên tắc quản lý hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo quản lý chuyên ngành; áp dụng các biện pháp quản lý mới phù hợp với quy định của Tổ chức Thương mại thế giới, như: hạn ngạch thuế quan, thuế chống phá giá, chống trợ cấp...

Những chính sách ấy đã tác động tích cực đến hoạt động ngoại thương, trước hết được thể hiện ở kim ngạch xuất, nhập khẩu những năm 2001 - 2010. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2010 đạt gần 157 tỉ USD, gấp trên 5,2 lần năm 2000, trong đó xuất khẩu đạt 72,2 tỉ USD, gấp trên 5 lần; nhập khẩu 84,8 tỉ USD, gấp gần 5,4 lần. Trong những năm 2001 - 2010, bình quân mỗi năm, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng 18%, trong đó xuất khẩu tăng 17,4%; nhập khẩu tăng 18,4%. Với kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân mỗi năm 17,4%, gấp gần 2,4 lần tốc độ tăng GDP, đất nước đã hoàn thành mục tiêu đưa “nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên hai lần nhịp độ tăng GDP” đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 (Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX). Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu bình quân đầu người năm 2010 đã gấp 4,3 lần năm 2001, trong 10 năm 2001 - 2010 bình quân tăng 17,4%/năm2.

bảng 66

bảng 67

bảng 68

Cơ cấu hàng xuất khẩu chuyển biến rõ rệt. Hàng thô hoặc sơ chế giảm dần từ 53,3% năm 2001 xuống còn 34,8% năm 2010; hàng chế biến tăng dần từ 46,7% năm 2001 lên 65,1% năm 2010.

Hàng nhập khẩu được kiểm soát tốt, cơ cấu nhập khẩu lành mạnh, chủ yếu là tư liệu sản xuất, nguyên phụ liệu phục vụ làm hàng xuất khẩu như máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, nhiên liệu, vật liệu, phụ liệu; trong khi hàng tiêu dùng chỉ chiếm dưới 10% tổng kim ngạch nhập khẩu.

Thanh long Việt Nam lên đường sang Mỹ

Sau thời gian đàm phán và kiểm tra trên thực địa, ngày 30/7/2008, Tham tán thương mại Việt Nam tại Mỹ, ông Ngô Văn Thoan gửi công văn về nước thông báo phía Mỹ đã cho phép nhập khẩu trái thanh long của Việt Nam vào thị trường nước này.

Trước đó, Cục Kiểm dịch động thực vật (APHIS) thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ đã nghiên cứu, phân tích trong phòng thí nghiệm, cử các đoàn kiểm tra thực tế từ khâu gieo trồng, thu hoạch, bảo quản đối với trái thanh long và các phương tiện kỹ thuật được sử dụng kiểm dịch tại Việt Nam.

Kết quả điều tra được APHIS thông báo rộng rãi để lấy ý kiến công chúng Mỹ từ ngày 09/5 đến ngày 08/7/2008, đúng 60 ngày theo quy định của luật pháp Mỹ.

Ngoài những quy định chung về kiểm dịch thực vật, các lô hàng thanh long Việt Nam nhập vào Mỹ phải đảm bảo ba tiêu chuẩn riêng của APHIS.

Một là, thanh long được đưa qua chiếu xạ với liều lượng hấp thụ tối thiểu 400 gray.

Hai là, mỗi lô hàng thanh long đều phải có giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật do Cơ quan bảo vệ thực vật quốc gia của Việt Nam (NPPO) cấp và ghi rõ đã được kiểm dịch và xử lý chiếu xạ theo quy định (hoặc lô hàng sẽ được chiếu xạ tại cảng đến trên lãnh thổ Mỹ).

Ba là, các quy định trên chỉ áp dụng cho các lô hàng thương mại.

Thương vụ Việt Nam tại Mỹ cũng cho biết, qua làm việc, APHIS cho rằng họ có thể xem xét và cho phép cùng một lúc ba hoặc bốn loại trái cây có bản chất và đặc tính tương tự, chứ không nhất thiết phải làm từng loại như đã làm với thanh long.

Xuất khẩu thanh long sang thị trường Mỹ cần phải đạt được các chỉ tiêu sau:

- Thanh long phải được chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn “GlobalGAP”.

- Cơ sở đóng gói thanh long xuất khẩu phải đạt chuẩn.

- Giống thanh long được phép xuất khẩu sang thị trường Mỹ là thanh long ruột trắng và ruột đỏ.

- Trọng lượng trái thanh long tương đối nhỏ hơn các thị trường khác, khoảng 300 - 350g/quả.

- Tất cả lô hàng thanh long từ Việt Nam khi xuất khẩu vào Mỹ phải đạt các điều kiện về chuẩn kỹ thuật và nguồn gốc xuất xứ: Mã số vùng trồng + Mã số cơ sở đóng gói + Mã số nhà máy xử lý chiếu xạ.

- Thanh long xuất khẩu sang Mỹ cần phải tuân thủ Hiệp định SPS - Hiệp định Vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và các chất tồn dư khác ở dưới mức cho phép, không có các loại sâu bệnh thuộc đối tượng dịch hại mà Mỹ quan tâm (đặc biệt là ruồi đục quả).

Nguồn: Thông tin truyền thông Phát triển nông nghiệp - nông thôn và Trung tâm xúc tiến thương mại, Du lịch và Đầu tư Đồng Tháp.


1. Niên giám Thống kê các năm 1996 - 2000.

2. Xem Tổng cục Thống kê: Số liệu thống kê Việt Nam 10 năm đầu thế kỷ XXI, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2011, tr.71.

Danh mục

Tùy chỉnh