4. Những di sản công nghiệp cho giai đoạn sau

Điều kiện chiến tranh sự lệ thuộc của nền kinh tế trong vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát vào viện trợ nước ngoài, chủ yếu của Mỹ, trong 20 năm đã quyết định tính chất, cấu, sự phân bổ các nguồn lực thị trường đối với hoạt động sản xuất công nghiệp tại miền Nam. Những đặc điểm này đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét cho giai đoạn sau giải phóng, thống nhất đất nước.

a) Hệ thống công nghiệp tập trung

Bằng nguồn viện trợ kinh tế từ Mỹ một số nước, chính quyền Sài Gòn đã tiếp cận được các loại máy móc công nghiệp tiên tiến, tạo nên sự phát triển của sở vật chất kỹ thuật trong công nghiệp. Trị giá máy móc được nhập khẩu vào miền Nam trong giai đoạn 1965 - 1972 đạt 712,8 triệu USD, gấp 2,7 lần so với giai đoạn 1957 - 1964. Nhờ vậy, một số ngành công nghiệp như sản xuất đồ hộp, dệt vải, chế biến sữa... đã được trang bị các dây chuyền sản xuất quy lớn, hiện đại tương đương như nhiều nước trong khu vực.

Quá trình khí hóa, tự động hóa đã giúp nâng cao đáng kể năng suất lao động cũng như chất lượng các sản phẩm. Các sở sản xuất hiện đại cũng xu hướng tập trung mở rộng máy móc, trang thiết bị hơn mở rộng sản xuất dựa trên việc thâm dụng lao động. dụ, Công ty Luyện kim VIKIMCO chỉ với 200 công nhân nhưng đã công suất lên tới 20.000 tấn sắt thép các loại vào năm 1966; Công ty giấy NAGICO sản lượng trên 3.000 tấn giấy vào năm 1967, chỉ sử dụng 150 công nhân; Công ty Bột giặt VISO công suất 3.000 tấn bột giặt vào năm 1970, chỉ cần sử dụng 25 công nhân...

Trải qua quá trình tích tụ tập trung bản, sản xuất lớn ưu thế hơn hẳn sản xuất nhỏ hay nói cách khác hoạt động công nghiệp tại miền Nam dần tập trung vào các sở sản xuất lớn thay phân tán vào những sở sản xuất nhỏ, lẻ, tiểu công nghiệp như trước đây. Cùng với đó xu hướng chuyên môn hóa sản xuất, mỗi sở sản xuất đảm nhiệm chuyên trách một vai trò nhất định trong toàn bộ chuỗi giá trị sản xuất.

Mặt khác, hoạt động sản xuất công nghiệp tại miền Nam còn xu hướng tập trung hình thành những khu, cụm công nghiệp sức sản xuất lớn. đến 85% tổng số sở sản xuất công nghiệp hơn 90% tổng sản lượng công nghiệp chế biến của toàn miền Nam được tập trung tại khu vực Sài Gòn, Gia Định Biên Hòa. Trong đó, cụm công nghiệp Sài Gòn - Biên Hòa cụm công nghiệp lớn nhất tại miền Nam, tập trung đến 80% năng lực sản xuất công nghiệp với nhiều nhà máy, nghiệp trang bị máy móc nhập khẩu hiện đại, hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất quan trọng.

Một số khu, cụm công nghiệp lớn khác của nền kinh tế miền Nam thời kỳ này khu công nghiệp Đà Nẵng, khu công nghiệp Cần Thơ khu công nghiệp Tân Mai (Biên Hòa). Trong đó, khu công nghiệp Đà Nẵng tập trung các nhà máy, nghiệp sản xuất ôxy, axetilen, chất dẻo, vật liệu xây dựng gồm gạch ốp lát ximăng, sợi dệt. Khu công nghiệp Cần Thơ chủ yếu các nghiệp chế biến lương thực, nông sản như ép dầu thực vật, tinh chế đường, sản xuất thức ăn gia súc sản xuất giấy. Khu công nghiệp Tân Mai gồm các sở chuyên sản xuất các sản phẩm giấy, gỗ ván ép.

Tuy nhiên, sự phân bố các khu, cụm công nghiệp tại miền Nam lại nằm cách tương đối xa những khu vực nguyên liệu, đặc biệt nguồn nguyên liệu cho chế biến nông, lâm, thủy hải sản. dụ, nông sản thủy sản tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long gỗ khai thác tại vùng thuộc Trung Bộ thường phải chuyên chở vào tận khu công nghiệp Sài Gòn - Biên Hòa.

Nguyên nhân chủ yếu do an ninh, giới bản mong muốn đặt các sở sản xuất quanh các khu đô thị lớn nhằm được đảm bảo an toàn, tránh bị ảnh hưởng bởi chiến tranh vốn lan rộng khắp các vùng nông thôn. Càng gần các khu đô thị tầm quan trọng cao về chính trị quân sự, thì các khu, cụm công nghiệp càng lớn. Bên cạnh đó, các khu đô thị chính những thị trường tiêu thụ hàng hóa chính khi phần lớn dân miền Nam dồn về đây trong thời kỳ này.

Mặt khác, việc bố trí gần các đô thị sẽ giúp các sở sản xuất thuận lợi hơn trong việc tiếp nhận nguồn nguyên liệu nhập khẩu thông qua các cảng biển sân bay trong bối cảnh phần lớn các hoạt động sản xuất chế biến công nghiệp tại miền Nam phụ thuộc mạnh vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.

b) Phụ thuộc nguyên phụ liệu nhập khẩu

Chỉ trừ một số ít ngành như Chế biến hải sản, Xay xát lúa gạo, Ép dầu thực vật... sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước, phần lớn nguyên liệu bán chế phẩm đầu vào cho hoạt động sản xuất chế biến tại miền Nam đến từ nguồn nhập khẩu. Điển hình, đối với ngành Dệt, 100% bông dùng để kéo sợi được nhập khẩu từ Mỹ. Đối với sản xuất nhựa dẻo, 99,5% nhựa nguyên liệu đầu vào nhập khẩu, chỉ một phần rất nhỏ còn lại nhựa tái sinh. Ngay cả đối với ngành Đường thì đường thô nhập khẩu chiếm đến 97,4% nguyên liệu đầu vào của các nhà máy tinh chế đường với các doanh nghiệp sản xuất thuốc thì 89% sợi thuốc được nhập khẩu. Các lĩnh vực sản xuất khác như luyện kim, ximăng, thủy tinh giấy thì nguyên liệu nhập khẩu chiếm từ 40 đến 82%.

Trong khi đó, thị trường của công nghiệp miền Nam chủ yếu thị trường nội địa, đơn cử: 90% các sản phẩm dệt may phục vụ người dân miền Nam. Vai trò của công nghiệp trong xuất khẩu rất nhỏ bé. Giá trị sản lượng của công nghiệp chỉ chiếm khoảng 10%, nhỏ nhất trong các khu vực hoạt động kinh tế khác.

Công nghiệp nhẹ lĩnh vực tốc độ phát triển nhanh nhất trong các hoạt động sản xuất công nghiệp tại miền Nam, trọng tâm phát triển công nghiệp thực phẩm, đồ uống, thuốc lá... do những ngành này đòi hỏi vốn đầu ít, thu lợi nhuận nhanh phục vụ trực tiếp cho cả dân sự lẫn quân sự, cường độ chiến tranh càng tăng thì những ngành này càng phát triển mạnh. Ngược lại, khi chiến tranh kết thúc thì động lực phát triển của những ngành này cũng không tồn tại.

Việc sở hữu trang thiết bị hiện đại, chính xác cao được nhập khẩu từ những nền công nghiệp tiên tiến như Mỹ, Tây Đức1, Nhật Bản... giúp cải thiện đáng kể năng lực sản xuất của các sở sản xuất tại miền Nam, nhưng đây cũng các loại thiết bị máy móc đòi hỏi các điều kiện kỹ thuật khắt khe trong cả quá trình sử dụng lẫn bảo dưỡng, sửa chữa. Các hệ thống máy này cần phải bảo trì đúng quy trình, sau số giờ hoạt động nhất định, sử dụng phụ tùng thay thế đúng hãng, đúng quy chuẩn. Ngay cả nguyên liệu dùng để sản xuất cũng phải đáp ứng các yêu cầu đầu vào của máy. dụ, hầu hết các nghiệp sợi tại miền Nam sẽ chỉ dùng được bông nhập khẩu từ Mỹ, sợi tổng hợp được nhập khẩu từ Nhật Bản, Đài Loan Hàn Quốc. Nếu sử dụng các loại bông, sợi nguồn gốc xuất xứ khác thì chất lượng sản phẩm đầu ra khó đạt mức cao, máy móc thường xuyên bị hỏng. Điều này đặt ra bài toán lớn về việc duy trì sản xuất trong giai đoạn sau giải phóng, thống nhất đất nước khi lượng vật tư, phụ tùng chính hãng dự trữ đã cạn kiệt.

c) Đội ngũ công nhân lành nghề

Sự xuất hiện đông đảo của quân đội Mỹ lực lượng đồng minh cũng như các đơn vị dân sự nước ngoài tại miền Nam trong thời gian dài đã tạo ra một khu vực được gọi “Khu vực Mỹ” với lượng lớn công nhân người Việt được đào tạo chuyên môn trong nhiều lĩnh vực như sửa chữa khí, xây dựng, điện tử, lắp ráp, hóa chất... Số lượng người Việt làm việc trong “Khu vực Mỹ” đông nhất 160.000 người vào năm 1969. Riêng tập đoàn xây dựng hàng đầu Mỹ RMK - BRJ, trong giai đoạn 1962 - 1973 đã đào tạo khoảng 150.000 công nhân Việt Nam từ vận hành các máy thi công, hàn đến tính toán kết cấu, thư văn phòng soạn thảo chương trình điện toán.

Bên cạnh đó, quân nhân thuộc quân đội chính quyền Sài Gòn được đánh giá tay nghề tương đối tốt trong nhiều lĩnh vực. Theo đánh giá của Bộ Quốc phòng Sài Gòn, tính đến năm 1973, trong hơn 1 triệu quân nhân thì đến 175.904 người chuyên môn tại các lĩnh vực khác nhau (bộ binh 20%, địa phương quân 10%, hải quân 62% không quân 65%). Điều này cũng được minh chứng qua trình độ sửa chữa của các công binh xưởng như Hải quân Công xưởng2 khả năng sửa chữa toàn diện các loại chiến hạm trọng tải lớn lẫn tàu vận tải viễn dương; Công xưởng Không quân Biên Hòa khả năng đại tu, sửa chữa tất cả các loại phi cơ, bao gồm cả các loại tối tân Mỹ chuyển giao.

Cùng với lực lượng công nhân, chuyên viên làm việc tại các nhà máy, nghiệp dân sự lớn, miền Nam đã hình thành một đội ngũ công nhân kỹ thuật với tác phong lao động công nghiệp, kinh nghiệm vận hành các loại máy móc phức tạp, trình độ chuyên môn nhất định trong các lĩnh vực về sửa chữa khí, xây dựng, điện tử, hóa chất... thông thạo ngoại ngữ. Đây được xem nguồn nhân lực quan trọng cho công cuộc khôi phục phát triển kinh tế đất nước sau này.


1. Tên thường gọi của nước Cộng hòa Liên bang Đức trong thời kỳ từ khi nước này được thành lập vào ngày 23/5/1949 đến năm 1990.

2. Tiền thân Nhà máy Đóng tàu Ba Son.

4. Những di sản công nghiệp cho giai đoạn sau

Điều kiện chiến tranh sự lệ thuộc của nền kinh tế trong vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát vào viện trợ nước ngoài, chủ yếu của Mỹ, trong 20 năm đã quyết định tính chất, cấu, sự phân bổ các nguồn lực thị trường đối với hoạt động sản xuất công nghiệp tại miền Nam. Những đặc điểm này đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét cho giai đoạn sau giải phóng, thống nhất đất nước.

a) Hệ thống công nghiệp tập trung

Bằng nguồn viện trợ kinh tế từ Mỹ một số nước, chính quyền Sài Gòn đã tiếp cận được các loại máy móc công nghiệp tiên tiến, tạo nên sự phát triển của sở vật chất kỹ thuật trong công nghiệp. Trị giá máy móc được nhập khẩu vào miền Nam trong giai đoạn 1965 - 1972 đạt 712,8 triệu USD, gấp 2,7 lần so với giai đoạn 1957 - 1964. Nhờ vậy, một số ngành công nghiệp như sản xuất đồ hộp, dệt vải, chế biến sữa... đã được trang bị các dây chuyền sản xuất quy lớn, hiện đại tương đương như nhiều nước trong khu vực.

Quá trình khí hóa, tự động hóa đã giúp nâng cao đáng kể năng suất lao động cũng như chất lượng các sản phẩm. Các sở sản xuất hiện đại cũng xu hướng tập trung mở rộng máy móc, trang thiết bị hơn mở rộng sản xuất dựa trên việc thâm dụng lao động. dụ, Công ty Luyện kim VIKIMCO chỉ với 200 công nhân nhưng đã công suất lên tới 20.000 tấn sắt thép các loại vào năm 1966; Công ty giấy NAGICO sản lượng trên 3.000 tấn giấy vào năm 1967, chỉ sử dụng 150 công nhân; Công ty Bột giặt VISO công suất 3.000 tấn bột giặt vào năm 1970, chỉ cần sử dụng 25 công nhân...

Trải qua quá trình tích tụ tập trung bản, sản xuất lớn ưu thế hơn hẳn sản xuất nhỏ hay nói cách khác hoạt động công nghiệp tại miền Nam dần tập trung vào các sở sản xuất lớn thay phân tán vào những sở sản xuất nhỏ, lẻ, tiểu công nghiệp như trước đây. Cùng với đó xu hướng chuyên môn hóa sản xuất, mỗi sở sản xuất đảm nhiệm chuyên trách một vai trò nhất định trong toàn bộ chuỗi giá trị sản xuất.

Mặt khác, hoạt động sản xuất công nghiệp tại miền Nam còn xu hướng tập trung hình thành những khu, cụm công nghiệp sức sản xuất lớn. đến 85% tổng số sở sản xuất công nghiệp hơn 90% tổng sản lượng công nghiệp chế biến của toàn miền Nam được tập trung tại khu vực Sài Gòn, Gia Định Biên Hòa. Trong đó, cụm công nghiệp Sài Gòn - Biên Hòa cụm công nghiệp lớn nhất tại miền Nam, tập trung đến 80% năng lực sản xuất công nghiệp với nhiều nhà máy, nghiệp trang bị máy móc nhập khẩu hiện đại, hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất quan trọng.

Một số khu, cụm công nghiệp lớn khác của nền kinh tế miền Nam thời kỳ này khu công nghiệp Đà Nẵng, khu công nghiệp Cần Thơ khu công nghiệp Tân Mai (Biên Hòa). Trong đó, khu công nghiệp Đà Nẵng tập trung các nhà máy, nghiệp sản xuất ôxy, axetilen, chất dẻo, vật liệu xây dựng gồm gạch ốp lát ximăng, sợi dệt. Khu công nghiệp Cần Thơ chủ yếu các nghiệp chế biến lương thực, nông sản như ép dầu thực vật, tinh chế đường, sản xuất thức ăn gia súc sản xuất giấy. Khu công nghiệp Tân Mai gồm các sở chuyên sản xuất các sản phẩm giấy, gỗ ván ép.

Tuy nhiên, sự phân bố các khu, cụm công nghiệp tại miền Nam lại nằm cách tương đối xa những khu vực nguyên liệu, đặc biệt nguồn nguyên liệu cho chế biến nông, lâm, thủy hải sản. dụ, nông sản thủy sản tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long gỗ khai thác tại vùng thuộc Trung Bộ thường phải chuyên chở vào tận khu công nghiệp Sài Gòn - Biên Hòa.

Nguyên nhân chủ yếu do an ninh, giới bản mong muốn đặt các sở sản xuất quanh các khu đô thị lớn nhằm được đảm bảo an toàn, tránh bị ảnh hưởng bởi chiến tranh vốn lan rộng khắp các vùng nông thôn. Càng gần các khu đô thị tầm quan trọng cao về chính trị quân sự, thì các khu, cụm công nghiệp càng lớn. Bên cạnh đó, các khu đô thị chính những thị trường tiêu thụ hàng hóa chính khi phần lớn dân miền Nam dồn về đây trong thời kỳ này.

Mặt khác, việc bố trí gần các đô thị sẽ giúp các sở sản xuất thuận lợi hơn trong việc tiếp nhận nguồn nguyên liệu nhập khẩu thông qua các cảng biển sân bay trong bối cảnh phần lớn các hoạt động sản xuất chế biến công nghiệp tại miền Nam phụ thuộc mạnh vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.

b) Phụ thuộc nguyên phụ liệu nhập khẩu

Chỉ trừ một số ít ngành như Chế biến hải sản, Xay xát lúa gạo, Ép dầu thực vật... sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước, phần lớn nguyên liệu bán chế phẩm đầu vào cho hoạt động sản xuất chế biến tại miền Nam đến từ nguồn nhập khẩu. Điển hình, đối với ngành Dệt, 100% bông dùng để kéo sợi được nhập khẩu từ Mỹ. Đối với sản xuất nhựa dẻo, 99,5% nhựa nguyên liệu đầu vào nhập khẩu, chỉ một phần rất nhỏ còn lại nhựa tái sinh. Ngay cả đối với ngành Đường thì đường thô nhập khẩu chiếm đến 97,4% nguyên liệu đầu vào của các nhà máy tinh chế đường với các doanh nghiệp sản xuất thuốc thì 89% sợi thuốc được nhập khẩu. Các lĩnh vực sản xuất khác như luyện kim, ximăng, thủy tinh giấy thì nguyên liệu nhập khẩu chiếm từ 40 đến 82%.

Trong khi đó, thị trường của công nghiệp miền Nam chủ yếu thị trường nội địa, đơn cử: 90% các sản phẩm dệt may phục vụ người dân miền Nam. Vai trò của công nghiệp trong xuất khẩu rất nhỏ bé. Giá trị sản lượng của công nghiệp chỉ chiếm khoảng 10%, nhỏ nhất trong các khu vực hoạt động kinh tế khác.

Công nghiệp nhẹ lĩnh vực tốc độ phát triển nhanh nhất trong các hoạt động sản xuất công nghiệp tại miền Nam, trọng tâm phát triển công nghiệp thực phẩm, đồ uống, thuốc lá... do những ngành này đòi hỏi vốn đầu ít, thu lợi nhuận nhanh phục vụ trực tiếp cho cả dân sự lẫn quân sự, cường độ chiến tranh càng tăng thì những ngành này càng phát triển mạnh. Ngược lại, khi chiến tranh kết thúc thì động lực phát triển của những ngành này cũng không tồn tại.

Việc sở hữu trang thiết bị hiện đại, chính xác cao được nhập khẩu từ những nền công nghiệp tiên tiến như Mỹ, Tây Đức1, Nhật Bản... giúp cải thiện đáng kể năng lực sản xuất của các sở sản xuất tại miền Nam, nhưng đây cũng các loại thiết bị máy móc đòi hỏi các điều kiện kỹ thuật khắt khe trong cả quá trình sử dụng lẫn bảo dưỡng, sửa chữa. Các hệ thống máy này cần phải bảo trì đúng quy trình, sau số giờ hoạt động nhất định, sử dụng phụ tùng thay thế đúng hãng, đúng quy chuẩn. Ngay cả nguyên liệu dùng để sản xuất cũng phải đáp ứng các yêu cầu đầu vào của máy. dụ, hầu hết các nghiệp sợi tại miền Nam sẽ chỉ dùng được bông nhập khẩu từ Mỹ, sợi tổng hợp được nhập khẩu từ Nhật Bản, Đài Loan Hàn Quốc. Nếu sử dụng các loại bông, sợi nguồn gốc xuất xứ khác thì chất lượng sản phẩm đầu ra khó đạt mức cao, máy móc thường xuyên bị hỏng. Điều này đặt ra bài toán lớn về việc duy trì sản xuất trong giai đoạn sau giải phóng, thống nhất đất nước khi lượng vật tư, phụ tùng chính hãng dự trữ đã cạn kiệt.

c) Đội ngũ công nhân lành nghề

Sự xuất hiện đông đảo của quân đội Mỹ lực lượng đồng minh cũng như các đơn vị dân sự nước ngoài tại miền Nam trong thời gian dài đã tạo ra một khu vực được gọi “Khu vực Mỹ” với lượng lớn công nhân người Việt được đào tạo chuyên môn trong nhiều lĩnh vực như sửa chữa khí, xây dựng, điện tử, lắp ráp, hóa chất... Số lượng người Việt làm việc trong “Khu vực Mỹ” đông nhất 160.000 người vào năm 1969. Riêng tập đoàn xây dựng hàng đầu Mỹ RMK - BRJ, trong giai đoạn 1962 - 1973 đã đào tạo khoảng 150.000 công nhân Việt Nam từ vận hành các máy thi công, hàn đến tính toán kết cấu, thư văn phòng soạn thảo chương trình điện toán.

Bên cạnh đó, quân nhân thuộc quân đội chính quyền Sài Gòn được đánh giá tay nghề tương đối tốt trong nhiều lĩnh vực. Theo đánh giá của Bộ Quốc phòng Sài Gòn, tính đến năm 1973, trong hơn 1 triệu quân nhân thì đến 175.904 người chuyên môn tại các lĩnh vực khác nhau (bộ binh 20%, địa phương quân 10%, hải quân 62% không quân 65%). Điều này cũng được minh chứng qua trình độ sửa chữa của các công binh xưởng như Hải quân Công xưởng2 khả năng sửa chữa toàn diện các loại chiến hạm trọng tải lớn lẫn tàu vận tải viễn dương; Công xưởng Không quân Biên Hòa khả năng đại tu, sửa chữa tất cả các loại phi cơ, bao gồm cả các loại tối tân Mỹ chuyển giao.

Cùng với lực lượng công nhân, chuyên viên làm việc tại các nhà máy, nghiệp dân sự lớn, miền Nam đã hình thành một đội ngũ công nhân kỹ thuật với tác phong lao động công nghiệp, kinh nghiệm vận hành các loại máy móc phức tạp, trình độ chuyên môn nhất định trong các lĩnh vực về sửa chữa khí, xây dựng, điện tử, hóa chất... thông thạo ngoại ngữ. Đây được xem nguồn nhân lực quan trọng cho công cuộc khôi phục phát triển kinh tế đất nước sau này.


1. Tên thường gọi của nước Cộng hòa Liên bang Đức trong thời kỳ từ khi nước này được thành lập vào ngày 23/5/1949 đến năm 1990.

2. Tiền thân Nhà máy Đóng tàu Ba Son.

3. Tiểu thủ công nghiệp vùng giải phóng

Không giống như những vùng tự do trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp vốn có diện tích tương đối lớn, hoàn toàn do ta kiểm soát, ranh giới rõ ràng với vùng tạm bị địch chiếm, vùng giải phóng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được hiểu là vùng dân cư đã được lực lượng cách mạng giải thoát khỏi sự kìm kẹp của chính quyền Sài Gòn, thiết lập chính quyền cách mạng. Nhiều vùng giải phóng được hình thành dưới hình thức nhân dân tự phát nổi dậy, tự phá bỏ hệ thống kiểm soát của chính quyền Sài Gòn và tự tổ chức cuộc sống.

Vùng tranh chấp là những vùng có trạng thái giằng co kiểm soát giữa ta với đối phương, có nơi, có lúc được giải phóng hoàn toàn. Hầu hết thời gian trong cuộc chiến, các vùng đồng bằng miền Nam phần lớn là khu vực tranh chấp.

Cho đến trước năm 1968, vùng giải phóng chủ yếu là các khu vực nằm xa các khu đô thị, trục đường giao thông chính, nằm sâu trong vùng rừng núi, có địa hình hiểm trở và dân cư thưa thớt. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, vùng giải phóng được mở rộng hơn. Tuy nhiên, đến giữa năm 1968 thì tình hình trở nên khó khăn, địch phản kích ác liệt, lấn dần vùng giải phóng, đẩy mạnh cưỡng ép người dân vào các khu tập trung khiến vùng giải phóng bị thu hẹp. Sau chiến thắng bước ngoặt tại Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971, các vùng giải phóng dần được mở rộng với dân số sống tại các vùng này lên đến hơn 5,1 triệu người, chiếm 43% tổng số dân cư sống tại các vùng nông thôn và 40% diện tích đất đai miền Nam1.

Các vùng giải phóng và vùng tranh chấp tuy có sự khác nhau về điều kiện địa lý và kinh tế, nhưng xuyên suốt cuộc kháng chiến, phần lớn dân cư sinh sống tại vùng giải phóng là nông dân, có tiềm lực kinh tế thấp, đời sống thiếu thốn và nền kinh tế chủ yếu phát triển theo hướng tự cung, tự cấp. Các hoạt động kinh tế trong vùng giải phóng cũng như vùng tranh chấp gặp nhiều khó khăn khi chịu sự đánh phá ác liệt, liên tục từ quân địch. Dưới tác động của các loại thuốc diệt cỏ, bom đạn, đồng ruộng tại nhiều nơi bị bỏ hoang hóa, dân cư trở nên thưa thớt, thậm chí biến thành “vùng trắng” như ở Củ Chi, kéo theo đó là sự mai một của nhiều hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp.

Không thể chỉ trông chờ vào sự chi viện từ miền Bắc, chính quyền cách mạng tại các vùng giải phóng chủ trương khôi phục, khuyến khích phát triển một số nghề truyền thống như rèn, giấy, trồng dâu nuôi tằm, dệt và chế biến nông sản. Nhờ đó, nhiều vùng giải phóng đã tự túc được một phần đáng kể các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, góp phần đảm bảo đời sống cho nhân dân, cán bộ và chiến sĩ. Nhiều lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp bị mai một trong thời gian tạm chiếm đã được phục hồi khi trở thành vùng giải phóng.

Trong các lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp tại vùng giải phóng thì nghề rèn là nổi bật nhất. Các khu giải phóng đều có xưởng rèn và số lượng xưởng tăng dần qua các năm, cung cấp lượng lớn nông cụ, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo canh tác nông nghiệp, giải quyết vấn đề thiếu lương thực. Bên cạnh đó, các xưởng rèn còn tham gia chế tạo nhiều vũ khí thô sơ, phục vụ cho hoạt động du kích, chống các đợt càn quét của đối phương. Nghề Dệt là lĩnh vực quan trọng thứ hai, đặc biệt phát triển tại khu V2. Ví dụ, tại Quảng Ngãi, có 754 khung dệt giúp sản xuất ra hơn 680.000 m vải khổ rộng và hơn 34.000 m vải khổ hẹp; còn tại Quảng Đà, đã có 130 khung dệt vải với sản lượng hơn 33.000 m vải, 1.500 hộ nuôi tằm và 270 lò ươm tơ tằm có sản lượng 33 tấn tơ trong năm 19663. Đặc biệt, sau khi Hiệp định Pari được ký kết năm 1973, nhiều vùng giải phóng được củng cố, một bộ phận người dân từ vùng địch kiểm soát trở lại quê hương, nhân dân bắt đầu có xu hướng bung ra làm ăn. Riêng khu vực giáp biên giới Campuchia đã có 40.000 kiều bào ở Campuchia về tỉnh Bình Phước, Tây Ninh và một số nơi khác để sinh sống4. Ban Kinh tế - Tài chính Trung ương Cục miền Nam5 (gọi tắt là Ban Kinh - Tài) tiến hành cho các cơ quan và nhân dân vay vốn phát triển sản xuất - kinh doanh, nhờ đó hoạt động kinh tế ở vùng giải phóng được mở rộng. Hàng loạt các cơ sở công, nông, thương nghiệp như bông vải sợi, xưởng mộc, xưởng gạch, xưởng ép mía đường, xay xát lúa gạo, chế biến nông sản... được mở mới, giúp tăng đáng kể lượng hàng hóa trên thị trường, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đời sống nhân dân.


1. Xem Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 13 (Từ năm 1965 đến năm 1975), Sđd, tr.162.

2. Khu V gồm các tỉnh từ Quảng Nam, Đà Nẵng đến Ninh Thuận và các tỉnh Tây Nguyên.

3. Xem Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, tập II: 1955 - 1975, Sđd, tr.482.

4. Xem Câu lạc bộ Truyền thống kháng chiến, Ban Kinh - Tài Trung ương Cục miền Nam Việt Nam: Lịch sử Ban Kinh tế - Tài chính Trung ương Cục miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.186.

5. Tiền thân là Ban Tài chính Xứ ủy Nam Bộ.

II- THƯƠNG MẠI MIỀN NAM THỜI KỲ 1955 - 1975

hàng tiêu dùng

Hàng tiêu dùng nhập khẩu được bày bán tràn lan trên đường phố các đô thị lớn miền Nam, bao gồm cả lượng lớn hàng PX được tuồn lậu ra bên ngoài (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Danh mục

Tùy chỉnh