2. Nội thương

a) Hoạt động kinh doanh diễn ra sôi động

Hoạt động kinh doanh hàng hóa tại miền Nam trong giai đoạn này rất sôi động với số lượng lớn thương nhân trong ngoài nước tham gia. Đến năm 1971, tổng số những người đăng kinh doanh thương nghiệp (bao gồm cả bán buôn bán lẻ) được cấp sổ môn bài gần 195.000 người. Trong khi đó, dân số miền Nam lúc này khoảng 16 triệu người, riêng vùng do chính quyền Sài Gòn kiểm soát hoàn toàn chỉ 7 - 8 triệu người. Như vậy tính bình quân, cứ 40 - 80 người dân thì lại một người trực tiếp kiếm sống nhờ việc kinh doanh, phân phối hàng hóa. Nhiều sở kinh doanh thương mại sử dụng đến 20 lao động.

Cùng với sự gia tăng nhanh của đội ngũ thương nhân sự phát triển mạnh về sở hạ tầng kinh doanh. Nhiều kho hàng, chợ, khu tập trung kinh doanh, cửa hàng, hãng buôn... được mở rộng thiết lập mới. Các đầu mối kinh doanh, phân phối lớn nhất tập trung chủ yếu tại Sài Gòn - Chợ Lớn, Đà Nẵng Cần Thơ. Đặc biệt, các đô thị lớn ghi nhận sự xuất hiện kênh phân phối hàng hóa hiện đại giống như tại phương Tây, đó những trung tâm thương mại (hay còn gọi thương xá), siêu thị các gian hàng trưng bày sản phẩm như Thương TAX hay Siêu thị Nguyễn Du tại Sài Gòn.

Phương thức hệ thống kinh doanh được giới thương nhân miền Nam tổ chức theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp. Nhiều sở kinh doanh số vốn lớn sở hữu riêng kho hàng, sở gia công, đội xe vận tải, hệ thống cửa hàng phân phối quan hệ chặt chẽ với các nguồn hàng, thị trường nước ngoài.

Với ưu thế về vốn, quan hệ hội cũng như kinh nghiệm kinh doanh, giới thương nhân người Hoa chiếm vai trò đặc biệt trong hoạt động lưu thông hàng hóa. Trong một số lĩnh vực như kinh doanh gạo, vải,... thương nhân người Hoa gần như nắm vị trí độc quyền hệ thống bán buôn, trực tiếp kiểm soát biến động giá cả trên thị trường.

Giới thương nhân người Việt nắm vai trò lớn hơn trong hoạt động phân phối bán lẻ, tập trung chủ yếu trong các mặt hàng thực phẩm, hàng hóa tiêu dùng gia đình... Mặc số môn bài của thương nhân quốc tịch Việt Nam, kể cả số môn bài vốn kinh doanh lớn, tăng lên đáng kể sau năm 1960, nhưng chủ yếu do nhiều thương nhân người Hoa xin nhập quốc tịch Việt Nam hoặc chuyển quyền kinh doanh cho người thân người Việt Nam đứng tên nhằm lẩn tránh việc chính quyền Ngô Đình Diệm cấm ngoại kiều kinh doanh nhiều ngành nghề theo Đạo dụ số 53, ban hành ngày 06/9/1956.

một nghịch trong hoạt động nội thương tại miền Nam thời kỳ này, đó chiến tranh càng khốc liệt thì việc kinh doanh hàng hóa lại càng sôi động. Cường độ chiến tranh tăng lên kéo theo sự gia tăng mạnh của nhiều loại hàng hóa được nhập khẩu vào thị trường dưới các hình thức viện trợ. Đồng thời, Mỹ lực lượng đồng minh ạt tăng quân, tạo ra một bộ phận mới tác động lớn về cả nhu cầu lẫn nguồn cung hàng hóa trên thị trường.

Mặt khác, hoạt động kinh doanh thương nghiệp không đòi hỏi vốn quá nhiều nhưng cho tỷ suất lợi nhuận cao, đồng vốn được quay vòng nhanh nên ngày càng thu hút nhiều người tham gia, đặc biệt một bộ phận người dân nông thôn mới chuyển đến các khu đô thị. Chiến tranh đã tàn phá các khu vực nông thôn gây ra tình trạng “cưỡng bức đô thị hóa”. Hàng triệu người vốn sống vùng nông thôn buộc phải di chuyển đến các khu đô thị để tránh bị dồn ép vào các khu tập trung “khu trù mật”, “ấp chiến lược”, “ấp tân sinh”... hoặc để tránh thương vong khi chiến tranh ngày càng khốc liệt hơn. Đầu những năm 1960, dân số thành thị chỉ chiếm 20% tổng dân số miền Nam, nhưng đến đầu năm 1970, con số này đã lên đến 43% tổng dân số1. Mất ruộng đất chỉ số vốn nhỏ, hầu hết những người rời bỏ nông thôn chỉ còn một cách kiếm sống tham gia buôn bán cung cấp dịch vụ.

Siêu thị Nguyễn Du - siêu thị đầu tiên của Việt Nam

Ngày 16/10/1967, Siêu thị Nguyễn Du được Tổng cuộc Tiếp tế - quan thương nghiệp của chính quyền Sài Gòn, khai trương tại góc đường Nguyễn Du Chu Mạnh Trinh, Quận 1, Sài Gòn. Đây được xem siêu thị đầu tiên tại Việt Nam cũng lần đầu tiên nhiều người dân Sài Gòn được tận hưởng sự tiện lợi khi mua sắm hàng hóa đa dạng thông qua hình thức bán lẻ hiện đại này.

Tại siêu thị Nguyễn Du, khách đi tay không vào, qua cửa quay sẽ tự lấy giỏ xách hoặc xe đẩy, đi chọn những sản phẩm đã được ghi giá bán, xếp trên kệ. Chọn xong hàng, khách sẽ ra tính tiền tại quầy thu ngân trang bị máy tính tiền. Siêu thị tất cả 6 quầy thu ngân, trong đó còn một quầy “hỏa tốc” dành cho những khách mua ít hàng một lối ra cho người không mua hàng. Mặc nằm vị trí được xem không thuận tiện cho việc mua bán, nhưng ngay sau khi mở cửa, số khách hàng đến siêu thị được đánh giá “ngoài mức tưởng tượng”. Bãi gửi xe trong siêu thị thường xuyên chật kín những dòng xe thời thượng ngày ấy như Honda, Mobylette, Vespa. Siêu thị phục vụ trung bình khoảng 2.500 khách mỗi ngày mức doanh thu lên tới 1,5 triệu đồng tiền Sài Gòn - số tiền rất lớn thời bấy giờ.

Đến tháng 12/1967, 2 siêu thị nhân cỡ nhỏ An Đông Đoàn Thị Điểm được mở với hình hoạt động tương tự như siêu thị Nguyễn Du. Thậm chí, ông Trần Đỗ Cung - người đứng đầu Tổng cuộc Tiếp tế phụ trách kế hoạch thành lập Siêu thị Nguyễn Du đã được giới thương nhân Thái Lan mời gặp mặt để trình bày kinh nghiệm tổ chức vận hành siêu thị.

Nguồn: Phạm Công Luận: Sài Gòn - Chuyện đời của phố, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2015, t.II, tr.103.

  1. b) Sự dính líu của quân đội trên thị trường

Quân nhân đóng vai trò hết sức quan trọng trên cả hai vai trò, người bán người mua, trong các hoạt động kinh doanh hàng hóa tại miền Nam thời kỳ này.

Trong vai trò người mua, lúc cao điểm, tới 549.500 quân nhân Mỹ hơn 65.000 quân nhân lực lượng đồng minh xuất hiện tại miền Nam. mức lương, phụ cấp cao hơn nhiều lần so với mặt bằng chung thu nhập của người dân địa phương thói quen chi tiêu hào phóng, sức mua của bộ phận quân nhân, nhân viên ngoại quốc gia đình họ tác động rất lớn đến sự phát triển các hoạt động thương mại tại miền Nam.

quân nhân nước ngoài được trả lương bằng đồng USD cần đổi ra đồng tiền Sài Gòn để chi tiêu nên sức mua của bộ phận này trên thị trường thể đo lường thông qua khối lượng giấy bạc tiền Sài Gòn Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (thuộc chính quyền Sài Gòn) phát hành để đổi lấy USD của Mỹ. Lượng giấy bạc phục vụ mục đích này thường chiếm từ 20% đến 40% tổng số lượng giấy bạc được phát hành hằng năm. Đơn cử, trong năm 1968, 116 tỉ đồng được phát hành thì phần dùng để đổi tiền cho Mỹ lên đến 50 tỉ đồng Sài Gòn. Việc tung ra thị trường một khối lượng giấy bạc tài chính rất lớn khiến áp lực lạm phát tại miền Nam ngày càng tăng buộc chính quyền Sài Gòn phải khuyến khích nhập khẩu tiêu thụ càng nhiều hàng viện trợ càng tốt để kìm chế tác động của lạm phát.

Còn đối với quân đội của chính quyền Sài Gòn thì lúc cao điểm tới 1.100.000 người. Để củng cố lòng trung thành cũng như dễ dàng tuyển mộ thêm quân, chính quyền Sài Gòn dành nhiều đặc quyền, đặc lợi kinh tế cho giới quân nhân. dụ, họ được quyền mua nhiều loại hàng hóa giá rẻ từ hệ thống hậu cần quân đội để tuồn bán ra thị trường bên ngoài, hưởng chênh lệch hoặc gia đình họ được ưu tiên vay vốn ưu đãi để mở kinh doanh, buôn bán làm giàu. Trong số 42.300 sản miền Nam năm 1975 thì đến 17.300 quan quân đội2. Gia tăng thu nhập từ nhiều cách giúp quân nhân gia đình họ mức sống dả duy trì sức mua cao.

Các khoản chi tiêu dân sự của lực lượng quân đội tạo ra nguồn thu nhập lớn cho hàng triệu người dân miền Nam từ nông dân, thợ cắt tóc, thợ giặt đến tiểu thương, chủ các nhà hàng,... qua đó, lại kích thích nhu cầu chi tiêu trên thị trường, tạo ra sự sầm uất “bất thường”.

thể nói hàng PX hàng Quân tiếp vụ hai bộ phận hàng hóa chính làm nên sự phong phú, sôi động trên thị trường miền Nam. Trong đó, hàng PX hay hàng hóa ngoại nhập từ các cửa hàng PX (Post Exchange) do Mỹ thiết lập để cung ứng hàng hóa tiêu dùng dành cho quân nhân nhân viên dân sự Mỹ cũng như quân nhân lực lượng đồng minh như Hàn Quốc, Ôxtrâylia, Niu Dilân, Philíppin... tại miền Nam. Cửa hàng PX được đặt tại tất cả những nơi quan, căn cứ quân sự của quân đội Mỹ cung cấp đa dạng các loại hàng hóa, gồm thực phẩm, hoa quả, rượu, tivi, radio, xe máy, tủ lạnh, bàn ghế, quần áo, đồng hồ, đồ trang sức... Các loại hàng hóa này đều thương hiệu chất lượng cao như được bán tại chính thị trường Mỹ. Cửa hàng PX cung cấp cả các loại hàng hóa thị trường bên ngoài tại miền Nam không hàng nhập khẩu chính ngạch giá nhập khẩu quá cao hoặc đó hàng của những nước Mỹ không muốn chính quyền Sài Gòn ưu tiên nhập khẩu.

Do hàng hóa tại các PX không được bán cho người bản địa nên được miễn thuế nhập khẩu, giá chỉ bằng 1/2, thậm chí 1/3 so với giá thị trường. Điều này không chỉ tạo ra sự hấp dẫn đối với quân nhân Mỹ, lực lượng đồng minh với cả người Việt Nam. Bằng nhiều con đường khác nhau, quân nhân Mỹ cũng như lực lượng đồng minh đã bán một lượng lớn hàng PX ra ngoài thị trường để trục lợi. Những người Việt Nam lập gia đình với quân nhân Mỹ lực lượng đồng minh thường những đầu mối gom hàng PX.

hàng tiêu dùng

Hàng tiêu dùng nhập khẩu được bày bán tràn lan trên đường phố các đô thị lớn miền Nam, bao gồm cả lượng lớn hàng PX được tuồn lậu ra bên ngoài (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Buôn lậu hàng PX được xem điều “bình thường” trong nền kinh tế miền Nam xuất hiện các khu chuyên kinh doanh hàng PX công khai, quy lớn tại các đô thị, thị trấn, trục đường giao thông chính, thậm chí ngay cạnh các căn cứ quân sự của Mỹ. Chỉ riêng hai cửa hàng PX lớn nhất của quân đội Mỹ tại Sài Gòn - Chợ Lớn đã tạo ra vài chợ trời phục vụ mọi tầng lớp dân chúng như khu chuyên bán rượu ngoại, thuốc Salem hay Pall Mall tại chợ cũ, quần áo các loại tại chợ dân sinh, các loại thực phẩm tại khu vực quanh Thương TAX...

Việc khai thác “mỏ vàng hàng PX” liên quan đến đủ mọi thành phần trong hội, đặc biệt giới quan chức thương nhân miền Nam, thuơng nhân Mỹ Hoa kiều, quân nhân Mỹ, Hàn Quốc, Philíppin... gia đình họ.

Mặc không con số thống chính thức, nhưng quy thị trường chợ đen buôn bán hàng PX được ước chừng lên tới nhiều tỉ USD dựa trên số chênh lệch giữa lượng hàng hóa nhập khẩu chính ngạch, nộp thuế với lượng hàng hóa nhập khẩu, giấy phép nhưng được miễn thuế. Hàng PX trở thành một bộ phận hàng hóa quan trọng trong nền kinh tế vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát. Các mặt hàng như nồi cơm điện National, đồng hồ Seiko, tivi Denon của Nhật Bản, bột giặt Tide, nho khô Sun-Maid, bánh quy Ritz từ Mỹ... trở thành những hàng hóa được bán phổ biến trên phố những đô thị lớn tại miền Nam.

Chính quyền Sài Gòn biết điều này một số lo ngại sự xuất hiện tràn làn hàng PX giá rẻ trên mọi ngóc ngách thị trường gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất nội địa cũng như hoạt động nhập khẩu chính ngạch. Tuy nhiên, chính quyền Sài Gòn thường làm ngơ không chủ tâm triệt phá thị trường chợ đen hàng PX do lo ngại mất đi các ủng hộ trong cuộc chiến tranh. Bên cạnh đó, nguồn hàng PX lậu còn cho phép người dân miền Nam mua được hàng tốt, giá rẻ. Yếu tố này phần nào giúp kìm hãm áp lực lạm phát lên nền kinh tế trong vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát.

Còn đối với phía Mỹ, việc hàng hóa Mỹ được miễn thuế, giá rẻ bị tuồn ra thị trường cũng không gây thiệt hại nhiều. Các doanh nghiệp sản xuất hàng của Mỹ vẫn kinh doanh bình thường, thậm chí còn tiêu thụ được hàng nhiều hơn qua hệ thống cửa hàng PX. Quan trọng nhất, hàng PX giúp củng cố tâm của quân nhân Mỹ lực lượng đồng minh, chiêu dụ thêm những người bị hấp dẫn bởi các đặc lợi Mỹ đem lại trong cuộc chiến khốc liệt.

Quân đội chính quyền Sài Gòn cũng hệ thống hậu cần với chế hoạt động tương tự như các cửa hàng PX dưới tên gọi Quân tiếp vụ. Điểm khác biệt duy nhất chủng loại hàng hóa bán tại hệ thống Quân tiếp vụ, chủ yếu hàng sinh hoạt cần thiết nhiều hàng hóa được sản xuất nội địa. Mỗi người lính được cấp 1 thẻ mua hàng Quân tiếp vụ. Thẻ này cũng được phát cho cả các cựu binh, phế binh, nhi, quả phụ của binh lính. Tính đến năm 1972, đã khoảng 2,2 triệu thẻ được cấp để được mua hàng Quân tiếp vụ với giá rẻ bằng 30 - 50% giá bên ngoài. Quân nhân vợ con của họ thường mua khối lượng lớn các sản phẩm như thuốc lá, bia, sữa, đường,... rồi bán công khai trên thị trường.

Bên cạnh những loại hàng hóa tiêu dùng thông thường, những đường dây buôn lậu hàng PX hàng Quân tiếp vụ còn tuồn ra thị trường khối lượng lớn các loại quân nhu, quân trang từ quần áo, giày quân đội, thực phẩm đóng hộp chiến, đèn pin đến ximăng, sắt thép, xăng dầu, thuốc kháng sinh cả khí.

thể nói, cường độ chiến tranh càng khốc liệt, số lượng quân nhân càng tăng thì lượng hàng PX, Quân tiếp vụ được tuồn ra thị trường càng lớn, tiền kiếm được càng nhiều hơn lại tạo ra sức mua lớn hơn cứ thế lặp lại, vòng xoáy này tạo ra sự sôi động của thị trường. Sự dính líu quá sâu của các yếu tố quân đội trên thị trường gây ra sự bất thường rất lớn trong phát triển kinh tế khi yếu tố này biến mất thì thị trường nhanh chóng trở nên hỗn loạn.

Sau khi Mỹ lực lượng đồng minh rút quân, Bộ Kinh tế Sài Gòn cho biết số người thất nghiệp tăng vọt lên tới 2 triệu người, 50% số này tại Sài Gòn3 bao gồm nhiều người từ trước đến nay sống tốt nhờ dựa vào việc buôn lậu hàng PX, đổi tiền, cung cấp hàng dịch vụ phục vụ quân nhân ngoại quốc.

Chợ đen hàng PX diễn ra công khai

Tình trạng buôn lậu hàng PX diễn ra phổ biến, công khai tại Sài Gòn đã được quan hải quân kiêm nhà văn Mỹ - ông William J.Lederer phản ánh qua bài viết “Viele Werden Hier Millionäre” (Nhiều người trở thành triệu phú tại đây) đăng trên tạp chí Der Spiegel (Đức) số 44/1968 (27/10/1968) như sau: “... Sau khoảng 5 phút đi bộ, tôi gặp “Chợ Đen nhỏ” (cái tên này ám chỉ một chợ khác to hơn). Hàng trăm khách hàng đang chen nhau để xem, mua hàng, trong số này 4 hạ quan Mỹ, 1 đại úy Lục quân 1 quan hành chính của Hải quân Mỹ. 4 cảnh sát người Việt giữ an ninh tại chợ. Các mặt hàng PX được ưa chuộng đều được bày bán đây: radio, chăn, máy nướng bánh mì, đồng hồ đeo tay, bút mực, thuốc lá, áo sơmi, tivi, máy ảnh, dược phẩm, nhiều loại rượu mạnh ngon nhất hầu như tất cả các loại đồ hộp của quân đội Mỹ. Nhiều người Mỹ cũng như người Việt Nam chọn mua hàng “Chợ Đen nhỏ”, lúc hàng hóa còn tốt hơn trong các cửa hàng PX - nơi những hàng hóa được lấy cắp ra”.

Tôi hỏi một người Việt Nam, rằng việc bán hàng ăn cắp từ cửa hàng PX phạm luật không thì người này trả lời:“Tất nhiên điều đấy vi phạm luật pháp, nhưng hoàn toàn không thể chứng minh được rằng các loại hàng hóa này thật sự hàng ăn cắp”.

Tôi chỉ rằng hầu như món hàng nào được bày bán cũng mang nhãn PX cửa hàng PX chắc chắn nơi duy nhất nhập những loại hàng này. “Đúng vậy”, ông ấy trả lời, “nhưng đây, để thể tuyên bố hàng này hàng ăn cắp thì phải bắt được quả tang tên ăn cắp. Người ta phải hết sức cẩn thận với những lời buộc tội. Dấu PX đóng trên chai cognac này lẽ cũng chỉ một nhãn hiệu?”.

Tôi hỏi một nhân viên đào tạo cảnh sát người Mỹ được giải thích: “Đôi lúc chúng tôi làm việc không chặt chẽ lắm chúng tôi không muốn gây bất hòa với người Hàn Quốc Philíppin”. Hàn Quốc Philíppin những đầu nậu chính trong các đường dây chợ đen cả hai đều đồng minh quan trọng của Mỹ trong cuộc chiến. Người nhân viên này cũng cho biết không muốn ngăn cấm hoạt động chợ đen “Chợ đen giúp làm giảm lạm phát. Tại sao, tôi không biết, nhưng các chuyên gia kinh tế của chúng ta quả quyết điều đấy”.


1. Xem Viện Kinh tế học: 45 năm kinh tế Việt Nam (1945 - 1990), Nxb. Khoa học hội, Nội, 1990, tr.419.

2. Xem Viện Khoa học hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, tập II: 1955 - 1975, Sđd, tr.327.

3. Xem Viện Hàn lâm Khoa học hội Việt Nam, Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 13 (Từ năm 1965 đến năm 1975), Sđd, tr.455.

2. Nội thương

a) Hoạt động kinh doanh diễn ra sôi động

Hoạt động kinh doanh hàng hóa tại miền Nam trong giai đoạn này rất sôi động với số lượng lớn thương nhân trong ngoài nước tham gia. Đến năm 1971, tổng số những người đăng kinh doanh thương nghiệp (bao gồm cả bán buôn bán lẻ) được cấp sổ môn bài gần 195.000 người. Trong khi đó, dân số miền Nam lúc này khoảng 16 triệu người, riêng vùng do chính quyền Sài Gòn kiểm soát hoàn toàn chỉ 7 - 8 triệu người. Như vậy tính bình quân, cứ 40 - 80 người dân thì lại một người trực tiếp kiếm sống nhờ việc kinh doanh, phân phối hàng hóa. Nhiều sở kinh doanh thương mại sử dụng đến 20 lao động.

Cùng với sự gia tăng nhanh của đội ngũ thương nhân sự phát triển mạnh về sở hạ tầng kinh doanh. Nhiều kho hàng, chợ, khu tập trung kinh doanh, cửa hàng, hãng buôn... được mở rộng thiết lập mới. Các đầu mối kinh doanh, phân phối lớn nhất tập trung chủ yếu tại Sài Gòn - Chợ Lớn, Đà Nẵng Cần Thơ. Đặc biệt, các đô thị lớn ghi nhận sự xuất hiện kênh phân phối hàng hóa hiện đại giống như tại phương Tây, đó những trung tâm thương mại (hay còn gọi thương xá), siêu thị các gian hàng trưng bày sản phẩm như Thương TAX hay Siêu thị Nguyễn Du tại Sài Gòn.

Phương thức hệ thống kinh doanh được giới thương nhân miền Nam tổ chức theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp. Nhiều sở kinh doanh số vốn lớn sở hữu riêng kho hàng, sở gia công, đội xe vận tải, hệ thống cửa hàng phân phối quan hệ chặt chẽ với các nguồn hàng, thị trường nước ngoài.

Với ưu thế về vốn, quan hệ hội cũng như kinh nghiệm kinh doanh, giới thương nhân người Hoa chiếm vai trò đặc biệt trong hoạt động lưu thông hàng hóa. Trong một số lĩnh vực như kinh doanh gạo, vải,... thương nhân người Hoa gần như nắm vị trí độc quyền hệ thống bán buôn, trực tiếp kiểm soát biến động giá cả trên thị trường.

Giới thương nhân người Việt nắm vai trò lớn hơn trong hoạt động phân phối bán lẻ, tập trung chủ yếu trong các mặt hàng thực phẩm, hàng hóa tiêu dùng gia đình... Mặc số môn bài của thương nhân quốc tịch Việt Nam, kể cả số môn bài vốn kinh doanh lớn, tăng lên đáng kể sau năm 1960, nhưng chủ yếu do nhiều thương nhân người Hoa xin nhập quốc tịch Việt Nam hoặc chuyển quyền kinh doanh cho người thân người Việt Nam đứng tên nhằm lẩn tránh việc chính quyền Ngô Đình Diệm cấm ngoại kiều kinh doanh nhiều ngành nghề theo Đạo dụ số 53, ban hành ngày 06/9/1956.

một nghịch trong hoạt động nội thương tại miền Nam thời kỳ này, đó chiến tranh càng khốc liệt thì việc kinh doanh hàng hóa lại càng sôi động. Cường độ chiến tranh tăng lên kéo theo sự gia tăng mạnh của nhiều loại hàng hóa được nhập khẩu vào thị trường dưới các hình thức viện trợ. Đồng thời, Mỹ lực lượng đồng minh ạt tăng quân, tạo ra một bộ phận mới tác động lớn về cả nhu cầu lẫn nguồn cung hàng hóa trên thị trường.

Mặt khác, hoạt động kinh doanh thương nghiệp không đòi hỏi vốn quá nhiều nhưng cho tỷ suất lợi nhuận cao, đồng vốn được quay vòng nhanh nên ngày càng thu hút nhiều người tham gia, đặc biệt một bộ phận người dân nông thôn mới chuyển đến các khu đô thị. Chiến tranh đã tàn phá các khu vực nông thôn gây ra tình trạng “cưỡng bức đô thị hóa”. Hàng triệu người vốn sống vùng nông thôn buộc phải di chuyển đến các khu đô thị để tránh bị dồn ép vào các khu tập trung “khu trù mật”, “ấp chiến lược”, “ấp tân sinh”... hoặc để tránh thương vong khi chiến tranh ngày càng khốc liệt hơn. Đầu những năm 1960, dân số thành thị chỉ chiếm 20% tổng dân số miền Nam, nhưng đến đầu năm 1970, con số này đã lên đến 43% tổng dân số1. Mất ruộng đất chỉ số vốn nhỏ, hầu hết những người rời bỏ nông thôn chỉ còn một cách kiếm sống tham gia buôn bán cung cấp dịch vụ.

Siêu thị Nguyễn Du - siêu thị đầu tiên của Việt Nam

Ngày 16/10/1967, Siêu thị Nguyễn Du được Tổng cuộc Tiếp tế - quan thương nghiệp của chính quyền Sài Gòn, khai trương tại góc đường Nguyễn Du Chu Mạnh Trinh, Quận 1, Sài Gòn. Đây được xem siêu thị đầu tiên tại Việt Nam cũng lần đầu tiên nhiều người dân Sài Gòn được tận hưởng sự tiện lợi khi mua sắm hàng hóa đa dạng thông qua hình thức bán lẻ hiện đại này.

Tại siêu thị Nguyễn Du, khách đi tay không vào, qua cửa quay sẽ tự lấy giỏ xách hoặc xe đẩy, đi chọn những sản phẩm đã được ghi giá bán, xếp trên kệ. Chọn xong hàng, khách sẽ ra tính tiền tại quầy thu ngân trang bị máy tính tiền. Siêu thị tất cả 6 quầy thu ngân, trong đó còn một quầy “hỏa tốc” dành cho những khách mua ít hàng một lối ra cho người không mua hàng. Mặc nằm vị trí được xem không thuận tiện cho việc mua bán, nhưng ngay sau khi mở cửa, số khách hàng đến siêu thị được đánh giá “ngoài mức tưởng tượng”. Bãi gửi xe trong siêu thị thường xuyên chật kín những dòng xe thời thượng ngày ấy như Honda, Mobylette, Vespa. Siêu thị phục vụ trung bình khoảng 2.500 khách mỗi ngày mức doanh thu lên tới 1,5 triệu đồng tiền Sài Gòn - số tiền rất lớn thời bấy giờ.

Đến tháng 12/1967, 2 siêu thị nhân cỡ nhỏ An Đông Đoàn Thị Điểm được mở với hình hoạt động tương tự như siêu thị Nguyễn Du. Thậm chí, ông Trần Đỗ Cung - người đứng đầu Tổng cuộc Tiếp tế phụ trách kế hoạch thành lập Siêu thị Nguyễn Du đã được giới thương nhân Thái Lan mời gặp mặt để trình bày kinh nghiệm tổ chức vận hành siêu thị.

Nguồn: Phạm Công Luận: Sài Gòn - Chuyện đời của phố, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2015, t.II, tr.103.

  1. b) Sự dính líu của quân đội trên thị trường

Quân nhân đóng vai trò hết sức quan trọng trên cả hai vai trò, người bán người mua, trong các hoạt động kinh doanh hàng hóa tại miền Nam thời kỳ này.

Trong vai trò người mua, lúc cao điểm, tới 549.500 quân nhân Mỹ hơn 65.000 quân nhân lực lượng đồng minh xuất hiện tại miền Nam. mức lương, phụ cấp cao hơn nhiều lần so với mặt bằng chung thu nhập của người dân địa phương thói quen chi tiêu hào phóng, sức mua của bộ phận quân nhân, nhân viên ngoại quốc gia đình họ tác động rất lớn đến sự phát triển các hoạt động thương mại tại miền Nam.

quân nhân nước ngoài được trả lương bằng đồng USD cần đổi ra đồng tiền Sài Gòn để chi tiêu nên sức mua của bộ phận này trên thị trường thể đo lường thông qua khối lượng giấy bạc tiền Sài Gòn Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (thuộc chính quyền Sài Gòn) phát hành để đổi lấy USD của Mỹ. Lượng giấy bạc phục vụ mục đích này thường chiếm từ 20% đến 40% tổng số lượng giấy bạc được phát hành hằng năm. Đơn cử, trong năm 1968, 116 tỉ đồng được phát hành thì phần dùng để đổi tiền cho Mỹ lên đến 50 tỉ đồng Sài Gòn. Việc tung ra thị trường một khối lượng giấy bạc tài chính rất lớn khiến áp lực lạm phát tại miền Nam ngày càng tăng buộc chính quyền Sài Gòn phải khuyến khích nhập khẩu tiêu thụ càng nhiều hàng viện trợ càng tốt để kìm chế tác động của lạm phát.

Còn đối với quân đội của chính quyền Sài Gòn thì lúc cao điểm tới 1.100.000 người. Để củng cố lòng trung thành cũng như dễ dàng tuyển mộ thêm quân, chính quyền Sài Gòn dành nhiều đặc quyền, đặc lợi kinh tế cho giới quân nhân. dụ, họ được quyền mua nhiều loại hàng hóa giá rẻ từ hệ thống hậu cần quân đội để tuồn bán ra thị trường bên ngoài, hưởng chênh lệch hoặc gia đình họ được ưu tiên vay vốn ưu đãi để mở kinh doanh, buôn bán làm giàu. Trong số 42.300 sản miền Nam năm 1975 thì đến 17.300 quan quân đội2. Gia tăng thu nhập từ nhiều cách giúp quân nhân gia đình họ mức sống dả duy trì sức mua cao.

Các khoản chi tiêu dân sự của lực lượng quân đội tạo ra nguồn thu nhập lớn cho hàng triệu người dân miền Nam từ nông dân, thợ cắt tóc, thợ giặt đến tiểu thương, chủ các nhà hàng,... qua đó, lại kích thích nhu cầu chi tiêu trên thị trường, tạo ra sự sầm uất “bất thường”.

thể nói hàng PX hàng Quân tiếp vụ hai bộ phận hàng hóa chính làm nên sự phong phú, sôi động trên thị trường miền Nam. Trong đó, hàng PX hay hàng hóa ngoại nhập từ các cửa hàng PX (Post Exchange) do Mỹ thiết lập để cung ứng hàng hóa tiêu dùng dành cho quân nhân nhân viên dân sự Mỹ cũng như quân nhân lực lượng đồng minh như Hàn Quốc, Ôxtrâylia, Niu Dilân, Philíppin... tại miền Nam. Cửa hàng PX được đặt tại tất cả những nơi quan, căn cứ quân sự của quân đội Mỹ cung cấp đa dạng các loại hàng hóa, gồm thực phẩm, hoa quả, rượu, tivi, radio, xe máy, tủ lạnh, bàn ghế, quần áo, đồng hồ, đồ trang sức... Các loại hàng hóa này đều thương hiệu chất lượng cao như được bán tại chính thị trường Mỹ. Cửa hàng PX cung cấp cả các loại hàng hóa thị trường bên ngoài tại miền Nam không hàng nhập khẩu chính ngạch giá nhập khẩu quá cao hoặc đó hàng của những nước Mỹ không muốn chính quyền Sài Gòn ưu tiên nhập khẩu.

Do hàng hóa tại các PX không được bán cho người bản địa nên được miễn thuế nhập khẩu, giá chỉ bằng 1/2, thậm chí 1/3 so với giá thị trường. Điều này không chỉ tạo ra sự hấp dẫn đối với quân nhân Mỹ, lực lượng đồng minh với cả người Việt Nam. Bằng nhiều con đường khác nhau, quân nhân Mỹ cũng như lực lượng đồng minh đã bán một lượng lớn hàng PX ra ngoài thị trường để trục lợi. Những người Việt Nam lập gia đình với quân nhân Mỹ lực lượng đồng minh thường những đầu mối gom hàng PX.

hàng tiêu dùng

Hàng tiêu dùng nhập khẩu được bày bán tràn lan trên đường phố các đô thị lớn miền Nam, bao gồm cả lượng lớn hàng PX được tuồn lậu ra bên ngoài (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Buôn lậu hàng PX được xem điều “bình thường” trong nền kinh tế miền Nam xuất hiện các khu chuyên kinh doanh hàng PX công khai, quy lớn tại các đô thị, thị trấn, trục đường giao thông chính, thậm chí ngay cạnh các căn cứ quân sự của Mỹ. Chỉ riêng hai cửa hàng PX lớn nhất của quân đội Mỹ tại Sài Gòn - Chợ Lớn đã tạo ra vài chợ trời phục vụ mọi tầng lớp dân chúng như khu chuyên bán rượu ngoại, thuốc Salem hay Pall Mall tại chợ cũ, quần áo các loại tại chợ dân sinh, các loại thực phẩm tại khu vực quanh Thương TAX...

Việc khai thác “mỏ vàng hàng PX” liên quan đến đủ mọi thành phần trong hội, đặc biệt giới quan chức thương nhân miền Nam, thuơng nhân Mỹ Hoa kiều, quân nhân Mỹ, Hàn Quốc, Philíppin... gia đình họ.

Mặc không con số thống chính thức, nhưng quy thị trường chợ đen buôn bán hàng PX được ước chừng lên tới nhiều tỉ USD dựa trên số chênh lệch giữa lượng hàng hóa nhập khẩu chính ngạch, nộp thuế với lượng hàng hóa nhập khẩu, giấy phép nhưng được miễn thuế. Hàng PX trở thành một bộ phận hàng hóa quan trọng trong nền kinh tế vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát. Các mặt hàng như nồi cơm điện National, đồng hồ Seiko, tivi Denon của Nhật Bản, bột giặt Tide, nho khô Sun-Maid, bánh quy Ritz từ Mỹ... trở thành những hàng hóa được bán phổ biến trên phố những đô thị lớn tại miền Nam.

Chính quyền Sài Gòn biết điều này một số lo ngại sự xuất hiện tràn làn hàng PX giá rẻ trên mọi ngóc ngách thị trường gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất nội địa cũng như hoạt động nhập khẩu chính ngạch. Tuy nhiên, chính quyền Sài Gòn thường làm ngơ không chủ tâm triệt phá thị trường chợ đen hàng PX do lo ngại mất đi các ủng hộ trong cuộc chiến tranh. Bên cạnh đó, nguồn hàng PX lậu còn cho phép người dân miền Nam mua được hàng tốt, giá rẻ. Yếu tố này phần nào giúp kìm hãm áp lực lạm phát lên nền kinh tế trong vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát.

Còn đối với phía Mỹ, việc hàng hóa Mỹ được miễn thuế, giá rẻ bị tuồn ra thị trường cũng không gây thiệt hại nhiều. Các doanh nghiệp sản xuất hàng của Mỹ vẫn kinh doanh bình thường, thậm chí còn tiêu thụ được hàng nhiều hơn qua hệ thống cửa hàng PX. Quan trọng nhất, hàng PX giúp củng cố tâm của quân nhân Mỹ lực lượng đồng minh, chiêu dụ thêm những người bị hấp dẫn bởi các đặc lợi Mỹ đem lại trong cuộc chiến khốc liệt.

Quân đội chính quyền Sài Gòn cũng hệ thống hậu cần với chế hoạt động tương tự như các cửa hàng PX dưới tên gọi Quân tiếp vụ. Điểm khác biệt duy nhất chủng loại hàng hóa bán tại hệ thống Quân tiếp vụ, chủ yếu hàng sinh hoạt cần thiết nhiều hàng hóa được sản xuất nội địa. Mỗi người lính được cấp 1 thẻ mua hàng Quân tiếp vụ. Thẻ này cũng được phát cho cả các cựu binh, phế binh, nhi, quả phụ của binh lính. Tính đến năm 1972, đã khoảng 2,2 triệu thẻ được cấp để được mua hàng Quân tiếp vụ với giá rẻ bằng 30 - 50% giá bên ngoài. Quân nhân vợ con của họ thường mua khối lượng lớn các sản phẩm như thuốc lá, bia, sữa, đường,... rồi bán công khai trên thị trường.

Bên cạnh những loại hàng hóa tiêu dùng thông thường, những đường dây buôn lậu hàng PX hàng Quân tiếp vụ còn tuồn ra thị trường khối lượng lớn các loại quân nhu, quân trang từ quần áo, giày quân đội, thực phẩm đóng hộp chiến, đèn pin đến ximăng, sắt thép, xăng dầu, thuốc kháng sinh cả khí.

thể nói, cường độ chiến tranh càng khốc liệt, số lượng quân nhân càng tăng thì lượng hàng PX, Quân tiếp vụ được tuồn ra thị trường càng lớn, tiền kiếm được càng nhiều hơn lại tạo ra sức mua lớn hơn cứ thế lặp lại, vòng xoáy này tạo ra sự sôi động của thị trường. Sự dính líu quá sâu của các yếu tố quân đội trên thị trường gây ra sự bất thường rất lớn trong phát triển kinh tế khi yếu tố này biến mất thì thị trường nhanh chóng trở nên hỗn loạn.

Sau khi Mỹ lực lượng đồng minh rút quân, Bộ Kinh tế Sài Gòn cho biết số người thất nghiệp tăng vọt lên tới 2 triệu người, 50% số này tại Sài Gòn3 bao gồm nhiều người từ trước đến nay sống tốt nhờ dựa vào việc buôn lậu hàng PX, đổi tiền, cung cấp hàng dịch vụ phục vụ quân nhân ngoại quốc.

Chợ đen hàng PX diễn ra công khai

Tình trạng buôn lậu hàng PX diễn ra phổ biến, công khai tại Sài Gòn đã được quan hải quân kiêm nhà văn Mỹ - ông William J.Lederer phản ánh qua bài viết “Viele Werden Hier Millionäre” (Nhiều người trở thành triệu phú tại đây) đăng trên tạp chí Der Spiegel (Đức) số 44/1968 (27/10/1968) như sau: “... Sau khoảng 5 phút đi bộ, tôi gặp “Chợ Đen nhỏ” (cái tên này ám chỉ một chợ khác to hơn). Hàng trăm khách hàng đang chen nhau để xem, mua hàng, trong số này 4 hạ quan Mỹ, 1 đại úy Lục quân 1 quan hành chính của Hải quân Mỹ. 4 cảnh sát người Việt giữ an ninh tại chợ. Các mặt hàng PX được ưa chuộng đều được bày bán đây: radio, chăn, máy nướng bánh mì, đồng hồ đeo tay, bút mực, thuốc lá, áo sơmi, tivi, máy ảnh, dược phẩm, nhiều loại rượu mạnh ngon nhất hầu như tất cả các loại đồ hộp của quân đội Mỹ. Nhiều người Mỹ cũng như người Việt Nam chọn mua hàng “Chợ Đen nhỏ”, lúc hàng hóa còn tốt hơn trong các cửa hàng PX - nơi những hàng hóa được lấy cắp ra”.

Tôi hỏi một người Việt Nam, rằng việc bán hàng ăn cắp từ cửa hàng PX phạm luật không thì người này trả lời:“Tất nhiên điều đấy vi phạm luật pháp, nhưng hoàn toàn không thể chứng minh được rằng các loại hàng hóa này thật sự hàng ăn cắp”.

Tôi chỉ rằng hầu như món hàng nào được bày bán cũng mang nhãn PX cửa hàng PX chắc chắn nơi duy nhất nhập những loại hàng này. “Đúng vậy”, ông ấy trả lời, “nhưng đây, để thể tuyên bố hàng này hàng ăn cắp thì phải bắt được quả tang tên ăn cắp. Người ta phải hết sức cẩn thận với những lời buộc tội. Dấu PX đóng trên chai cognac này lẽ cũng chỉ một nhãn hiệu?”.

Tôi hỏi một nhân viên đào tạo cảnh sát người Mỹ được giải thích: “Đôi lúc chúng tôi làm việc không chặt chẽ lắm chúng tôi không muốn gây bất hòa với người Hàn Quốc Philíppin”. Hàn Quốc Philíppin những đầu nậu chính trong các đường dây chợ đen cả hai đều đồng minh quan trọng của Mỹ trong cuộc chiến. Người nhân viên này cũng cho biết không muốn ngăn cấm hoạt động chợ đen “Chợ đen giúp làm giảm lạm phát. Tại sao, tôi không biết, nhưng các chuyên gia kinh tế của chúng ta quả quyết điều đấy”.


1. Xem Viện Kinh tế học: 45 năm kinh tế Việt Nam (1945 - 1990), Nxb. Khoa học hội, Nội, 1990, tr.419.

2. Xem Viện Khoa học hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, tập II: 1955 - 1975, Sđd, tr.327.

3. Xem Viện Hàn lâm Khoa học hội Việt Nam, Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 13 (Từ năm 1965 đến năm 1975), Sđd, tr.455.

1. Xuất, nhập khẩu

a) Nhập khẩu

Nhập khẩu được xem là bộ phận chính của nền kinh tế trong vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát. Nếu xét về nguồn gốc xuất xứ thì hàng hóa của Mỹ chiếm vai trò chủ đạo trên thị trường miền Nam thông qua cơ chế Mỹ kiểm soát viện trợ đối với chính quyền Sài Gòn.

Hầu hết hoạt động nhập khẩu của chính quyền Sài Gòn được thể hiện dưới hình thức là viện trợ thương mại (Commercial Import Program)1 và số ngoại tệ mà chính phủ sở hữu từ đổi tiền Sài Gòn cho quân đội đồng minh cũng như nguồn thu từ xuất khẩu, nhưng con số này không đáng kể. Trong đó, viện trợ thương mại đóng vai trò chủ đạo trong việc cung ứng hàng hóa nhập khẩu cho miền Nam. Viện trợ thương mại là khoản viện trợ lớn nhất trong số các loại hình viện trợ kinh tế cho chính quyền Sài Gòn, chủ yếu đến từ Mỹ, và một phần nhỏ từ một số đồng minh của Mỹ.

Đặc biệt, cơ chế vận hành viện trợ thương mại cho phép hàng hóa của Mỹ có nhiều ưu thế vượt trội hơn hàng hóa của các quốc gia khác tràn vào, chiếm lĩnh thị trường miền Nam. Cụ thể, hằng năm, Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) căn cứ trên tình hình nhu cầu thực tế của miền Nam, bao gồm cả những đề nghị của chính quyền Sài Gòn để đề xuất ngân sách viện trợ thương mại đến Chính phủ Mỹ, sau đó phải thông qua ở Quốc hội nước này. Sau khi được phê chuẩn ngân sách, các hãng nhập khẩu tại miền Nam được thông báo để nộp đơn xin nhập khẩu với chính quyền Sài Gòn. Những đơn này được gửi tiếp đến USAID để được xem xét tính phù hợp, cân đối tổng số đơn xin nhập khẩu với tổng số viện trợ thương mại để điều chỉnh, bác bỏ hoặc chấp nhận.

Sau đó, người làm đơn được cấp giấp phép nhập khẩu và phải đem tiền Sài Gòn nộp vào một tài khoản đặc biệt trong Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (thuộc chính quyền Sài Gòn), gọi là Quỹ Đối giá (Counterpart Fund)2 theo tỷ giá chính thức. Khi nhận được tiền, Chính phủ Mỹ sẽ trả tiền mua hàng cho các nhà xuất khẩu bằng đồng USD và hàng hóa được chuyển về miền Nam Việt Nam. Đặc biệt, tỷ giá chính thức thường thấp hơn nhiều so với tỷ giá trên thị trường. Khi hàng hóa cập cảng miền Nam Việt Nam thì các nhà nhập khẩu phải trả phần chênh lệch này cho chính quyền Sài Gòn dưới hình thức các loại thuế.

Bên cạnh đó, việc nhập khẩu các loại hàng hóa phải tuân theo các nguyên tắc của USAID, nổi bật là quy tắc về xuất xứ của hàng nhập khẩu và vấn đề chuyên chở. Trong đó, vào năm 1961, USAID tuyên bố nhiều loại hàng hóa của 19 quốc gia phát triển, bao gồm cả Nhật Bản, Pháp và một số quốc gia cạnh tranh với Mỹ trên thị trường miền Nam Việt Nam, là không đủ tiêu chuẩn để USAID tài trợ để viện trợ3. Điều này nhằm điều chỉnh và thu hẹp hoạt động nhập khẩu của miền Nam Việt Nam, tập trung vào một số quốc gia, đặc biệt là Mỹ. Đến năm 1966, chính quyền Sài Gòn không còn được phép tự do nhập khẩu mà chỉ được nhập hàng từ một số thị trường được quy định, chủ yếu là Mỹ và các quốc gia đồng minh của Mỹ.

Về vấn đề chuyên chở, nếu như trước năm 1965, cước phí hàng viện trợ được chia làm hai phần: 50% do USAID trả, 50% do chính quyền Sài Gòn trả và được tự do lựa chọn tàu chuyên chở thì từ năm 1965, các tàu chuyên chở bắt buộc phải là tàu của Mỹ, cho dù giá cước chuyên chở của tàu Mỹ đắt hơn so với các quốc gia khác.

Đồng thời, Mỹ yêu cầu chính quyền Sài Gòn áp dụng thuế phân suất quân bình nhằm dựng thêm rào cản nữa với những hàng hóa nhập khẩu của các quốc gia có giá thấp hơn giá hàng của Mỹ. Theo đó, đối với hàng hóa Mỹ thì nhà nhập khẩu chỉ phải trả khoảng 5 - 10 đồng tiền Sài Gòn cho mỗi USD tiền hàng nhập khẩu nhưng nếu là hàng hóa của những nước khác mà không được USAID xét duyệt thì phải trả tới 210 đồng tiền Sài Gòn cho mỗi USD tiền hàng nhập khẩu4, gần như không có nhà nhập khẩu nào có thể chi trả mức thuế này mà vẫn đảm bảo kinh doanh có lãi.

Mặt khác, USAID quy định các hãng nhập khẩu hàng thông qua viện trợ thương mại bắt buộc phải tiêu thụ ở miền Nam Việt Nam trong vòng 90 ngày. Nếu quá 90 ngày mà vẫn chưa tiêu thụ hết hàng thì không được phép nộp đơn xin nhập khẩu thêm. Biện pháp này nhằm buộc nhà nhập khẩu phải tiêu thụ nhanh nhất có thể lượng hàng nhập khẩu, tiến tới tăng vòng quay vốn, từ đó tạo thêm tiền để nộp vào Quỹ Đối giá. Tiền trong Quỹ Đối giá lại được dùng để chi trả các chi phí quốc phòng, an ninh, chính trị, xã hội... của chính quyền Sài Gòn.

Ngoài ra, hầu hết các chương trình, dự án viện trợ của Mỹ tại miền Nam Việt Nam đều do các hãng thầu Mỹ thực hiện và tất nhiên, họ ưu tiên sử dụng hàng hóa, vật tư của chính Mỹ.

Ngay từ đầu cuộc chiến tranh, chính phía Mỹ thừa nhận rằng quy trình kiểm soát nhập khẩu vấp phải nhiều sự phản đối từ các nhà nhập khẩu tại miền Nam do việc nhập khẩu trở nên phức tạp, kéo dài gấp nhiều lần so với thông thường nhưng đây là cách để đảm bảo tiền viện trợ của Mỹ chỉ dùng để mua hàng của Mỹ5. Cơ chế viện trợ thương mại và cách Quỹ Đối giá hoạt động như trên còn giúp nền kinh tế Mỹ không để thất thoát lượng lớn USD ra ngoài mà vẫn khiến nước nhận viện trợ phải phụ thuộc vào mình.

Điều này đã biến miền Nam Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của Mỹ, thị phần hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ tăng từ 12% năm 1955 lên 41% vào năm 1973 - thời điểm Mỹ và quân đồng minh rút phần lớn lực lượng khỏi miền Nam.

Hàng hóa từ Nhật Bản cũng chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu của miền Nam thời kỳ này. Tuy nhiên, điều này không phải do Mỹ chia sẻ thị trường miền Nam cho Nhật Bản. Kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản vào miền Nam bị ràng buộc theo một hạn ngạch tương ứng với mức mà Nhật Bản mua hàng của Mỹ và phải trích một phần khoản thu xuất khẩu đưa vào Quỹ Đối giá tại Nhật Bản nhằm giải quyết phần nào chi phí cho lực lượng Mỹ đồn trú tại nước này. Do đó, Mỹ chỉ đơn giản là đánh đổi thị trường miền Nam để lấy thị trường Nhật Bản cũng như “giúp” Nhật Bản có thêm nguồn tài chính chi trả cho chính lực lượng Mỹ tại đây.

Trong trường hợp xuất khẩu của Pháp vào miền Nam ở mức rất cao trong những năm đầu chiến tranh thì liên quan đến vấn đề nước Pháp nhận viện trợ từ Mỹ trong giai đoạn diễn ra và thời kỳ tái thiết sau Chiến tranh thế giới thứ hai cũng như các khoản viện trợ trong thời gian Pháp tái xâm lược Đông Dương. Để Pháp có thể trả các khoản nợ này mà không lo hàng hóa Pháp tràn vào thị trường Mỹ thì Mỹ chuyển khoản nợ được tính bằng đồng franc Pháp cho chính quyền Sài Gòn dưới dạng viện trợ thương mại. Như vậy, chính quyền Sài Gòn có một lượng franc Pháp để nhập khẩu hàng hóa từ Pháp, Pháp bán được hàng để trả nợ Mỹ, Mỹ vừa thu được nợ từ Pháp vừa viện trợ được cho chính quyền Sài Gòn.

Trong giai đoạn 1955 - 1964, kim ngạch nhập khẩu hằng năm chưa có quá nhiều đột biến khi chính quyền Sài Gòn còn thi hành nhiều biện pháp giám sát nhập khẩu chặt chẽ, dựng lên các hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm bảo hộ một loạt ngành công nghiệp nhẹ nhằm kích thích sản xuất nội địa theo Kế hoạch Ngũ niên lần I (1957 - 1961).

Tuy nhiên, từ sau năm 1964, khi chiến tranh leo thang khốc liệt khiến nhu cầu chi ngân sách ngày càng lớn, áp lực lạm phát tăng vọt cùng với đó là việc Mỹ và lực lượng đồng minh ồ ạt tăng quân, tăng viện trợ để vào chiếm đóng miền Nam đã khiến chính quyền Sài Gòn chuyển hướng sang việc cho phép nhập khẩu tối đa từ viện trợ thương mại, không phân biệt là sản phẩm cần thiết hay hàng xa xỉ phẩm, nhằm tăng thu ngân sách thông qua Quỹ Đối giá. Gia tăng nhập khẩu còn giúp hút bớt một phần lượng giấy bạc vốn tung ra quá nhiều cũng như tạo sự phong phú hàng hóa trên thị trường để ổn định, lôi kéo sự ủng hộ của các tầng lớp xã hội, nhất là bộ phận dân cư tại các đô thị. Điều này khiến lượng hàng hóa đổ vào miền Nam tăng rất nhanh trong những năm tiếp theo.

Đặc biệt, khi quân đội Mỹ và lực lượng đồng minh bắt đầu rút dần khỏi miền Nam kể từ năm 1971 thì một lượng lớn hàng hóa, viện trợ, gấp nhiều lần các năm trước được gấp rút chuyển vào miền Nam Việt Nam nhằm cố giúp chính quyền Sài Gòn xoay xở trước nguy cơ sụp đổ.

Nếu xét về tính chất các mặt hàng được nhập khẩu vào miền Nam thì trong giai đoạn 1957 - 1964, kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng như đường, sữa, bánh kẹo,... tương đương với kim ngạch máy móc, vật tư đầu vào cho sản xuất như dầu hỏa, hóa chất, chỉ sợi và nguyên vật liệu dệt... Đây cũng là giai đoạn mà chính quyền Sài Gòn đang có chủ trương phát triển hoạt động sản xuất công nghiệp nhằm vực dậy nền kinh tế. Sau năm 1965 cho đến khi kết thúc chiến tranh, cơ cấu hàng nhập khẩu nghiêng hẳn về các loại hàng tiêu dùng như sản phẩm dệt may, xe máy, thịt cá và gia súc...

Đáng chú ý là trước năm 1965, trong danh mục hàng hóa nhập khẩu không xuất hiện mặt hàng lúa gạo, nhưng kể từ năm 1965 thì kim ngạch nhập khẩu gạo gia tăng mạnh và trở thành một trong những mặt hàng được nhập khẩu nhiều nhất. Thậm chí, trong giai đoạn 1966 - 1970, kim ngạch nhập khẩu lúa gạo thường ở mức cao gấp 2,5 - 5,5 lần kim ngạch nhập khẩu dầu - nguyên liệu quan trọng để phát điện. Nguyên nhân chủ yếu do các biện pháp đẩy mạnh chiến tranh, tiến hành “tràn ngập lãnh thổ”, “bình định nông thôn”, “dồn dân lập ấp chiến lược” ác liệt của quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã khiến hoạt động canh tác bị xáo trộn, sụt giảm. Miền Nam Việt Nam từ một khu vực xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới nhanh chóng trở thành nơi nhập khẩu gạo quy mô lớn.

Bảng 30: Kim ngạch nhập khẩu của vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát phân theo một số thị trường chính trong giai đoạn 1955 – 1973

bảng 30

Nguồn: Viện Quốc gia Thống kê, Sài Gòn: Việt Nam niên giám thống kê 1949 - 1955, 1956 - 1961, 1962 - 1965, 1966 - 1969, 1970 - 1972.

* Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, tập II: 1955 - 1975, Sđd, tr.346.

Các loại hàng hóa, vật tư phục vụ sản xuất chỉ còn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Vật liệu xây dựng như ximăng và thép được đẩy mạnh nhập khẩu nhằm chủ yếu phục vụ việc xây dựng hàng nghìn ấp chiến lược, thiết lập các khu căn cứ quân sự trong bối cảnh miền Nam không có ngành công nghiệp sản xuất thép và ximăng phát triển.

Tính chung 20 năm kể từ năm 1955 đến năm 1975, tổng lượng hàng hóa được nhập khẩu vào miền Nam đạt gần 10 tỉ USD. Trong 10 năm đầu tiên, tổng kim ngạch nhập khẩu chỉ ở mức 2,37 tỉ USD nhưng trong 10 năm sau thì kim ngạch nhập khẩu lên tới 7,54 tỉ USD, chiếm 3/4 tổng kim ngạch nhập khẩu toàn giai đoạn này.

Có thể nói, diễn biến và tính chất hoạt động nhập khẩu của chính quyền Sài Gòn gắn chặt chẽ theo quá trình dính líu, can thiệp của Mỹ ở miền Nam. Nguồn trang trải nhập khẩu chính dựa vào viện trợ của Mỹ với tổng mức viện trợ kinh tế đạt khoảng 14,6 tỉ USD trong 21 năm6.

b) Xuất khẩu

* Giai đoạn 1955 - 1964

Trong giai đoạn 1955 - 1964, chính quyền Sài Gòn đã cố gắng đẩy mạnh xuất khẩu nhằm cân bằng cán cân thương mại với việc đưa ra các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu như trợ cấp, miễn thuế, cấp tín dụng cũng như kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu để phát triển sản xuất nội địa, tạo nguồn hàng cho hoạt động xuất khẩu. Những nỗ lực này đã phần nào giúp hoạt động xuất khẩu trong một số năm khởi sắc. Tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu trong vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát trong giai đoạn 1955 - 1964 đạt 603,8 triệu USD tương đương 1/4 tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu.

Thị trường xuất khẩu lớn nhất của miền Nam trong giai đoạn này là Pháp, theo sau là Tây Đức, Anh và Xingapo với các mặt hàng chủ đạo là nông, lâm và thủy sản. Trong đó, cao su và gạo chiếm vị trí chủ chốt. Đây là hai loại cây trồng mà miền Nam có thế mạnh nhờ điều kiện thiên nhiên thuận lợi và kinh nghiệm khai thác quy mô lớn kể từ thời chính quyền thuộc địa thực dân Pháp.

Bảng 31: Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu của vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát trong giai đoạn 1965 - 1972 (Đơn vị: triệu USD)

bảng 31-a

bảng 31-b

Nguồn: Vietnam Annual Statistical Bullentin: United States Agency for International Development, 1973, p.21.

Đối với mặt hàng cao su, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 375 triệu USD, chiếm 57% tổng kim ngạch xuất khẩu các loại hàng hóa chính trong giai đoạn 1955 - 1964. Sự phát triển của hoạt động xuất khẩu cao su thời gian này chủ yếu nhờ việc giới tư bản Pháp khôi phục lại hoạt động khai thác mủ ở nhiều đồn điền lớn và diện tích trồng cao su được mở rộng dưới các chính sách khuyến khích của chính quyền Sài Gòn.

Tính đến năm 1965, tổng diện tích trồng cao su tại miền Nam đã đạt hơn 142.000 ha, vượt mức trước Chiến tranh thế giới thứ hai và trở thành khu vực có diện tích trồng cao su lớn thứ 5 thế giới. Nhưng từ cuối năm 1963 trở đi, diện tích trồng cao su bắt đầu bị thu hẹp khi chiến tranh lan rộng. Mặt khác, tính đến cuối năm 1959 thì có tới 43% diện tích trồng cao su tại miền Nam đã trên 35 tuổi, tập trung tại các đồn điền lớn của giới tư bản Pháp7, khiến năng suất cho mủ trong những năm tiếp theo ở mức rất thấp và hoạt động khai thác của các đồn điền không bền vững.

Đối với mặt hàng gạo, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 156 triệu USD, chiếm gần 24% tổng kim ngạch xuất khẩu các loại hàng hóa chính trong giai đoạn này. Trong thời gian này, chính quyền Sài Gòn chú trọng thực hiện việc cơ giới hóa, sử dụng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu nhằm cải tiến hoạt động canh tác lúa gạo nói riêng và sản xuất nông nghiệp nói chung. Nhiều loại máy nông nghiệp như máy bơm nước, máy cày loại nhỏ... được đẩy mạnh nhập khẩu. Đồng thời, ngay từ năm 1955, Bộ Nông nghiệp Mỹ đã bắt đầu đưa vào miền Nam một số giống lúa mới, có chu kỳ sinh trưởng ngắn với năng suất cao.

Tuy nhiên, việc quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn tăng cường cưỡng bức nông dân vào các khu tập trung dưới cái tên “khu trù mật”, “ấp chiến lược”, “ấp tân sinh”... và đánh phá ác liệt những vùng nông thôn miền Nam đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động canh tác lúa gạo nói riêng và các hoạt động sản xuất nông nghiệp nói chung. Chỉ trong vòng 3 năm, từ năm 1963 đến năm 1966, diện tích canh tác lúa gạo đã giảm hơn 500.000 mẫu Anh8, sản lượng lúa gạo giảm hơn 18%, từ mức cao kỷ lục 5,3 triệu tấn vào năm 1963 xuống chỉ còn 4,3 triệu tấn vào năm 19669.

bảng 32

* Giai đoạn 1965 - 1975

Kể từ năm 1964, nguồn cung nhiều loại hàng hóa cho xuất khẩu bắt đầu bị thiếu hụt khi hoạt động sản xuất bị đình đốn, chính quyền Sài Gòn buộc phải dần cấm, hạn chế xuất khẩu để đảm bảo nguồn cung nội địa. Đơn cử, trứng vịt bắt đầu bị cấm xuất khẩu từ tháng 11/1964, gạo các loại bị cấm xuất khẩu từ tháng 12/1964, dầu dừa bị cấm xuất khẩu từ tháng 10/1965...

Mặt khác, một lượng lớn nông sản giá rẻ của Mỹ, bao gồm gạo, ngô... tràn vào miền Nam thông qua chương trình viện trợ nông phẩm cho tự do với mục đích giảm bớt áp lực thiếu hụt thực phẩm vì chiến tranh đã tạo ra sự cạnh tranh gay gắt với hoạt động sản xuất nông nghiệp nội địa, triệt tiêu hoàn toàn động lực của nông dân miền Nam. Những điều này đã khiến hoạt động xuất khẩu của miền Nam suy giảm nhanh chóng trong giai đoạn 1965 - 1975. Tính chung cả giai đoạn này, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 393,1 triệu USD, chỉ bằng khoảng 1/20 so với kim ngạch nhập khẩu cùng kỳ.

Nhằm giải quyết áp lực thâm hụt cán cân thương mại ngày càng nghiêm trọng, chính quyền Sài Gòn đã có một số nỗ lực như thành lập Trung tâm Khuếch trương xuất cảng vào cuối năm 1964 nhằm cung cấp tín dụng ngắn hạn và hướng dẫn xuất khẩu, giảm thuế xuất khẩu, tăng trợ cấp xuất khẩu trực tiếp đối với một số mặt hàng, khuyến khích sản xuất các mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu... Đến năm 1971, phát triển xuất khẩu được chính quyền Sài Gòn coi là trụ cột thứ hai nhằm vực dậy nền kinh tế theo bản Kế hoạch Tứ niên quốc gia (1971 - 1975).

Bảng 33: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát phân theo mặt hàng giai đoạn 1965 – 1974 (Đơn vị: triệu USD)

bảng 33

Tuy nhiên, Trung tâm Khuếch trương xuất cảng không có kế hoạch dài hạn hoặc biện pháp căn cơ để thực hiện vai trò của mình, nguồn cấp tín dụng cho xuất khẩu từ các tổ chức tín dụng tại miền Nam cũng rất ít ỏi cộng hưởng với các tác động của chiến tranh đã hạn chế khả năng phát triển của lĩnh vực xuất khẩu. Tại Hội thảo về khuếch trương xuất cảng ở Sài Gòn ngày 24/6/1972, ông Dương Ngọc Sửu, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công kỹ nghệ Sài Gòn, khẳng định:

“Việt Nam chưa khuếch trương được xuất cảng chỉ vì một lý do hết sức đơn giản là chưa có sản phẩm để xuất cảng mà thôi”.

Hàng triệu nông dân dồn về vùng đô thị

Nhà sử học Mỹ Gabriel Kolko trong cuốn sách “Giải phẫu một cuộc chiến tranh” đã ghi lại như sau: “Thuốc diệt cỏ đã được thí nghiệm đầu tiên ở Việt Nam, bắt đầu tháng 8 năm 1961... Vì lý do có liên quan đến dư luận công chúng nên chương trình được giữ bí mật và vì vậy mà không bị tiết lộ ở Mỹ cho đến cuối năm 1965. Năm 1962, chương trình đó rải thuốc xuống 6.000 mẫu Anh, lên đến đỉnh cao 1,7 triệu mẫu Anh năm 1967; trong khoảng thời gian 9 năm, 20% rừng nói chung và 36% rừng đước bị rải thuốc độc, riêng năm 1965 thì 42% thuốc là rải xuống vùng canh tác lương thực... Việc sử dụng hỏa lực của quân đội Mỹ đã làm thay đổi tình trạng nhân khẩu tại miền Nam Việt Nam sau năm 1964, làm cho một bộ phận lớn nông dân chỉ còn quan tâm đến một vấn đề duy nhất là sự sống còn của họ. Đạn dược là nguyên nhân chính của thương vong, mà phần lớn là do quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn sử dụng, chiếm hầu hết số đạn trọng pháo và 100% số bom do máy bay thả xuống... Một bộ phận quan trọng của nông dân bị đẩy ra khỏi ruộng đất của họ làm biến đổi vĩnh viễn tính chất của xã hội miền Nam Việt Nam... Trong hoàn cảnh như vậy, sau năm 1964, hàng triệu nông dân buộc phải bỏ chạy hỗn loạn”.

Nguồn: Gabriel Kolko: Giải phẫu một cuộc chiến tranh,

Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, tr.161-209.


1. Trong một số tài liệu của chính quyền Sài Gòn và Chính phủ Mỹ giai đoạn này thì viện trợ thương mại còn được gọi là khoản hỗ trợ, đảm phụ quốc phòng - Defense Support.

2. Đây là một loại quỹ tài chính đặc biệt, được Chính phủ Mỹ thiết lập tại các quốc gia nhận viện trợ trong giai đoạn này. Chính phủ Mỹ và quốc gia nhận viện trợ cùng đóng góp vào quỹ này, và hai bên cùng quyết định việc chi tiêu. Quỹ đối giá nhằm tạo nguồn thu cho chính phủ nước nhận viện trợ; đồng thời, giúp Mỹ tiêu thụ được hàng hóa của nước này tại thị trường nước nhận viện trợ.

3. Xem Phạm Thị Hồng Hà: Kinh tế Việt Nam Cộng hòa dưới tác động của viện trợ Hoa Kỳ (1955 - 1975), Sđd, tr.189.

4. Xem Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, tập II: 1955 - 1975, Sđd, tr.163.

5. John P. Glennon et al: “277. Memorandum from the Assistant Secretary of State for Far Eastern Affairs (Robertson) to the Under Secretary of State (Hoover)”, Foreign Relations of the United States, 1955 - 1957, Vietnam (Vol. I), United States Government Printing Office, 1985.

6. Douglas Dacy: Foreign aid, War, and Economic development: South Vietnam, 1955 - 1975, Cambridge University Press, 1988, p.202.

7. Xem Ban Kinh tế miền Nam: “Mục cây Công nghiệp”, trong Tài liệu tham khảo về tình hình kinh tế miền Nam Việt Nam, Viện Kinh tế, 1966, tr.13.

8. Mỗi mẫu Anh tương đương 0,4 ha.

9. Xem William J.C. Logan: “How deep is the Green Revolution in South Vietnam?”, Asian Survey, Vol. 11 (No. 4), 1971.

3. Thương mại trong vùng giải phóng và vùng tranh chấp

Trong hầu hết thời gian của cuộc chiến, các vùng giải phóng của ta bị đối phương thực hiện gắt gao chiến lược bao vây kinh tế như kiểm soát gắt gao hoạt động vận chuyển hàng hóa giữa các địa phương, nhất là những mặt hàng có tính chất phục vụ quân sự, thu mua lúa gạo với giá cao gấp đôi thị trường tại một số khu vực giáp ranh nhằm gây tình trạng thiếu lương thực tại vùng giải phóng, ép giá những mặt hàng lâm thổ sản mà nhân dân vùng giải phóng hay bán vào vùng địch kiểm soát với lý do đây là những mặt hàng không cần thiết, phong tỏa hoặc thường xuyên đánh phá các khu vực biên giới Lào và Campuchia giáp với vùng giải phóng... Đặc biệt, chính sách “ấp chiến lược” của quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã khiến các nguồn lực tiếp tế cho lực lượng cách mạng sụt giảm.

Trong khi đó, chiến trường miền Nam nằm cách xa hậu phương miền Bắc, việc chi viện hàng hóa trong hầu hết thời gian diễn ra cuộc chiến tranh gặp rất nhiều khó khăn, có lúc bị đứt quãng vì địch tăng cường hoạt động. Các loại hàng hóa được chi viện từ miền Bắc thường chỉ ưu tiên phục vụ lực lượng Quân giải phóng miền Nam Việt Nam và hoạt động của các cơ quan chính quyền cách mạng. Lượng hàng hóa để cung cấp cho nhân dân không có nhiều và kém đa dạng về chủng loại. Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, nhiều vùng giải phóng rơi vào tình trạng thiếu hàng tiêu dùng thiết yếu, bao gồm gạo và muối như trường hợp tại Tây Nguyên, vùng miền núi Nam Trung Bộ.

Nhằm khắc phục các khó khăn, ta áp dụng nhiều giải pháp, tập trung khai thác nguồn hàng hóa từ vùng địch kiểm soát và thúc đẩy lưu thông hàng hóa giữa các khu vực trong vùng giải phóng nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của nhân dân cũng như phục vụ công cuộc kháng chiến. Trong đó, Ban Kinh tế - Tài chính Trung ương Cục miền Nam chịu trách nhiệm đảm bảo cung ứng hàng hóa cho các cơ quan, đơn vị của chính quyền và lực lượng vũ trang. Đến năm 1965, bộ máy của Ban được hoàn thiện, bao gồm cả Tiểu ban Lương thực và Tiểu ban Thương nghiệp. Trong đó, Tiểu ban Lương thực có nhiệm vụ bảo đảm cung cấp hàng hóa, lương thực cho các cơ quan dân, chính, đảng. Tiểu ban Thương nghiệp chịu trách nhiệm thiết lập hệ thống các cửa hàng bách hóa và lương thực nhằm trao đổi, kinh doanh với vùng địch kiểm soát1. Mạng lưới Kinh - Tài được thiết lập rộng khắp, xuống đến các khu, tỉnh, huyện và xã.

a) Trong vùng tranh chấp

Nguồn hàng hóa từ vùng địch kiểm soát là nguồn hàng thường xuyên và đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu đời sống của nhân dân trong vùng giải phóng cũng như phục vụ công cuộc kháng chiến. Từ các kinh nghiệm trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ta chủ trương đẩy mạnh lưu thông hàng hóa giữa vùng giải phóng với vùng địch kiểm soát bằng cách tổ chức các chợ nhỏ, nằm rải rác tại các khu vực giáp ranh, tranh chấp để người dân giữa hai vùng giao thương, và đẩy mạnh vận động người dân, thương nhân sống tại vùng do địch kiểm soát bán ra các loại hàng hóa, nhất là những hàng hóa vùng giải phóng cần. Từ đó, hoạt động giao thương hàng hóa dần len lỏi, hình thành các “hành lang thương mại” giữa hai vùng.

Các chợ giáp ranh giữa hai vùng thường là nơi có hoạt động kinh tế sầm uất nhất. Ở đây, có những thương nhân sẵn sàng nhận gom mua hàng hóa theo những đơn hàng của cán bộ và các cơ quan trong vùng giải phóng. Không chỉ cung cấp các loại thực phẩm, những thương nhân này còn cung cấp cả các loại radio, thuốc men, hóa chất, xe Honda... đôi khi cả xăng dầu, vũ khí.

Đặc biệt, ta cũng vận động thành công một bộ phận gia đình binh lính thuộc chính quyền Sài Gòn mang hàng ra bán cho nhân dân vùng giải phóng. Đơn cử, tại Quảng Đà thuộc Khu V, có những đêm vợ con binh lính đối phương đem bán từ 10 đến 20 tấn gạo vào vùng giải phóng. Kết quả là tại các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Quảng Đà, tỷ lệ hàng được thu mua từ vùng địch kiểm soát chiếm tới trên 84% tổng doanh số hàng mà ta thu mua được2.

Tại Chiến khu Đ (Đồng Nai), khu căn cứ địa quan trọng của miền Đông Nam Bộ và nằm cạnh vùng Sài Gòn - Chợ Lớn, Ban Kinh - Tài đã lợi dụng sự kiểm soát thiếu chặt chẽ ở một số nơi của địch để thiết lập các điểm thu mua, gom các loại hàng thiết yếu từ vùng địch kiểm soát, chuyển dần về các điểm tập trung rồi sau đó đưa về các kho hậu cần nằm sâu trong vùng giải phóng.

Đối với các mặt hàng tối cần thiết là gạo và muối, Ban Kinh - Tài thành lập các tổ công tác về tận những khu vực sản xuất hoặc dư thừa để hướng dẫn nhân dân tích cực cất giấu tránh địch lùng quét, động viên lòng yêu nước của đồng bào để tiếp tế hoặc bán lại cho chính quyền cách mạng. Giá thu mua được thực hiện theo giá thị trường nhằm đảm bảo tái sản xuất cho người nông dân. Đồng thời, ta vận động hoặc kiềm chế các thương nhân không trục lợi, không đầu cơ và không tranh chấp mua bán các mặt hàng này với nhân dân ở vùng giáp ranh.

b) Trong vùng giải phóng

Tại vùng giải phóng, nền kinh tế được phát triển theo hướng tự cung, tự cấp, ưu tiên khôi phục hoạt động nông nghiệp, ngay cả các cơ quan của chính quyền cách mạng cũng tăng gia sản xuất nhằm tự chủ lương thực, giảm bớt sự phụ thuộc vào chi viện của miền Bắc. Đối với việc khai thác các nguồn hàng hóa trong vùng giải phóng, ta chủ trương khuyến khích nhân dân tự do giao thương hàng hóa, thúc đẩy trao đổi hàng hóa giữa các vùng miền núi với vùng đồng bằng.

Ban Kinh - Tài tổ chức những cửa hàng, tổ lưu động thu mua hàng hóa theo hình thức mậu dịch quốc doanh nhằm chủ yếu phục vụ cho các cơ quan dân, chính, đảng và đáp ứng phần nào đời sống nhân dân. Hoạt động của hệ thống mậu dịch quốc doanh này đã đạt nhiều kết quả tích cực. Ví dụ, trong năm 1962, Khu V đã tổ chức được 18 cửa hàng và 9 tổ thu mua hàng hóa lưu động, kinh doanh trên 121 mặt hàng với doanh số đạt trên 6 triệu Việt Nam đồng. Đến năm 1968, Khu V và Khu VI3, hệ thống mậu dịch quốc doanh đã phục vụ nhu cầu của lực lượng Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được 23,2%, các cơ quan dân, chính, đảng được 67% và cung cấp cho nhân dân miền núi được 4%4.

Ta cũng hướng dẫn nhân dân lập ra các cơ sở thương nghiệp để thúc đẩy hoạt động lưu thông hàng hóa, các thương nhân được tổ chức thành từng tổ và được định hướng tập trung khai thác các nguồn hàng thế mạnh của từng địa phương, kinh doanh các loại hàng hóa cần thiết cho vùng giải phóng. Bên cạnh đó, chủ trương khuyến khích phục hồi và phát triển các ngành truyền thống như rèn, giấy, dệt, thêu... của ta cũng góp phần đáp ứng đáng kể nhu cầu hàng hóa tối cần thiết của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ trong vùng giải phóng.

Riêng tại khu vực Nam Bộ, các vùng giải phóng và vùng địch kiểm soát đan xen phức tạp, hệ thống giao thông phát triển và có sự gắn bó kinh tế chặt chẽ, ảnh hưởng lẫn nhau nên đối phương không thực hiện được việc bao vây kinh tế triệt để. Do đó, nguồn hàng từ vùng địch kiểm soát xuất hiện tại vùng giải phóng tương đối dồi dào cả về khối lượng lẫn chủng loại, giúp đáp ứng nhu cầu của lực lượng cách mạng lẫn người dân. Ta hướng dẫn nhân dân đẩy mạnh khai thác các nguồn hàng nông lâm sản địa phương mà các khu đô thị cần, qua đó, dần phát triển nền kinh tế vùng giải phóng cũng như gia tăng nguồn tài chính cho chính quyền cách mạng.

Ta cũng triệt để khai thác tình trạng tham nhũng, buôn lậu trong chính quyền Sài Gòn để gom mua nhiều loại hàng hóa cần thiết phục vụ công cuộc kháng chiến, kể cả các loại vũ khí. Chính Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ đã cáo buộc một tư lệnh phụ trách khu vực đồng bằng sông Cửu Long lấy cắp hơn 8.000 đài vô tuyến và 24.000 vũ khí cá nhân do Mỹ cấp để bán phần lớn cho lực lượng Quân giải phóng miền Nam5.

Do tuyệt đại đa số các giao dịch hàng hóa tại miền Nam là sử dụng tiền Sài Gòn, ta tích cực tuyên truyền, vận động người dân và các thương nhân không nắm giữ quá nhiều tiền và nhiều hàng hóa nhằm đề phòng đồng tiền này mất giá hoặc lưu thông hàng hóa bị bế tắc; qua đó, góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hóa diễn ra thuận lợi hơn.

Trong giai đoạn từ năm 1965 - 1970, bằng các biện pháp ngoại giao, chính quyền Campuchia do Quốc trưởng Norodom Sihanouk đứng đầu đã cho phép ta sử dụng cảng Sihanoukville để tiếp nhận nhiều loại hàng hóa chi viện, đặc biệt là hàng hóa viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Mặc dù phải trả chi phí rất cao6 nhưng tuyến vận chuyển này giúp cung cấp hàng ngàn tấn hàng hóa thiết yếu, gồm gạo, muối, vải, đường, sữa, thuốc kháng sinh,... góp phần quan trọng trong việc đảm bảo đời sống của chiến sĩ, cán bộ và nhân dân vùng giải phóng. Đồng thời, Ban Kinh - Tài cũng tổ chức cả việc gom mua các loại hàng hóa cần thiết tại Campuchia như gạo để đáp ứng nhu cầu vùng giải phóng. Đến đầu năm 1970, luồng hàng hóa đi qua cảng Sihanoukville bị đứt gãy khi Lon Nol thực hiện đảo chính và thiết lập chính quyền mới thân Mỹ.

Các chiến thắng quân sự bước ngoặt của lực lượng Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường sau năm 1971 đã giúp hoạt động chi viện của miền Bắc qua các tuyến đường tại Việt Nam dễ dàng hơn trước. Nhiều loại hàng hóa công nghệ phẩm trước đây phải phụ thuộc vào nguồn cung từ vùng địch kiểm soát nay đã được chi viện dồi dào, cấp phát nhiều cho các chiến sĩ và cán bộ như quần áo, thuốc men, văn phòng phẩm, đường, bột ngọt, các thiết bị máy móc...

Sau khi Hiệp định Pari được ký kết năm 1973, nhiều vùng giải phóng được củng cố, ngày càng nhiều người dân từ vùng địch kiểm soát chuyển ra vùng giải phóng, nhân dân bắt đầu bung ra làm ăn, hoạt động sản xuất trở nên sôi động, hàng hóa trên thị trường vùng giải phóng tăng cả về quy mô lẫn chủng loại. Qua đó, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện hơn.

*****

Với ý đồ xây dựng một quốc gia riêng tại miền Nam, ngay sau khi dựng lên được bộ máy điều hành, chính quyền Sài Gòn dưới sự cố vấn từ phía Mỹ đã sớm có những hoạch định phát triển kinh tế. Từ năm 1955 đến năm 1965, chính quyền Sài Gòn chủ trương tận dụng lợi thế sản xuất nông nghiệp của miền Nam để đẩy mạnh xuất khẩu các loại nông sản chủ lực như cao su, gạo... qua đó, tích lũy được ngoại tệ để trang bị máy móc, kỹ nghệ cho những ngành khác. Song song với đó là ưu tiên phát triển các lĩnh vực công nghiệp nhẹ, đặc biệt là các ngành chế biến nông sản và sản xuất hàng tiêu dùng như dệt, lắp ráp... để tăng cường giá trị xuất khẩu cũng như đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa, giảm phụ thuộc vào hàng nhập khẩu. Viện trợ nước ngoài, chủ yếu là từ Mỹ, bắt đầu thâm nhập mạnh vào nền kinh tế miền Nam.

Mặc dù chính quyền Sài Gòn đưa ra nhiều đặc quyền, đặc lợi để thu hút giới đầu tư nước ngoài bỏ vốn phát triển kinh tế nhưng không đạt được nhiều kết quả. Động lực phát triển kinh tế dần chuyển từ phía tư bản nước ngoài về phía giới tư sản miền Nam. Đặc biệt, nhiều nhà tư sản miền Bắc di cư bắt đầu bung ra kinh doanh giai đoạn này. Có thể nói rằng, đô thị và bộ mặt kinh tế miền Nam bắt đầu sầm uất từ năm 1955, một phần vì viện trợ của Mỹ, một phần đáng kể cũng nhờ yếu tố các nhà tư sản miền Bắc di cư.

Kể từ năm 1965, khi cường độ chiến tranh gia tăng mạnh cùng với việc quân đội Mỹ và lực lượng đồng minh ồ ạt đổ vào miền Nam, các khoản viện trợ cũng tăng vọt thì nền kinh tế miền Nam cũng thay đổi theo. Chủ trương kiềm chế nhập khẩu để phát triển công nghiệp nội địa, xây dựng nền kinh tế “tự lực” bị gác bỏ, thay bằng chính sách đẩy mạnh nhập khẩu tối đa nhằm giúp chính quyền Sài Gòn gia tăng ngân sách phục vụ hoạt động quân sự cũng như kìm chế các tác động của chiến tranh lên nền kinh tế.

Theo đó, trong lĩnh vực công nghiệp, những ngành nào trực tiếp hay gián tiếp phục vụ chiến tranh như chế biến thực phẩm, thuốc lá, đồ uống, đồ hộp... thì phát triển mạnh mẽ. Điển hình, chiến tranh tạo ra một lượng lớn kim loại phế thải đã thúc đẩy sự ra đời của hàng loạt doanh nghiệp luyện kim chỉ để nấu và cán sắt vụn, đồng vụn cho dù miền Nam không hề có mỏ kim loại công nghiệp lớn. Hay sản lượng thuốc lá và bia tăng vọt qua các năm, chủ yếu nhờ phục vụ lực lượng quân đội.

Ở chiều ngược lại, những ngành vấp phải sự cạnh tranh gay gắt từ khối lượng lớn hàng nhập khẩu thì lại suy giảm như dệt may, lắp ráp, cao su... mặc dù một số lĩnh vực này đã được định hướng tập trung vốn đầu tư trước đây. Các lĩnh vực công nghiệp nền tảng, cần thiết cho phát triển kinh tế lâu dài như năng lượng, cơ khí, hóa chất cơ bản... gần như bị bỏ ngỏ. Nhiên liệu, vật tư, máy móc của nhiều ngành sản xuất lệ thuộc lớn vào nguồn nhập khẩu.

Về nhập khẩu, hàng hóa ngoại nhập giờ xuất hiện tràn lan trên thị trường, bao gồm cả các mặt hàng xa xỉ phẩm. Hàng ngoại nhập chủ yếu là đến từ Mỹ và một số ít nước đồng minh của Mỹ do các quy định “trói buộc” từ viện trợ thương mại đối với chính quyền Sài Gòn. Thị trường miền Nam dần trở thành nơi tiêu thụ độc quyền các loại hàng hóa tiêu dùng của nền công nghiệp Mỹ.

Ngược lại, chiến tranh lan rộng ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất các loại nông sản xuất khẩu chủ lực như gạo, cao su... khiến kim ngạch xuất khẩu suy giảm nhanh chóng. Mặt khác, một lượng lớn nông sản giá rẻ của Mỹ tràn vào miền Nam thông qua viện trợ đã tạo ra sự cạnh tranh gay gắt với hoạt động sản xuất nông nghiệp nội địa, triệt tiêu hoàn toàn động lực của nông dân miền Nam. Thậm chí, sau năm 1965, miền Nam Việt Nam từ một khu vực xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới nhanh chóng trở thành nơi phải sống dựa vào gạo nhập khẩu.

Đối với nội thương, nhập khẩu tăng vọt đã tạo sự sôi động cho hoạt động lưu thông hàng hóa trong nước, thu hút đông đảo thương nhân tham gia do đây là lĩnh vực kiếm lời nhanh trong bối cảnh tình hình chính trị - quân sự nhiều bất ổn. Có một nghịch lý dễ thấy đối với nền kinh tế trong vùng do chính quyền Sài Gòn kiểm soát thời kỳ này, đó là chiến tranh càng khốc liệt thì việc kinh doanh hàng hóa lại càng sôi động. Cường độ chiến tranh tăng lên kéo theo sự gia tăng mạnh của nhiều loại hàng hóa được nhập khẩu vào thị trường dưới các hình thức viện trợ. Đồng thời, Mỹ và lực lượng đồng minh ồ ạt tăng quân, tạo ra một bộ phận bất thường và có tác động lớn về cả nhu cầu lẫn nguồn cung hàng hóa trên thị trường. Đáng chú ý, hiện tượng buôn lậu tràn lan, công khai các loại hàng tiếp tế của quân đội với giá rẻ trên thị trường trong thời gian này đã bóp nghẹt sự phát triển của nhiều lĩnh vực sản xuất nội địa.

Tại vùng giải phóng của ta, các hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp và lưu thông hàng hóa gặp nhiều khó khăn do đối phương triệt để thực hiện chính sách bao vây kinh tế và áp lực chiến tranh nặng nề. Tuy nhiên, chính quyền cách mạng đã có nhiều chủ trương, giải pháp đúng hướng để khôi phục và phát triển nhiều nghề truyền thống, giúp đảm bảo một phần lớn nhu cầu hàng hóa tối cần thiết trong vùng giải phóng. Hoạt động lưu thông hàng hóa cũng dần được khơi thông, ta tận dụng triệt để những kẽ hở của đối phương để tiếp cận nguồn hàng hóa dồi dào trong vùng địch kiểm soát, góp phần đảm bảo đời sống cho nhân dân, cán bộ và chiến sĩ xuyên suốt cuộc kháng chiến.

Nền kinh tế trong vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát vốn phụ thuộc mạnh vào các nguồn lực từ bên ngoài bắt đầu bộc lộ các điểm yếu, mất ổn định khi quân đội Mỹ và lực lượng đồng minh rút dần và rút hoàn toàn vào năm 1973. Hoạt động sản xuất công nghiệp, vốn có cơ cấu không hợp lý, liên tục sụt giảm mạnh trong những năm cuối chiến tranh. Hàng hóa trên thị trường cũng bắt đầu khan hiếm khi các khoản viện trợ nước ngoài bị rút đi khiến nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu giảm. Đồng thời, việc chính quyền Sài Gòn phá giá mạnh đồng tiền đã khiến lạm phát tăng vọt, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất - kinh doanh.

Mặc dù tồn tại một số khiếm khuyết nhưng nền kinh tế miền Nam Việt Nam cũng để lại các di sản cho giai đoạn sau này. Trong lĩnh vực công nghiệp, một lượng lớn công nhân, kỹ thuật viên và chuyên viên được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn trong nhiều lĩnh vực khác nhau, có tác phong công nghiệp, kinh nghiệm vận hành - sửa chữa nhiều loại máy móc phức tạp cũng như thông thạo ngoại ngữ. Tương tự, trong lĩnh vực thương mại, một tầng lớp thương nhân năng động, nhạy bén, giàu kinh nghiệm và có năng lực tiếp thu kiến thức kinh doanh hiện đại đã dần được hình thành sau 20 năm va chạm với thị trường quốc tế.

Đồng thời, các hệ thống sản xuất - kinh doanh và phương thức hoạt động trong nhiều lĩnh vực công nghiệp, thương mại đã được tổ chức chặt chẽ, tương đối hoàn chỉnh theo hướng chuyên môn hóa sâu. Những điều này có đóng góp nhất định cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế miền Nam nói riêng, Việt Nam nói chung sau ngày giải phóng, thống nhất đất nước.


1. Xem Câu lạc bộ Truyền thống kháng chiến, Ban Kinh - Tài Trung ương Cục miền Nam Việt Nam: Lịch sử Ban Kinh tế - Tài chính Trung ương Cục miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Sđd, tr.81.

2. Xem Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, tập II: 1955 - 1975, Sđd, tr.485.

3. Khu VI gồm các tỉnh cực nam Trung Bộ đến nam Tây Nguyên.

4. Xem Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, tập II: 1955 - 1975, Sđd, tr.485.

5. Xem Nguyễn Cao Kỳ: Chúng ta đã thua trận ở Việt Nam như thế nào? (Tài liệu tham khảo), Công ty Phát hành Thông tấn xã Việt Nam, Hà Nội, 1985, tr. 75.

6. Xem Câu lạc bộ Truyền thống kháng chiến, Ban Kinh - Tài Trung ương Cục miền Nam Việt Nam: Lịch sử Ban Kinh tế - Tài chính Trung ương Cục miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Sđd, tr.138.

Danh mục

Tùy chỉnh