3. Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965)

a) Chủ trương

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960) đã đề ra đường lối cách mạng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội. Đại hội xác định đường lối công nghiệp hóa hội chủ nghĩa, thông qua nhiệm vụ phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế quốc dân. Tháng 4/1962, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III bàn về vấn đề xây dựng phát triển công nghiệp theo phương hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý; kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với ưu tiên phát triển công nghiệp nặng; ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương, kết hợp nghiệp quy vừa nhỏ, kết hợp kỹ thuật hiện đại với kỹ thuật thô sơ.

Tiếp đến, Hội nghị lần thứ 8 (tháng 4/1963) về kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), xác định phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu biện pháp chủ yếu của kế hoạch này.

Nội dung công nghiệp hóa

Thứ nhất, xác định rằng, thực chất của công nghiệp hóa hội chủ nghĩa Việt Nam làm cách mạng khoa học - kỹ thuật; phát triển công nghiệp nặng để từng bước cải tạo kỹ thuật trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế quốc dân.

Thứ hai, xây dựng bước đầu sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội; khâu quyết định nhất để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng hội chủ nghĩa tiến lên.

Thứ ba, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện ra sức phát triển công nghiệp nhẹ. Ba bộ phận: công nghiệp nặng - nông nghiệp - công nghiệp nhẹ quan hệ mật thiết với nhau, cùng nương tựa nhau, thúc đẩy nhau phát triển với nhịp độ nhanh theo tỷ lệ cân đối.

Thứ tư, kết hợp chặt chẽ ba mặt: phát huy cao độ tinh thần tự lực cánh sinh; sử dụng sự giúp đỡ của các nước anh em một cách hợp lợi nhất; tích cực mở rộng sự hợp tác kinh tế của ta với các nước anh em.

Công nghiệp hóa hội chủ nghĩa được cụ thể hóa thành phương hướng, nhiệm vụ phát triển toàn ngành công nghiệp các phân ngành công nghiệp trong kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965).

Nhiệm vụ của toàn ngành công nghiệp

- Xây dựng một bước sở vật chất kỹ thuật cho một nền công nghiệp hiện đại hội chủ nghĩa theo đường lối phát triển ưu tiên công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển công nghiệp nhẹ. Kết hợp với phát triển công nghiệp hiện đại của Nhà nước, vẫn phải coi trọng ra sức phát triển thủ công nghiệp hợp tác hóa bằng cách đẩy mạnh cải tiến công cụ, cải tiến thiết bị cải tiến kỹ thuật.

- Đẩy mạnh sản xuất các liệu sản xuất, chủ yếu phát triển điện lực đi trước một bước, phát triển công nghiệp gang thép công nghiệp chế tạo khí, đồng thời phát triển công nghiệp than, công nghiệp vật liệu xây dựng bước đầu xây dựng công nghiệp hóa học, nhằm phát huy năng lực trong nước, cung cấp một số loại vật kỹ thuật, nguyên liệu, vật liệu cho xây dựng bản, cho sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải. Đặc biệt, cần chú trọng hướng công nghiệp phục vụ nông nghiệp, phục vụ cải tiến nông cụ, cải tiến kỹ thuật chế biến nông sản.

- Ra sức phát triển các hàng tiêu dùng, thỏa mãn hầu hết các nhu cầu phổ thông về mặc, ăn uống, đồ dùng, học tập, bảo vệ sức khỏe, nâng cao dần đời sống của nhân dân.

- Đẩy mạnh chế biến các nông sản, mở rộng khai thác một số khoáng sản, mở rộng gia công các loại hàng thủ công giá trị để tăng thêm nguồn hàng xuất khẩu.

Phương hướng phát triển các ngành công nghiệp

Điện lực: Phát triển thủy điện kết hợp với phát triển nhiệt điện, nhằm giảm giá thành xây dựng giá thành phát điện, điều hòa việc cung cấp điện, phục vụ kịp thời cho nhu cầu phát triển kinh tế trong kế hoạch 5 năm chuẩn bị một phần cho kế hoạch sau. Đi đôi với việc xây dựng các nhà máy mới, cải tiến thiết bị, tăng thêm công suất một số nhà máy sẵn có. các địa phương, chú trọng lợi dụng sức nước, sức gió, hơi mêtan, xây dựng những trạm phát điện nhỏ để phục vụ cho nhu cầu của địa phương.

Xây dựng hệ thống lưới điện nối liền các nhà máy loại lớn loại vừa với nhau với những nơi tiêu thụ điện. Mặt khác, tăng cường quản việc dùng điện, hết sức tiết kiệm điện. Trong những năm 1961 - 1963, cần nghiên cứu mọi biện pháp để giảm nhẹ tình hình căng thẳng về cung cấp điện, đồng thời phải tập trung sức xây dựng xong các công trình đúng thời hạn để khắc phục sớm khó khăn về thiếu điện.

Luyện kim: Nhiệm vụ chủ yếu về công nghiệp luyện kim cố gắng cung cấp phần lớn nhu cầu về gang, thép thông thường cho xây dựng bản một phần cho việc chế tạo khí. Xây dựng xong Khu gang thép Thái Nguyên với công suất 200.000 tấn/năm; chú trọng phát triển sớm các cao cỡ nhỏ những nơi điều kiện để sản xuất gang xây dựng một số nghiệp liên hợp gang thép cỡ nhỏ. Để phục vụ cho công nghiệp gang thép, xây dựng khai thác các mỏ sắt, đá vôi, đất chịu lửa,... xây dựng một số xưởng luyện các loại hợp kim gang cần cho việc nấu thép. Đồng thời, xúc tiến việc điều tra, thǎm dò, thiết kế, tích cực chuẩn bị để tiếp tục phát triển hơn nữa công nghiệp gang thép trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai.

Về luyện kim màu, xúc tiến việc khai thác sản xuất chì, kẽm, khai thác bôxít luyện nhôm, tích cực tăng thêm khả năng khai thác cromit, huy động tốt nhà máy thiếc. Đối với những mỏ đồng trữ lượng ít, cần xây dựng sở khai thác sản xuất quy nhỏ.

Chế tạo khí: Sản xuất một số loại máy móc công cụ chính xác cấp II trở xuống, một số loại thiết bị phối hợp đi theo với thiết bị toàn bộ, thiết bị về điện từ 100 kW trở xuống, tàu thủy từ 1.000 tấn trở xuống, lan, tàu kéo, canô, toa xe, một số thiết bị khoan lò, thiết bị thi công xây dựng bản loại nhỏ.

Sản xuất các loại nông cụ cải tiến, một số máy móc nông nghiệp loại nhỏ, các loại máy móc giản đơn chế biến nông sản, ép gạch... để phục vụ nông nghiệp công nghiệp địa phương.

Bảo đảm sửa chữa lớn sản xuất một số loại phụ tùng, dụng cụ cho các ngành công nghiệp, vận tải, xây dựng bản...

Kết hợp các xưởng khí sẽ xây dựng trong kế hoạch 5 năm với các sở sẵn có, bố trí thành một màng lưới khí các địa phương để thực hiện các nhiệm vụ nói trên.

Gấp rút thống nhất tăng cường quản ngành khí, phân công sản xuất hợp giữa các sở quốc doanh công hợp doanh, giữa các sở của Trung ương các sở địa phương để tận dụng khả năng hiện sử dụng tốt các sở sẽ xây dựng thêm.

Khai thác than: Thỏa mãn đầy đủ nhu cầu trong nước về các loại than không khói, đồng thời tăng thêm mức xuất khẩu. Về than mỡ, cần hết sức đẩy mạnh thăm dò, thiết kế... để tiến tới giải quyết cho nhu cầu luyện than cốc.

Hướng chính để tăng sản lượng than vẫn Hòn Gai, Cẩm Phả; chú trọng nâng cao trình độ khai thác giới hóa dần dần mở rộng việc khai thác bằng hầm lò; đồng thời tranh thủ mở các công trường khai thác Uông Bí, Mạo Khê, Tràng Bạch, Làng Cẩm. Ngoài ra, các địa phương những mỏ than nhỏ, tổ chức khai thác để phục vụ nhu cầu của công nghiệp địa phương.

Vật liệu xây dựng: Thống nhất quản ngành vật liệu xây dựng, cố gắng đẩy mạnh sản xuất khai thác để thỏa mãn nhu cầu về xây dựng bản: tăng thêm sở phát triển sản xuất các loại gạch máy, ngói máy, gạch chịu lửa, cải tiến kỹ thuật nâng cao chất lượng gạch ngói thủ công; đẩy mạnh khai thác cát, sỏi, đá; tăng thêm sản xuất các loại xi măng các loại vôi; sản xuất các loại vật liệu đúc sẵn dể phục vụ việc giới hóa ngành xây dựng; sản xuất các loại kính, đồ dùng vệ sinh..., cần cho việc xây dựng thành phố xây dựng các nhà máy; đồng thời nghiên cứu, sản xuất các loại vật liệu rẻ tiền cần cho việc xây dựng nhà cửa nông thôn.

Hóa chất phân bón: Sản xuất phân bón thuốc trừ sâu cho nông nghiệp, đồng thời sản xuất một số hóa chất bản như xút, axít sunfuríc, một số loại nguyên liệu hóa chất như thuốc nhuộm, sản xuất thuốc kháng sinh một số dược liệu, sản xuất bông nhân tạo theo quy nhỏ tích cực chuẩn bị tiến tới sản xuất bông nhân tạo theo quy lớn.

Xây dựng sớm nhà máy phân đạm; tích cực mở rộng khai thác mỏ apatít, xây dựng nhà máy làm giàu quặng, đẩy mạnh khai thác apatít để trao đổi với các nước anh em; tích cực thăm quặng lưu huỳnh cần cho việc sản xuất axít sunfuríc.

Khai thác gỗ chế biến gỗ: Nhiệm vụ chính tăng khối lượng gỗ khai thác hết sức lợi dụng các loại gỗ cành, gỗ nhánh; giới hóa việc cưa, xẻ, gỗ; nghiên cứu, tổ chức ép gỗ vụn sấy gỗ để tiết kiệm gỗ; chú trọng sản xuất các đồ gỗ dùng trong gia đình, cung cấp cho một phần nhu cầu của nhân dân.

Cần cố gắng thỏa mãn nhu cầu về giấy cho việc phát triển văn hóa. Đi đôi với việc xây dựng các xưởng hiện đại sản xuất giấy viết, giấy in, giấy báo, cần mở những xưởng giấy nhỏ các địa phương để sản xuất loại giấy thường.

Dệt, may mặc da: Mở rộng cải tiến Nhà máy Dệt Nam Định, Nhà máy Sợi cải tiến nghề dệt thủ công. Xây dựng các nhà máy dệt kim, dệt bao tải, chế biến gai, đan lưới đánh cá, thuộc da, đóng giày.

Nâng cao kỹ thuật bật bông, kéo sợi; nghiên cứu dùng các loại cây sợi như đay, gai,... để dệt vải. Cần tổ chức thu mua thuộc da lợn để tăng sản lượng da.

Công nghiệp thực phẩm: Thỏa mãn nhu cầu về một số thực phẩm chủ yếu như đường, nước mắm tăng thêm mức cung cấp về một số sản phẩm khác. Đồng thời, cần đẩy mạnh việc chế biến những sản phẩm để xuất khẩu.

Sử dụng tốt năng lực của nhà máy hộp; phát triển thêm các nhà máy xay loại vừa nhỏ. Đi đôi với kế hoạch phát triển nông trường quốc doanh, cần xây dựng sắp xếp hợp các sở chế biến nông sản, như xưởng chè, xưởng chế biến phê, xưởng làm hoa quả hộp, bột, thịt, sữa.

Các ngành công nghiệp nhẹ khác: Chú trọng phát triển sản xuất các đồ dùng trong gia đình, xây dựng thêm nhà in, xây dựng xưởng phim, xưởng sản xuất đồ dùng thể thao, xưởng sản xuất học cụ, xưởng sản xuất xe đạp, kết hợp với xưởng máy điện thoại, sản xuất các phụ tùng thông dụng về tuyến điện để phục vụ công tác truyền thanh...

Công nghiệp quốc doanh địa phương: kế hoạch đẩy mạnh phát triển thủ công nghiệp tận dụng năng lực sản xuất của các sở công nghiệp công hợp doanh. Kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp do Trung ương quản công nghiệp địa phương, giữa công nghiệp quốc doanh, công nghiệp công hợp doanh thủ công nghiệp hợp tác hóa để hỗ trợ nhau cùng phát triển bổ sung cho nhau.

Xây dựng những sở nhỏ sản xuất theo lối bán khí, nhằm giải quyết những nhu cầu của địa phương hỗ trợ cho công nghiệp của Trung ương. Chú trọng những ngành nghề thủ công nghiệp không giải quyết được, hoặc không cung cấp đủ như nông cụ cải tiến, phương tiện vận tải thô cải tiến, phân bón, vật liệu xây dựng, xay xát gạo, đường, bột, nước mắm, sấy,...

Chú trọng khả năng giải quyết nguyên liệu của địa phương trên sở bảo đảm cung cấp nguyên liệu cho Trung ương không lại vào việc Trung ương cung cấp nguyên liệu; cố gắng bảo đảm chất lượng tiêu thụ; với một số loại sản phẩm cần đặc biệt khuyến khích như gang, thép... Nhà nước chính sách lỗ trong thời gian đầu giá thành sản xuất còn cao, nhưng địa phương sở sản xuất phải phấn đấu để hạ dần giá thành.

Thủ công nghiệp: Hướng dẫn giúp đỡ đẩy mạnh sản xuất vật liệu xây dựng nhà cho nhân dân, chế biến thực phẩm dùng địa phương, chế biến lần đầu các loại nông sản, lâm sản, hải sản để cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, phát triển các nghề làm đồ mây, cói, tre, song, các hàng mỹ nghệ các hàng khác giá trị xuất khẩu. Những ngành quan trọng như sản xuất ngũ kim nhỏ, sản xuất vật liệu xây dựng, dệt vải, thuộc da,... cần được chú ý giúp đỡ cải tiến thiết bị, cải tiến kỹ thuật, nâng cao phẩm chất hạ giá thành sản phẩm.

b) Kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất đặt ra những chỉ tiêu lớn phát triển công nghiệp đến năm 1965

- Tỷ trọng trong nền kinh tế: Công nghiệp thủ công nghiệp chiếm khoảng 51%, nông nghiệp chiếm khoảng 49%.

- Tỷ trọng của các thành phần kinh tế: Trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp thủ công nghiệp, công nghiệp quốc doanh chiếm 68,9%, các nghiệp công hợp doanh nghiệp hợp tác chiếm 5,3%, thủ công nghiệp hợp tác hóa chiếm 17,7%1.

- Vốn đầu vào công nghiệp chiếm khoảng 48% tổng mức đầu vào kinh tế văn hóa; trong đó, nhóm A khoảng dưới 80% nhóm B khoảng trên 20%.

- Giá trị sản lượng công nghiệp tăng bình quân hằng năm 17%, trong đó nhóm A tăng khoảng 20% nhóm B tăng khoảng 15%, công nghiệp quốc doanh trung ương tăng bình quân hằng năm khoảng 22%, công nghiệp quốc doanh địa phương khoảng 20% tiểu thủ công nghiệp 9%2.

Rất tiếc kế hoạch 5 năm đang được khẩn trương thực hiện còn chưa kết thúc thì cuối năm 1964, không quân Mỹ đánh phá miền Bắc. Từ đây, công nghiệp toàn bộ đời sống kinh tế được đặt trong hoàn cảnh thời chiến.

c) Bước đầu xây dựng sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa hội

Trong 5 năm 1961 - 1965, tổng khối lượng vốn đầu cho công nghiệp thực hiện 1.351,8 triệu đồng, trong đó công nghiệp sản xuất liệu sản xuất (nhóm A): 78% công nghiệp nhẹ (nhóm B): 22%. Theo cách phân loại khác: công nghiệp trung ương: 74,7%, công nghiệp địa phương: 25,3%. Riêng hai ngành Điện lực Luyện kim đen chiếm 40% tổng vốn đầu vào công nghiệp. Do đó, tổng giá trị tài sản cố định mới tăng thêm của công nghiệp trong 4 năm 1961 - 1964 1.031,5 triệu đồng, trong đó công nghiệp trung ương tăng 964,5 triệu đồng công nghiệp địa phương tăng 67 triệu đồng.

Cả thời kỳ kế hoạch 5 năm đã xây dựng thêm 120 nghiệp, đưa tổng số nghiệp quốc doanh tăng từ 1.012 nghiệp năm 1960 lên 1.132 nghiệp năm 1965, trong đó công nghiệp trung ương: 205 nghiệp công nghiệp quốc doanh địa phương: 927 nghiệp.

Trong thời kỳ này đã tăng thêm 113 nghiệp quy lớn, kỹ thuật hiện đại. Xây dựng xong đưa vào sản xuất các nghiệp công nghiệp nặng như các nhà máy nhiệt điện: Uông Bí, Việt Trì, Thái Nguyên, Bắc, Vinh; Phân đạm Bắc; Phân lân Văn Điển Thanh Hóa; Hóa chất thuốc trừ sâu Việt Trì.

nhà máy dệt

Nhà máy Dệt 8-3 chính thức được khánh thành ngày 08/3/1965, sau 5 năm xây dựng (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Hoàn thành xây dựng mở rộng nhiều nghiệp công nghiệp nhẹ như Dệt 8-3, Dệt len Hải Phòng, Sắt tráng men Hải Phòng, Nhuộm in hoa Đông, Giấy Việt Trì, Đường Vạn Điểm Sông Lam, Sứ Hải Dương, Xe đạp Thống Nhất, Cao su Sao Vàng, Bóng đèn Phích nước Rạng Đông... Đặc biệt, đẩy mạnh tốc độ xây dựng công trình cỡ lớn - Liên hợp Gang thép Thái Nguyên, vốn được khởi công từ cuối thời kỳ trước.

Giá trị sản lượng công nghiệp tăng 89% sau 5 năm, từ 1.458 triệu đồng năm 1960 lên 2.761 triệu đồng năm 1965. Tốc độ tăng giá trị sản lượng bình quân hằng năm đạt 13,6%; trong đó, công nghiệp nặng: 19,3% công nghiệp nhẹ: 10,4%, công nghiệp quốc doanh trung ương: 20,4% công nghiệp quốc doanh địa phương: 8,4%.

Tỷ trọng công nghiệp trong tổng giá trị sản lượng công - nông nghiệp từ 47% năm 1960 tăng lên 55% năm 1965. cấu công nghiệp cũng sự thay đổi: công nghiệp nặng tăng từ 33,7% lên 42% công nghiệp nhẹ giảm từ 66,3% xuống còn 58%; tỷ trọng công nghiệp trung ương: 51% công nghiệp địa phương: 49%.

Bước đầu hình thành một cấu công nghiệp theo hướng hiện đại, tự chủ. Công nghiệp trung ương phát triển chủ yếu về khí, luyện kim, hóa chất, phân bón, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng. Công nghiệp địa phương dựa trên nguồn nguyên liệu tại chỗ để sản xuất các hàng hóa liệu sản xuất liệu tiêu dùng thông dụng.

Hệ thống công nghiệp mới bao gồm ba bộ phận chủ yếu: công nghiệp quốc doanh trung ương, công nghiệp quốc doanh địa phương tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã; trong đó công nghiệp nặng trung ương xương sống của nền kinh tế quốc dân. Bước đầu hình thành một số khu công nghiệp tập trung như Nội, Đông Anh, Việt Trì, Thái Nguyên, Hải Phòng, Nam Định, Hồng Quảng, Vinh,...

Công nghiệp quốc doanh, đặc biệt công nghiệp trung ương, đã cung cấp cho nền kinh tế một khối lượng lớn những sản phẩm liệu sản xuất hàng hóa tiêu dùng quan trọng: điện, than, gang, máy cắt gọt kim loại, động điện, lan, bơm nước, phân bón hóa học, quặng apatít, ximăng, xe đạp, săm lốp xe đạp, nông cụ, vải, giấy, đồ thủy tinh, đồ sứ, đường mật, nước mắm,...

Những sản phẩm mới của công nghiệp nặng trung ương thời kỳ này chủ yếu chế tạo thiết bị cỡ lớn máy móc chính xác, như máy tiện 1 K62, máy mài M120, biến thế 1.800 kVA, động 75 kW, bơm nước 4.000 - 8.000 m3/h, đầu máy xe lửa “Tự Lực”, bơm cao áp cho máy diesel, xích máy kéo, 14 loại phụ tùng cho ôtô. Ngoài ra, cũng tích cực nghiên cứu chế thử đưa vào sản xuất máy mài chính xác, máy doa ngang, máy búa, máy dập, máy khoan đá, xe gạt, tàu hút bùn...

Anh hùng Lao động, “cha đẻ” choòng khoan “Made in Việt Nam”

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử năm 1954, miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế, Anh hùng Lao động Trần Văn Giao cũng vừa học xong lớp 7 phổ thông. Ông rời quê ra Nội tham gia học một lớp địa chất của trường đào tạo thuộc Bộ Công Thương ngày nay. Cùng học một trường “Chùa Láng” với ông còn những người về sau đều cán bộ cao cấp của ngành. Ông Giao nhớ lại: “Khóa học chỉ 6 tháng, nhưng đã trang bị cho chúng tôi những kiến thức cùng quý báu. Hết khóa học, nhà trường tổ chức một đội tình nguyện lên Lào Cai, làm nhiệm vụ thăm mỏ apatít, tôi giơ tay được chấm ngay”.

Lào Cai lúc đó bạt ngàn rừng nguyên sinh. Cả đội như lặn vào cánh rừng bạt ngàn ấy. Công việc nặng nề, triền miên, ăn uống kham khổ, bệnh sốt rét da vàng hoành hành dữ dội. Sau sáu, bảy tháng, ông chuyển về công tác tại Mỏ than Na Dương rồi sau đó các mỏ than Quán Triều, Làng Cẩm (Thái Nguyên)...

Năm 1959, tổ chức lại điều động ông về thăm các mỏ sắt thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Cao Bằng, trong đó mỏ sắt Trại Cau. Khi về công tác Đoàn Địa chất số 8, ông trở thành Đội trưởng Đội Khoan máy khi vừa tròn 20 tuổi. Đội Khoan của Trần Văn Giao 12 máy khoan do Liên trang bị. thể nói đó khối thiết bị hiện đại nhất thời bấy giờ. Công trường xây dựng Khu Gang thép Thái Nguyên đang vào giai đoạn khởi động. Một yêu cầu đặt ra phải nhanh chóng báo cáo đánh giá về trữ lượng quặng sắt của Việt Nam để lập quy hoạch kế hoạch khai thác, phục vụ chủ trương phát triển ngành công nghiệp luyện gang thép của đất nước. Cả đội lao vào làm việc không kể đêm ngày...

sau những cống hiến không mệt mỏi của mình, ngày 03/5/1962, ông được vinh dự đại diện cho hàng nghìn cán bộ, công nhân viên của ngành Địa chất tham gia Đại hội Anh hùng Chiến thi đua toàn miền Bắc lần thứ ba. Tại Đại hội, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động (khi đó, ông mới vừa tròn 23 tuổi).

Trong bằng chứng nhận Anh hùng Lao động do Chủ tịch Hồ Chí Minh còn ghi rõ: “Phát huy được nhiều sáng kiến giá trị sử dụng máy khoan, thực hiện phương pháp khoan liên tục, giảm mỗi kíp khoan từ 6 giờ xuống còn 4 giờ, cải tiến phương pháp khoan sâu đạt kỷ lục cao nhất toàn ngành Địa chất, luôn luôn nêu cao tinh thần dám nghĩ dám làm, hăng say lao động, xung phong gương mẫu, ham học hỏi, tiêu biểu cho thế hệ thanh niên mới”.

Năm 1963, khi mẻ gang đầu tiên tại Khu Liên hợp Gang thép Thái Nguyên ra đời, cũng lúc ông Trần Văn Giao được điều về Đoàn Thăm Dầu lửa 36 thuộc Tổng cục Địa chất với nhiệm vụ tìm kiếm, thăm dầu khí đồng bằng Bắc Bộ.

Tháng 9/1975, Tổng cục Dầu khí được thành lập. Ông Nguyễn Văn Biên được bổ nhiệm làm Tổng cục trưởng, Trung tướng Đinh Đức Thiện được Chính phủ cử sang làm Bộ trưởng phụ trách Dầu khí. Ông Trần Văn Giao được điều động từ Đoàn 36 Y về làm chuyên viên bộ phận quản khoa học kỹ thuật thuộc Vụ Kế hoạch của Tổng cục Dầu khí. Ông Đinh Đức Thiện đã yêu cầu phải nghiên cứu chế tạo cho được choòng khoan (mũi khoan). Anh hùng Trần Văn Giao được giao trực tiếp điều phối công tác đó.

Ông lục tung đống tài liệu mang từ Rumani về. Trong số sách mang về ấy một cuốn về công nghệ chế tạo choòng khoan. Ông các đồng nghiệp lao vào nghiên cứu.

Kết quả sau một thời gian, những choòng khoan mang nhãn hiệu “Made in Việt Nam” đã ra đời, đưa về giếng khoan 104 Phù Cừ khoan thử độ sâu hơn 3.000 m, được Hội đồng nghiệm thu đề tài nghiên cứu chế tạo thử nghiệm choòng khoan đánh giá chất lượng cao.

Nguồn: Website của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương.

Công nghiệp địa phương, tiểu thủ công nghiệp

Tinh thần Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 05/7/1961 của Ban thư về nhiệm vụ, phương hướng phát triển sản xuất củng cố hợp tác thủ công nghiệp Nghị quyết số 105-NQ/TW ngày 19/9/1964 của Bộ Chính trị về phương châm phát triển công nghiệp địa phương đi từ nhỏ lên lớn, từ giản đơn đến phức tạp, từ thủ công bán khí lên khí, từ phân tán, quy nhỏ đến tập trung, thích hợp với quá trình đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.

Năm 1965, miền Bắc 927 nghiệp công nghiệp quốc doanh địa phương 2.529 hợp tác tiểu thủ công nghiệp với 517.548 công nhân thợ thủ công chuyên nghiệp. Công nghiệp địa phương tạo ra 1.290 triệu đồng giá trị sản lượng, chiếm 49% giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp miền Bắc, tăng 4,8 lần so với năm 1955 142% so với năm 1960; trong đó, công nghiệp quốc doanh địa phương công hợp doanh tăng 100% so với năm 1960 chiếm 39%, tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã, thể tăng 22,5% chiếm 61%. Phân theo ngành phục vụ: sản xuất liệu tiêu dùng chiếm 60,8%, sản xuất liệu sản xuất chiếm 34,6% xuất khẩu 4,6%3.

Những sản phẩm chủ yếu của công nghiệp địa phương bao gồm các hàng hóa liệu sản xuất liệu tiêu dùng thông dụng cho dân như điện, than, gang, phân bón hóa học, gạch ngói, ximăng, gỗ tròn, tre nứa, song mây, nông cụ cải tiến, chiếu cói, da thuộc, đường mật, cá, muối...

Tiểu thủ công nghiệp, lực lượng to lớn của công nghiệp địa phương, sản xuất ra 61% giá trị sản lượng công nghiệp địa phương 40% giá trị sản lượng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp miền Bắc. Công cuộc cải tạo đã thu hút nửa triệu lao động (chiếm 95% thợ thủ công trong diện cải tạo) vào các hợp tác xã, tổ sản xuất hợp tác, chỉ còn một bộ phận nhỏ làm ăn thể, chiếm 4% giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp 13,8% giá trị sản lượng công nghiệp địa phương. Tuy nhiên, nếu không kể bộ phận thể tiếp tục duy trì được nhịp độ tăng trưởng (2,1 lần trong thời gian 1961 - 1965), thì bộ phận hợp tác đang suy giảm liên tục: giá trị sản lượng năm 1962 bằng 114% so với năm 1961, năm 1963 chỉ còn 97% năm 1964 98,5%.

d) Những ngành công nghiệp chủ yếu

Điện lực: Đạt tốc độ phát triển nhanh: 248% (tốc độ chung của công nghiệp 189%). Xây dựng thêm các nhà máy điện như Uông - Nhà máy nhiệt điện công suất lớn nhất đầu tiên miền Bắc, Việt Trì, Thái Nguyên, Bắc, Vinh,... đưa tổng số sở từ 33 năm 1961 lên 40 năm 1965. Làm xong 571 km đường dây 110 kV, 1.135 km đường dây 35 kV. Hình thành mạng lưới điện 110 kV thống nhất phân phối điện cho phía Nam Bắc Nội, khu vực Nam Định, Hải Phòng, Bắc Giang, Việt Trì, Phú Thọ, Thái Nguyên, khu mỏ than. Hoàn thành các đường dây 110 kV Đông Anh - Nội - Nam Định, Uông - Mông Dương, Đông Anh - Bắc Giang. Hoàn thành đưa vào sử dụng các trạm biến thế 110/35/6 kV như Đông (40 nghìn kVA), Trình Xuyên Mông Dương (20 nghìn kVA). Ngoài ra, đã xây dựng một số trạm phát điện nhỏ các thị xã, thị trấn, các trạm thủy điện nhỏ miền núi. Năm 1964, khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Thác - Nhà máy thủy điện công suất lớn đầu tiên miền Bắc, Nhà máy Thủy điện Na Hang, Nhà máy Thủy điện Suối Cun, Nhà máy Thủy điện Lạng Sơn.

Năm 1965, miền Bắc đạt sản lượng điện 633,6 triệu kWh, tăng gấp 2,5 lần so với năm 1960. Công suất huy động thêm của ngành Điện trong thời gian này 103.000 kW; công suất khả năng huy động 192.000 kW, đảm bảo cung cấp điện ổn định cho các nhà máy khu công nghiệp quan trọng, cho nông nghiệp chống úng chống hạn đồng bằng Bắc Bộ, một số khu vực trung du miền núi.

Khai thác than: Sản lượng than khai thác tăng từ 2,6 triệu tấn năm 1960 lên 4,2 triệu tấn năm 1965; trong đó, Công ty Than Hòn Gai sản xuất phần chủ yếu, ngoài ra còn các mỏ Uông Bí, Mông Dương. Ngành Than đã xây dựng thêm một số mỏ phụ; khởi công xây dựng mỏ than Mông Dương; nghiên cứu khôi phục mỏ than Mạo Khê; mở rộng mỏ than Uông Bí; hoàn thành xây dựng sở luyện cốc Hồng Gai; thăm bổ sung trữ lượng các mỏ than Vàng Danh, Cánh Gà, Mông Dương, Mạo Khê; nâng cấp trữ lượng than Tu, Lầm, Tây Bắc; khởi công thăm Khe Chàm,...

khí: Đã khả năng chế tạo các máy công cụ chính xác cấp 2, các loại máy nổ, máy bơm, các thiết bị toàn bộ cho một số ngành công nghiệp nhẹ. Xây dựng thêm một số nhà máy khí quan trọng, như: khí Trung tâm Cẩm Phả, khí Nông nghiệp Đông; cải tạo mở rộng các nhà máy: khí Duyên Hải, Điện Cơ, khí Uông Bí, Xe đạp Thống Nhất, khí Trần Hưng Đạo; hoàn thành xây dựng phân xưởng cắt gọt mở rộng phân xưởng khí của Nhà máy khí Nội, hoàn thành Nhà máy Đóng tầu Bạch Đằng (đợt I), mở rộng Nhà máy Xe lửa Gia Lâm, khởi công Nhà máy Liên hợp Diesel, Nhà máy Cẩm Phả, Nhà máy Điện Hunggari, Nhà máy Dụng cụ đồ nghề cân, Nhà máy khí Gia Lâm...; đưa số nghiệp khí lên 148 nghiệp năm 1965, đạt giá trị sản lượng 309 triệu đồng, trong đó khí chế tạo chiếm 80% khí sửa chữa chiếm 20%, khí phục vụ sản xuất chiếm 90% phục vụ tiêu dùng chiếm 10%.

Luyện kim: Sản lượng gang miền Bắc vào năm 1965 đạt 115 nghìn tấn (riêng Thái Nguyên đạt 90 nghìn tấn), thép thỏi đạt 10 nghìn tấn. Nghiên cứu đúc các bán thành phẩm để giảm đọng thép thỏi, chuẩn bị phương án cho mở rộng Khu Liên hợp Gang thép Thái Nguyên đợt 2. Ngoài ra, tích cực đẩy mạnh khai thác kim loại màu, đạt sản lượng thiếc thỏi: 436 tấn quặng Cromit khô: 13,1 nghìn tấn, tổ chức khai thác mỏ thiếc Sơn Dương (Tuyên Quang), tích cực giải quyết bãi thải áp dụng phương pháp khai thác mới để nâng sản lượng khai thác quặng Cromit Cổ Định (Thanh Hóa).

Phân bón, hóa chất: Năm 1965, các loại phân bón đạt sản lượng: supe phốtphát: 87,2 nghìn tấn, quặng apatít cục: 680 nghìn tấn, thuốc bột 666: 1.569 tấn, axít sunfuríc: 4.688 tấn. Năm 1965, đã hoàn thành xây dựng Nhà máy Phân đạm Bắc bắt đầu xây dựng sở nghiền apatít, mở rộng phân xưởng axít sunfuríc, gấp rút nghiên cứu xây dựng nhà máy điện giải thuốc nhuộm.

hóa chất Việt Trì

Sau gần hai năm xây dựng, ngày 19/5/1961, Nhà máy Hóa chất số 1 Việt Trì đã mở máy sản xuất an toàn cho ra mẻ xút đầu tiên (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng: Số sở công nghiệp thực phẩm công nghiệp hàng tiêu dùng tăng từ 321 sở năm 1960 lên 336 sở năm 1965. Tập trung mở rộng nâng công suất cho hai nhà máy đường Nghệ An Việt Trì (đưa công suất từ 350 tấn mía/ngày lên 500 tấn mía/ngày), Nhà máy Thuốc Thăng Long (tăng công suất lên 100 triệu bao/năm), cân đối thiết bị nâng công suất Nhà máy Giấy Việt Trì (đạt công suất 20 nghìn tấn), mở rộng Nhà máy Gỗ Cầu Đuống, hoàn thành xây dựng huy động hết công suất Nhà máy Dệt 8-3 (35 triệu mét vải), hoàn thành các phân xưởng phụ huy động hết công suất Nhà máy chính Việt Trì, tăng thiết bị cho các sở sản xuất đường, chè, rượu, phòng, sữa bột, đậu nành, bột ngô. Ngoài ra, cũng khởi công xây dựng các nhà máy: Đường Sao Vàng, Hoa quả Việt Trì, Sấy thuốc Ninh Bình, Giấy Vạn Điểm, Thuộc da Vinh, Chế biến thịt Phú Thụy,...

đ) Tổ chức, quản phát triển công nghiệp

Thi đua, hợp hóa sản xuất, cải tiến quản lý, củng cố chế độ hạch toán kinh tế: Ngay từ đầu năm 1961, toàn ngành Công nghiệp đã mở cuộc vận động thi đua “Hợp hóa sản xuất cải tiến kỹ thuật”, đồng thời kết hợp triển khai cuộc vận động cải tiến quản “Ba xây, ba chống” (với nội dung “nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu”).

Trong ngành công nghiệp nặng, từ cuối năm 1960, đã áp dụng hạch toán tới phân xưởng tổ sản xuất (Cơ khí Nội, Ximăng Hải Phòng, Phốtphát Hải Phòng, Nông cụ Đông, khí Trần Hưng Đạo, Gạch Cầu Đuống, Than Hồng Gai,...). Các nghiệp, công trường thành lập Hội đồng định mức để thực hiện trả lương theo sản phẩm, góp phần củng cố chế độ hạch toán kinh tế. Việc áp dụng hạch toán tới phân xưởng phát triển rộng khắp mang hình thức mới: để quần chúng tham gia xây dựng định mức, tự phấn đấu hoàn thành vượt định mức, tham gia công tác quản dân chủ hóa quản nghiệp.

Để giải quyết những khó khăn trong tiêu thụ cung ứng nguyên liệu, thúc đẩy sản xuất của các sở hợp tác thủ công nghiệp công hợp doanh địa phương, Nghị quyết số 21-NQ/TW đã chủ trương thay chế độ gia công bằng hợp đồng kinh tế. Các hợp tác sẽ không còn phụ thuộc, bị động vào nhà cung ứng tiêu thụ duy nhất mậu dịch quốc doanh, được chủ động kết hợp đồng mua nguyên vật liệu bán sản phẩm của mình với các quan, đơn vị kinh tế khác. Các hợp tác cũng được phép mở đại tiêu thụ sản phẩm, tổ chức trưng bày triển lãm, để thể tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng. Khuyến khích sở sản xuất tự định giá gia công thu mua hợp lý, theo nguyên tắc đảm bảo chi phí sản xuất, cải thiện đời sống, tăng cường trang thiết bị cho sở đảm bảo tích lũy cho Nhà nước. Giá thu mua hoặc gia công phải lấy giá thành làm sở4.

Nghị quyết số 105-NQ/TW đã mở rộng quyền hạn cho các địa phương về quản phát triển công nghiệp địa phương. Trung ương sẽ chỉ giao kế hoạch sản xuất, cung cấp vật tư, tiêu thụ sản phẩm đối với một số mặt hàng quan trọng. Việc quản vốn, tài sản sản xuất công nghiệp địa phương do Ủy ban hành chính địa phương hay các sở, ty công nghiệp địa phương đảm nhiệm. Thành lập Vụ (hay Cục) Công nghiệp địa phương trực thuộc Văn phòng Phủ Thủ tướng; thành lập Liên hiệp Hợp tác thủ công nghiệp (gọi tắt Liên hiệp trung ương) như một tổ chức hội - nghề nghiệp của thợ thủ công, để vận động thi đua sản xuất, cải tiến kỹ thuật. Các địa phương cũng thành lập Sở Quản công nghiệp quốc doanh địa phương Sở Quản hợp tác thủ công nghiệp từ các ty công nghiệp 5.

Lời Bác dạy về quản sản xuất

Một buổi sáng ngày 28/4/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông. Nói chuyện với cán bộ, người lao động Nhà máy, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Tổ chức chính quyền cần kế hoạch, biện pháp sát đúng. Tổ chức thật tốt bộ máy quản lý, đội ngũ những người làm công tác khoa học kỹ thuật, nhằm tăng năng suất lao động, chú trọng việc nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, thực hành tiết kiệm, đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của nhân dân. Đó ý thức giai cấp, lương tâm trách nhiệm của mỗi cán bộ, công nhân”.

Rạng Đông
Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm nói chuyện với công nhân, viên chức Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông, ngày 28/4/1964 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến các phân xưởng, Người luôn hỏi: “Chất lượng hôm nay đã tốt hơn chưa? Mỗi ngày các cháu làm được bao nhiêu phích, bao nhiêu bóng đèn?”. Chủ tịch Hồ Chí Minh hỏi đồng chí Giám đốc Nhà máy:

- Chú làm Giám đốc, trong bữa ăn tối của gia đình, bóng đèn bị hỏng, chú bực không?

- Dạ thưa Bác, ạ!

- Thế thì mọi người dùng bóng đèn kém chất lượng họ cũng bực như chú đấy!

Rồi Chủ tịch Hồ Chí Minh kể một câu chuyện: “Có mấy gia đình công nhân được nhận nhà mới. Nhờ anh em giúp đỡ, họ đã mua sắm giường mới, bóng đèn, phích nước, xe đạp... mọi người đều phấn khởi. Tiếc thay các thứ đó chỉ dùng được mấy hôm “đã vấn đề”. Các cô, các chú thử nghĩ xem, cảm tình của những gia đình ấy đối với ngành Công nghiệp nhẹ nồng hậu thế nào?”.

Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm tới giữ gìn môi trường, vệ sinh cảnh quan công nghiệp của Công ty. Ngày ấy, vật hóa chất được cung cấp giá rẻ, anh em chưa biết tiết kiệm, nhặt nhạnh, chắt chiu. Đi tới phân xưởng phích nước, thấy mảnh thủy tinh hình thoi cong cong rơi vãi, Bác cúi xuống nhặt bỏ nhẹ vào thùng đựng mảnh. Thấy vệ sinh công nghiệp, cảnh quan môi trường Nhà máy còn chưa tốt, Bác nói: “Bác đã dịp đến thăm những nhà máy nước bạn, anh em công nhân nước bạn giữ nhà máy rất sạch, rất đẹp. Còn Nhà máy Bóng đèn Phích nước của chúng ta đây bẩn quá. Máy móc bẩn này, tường nhà bẩn này, nơi làm việc cũng bẩn này. Vệ sinh công nghiệp không đảm bảo thì ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, đúng không các chú!”.

Tới Phân xưởng Thủy tinh, Bác hỏi thợ thổi: “Các chú được đào tạo nghề đâu? - Dạ thưa Bác, chúng cháu được đào tạo tại Nhà máy ạ. - Bác khen: Thế thì các chú làm việc giỏi đấy!”.

Cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần nhắc nhở cán bộ, công nhân viên Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông nhiều điều sâu sắc. Trước lúc ra về, Bác dặn: “Các cô, các chú cố gắng làm tốt, Bác sẽ về thăm...”.

Nguồn: Cổng thông tin điện tử quận Thanh Xuân, Thành phố Nội.

e) Tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế

Cùng với việc phát huy nguồn lực trong nước, chúng ta tranh thủ sự giúp đỡ của các nước hội chủ nghĩa để phát triển công nghiệp. Sự giúp đỡ của các nước chủ yếu đưa chuyên gia công nhân kỹ thuật sang Việt Nam để thiết kế, thi công các công trình, hạng mục; giúp đỡ thiết bị toàn bộ, viện trợ nguyên, vật liệu, thiết bị lẻ, vật tư.

Theo Hiệp định Kinh tế, thương mại Việt Nam - Liên giai đoạn 1961 - 1965, Liên giúp Việt Nam xây dựng 43 nghiệp các công trình công nghiệp. Theo Hiệp định Kinh tế, thương mại dài hạn Việt Nam - Trung Quốc ngày 31/01/1961, Trung Quốc cho Việt Nam vay số tiền gần 142 triệu rúp chuyển đổi. Việt Nam dùng số tiền này thanh toán cho việc mua các thiết bị của Trung Quốc để xây dựng mở rộng 28 nghiệp thuộc ngành luyện kim, công nghiệp nhẹ đường sắt. Tiêu biểu Nhà máy Hóa chất Việt Trì, Cao su Sao Vàng, Phân đạm Bắc, Sứ Hải Dương... Theo Hiệp định kinh tế thương mại dài hạn 3 năm giữa Việt Nam Hunggari cũng nhiều công trình công nghiệp nước bạn giúp Việt Nam.

Để được những kết quả hợp tác đó, tại Đại hội III, Đảng Lao động Việt Nam đã chủ trương tăng cường sự hợp tác kinh tế với các nước hội chủ nghĩa; trong đó, căn cứ vào tình hình thực tiễn, những phương thức hợp tác với những nhóm nước cụ thể: Trong quan hệ với Liên Trung Quốc, chủ yếu ta nhận sự giúp đỡ của bạn, đồng thời hết sức phát huy sự hợp tác của ta với bạn. Đối với các nước hội chủ nghĩa khác, cần cân nhắc yêu cầu khả năng của ta cũng như của bạn, bảo đảm lợi ích chính trị kinh tế của hai bên.

Về hợp tác khoa học kỹ thuật, cần tranh thủ học tập kinh nghiệm tiên tiến của Liên Xô, Trung Quốc của các nước khác, nhờ giúp đỡ trong việc điều tra, thăm dò, thiết kế, đào tạo cán bộ nghiên cứu khoa học cán bộ kỹ thuật, nghiên cứu giải quyết một số vấn đề kỹ thuật theo yêu cầu của điều kiện tự nhiên nước ta.

“Trong việc trao đổi ngoại thương, cần bảo đảm phân phối phần lớn kim ngạch xuất nhập khẩu trong khối các nước hội chủ nghĩa, hết sức cố gắng tăng kim ngạch hàng năm với các nước anh em; cần chú trọng cung cấp những loại hàng các nước anh em cần với khối lượng ngày càng tăng như apatít, crommit, gỗ, các đặc sản nhiệt đới...”6.

Nhìn chung, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) đã đạt được những thành tựu quan trọng. Trong công nghiệp, công nghiệp quốc doanh phát triển với nhịp độ cao. Các ngành công nghiệp nặng như dầu khí, luyện kim, hóa chất... được xây dựng đi vào sản xuất. Công nghiệp nhẹ mạng lưới công nghiệp địa phương phát triển khá. Mặc vậy, công nghiệp vẫn còn chưa hướng vào mục tiêu trung tâm phục vụ sản xuất nông nghiệp hàng tiêu dùng. Quan niệm về công nghiệp hóa còn quá nhấn mạnh đến việc phát triển công nghiệp nặng. Báo cáo tại Hội đồng Chính phủ ngày 25/02/1964, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đánh giá: “Trong những năm vừa qua, chúng ta chưa nhìn thấy hết vị trí tác dụng của công nghiệp nhẹ trong công cuộc xây dựng sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội”7.


1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.839.

2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.24, tr.460-461.

3. Xem Bộ Công Thương: lược lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.129.

4. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.22, tr.381-382.

5. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.25, tr.258-262.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.835.

7. Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.140.

3. Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965)

a) Chủ trương

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960) đã đề ra đường lối cách mạng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội. Đại hội xác định đường lối công nghiệp hóa hội chủ nghĩa, thông qua nhiệm vụ phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế quốc dân. Tháng 4/1962, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III bàn về vấn đề xây dựng phát triển công nghiệp theo phương hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý; kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với ưu tiên phát triển công nghiệp nặng; ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương, kết hợp nghiệp quy vừa nhỏ, kết hợp kỹ thuật hiện đại với kỹ thuật thô sơ.

Tiếp đến, Hội nghị lần thứ 8 (tháng 4/1963) về kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), xác định phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu biện pháp chủ yếu của kế hoạch này.

Nội dung công nghiệp hóa

Thứ nhất, xác định rằng, thực chất của công nghiệp hóa hội chủ nghĩa Việt Nam làm cách mạng khoa học - kỹ thuật; phát triển công nghiệp nặng để từng bước cải tạo kỹ thuật trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế quốc dân.

Thứ hai, xây dựng bước đầu sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội; khâu quyết định nhất để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng hội chủ nghĩa tiến lên.

Thứ ba, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện ra sức phát triển công nghiệp nhẹ. Ba bộ phận: công nghiệp nặng - nông nghiệp - công nghiệp nhẹ quan hệ mật thiết với nhau, cùng nương tựa nhau, thúc đẩy nhau phát triển với nhịp độ nhanh theo tỷ lệ cân đối.

Thứ tư, kết hợp chặt chẽ ba mặt: phát huy cao độ tinh thần tự lực cánh sinh; sử dụng sự giúp đỡ của các nước anh em một cách hợp lợi nhất; tích cực mở rộng sự hợp tác kinh tế của ta với các nước anh em.

Công nghiệp hóa hội chủ nghĩa được cụ thể hóa thành phương hướng, nhiệm vụ phát triển toàn ngành công nghiệp các phân ngành công nghiệp trong kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965).

Nhiệm vụ của toàn ngành công nghiệp

- Xây dựng một bước sở vật chất kỹ thuật cho một nền công nghiệp hiện đại hội chủ nghĩa theo đường lối phát triển ưu tiên công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển công nghiệp nhẹ. Kết hợp với phát triển công nghiệp hiện đại của Nhà nước, vẫn phải coi trọng ra sức phát triển thủ công nghiệp hợp tác hóa bằng cách đẩy mạnh cải tiến công cụ, cải tiến thiết bị cải tiến kỹ thuật.

- Đẩy mạnh sản xuất các liệu sản xuất, chủ yếu phát triển điện lực đi trước một bước, phát triển công nghiệp gang thép công nghiệp chế tạo khí, đồng thời phát triển công nghiệp than, công nghiệp vật liệu xây dựng bước đầu xây dựng công nghiệp hóa học, nhằm phát huy năng lực trong nước, cung cấp một số loại vật kỹ thuật, nguyên liệu, vật liệu cho xây dựng bản, cho sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải. Đặc biệt, cần chú trọng hướng công nghiệp phục vụ nông nghiệp, phục vụ cải tiến nông cụ, cải tiến kỹ thuật chế biến nông sản.

- Ra sức phát triển các hàng tiêu dùng, thỏa mãn hầu hết các nhu cầu phổ thông về mặc, ăn uống, đồ dùng, học tập, bảo vệ sức khỏe, nâng cao dần đời sống của nhân dân.

- Đẩy mạnh chế biến các nông sản, mở rộng khai thác một số khoáng sản, mở rộng gia công các loại hàng thủ công giá trị để tăng thêm nguồn hàng xuất khẩu.

Phương hướng phát triển các ngành công nghiệp

Điện lực: Phát triển thủy điện kết hợp với phát triển nhiệt điện, nhằm giảm giá thành xây dựng giá thành phát điện, điều hòa việc cung cấp điện, phục vụ kịp thời cho nhu cầu phát triển kinh tế trong kế hoạch 5 năm chuẩn bị một phần cho kế hoạch sau. Đi đôi với việc xây dựng các nhà máy mới, cải tiến thiết bị, tăng thêm công suất một số nhà máy sẵn có. các địa phương, chú trọng lợi dụng sức nước, sức gió, hơi mêtan, xây dựng những trạm phát điện nhỏ để phục vụ cho nhu cầu của địa phương.

Xây dựng hệ thống lưới điện nối liền các nhà máy loại lớn loại vừa với nhau với những nơi tiêu thụ điện. Mặt khác, tăng cường quản việc dùng điện, hết sức tiết kiệm điện. Trong những năm 1961 - 1963, cần nghiên cứu mọi biện pháp để giảm nhẹ tình hình căng thẳng về cung cấp điện, đồng thời phải tập trung sức xây dựng xong các công trình đúng thời hạn để khắc phục sớm khó khăn về thiếu điện.

Luyện kim: Nhiệm vụ chủ yếu về công nghiệp luyện kim cố gắng cung cấp phần lớn nhu cầu về gang, thép thông thường cho xây dựng bản một phần cho việc chế tạo khí. Xây dựng xong Khu gang thép Thái Nguyên với công suất 200.000 tấn/năm; chú trọng phát triển sớm các cao cỡ nhỏ những nơi điều kiện để sản xuất gang xây dựng một số nghiệp liên hợp gang thép cỡ nhỏ. Để phục vụ cho công nghiệp gang thép, xây dựng khai thác các mỏ sắt, đá vôi, đất chịu lửa,... xây dựng một số xưởng luyện các loại hợp kim gang cần cho việc nấu thép. Đồng thời, xúc tiến việc điều tra, thǎm dò, thiết kế, tích cực chuẩn bị để tiếp tục phát triển hơn nữa công nghiệp gang thép trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai.

Về luyện kim màu, xúc tiến việc khai thác sản xuất chì, kẽm, khai thác bôxít luyện nhôm, tích cực tăng thêm khả năng khai thác cromit, huy động tốt nhà máy thiếc. Đối với những mỏ đồng trữ lượng ít, cần xây dựng sở khai thác sản xuất quy nhỏ.

Chế tạo khí: Sản xuất một số loại máy móc công cụ chính xác cấp II trở xuống, một số loại thiết bị phối hợp đi theo với thiết bị toàn bộ, thiết bị về điện từ 100 kW trở xuống, tàu thủy từ 1.000 tấn trở xuống, lan, tàu kéo, canô, toa xe, một số thiết bị khoan lò, thiết bị thi công xây dựng bản loại nhỏ.

Sản xuất các loại nông cụ cải tiến, một số máy móc nông nghiệp loại nhỏ, các loại máy móc giản đơn chế biến nông sản, ép gạch... để phục vụ nông nghiệp công nghiệp địa phương.

Bảo đảm sửa chữa lớn sản xuất một số loại phụ tùng, dụng cụ cho các ngành công nghiệp, vận tải, xây dựng bản...

Kết hợp các xưởng khí sẽ xây dựng trong kế hoạch 5 năm với các sở sẵn có, bố trí thành một màng lưới khí các địa phương để thực hiện các nhiệm vụ nói trên.

Gấp rút thống nhất tăng cường quản ngành khí, phân công sản xuất hợp giữa các sở quốc doanh công hợp doanh, giữa các sở của Trung ương các sở địa phương để tận dụng khả năng hiện sử dụng tốt các sở sẽ xây dựng thêm.

Khai thác than: Thỏa mãn đầy đủ nhu cầu trong nước về các loại than không khói, đồng thời tăng thêm mức xuất khẩu. Về than mỡ, cần hết sức đẩy mạnh thăm dò, thiết kế... để tiến tới giải quyết cho nhu cầu luyện than cốc.

Hướng chính để tăng sản lượng than vẫn Hòn Gai, Cẩm Phả; chú trọng nâng cao trình độ khai thác giới hóa dần dần mở rộng việc khai thác bằng hầm lò; đồng thời tranh thủ mở các công trường khai thác Uông Bí, Mạo Khê, Tràng Bạch, Làng Cẩm. Ngoài ra, các địa phương những mỏ than nhỏ, tổ chức khai thác để phục vụ nhu cầu của công nghiệp địa phương.

Vật liệu xây dựng: Thống nhất quản ngành vật liệu xây dựng, cố gắng đẩy mạnh sản xuất khai thác để thỏa mãn nhu cầu về xây dựng bản: tăng thêm sở phát triển sản xuất các loại gạch máy, ngói máy, gạch chịu lửa, cải tiến kỹ thuật nâng cao chất lượng gạch ngói thủ công; đẩy mạnh khai thác cát, sỏi, đá; tăng thêm sản xuất các loại xi măng các loại vôi; sản xuất các loại vật liệu đúc sẵn dể phục vụ việc giới hóa ngành xây dựng; sản xuất các loại kính, đồ dùng vệ sinh..., cần cho việc xây dựng thành phố xây dựng các nhà máy; đồng thời nghiên cứu, sản xuất các loại vật liệu rẻ tiền cần cho việc xây dựng nhà cửa nông thôn.

Hóa chất phân bón: Sản xuất phân bón thuốc trừ sâu cho nông nghiệp, đồng thời sản xuất một số hóa chất bản như xút, axít sunfuríc, một số loại nguyên liệu hóa chất như thuốc nhuộm, sản xuất thuốc kháng sinh một số dược liệu, sản xuất bông nhân tạo theo quy nhỏ tích cực chuẩn bị tiến tới sản xuất bông nhân tạo theo quy lớn.

Xây dựng sớm nhà máy phân đạm; tích cực mở rộng khai thác mỏ apatít, xây dựng nhà máy làm giàu quặng, đẩy mạnh khai thác apatít để trao đổi với các nước anh em; tích cực thăm quặng lưu huỳnh cần cho việc sản xuất axít sunfuríc.

Khai thác gỗ chế biến gỗ: Nhiệm vụ chính tăng khối lượng gỗ khai thác hết sức lợi dụng các loại gỗ cành, gỗ nhánh; giới hóa việc cưa, xẻ, gỗ; nghiên cứu, tổ chức ép gỗ vụn sấy gỗ để tiết kiệm gỗ; chú trọng sản xuất các đồ gỗ dùng trong gia đình, cung cấp cho một phần nhu cầu của nhân dân.

Cần cố gắng thỏa mãn nhu cầu về giấy cho việc phát triển văn hóa. Đi đôi với việc xây dựng các xưởng hiện đại sản xuất giấy viết, giấy in, giấy báo, cần mở những xưởng giấy nhỏ các địa phương để sản xuất loại giấy thường.

Dệt, may mặc da: Mở rộng cải tiến Nhà máy Dệt Nam Định, Nhà máy Sợi cải tiến nghề dệt thủ công. Xây dựng các nhà máy dệt kim, dệt bao tải, chế biến gai, đan lưới đánh cá, thuộc da, đóng giày.

Nâng cao kỹ thuật bật bông, kéo sợi; nghiên cứu dùng các loại cây sợi như đay, gai,... để dệt vải. Cần tổ chức thu mua thuộc da lợn để tăng sản lượng da.

Công nghiệp thực phẩm: Thỏa mãn nhu cầu về một số thực phẩm chủ yếu như đường, nước mắm tăng thêm mức cung cấp về một số sản phẩm khác. Đồng thời, cần đẩy mạnh việc chế biến những sản phẩm để xuất khẩu.

Sử dụng tốt năng lực của nhà máy hộp; phát triển thêm các nhà máy xay loại vừa nhỏ. Đi đôi với kế hoạch phát triển nông trường quốc doanh, cần xây dựng sắp xếp hợp các sở chế biến nông sản, như xưởng chè, xưởng chế biến phê, xưởng làm hoa quả hộp, bột, thịt, sữa.

Các ngành công nghiệp nhẹ khác: Chú trọng phát triển sản xuất các đồ dùng trong gia đình, xây dựng thêm nhà in, xây dựng xưởng phim, xưởng sản xuất đồ dùng thể thao, xưởng sản xuất học cụ, xưởng sản xuất xe đạp, kết hợp với xưởng máy điện thoại, sản xuất các phụ tùng thông dụng về tuyến điện để phục vụ công tác truyền thanh...

Công nghiệp quốc doanh địa phương: kế hoạch đẩy mạnh phát triển thủ công nghiệp tận dụng năng lực sản xuất của các sở công nghiệp công hợp doanh. Kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp do Trung ương quản công nghiệp địa phương, giữa công nghiệp quốc doanh, công nghiệp công hợp doanh thủ công nghiệp hợp tác hóa để hỗ trợ nhau cùng phát triển bổ sung cho nhau.

Xây dựng những sở nhỏ sản xuất theo lối bán khí, nhằm giải quyết những nhu cầu của địa phương hỗ trợ cho công nghiệp của Trung ương. Chú trọng những ngành nghề thủ công nghiệp không giải quyết được, hoặc không cung cấp đủ như nông cụ cải tiến, phương tiện vận tải thô cải tiến, phân bón, vật liệu xây dựng, xay xát gạo, đường, bột, nước mắm, sấy,...

Chú trọng khả năng giải quyết nguyên liệu của địa phương trên sở bảo đảm cung cấp nguyên liệu cho Trung ương không lại vào việc Trung ương cung cấp nguyên liệu; cố gắng bảo đảm chất lượng tiêu thụ; với một số loại sản phẩm cần đặc biệt khuyến khích như gang, thép... Nhà nước chính sách lỗ trong thời gian đầu giá thành sản xuất còn cao, nhưng địa phương sở sản xuất phải phấn đấu để hạ dần giá thành.

Thủ công nghiệp: Hướng dẫn giúp đỡ đẩy mạnh sản xuất vật liệu xây dựng nhà cho nhân dân, chế biến thực phẩm dùng địa phương, chế biến lần đầu các loại nông sản, lâm sản, hải sản để cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, phát triển các nghề làm đồ mây, cói, tre, song, các hàng mỹ nghệ các hàng khác giá trị xuất khẩu. Những ngành quan trọng như sản xuất ngũ kim nhỏ, sản xuất vật liệu xây dựng, dệt vải, thuộc da,... cần được chú ý giúp đỡ cải tiến thiết bị, cải tiến kỹ thuật, nâng cao phẩm chất hạ giá thành sản phẩm.

b) Kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất đặt ra những chỉ tiêu lớn phát triển công nghiệp đến năm 1965

- Tỷ trọng trong nền kinh tế: Công nghiệp thủ công nghiệp chiếm khoảng 51%, nông nghiệp chiếm khoảng 49%.

- Tỷ trọng của các thành phần kinh tế: Trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp thủ công nghiệp, công nghiệp quốc doanh chiếm 68,9%, các nghiệp công hợp doanh nghiệp hợp tác chiếm 5,3%, thủ công nghiệp hợp tác hóa chiếm 17,7%1.

- Vốn đầu vào công nghiệp chiếm khoảng 48% tổng mức đầu vào kinh tế văn hóa; trong đó, nhóm A khoảng dưới 80% nhóm B khoảng trên 20%.

- Giá trị sản lượng công nghiệp tăng bình quân hằng năm 17%, trong đó nhóm A tăng khoảng 20% nhóm B tăng khoảng 15%, công nghiệp quốc doanh trung ương tăng bình quân hằng năm khoảng 22%, công nghiệp quốc doanh địa phương khoảng 20% tiểu thủ công nghiệp 9%2.

Rất tiếc kế hoạch 5 năm đang được khẩn trương thực hiện còn chưa kết thúc thì cuối năm 1964, không quân Mỹ đánh phá miền Bắc. Từ đây, công nghiệp toàn bộ đời sống kinh tế được đặt trong hoàn cảnh thời chiến.

c) Bước đầu xây dựng sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa hội

Trong 5 năm 1961 - 1965, tổng khối lượng vốn đầu cho công nghiệp thực hiện 1.351,8 triệu đồng, trong đó công nghiệp sản xuất liệu sản xuất (nhóm A): 78% công nghiệp nhẹ (nhóm B): 22%. Theo cách phân loại khác: công nghiệp trung ương: 74,7%, công nghiệp địa phương: 25,3%. Riêng hai ngành Điện lực Luyện kim đen chiếm 40% tổng vốn đầu vào công nghiệp. Do đó, tổng giá trị tài sản cố định mới tăng thêm của công nghiệp trong 4 năm 1961 - 1964 1.031,5 triệu đồng, trong đó công nghiệp trung ương tăng 964,5 triệu đồng công nghiệp địa phương tăng 67 triệu đồng.

Cả thời kỳ kế hoạch 5 năm đã xây dựng thêm 120 nghiệp, đưa tổng số nghiệp quốc doanh tăng từ 1.012 nghiệp năm 1960 lên 1.132 nghiệp năm 1965, trong đó công nghiệp trung ương: 205 nghiệp công nghiệp quốc doanh địa phương: 927 nghiệp.

Trong thời kỳ này đã tăng thêm 113 nghiệp quy lớn, kỹ thuật hiện đại. Xây dựng xong đưa vào sản xuất các nghiệp công nghiệp nặng như các nhà máy nhiệt điện: Uông Bí, Việt Trì, Thái Nguyên, Bắc, Vinh; Phân đạm Bắc; Phân lân Văn Điển Thanh Hóa; Hóa chất thuốc trừ sâu Việt Trì.

nhà máy dệt

Nhà máy Dệt 8-3 chính thức được khánh thành ngày 08/3/1965, sau 5 năm xây dựng (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Hoàn thành xây dựng mở rộng nhiều nghiệp công nghiệp nhẹ như Dệt 8-3, Dệt len Hải Phòng, Sắt tráng men Hải Phòng, Nhuộm in hoa Đông, Giấy Việt Trì, Đường Vạn Điểm Sông Lam, Sứ Hải Dương, Xe đạp Thống Nhất, Cao su Sao Vàng, Bóng đèn Phích nước Rạng Đông... Đặc biệt, đẩy mạnh tốc độ xây dựng công trình cỡ lớn - Liên hợp Gang thép Thái Nguyên, vốn được khởi công từ cuối thời kỳ trước.

Giá trị sản lượng công nghiệp tăng 89% sau 5 năm, từ 1.458 triệu đồng năm 1960 lên 2.761 triệu đồng năm 1965. Tốc độ tăng giá trị sản lượng bình quân hằng năm đạt 13,6%; trong đó, công nghiệp nặng: 19,3% công nghiệp nhẹ: 10,4%, công nghiệp quốc doanh trung ương: 20,4% công nghiệp quốc doanh địa phương: 8,4%.

Tỷ trọng công nghiệp trong tổng giá trị sản lượng công - nông nghiệp từ 47% năm 1960 tăng lên 55% năm 1965. cấu công nghiệp cũng sự thay đổi: công nghiệp nặng tăng từ 33,7% lên 42% công nghiệp nhẹ giảm từ 66,3% xuống còn 58%; tỷ trọng công nghiệp trung ương: 51% công nghiệp địa phương: 49%.

Bước đầu hình thành một cấu công nghiệp theo hướng hiện đại, tự chủ. Công nghiệp trung ương phát triển chủ yếu về khí, luyện kim, hóa chất, phân bón, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng. Công nghiệp địa phương dựa trên nguồn nguyên liệu tại chỗ để sản xuất các hàng hóa liệu sản xuất liệu tiêu dùng thông dụng.

Hệ thống công nghiệp mới bao gồm ba bộ phận chủ yếu: công nghiệp quốc doanh trung ương, công nghiệp quốc doanh địa phương tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã; trong đó công nghiệp nặng trung ương xương sống của nền kinh tế quốc dân. Bước đầu hình thành một số khu công nghiệp tập trung như Nội, Đông Anh, Việt Trì, Thái Nguyên, Hải Phòng, Nam Định, Hồng Quảng, Vinh,...

Công nghiệp quốc doanh, đặc biệt công nghiệp trung ương, đã cung cấp cho nền kinh tế một khối lượng lớn những sản phẩm liệu sản xuất hàng hóa tiêu dùng quan trọng: điện, than, gang, máy cắt gọt kim loại, động điện, lan, bơm nước, phân bón hóa học, quặng apatít, ximăng, xe đạp, săm lốp xe đạp, nông cụ, vải, giấy, đồ thủy tinh, đồ sứ, đường mật, nước mắm,...

Những sản phẩm mới của công nghiệp nặng trung ương thời kỳ này chủ yếu chế tạo thiết bị cỡ lớn máy móc chính xác, như máy tiện 1 K62, máy mài M120, biến thế 1.800 kVA, động 75 kW, bơm nước 4.000 - 8.000 m3/h, đầu máy xe lửa “Tự Lực”, bơm cao áp cho máy diesel, xích máy kéo, 14 loại phụ tùng cho ôtô. Ngoài ra, cũng tích cực nghiên cứu chế thử đưa vào sản xuất máy mài chính xác, máy doa ngang, máy búa, máy dập, máy khoan đá, xe gạt, tàu hút bùn...

Anh hùng Lao động, “cha đẻ” choòng khoan “Made in Việt Nam”

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử năm 1954, miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế, Anh hùng Lao động Trần Văn Giao cũng vừa học xong lớp 7 phổ thông. Ông rời quê ra Nội tham gia học một lớp địa chất của trường đào tạo thuộc Bộ Công Thương ngày nay. Cùng học một trường “Chùa Láng” với ông còn những người về sau đều cán bộ cao cấp của ngành. Ông Giao nhớ lại: “Khóa học chỉ 6 tháng, nhưng đã trang bị cho chúng tôi những kiến thức cùng quý báu. Hết khóa học, nhà trường tổ chức một đội tình nguyện lên Lào Cai, làm nhiệm vụ thăm mỏ apatít, tôi giơ tay được chấm ngay”.

Lào Cai lúc đó bạt ngàn rừng nguyên sinh. Cả đội như lặn vào cánh rừng bạt ngàn ấy. Công việc nặng nề, triền miên, ăn uống kham khổ, bệnh sốt rét da vàng hoành hành dữ dội. Sau sáu, bảy tháng, ông chuyển về công tác tại Mỏ than Na Dương rồi sau đó các mỏ than Quán Triều, Làng Cẩm (Thái Nguyên)...

Năm 1959, tổ chức lại điều động ông về thăm các mỏ sắt thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Cao Bằng, trong đó mỏ sắt Trại Cau. Khi về công tác Đoàn Địa chất số 8, ông trở thành Đội trưởng Đội Khoan máy khi vừa tròn 20 tuổi. Đội Khoan của Trần Văn Giao 12 máy khoan do Liên trang bị. thể nói đó khối thiết bị hiện đại nhất thời bấy giờ. Công trường xây dựng Khu Gang thép Thái Nguyên đang vào giai đoạn khởi động. Một yêu cầu đặt ra phải nhanh chóng báo cáo đánh giá về trữ lượng quặng sắt của Việt Nam để lập quy hoạch kế hoạch khai thác, phục vụ chủ trương phát triển ngành công nghiệp luyện gang thép của đất nước. Cả đội lao vào làm việc không kể đêm ngày...

sau những cống hiến không mệt mỏi của mình, ngày 03/5/1962, ông được vinh dự đại diện cho hàng nghìn cán bộ, công nhân viên của ngành Địa chất tham gia Đại hội Anh hùng Chiến thi đua toàn miền Bắc lần thứ ba. Tại Đại hội, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động (khi đó, ông mới vừa tròn 23 tuổi).

Trong bằng chứng nhận Anh hùng Lao động do Chủ tịch Hồ Chí Minh còn ghi rõ: “Phát huy được nhiều sáng kiến giá trị sử dụng máy khoan, thực hiện phương pháp khoan liên tục, giảm mỗi kíp khoan từ 6 giờ xuống còn 4 giờ, cải tiến phương pháp khoan sâu đạt kỷ lục cao nhất toàn ngành Địa chất, luôn luôn nêu cao tinh thần dám nghĩ dám làm, hăng say lao động, xung phong gương mẫu, ham học hỏi, tiêu biểu cho thế hệ thanh niên mới”.

Năm 1963, khi mẻ gang đầu tiên tại Khu Liên hợp Gang thép Thái Nguyên ra đời, cũng lúc ông Trần Văn Giao được điều về Đoàn Thăm Dầu lửa 36 thuộc Tổng cục Địa chất với nhiệm vụ tìm kiếm, thăm dầu khí đồng bằng Bắc Bộ.

Tháng 9/1975, Tổng cục Dầu khí được thành lập. Ông Nguyễn Văn Biên được bổ nhiệm làm Tổng cục trưởng, Trung tướng Đinh Đức Thiện được Chính phủ cử sang làm Bộ trưởng phụ trách Dầu khí. Ông Trần Văn Giao được điều động từ Đoàn 36 Y về làm chuyên viên bộ phận quản khoa học kỹ thuật thuộc Vụ Kế hoạch của Tổng cục Dầu khí. Ông Đinh Đức Thiện đã yêu cầu phải nghiên cứu chế tạo cho được choòng khoan (mũi khoan). Anh hùng Trần Văn Giao được giao trực tiếp điều phối công tác đó.

Ông lục tung đống tài liệu mang từ Rumani về. Trong số sách mang về ấy một cuốn về công nghệ chế tạo choòng khoan. Ông các đồng nghiệp lao vào nghiên cứu.

Kết quả sau một thời gian, những choòng khoan mang nhãn hiệu “Made in Việt Nam” đã ra đời, đưa về giếng khoan 104 Phù Cừ khoan thử độ sâu hơn 3.000 m, được Hội đồng nghiệm thu đề tài nghiên cứu chế tạo thử nghiệm choòng khoan đánh giá chất lượng cao.

Nguồn: Website của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương.

Công nghiệp địa phương, tiểu thủ công nghiệp

Tinh thần Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 05/7/1961 của Ban thư về nhiệm vụ, phương hướng phát triển sản xuất củng cố hợp tác thủ công nghiệp Nghị quyết số 105-NQ/TW ngày 19/9/1964 của Bộ Chính trị về phương châm phát triển công nghiệp địa phương đi từ nhỏ lên lớn, từ giản đơn đến phức tạp, từ thủ công bán khí lên khí, từ phân tán, quy nhỏ đến tập trung, thích hợp với quá trình đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.

Năm 1965, miền Bắc 927 nghiệp công nghiệp quốc doanh địa phương 2.529 hợp tác tiểu thủ công nghiệp với 517.548 công nhân thợ thủ công chuyên nghiệp. Công nghiệp địa phương tạo ra 1.290 triệu đồng giá trị sản lượng, chiếm 49% giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp miền Bắc, tăng 4,8 lần so với năm 1955 142% so với năm 1960; trong đó, công nghiệp quốc doanh địa phương công hợp doanh tăng 100% so với năm 1960 chiếm 39%, tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã, thể tăng 22,5% chiếm 61%. Phân theo ngành phục vụ: sản xuất liệu tiêu dùng chiếm 60,8%, sản xuất liệu sản xuất chiếm 34,6% xuất khẩu 4,6%3.

Những sản phẩm chủ yếu của công nghiệp địa phương bao gồm các hàng hóa liệu sản xuất liệu tiêu dùng thông dụng cho dân như điện, than, gang, phân bón hóa học, gạch ngói, ximăng, gỗ tròn, tre nứa, song mây, nông cụ cải tiến, chiếu cói, da thuộc, đường mật, cá, muối...

Tiểu thủ công nghiệp, lực lượng to lớn của công nghiệp địa phương, sản xuất ra 61% giá trị sản lượng công nghiệp địa phương 40% giá trị sản lượng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp miền Bắc. Công cuộc cải tạo đã thu hút nửa triệu lao động (chiếm 95% thợ thủ công trong diện cải tạo) vào các hợp tác xã, tổ sản xuất hợp tác, chỉ còn một bộ phận nhỏ làm ăn thể, chiếm 4% giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp 13,8% giá trị sản lượng công nghiệp địa phương. Tuy nhiên, nếu không kể bộ phận thể tiếp tục duy trì được nhịp độ tăng trưởng (2,1 lần trong thời gian 1961 - 1965), thì bộ phận hợp tác đang suy giảm liên tục: giá trị sản lượng năm 1962 bằng 114% so với năm 1961, năm 1963 chỉ còn 97% năm 1964 98,5%.

d) Những ngành công nghiệp chủ yếu

Điện lực: Đạt tốc độ phát triển nhanh: 248% (tốc độ chung của công nghiệp 189%). Xây dựng thêm các nhà máy điện như Uông - Nhà máy nhiệt điện công suất lớn nhất đầu tiên miền Bắc, Việt Trì, Thái Nguyên, Bắc, Vinh,... đưa tổng số sở từ 33 năm 1961 lên 40 năm 1965. Làm xong 571 km đường dây 110 kV, 1.135 km đường dây 35 kV. Hình thành mạng lưới điện 110 kV thống nhất phân phối điện cho phía Nam Bắc Nội, khu vực Nam Định, Hải Phòng, Bắc Giang, Việt Trì, Phú Thọ, Thái Nguyên, khu mỏ than. Hoàn thành các đường dây 110 kV Đông Anh - Nội - Nam Định, Uông - Mông Dương, Đông Anh - Bắc Giang. Hoàn thành đưa vào sử dụng các trạm biến thế 110/35/6 kV như Đông (40 nghìn kVA), Trình Xuyên Mông Dương (20 nghìn kVA). Ngoài ra, đã xây dựng một số trạm phát điện nhỏ các thị xã, thị trấn, các trạm thủy điện nhỏ miền núi. Năm 1964, khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Thác - Nhà máy thủy điện công suất lớn đầu tiên miền Bắc, Nhà máy Thủy điện Na Hang, Nhà máy Thủy điện Suối Cun, Nhà máy Thủy điện Lạng Sơn.

Năm 1965, miền Bắc đạt sản lượng điện 633,6 triệu kWh, tăng gấp 2,5 lần so với năm 1960. Công suất huy động thêm của ngành Điện trong thời gian này 103.000 kW; công suất khả năng huy động 192.000 kW, đảm bảo cung cấp điện ổn định cho các nhà máy khu công nghiệp quan trọng, cho nông nghiệp chống úng chống hạn đồng bằng Bắc Bộ, một số khu vực trung du miền núi.

Khai thác than: Sản lượng than khai thác tăng từ 2,6 triệu tấn năm 1960 lên 4,2 triệu tấn năm 1965; trong đó, Công ty Than Hòn Gai sản xuất phần chủ yếu, ngoài ra còn các mỏ Uông Bí, Mông Dương. Ngành Than đã xây dựng thêm một số mỏ phụ; khởi công xây dựng mỏ than Mông Dương; nghiên cứu khôi phục mỏ than Mạo Khê; mở rộng mỏ than Uông Bí; hoàn thành xây dựng sở luyện cốc Hồng Gai; thăm bổ sung trữ lượng các mỏ than Vàng Danh, Cánh Gà, Mông Dương, Mạo Khê; nâng cấp trữ lượng than Tu, Lầm, Tây Bắc; khởi công thăm Khe Chàm,...

khí: Đã khả năng chế tạo các máy công cụ chính xác cấp 2, các loại máy nổ, máy bơm, các thiết bị toàn bộ cho một số ngành công nghiệp nhẹ. Xây dựng thêm một số nhà máy khí quan trọng, như: khí Trung tâm Cẩm Phả, khí Nông nghiệp Đông; cải tạo mở rộng các nhà máy: khí Duyên Hải, Điện Cơ, khí Uông Bí, Xe đạp Thống Nhất, khí Trần Hưng Đạo; hoàn thành xây dựng phân xưởng cắt gọt mở rộng phân xưởng khí của Nhà máy khí Nội, hoàn thành Nhà máy Đóng tầu Bạch Đằng (đợt I), mở rộng Nhà máy Xe lửa Gia Lâm, khởi công Nhà máy Liên hợp Diesel, Nhà máy Cẩm Phả, Nhà máy Điện Hunggari, Nhà máy Dụng cụ đồ nghề cân, Nhà máy khí Gia Lâm...; đưa số nghiệp khí lên 148 nghiệp năm 1965, đạt giá trị sản lượng 309 triệu đồng, trong đó khí chế tạo chiếm 80% khí sửa chữa chiếm 20%, khí phục vụ sản xuất chiếm 90% phục vụ tiêu dùng chiếm 10%.

Luyện kim: Sản lượng gang miền Bắc vào năm 1965 đạt 115 nghìn tấn (riêng Thái Nguyên đạt 90 nghìn tấn), thép thỏi đạt 10 nghìn tấn. Nghiên cứu đúc các bán thành phẩm để giảm đọng thép thỏi, chuẩn bị phương án cho mở rộng Khu Liên hợp Gang thép Thái Nguyên đợt 2. Ngoài ra, tích cực đẩy mạnh khai thác kim loại màu, đạt sản lượng thiếc thỏi: 436 tấn quặng Cromit khô: 13,1 nghìn tấn, tổ chức khai thác mỏ thiếc Sơn Dương (Tuyên Quang), tích cực giải quyết bãi thải áp dụng phương pháp khai thác mới để nâng sản lượng khai thác quặng Cromit Cổ Định (Thanh Hóa).

Phân bón, hóa chất: Năm 1965, các loại phân bón đạt sản lượng: supe phốtphát: 87,2 nghìn tấn, quặng apatít cục: 680 nghìn tấn, thuốc bột 666: 1.569 tấn, axít sunfuríc: 4.688 tấn. Năm 1965, đã hoàn thành xây dựng Nhà máy Phân đạm Bắc bắt đầu xây dựng sở nghiền apatít, mở rộng phân xưởng axít sunfuríc, gấp rút nghiên cứu xây dựng nhà máy điện giải thuốc nhuộm.

hóa chất Việt Trì

Sau gần hai năm xây dựng, ngày 19/5/1961, Nhà máy Hóa chất số 1 Việt Trì đã mở máy sản xuất an toàn cho ra mẻ xút đầu tiên (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng: Số sở công nghiệp thực phẩm công nghiệp hàng tiêu dùng tăng từ 321 sở năm 1960 lên 336 sở năm 1965. Tập trung mở rộng nâng công suất cho hai nhà máy đường Nghệ An Việt Trì (đưa công suất từ 350 tấn mía/ngày lên 500 tấn mía/ngày), Nhà máy Thuốc Thăng Long (tăng công suất lên 100 triệu bao/năm), cân đối thiết bị nâng công suất Nhà máy Giấy Việt Trì (đạt công suất 20 nghìn tấn), mở rộng Nhà máy Gỗ Cầu Đuống, hoàn thành xây dựng huy động hết công suất Nhà máy Dệt 8-3 (35 triệu mét vải), hoàn thành các phân xưởng phụ huy động hết công suất Nhà máy chính Việt Trì, tăng thiết bị cho các sở sản xuất đường, chè, rượu, phòng, sữa bột, đậu nành, bột ngô. Ngoài ra, cũng khởi công xây dựng các nhà máy: Đường Sao Vàng, Hoa quả Việt Trì, Sấy thuốc Ninh Bình, Giấy Vạn Điểm, Thuộc da Vinh, Chế biến thịt Phú Thụy,...

đ) Tổ chức, quản phát triển công nghiệp

Thi đua, hợp hóa sản xuất, cải tiến quản lý, củng cố chế độ hạch toán kinh tế: Ngay từ đầu năm 1961, toàn ngành Công nghiệp đã mở cuộc vận động thi đua “Hợp hóa sản xuất cải tiến kỹ thuật”, đồng thời kết hợp triển khai cuộc vận động cải tiến quản “Ba xây, ba chống” (với nội dung “nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu”).

Trong ngành công nghiệp nặng, từ cuối năm 1960, đã áp dụng hạch toán tới phân xưởng tổ sản xuất (Cơ khí Nội, Ximăng Hải Phòng, Phốtphát Hải Phòng, Nông cụ Đông, khí Trần Hưng Đạo, Gạch Cầu Đuống, Than Hồng Gai,...). Các nghiệp, công trường thành lập Hội đồng định mức để thực hiện trả lương theo sản phẩm, góp phần củng cố chế độ hạch toán kinh tế. Việc áp dụng hạch toán tới phân xưởng phát triển rộng khắp mang hình thức mới: để quần chúng tham gia xây dựng định mức, tự phấn đấu hoàn thành vượt định mức, tham gia công tác quản dân chủ hóa quản nghiệp.

Để giải quyết những khó khăn trong tiêu thụ cung ứng nguyên liệu, thúc đẩy sản xuất của các sở hợp tác thủ công nghiệp công hợp doanh địa phương, Nghị quyết số 21-NQ/TW đã chủ trương thay chế độ gia công bằng hợp đồng kinh tế. Các hợp tác sẽ không còn phụ thuộc, bị động vào nhà cung ứng tiêu thụ duy nhất mậu dịch quốc doanh, được chủ động kết hợp đồng mua nguyên vật liệu bán sản phẩm của mình với các quan, đơn vị kinh tế khác. Các hợp tác cũng được phép mở đại tiêu thụ sản phẩm, tổ chức trưng bày triển lãm, để thể tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng. Khuyến khích sở sản xuất tự định giá gia công thu mua hợp lý, theo nguyên tắc đảm bảo chi phí sản xuất, cải thiện đời sống, tăng cường trang thiết bị cho sở đảm bảo tích lũy cho Nhà nước. Giá thu mua hoặc gia công phải lấy giá thành làm sở4.

Nghị quyết số 105-NQ/TW đã mở rộng quyền hạn cho các địa phương về quản phát triển công nghiệp địa phương. Trung ương sẽ chỉ giao kế hoạch sản xuất, cung cấp vật tư, tiêu thụ sản phẩm đối với một số mặt hàng quan trọng. Việc quản vốn, tài sản sản xuất công nghiệp địa phương do Ủy ban hành chính địa phương hay các sở, ty công nghiệp địa phương đảm nhiệm. Thành lập Vụ (hay Cục) Công nghiệp địa phương trực thuộc Văn phòng Phủ Thủ tướng; thành lập Liên hiệp Hợp tác thủ công nghiệp (gọi tắt Liên hiệp trung ương) như một tổ chức hội - nghề nghiệp của thợ thủ công, để vận động thi đua sản xuất, cải tiến kỹ thuật. Các địa phương cũng thành lập Sở Quản công nghiệp quốc doanh địa phương Sở Quản hợp tác thủ công nghiệp từ các ty công nghiệp 5.

Lời Bác dạy về quản sản xuất

Một buổi sáng ngày 28/4/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông. Nói chuyện với cán bộ, người lao động Nhà máy, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Tổ chức chính quyền cần kế hoạch, biện pháp sát đúng. Tổ chức thật tốt bộ máy quản lý, đội ngũ những người làm công tác khoa học kỹ thuật, nhằm tăng năng suất lao động, chú trọng việc nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, thực hành tiết kiệm, đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của nhân dân. Đó ý thức giai cấp, lương tâm trách nhiệm của mỗi cán bộ, công nhân”.

Rạng Đông
Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm nói chuyện với công nhân, viên chức Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông, ngày 28/4/1964 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến các phân xưởng, Người luôn hỏi: “Chất lượng hôm nay đã tốt hơn chưa? Mỗi ngày các cháu làm được bao nhiêu phích, bao nhiêu bóng đèn?”. Chủ tịch Hồ Chí Minh hỏi đồng chí Giám đốc Nhà máy:

- Chú làm Giám đốc, trong bữa ăn tối của gia đình, bóng đèn bị hỏng, chú bực không?

- Dạ thưa Bác, ạ!

- Thế thì mọi người dùng bóng đèn kém chất lượng họ cũng bực như chú đấy!

Rồi Chủ tịch Hồ Chí Minh kể một câu chuyện: “Có mấy gia đình công nhân được nhận nhà mới. Nhờ anh em giúp đỡ, họ đã mua sắm giường mới, bóng đèn, phích nước, xe đạp... mọi người đều phấn khởi. Tiếc thay các thứ đó chỉ dùng được mấy hôm “đã vấn đề”. Các cô, các chú thử nghĩ xem, cảm tình của những gia đình ấy đối với ngành Công nghiệp nhẹ nồng hậu thế nào?”.

Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm tới giữ gìn môi trường, vệ sinh cảnh quan công nghiệp của Công ty. Ngày ấy, vật hóa chất được cung cấp giá rẻ, anh em chưa biết tiết kiệm, nhặt nhạnh, chắt chiu. Đi tới phân xưởng phích nước, thấy mảnh thủy tinh hình thoi cong cong rơi vãi, Bác cúi xuống nhặt bỏ nhẹ vào thùng đựng mảnh. Thấy vệ sinh công nghiệp, cảnh quan môi trường Nhà máy còn chưa tốt, Bác nói: “Bác đã dịp đến thăm những nhà máy nước bạn, anh em công nhân nước bạn giữ nhà máy rất sạch, rất đẹp. Còn Nhà máy Bóng đèn Phích nước của chúng ta đây bẩn quá. Máy móc bẩn này, tường nhà bẩn này, nơi làm việc cũng bẩn này. Vệ sinh công nghiệp không đảm bảo thì ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, đúng không các chú!”.

Tới Phân xưởng Thủy tinh, Bác hỏi thợ thổi: “Các chú được đào tạo nghề đâu? - Dạ thưa Bác, chúng cháu được đào tạo tại Nhà máy ạ. - Bác khen: Thế thì các chú làm việc giỏi đấy!”.

Cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần nhắc nhở cán bộ, công nhân viên Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông nhiều điều sâu sắc. Trước lúc ra về, Bác dặn: “Các cô, các chú cố gắng làm tốt, Bác sẽ về thăm...”.

Nguồn: Cổng thông tin điện tử quận Thanh Xuân, Thành phố Nội.

e) Tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế

Cùng với việc phát huy nguồn lực trong nước, chúng ta tranh thủ sự giúp đỡ của các nước hội chủ nghĩa để phát triển công nghiệp. Sự giúp đỡ của các nước chủ yếu đưa chuyên gia công nhân kỹ thuật sang Việt Nam để thiết kế, thi công các công trình, hạng mục; giúp đỡ thiết bị toàn bộ, viện trợ nguyên, vật liệu, thiết bị lẻ, vật tư.

Theo Hiệp định Kinh tế, thương mại Việt Nam - Liên giai đoạn 1961 - 1965, Liên giúp Việt Nam xây dựng 43 nghiệp các công trình công nghiệp. Theo Hiệp định Kinh tế, thương mại dài hạn Việt Nam - Trung Quốc ngày 31/01/1961, Trung Quốc cho Việt Nam vay số tiền gần 142 triệu rúp chuyển đổi. Việt Nam dùng số tiền này thanh toán cho việc mua các thiết bị của Trung Quốc để xây dựng mở rộng 28 nghiệp thuộc ngành luyện kim, công nghiệp nhẹ đường sắt. Tiêu biểu Nhà máy Hóa chất Việt Trì, Cao su Sao Vàng, Phân đạm Bắc, Sứ Hải Dương... Theo Hiệp định kinh tế thương mại dài hạn 3 năm giữa Việt Nam Hunggari cũng nhiều công trình công nghiệp nước bạn giúp Việt Nam.

Để được những kết quả hợp tác đó, tại Đại hội III, Đảng Lao động Việt Nam đã chủ trương tăng cường sự hợp tác kinh tế với các nước hội chủ nghĩa; trong đó, căn cứ vào tình hình thực tiễn, những phương thức hợp tác với những nhóm nước cụ thể: Trong quan hệ với Liên Trung Quốc, chủ yếu ta nhận sự giúp đỡ của bạn, đồng thời hết sức phát huy sự hợp tác của ta với bạn. Đối với các nước hội chủ nghĩa khác, cần cân nhắc yêu cầu khả năng của ta cũng như của bạn, bảo đảm lợi ích chính trị kinh tế của hai bên.

Về hợp tác khoa học kỹ thuật, cần tranh thủ học tập kinh nghiệm tiên tiến của Liên Xô, Trung Quốc của các nước khác, nhờ giúp đỡ trong việc điều tra, thăm dò, thiết kế, đào tạo cán bộ nghiên cứu khoa học cán bộ kỹ thuật, nghiên cứu giải quyết một số vấn đề kỹ thuật theo yêu cầu của điều kiện tự nhiên nước ta.

“Trong việc trao đổi ngoại thương, cần bảo đảm phân phối phần lớn kim ngạch xuất nhập khẩu trong khối các nước hội chủ nghĩa, hết sức cố gắng tăng kim ngạch hàng năm với các nước anh em; cần chú trọng cung cấp những loại hàng các nước anh em cần với khối lượng ngày càng tăng như apatít, crommit, gỗ, các đặc sản nhiệt đới...”6.

Nhìn chung, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) đã đạt được những thành tựu quan trọng. Trong công nghiệp, công nghiệp quốc doanh phát triển với nhịp độ cao. Các ngành công nghiệp nặng như dầu khí, luyện kim, hóa chất... được xây dựng đi vào sản xuất. Công nghiệp nhẹ mạng lưới công nghiệp địa phương phát triển khá. Mặc vậy, công nghiệp vẫn còn chưa hướng vào mục tiêu trung tâm phục vụ sản xuất nông nghiệp hàng tiêu dùng. Quan niệm về công nghiệp hóa còn quá nhấn mạnh đến việc phát triển công nghiệp nặng. Báo cáo tại Hội đồng Chính phủ ngày 25/02/1964, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đánh giá: “Trong những năm vừa qua, chúng ta chưa nhìn thấy hết vị trí tác dụng của công nghiệp nhẹ trong công cuộc xây dựng sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội”7.


1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.839.

2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.24, tr.460-461.

3. Xem Bộ Công Thương: lược lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.129.

4. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.22, tr.381-382.

5. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.25, tr.258-262.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.835.

7. Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.140.

2. Phát triển và cải tạo công nghiệp (1958 - 1960)

a) Chủ trương

Nhiệm vụ của kế hoạch 3 năm phát triển và cải tạo kinh tế 1958 - 1960 được Chính phủ trình bày trước Quốc hội:

- Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp.

- Ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh theo chủ nghĩa xã hội.

Báo cáo đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh tại Hội nghị Trung ương 16 mở rộng (tháng 4/1959) khẳng định: “Cải tạo thành phần kinh tế tư bản tư doanh là một mặt trận trọng yếu gắn liền với toàn bộ nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa”1.

b) Cải tạo công nghiệp tư doanh

Phát triển và cải tạo công nghiệp tư doanh được tiến hành dưới hai hình thức công tư hợp doanh và hợp tác hóa.

Đối với hình thức công tư hợp doanh, Nhà nước hợp doanh với xí nghiệp sẵn có của nhà tư sản; hoặc có thể cho nhà tư sản góp vốn vào xí nghiệp đã công tư hợp doanh, cũng có thể sáp nhập cơ sở kinh doanh của nhà tư sản vào xí nghiệp công tư hợp doanh. Trong xí nghiệp công tư hợp doanh, việc quản lý sản xuất và kinh doanh theo phương thức xã hội chủ nghĩa. Đại biểu Nhà nước và công nhân viên chức kết hợp với nhau và ở địa vị lãnh đạo, nhà tư sản ở địa vị bị lãnh đạo. Nhà tư sản được trả lợi tức cho phần góp vốn của mình. Đến một thời hạn nhất định, việc trả lợi tức không còn nữa và nhà tư sản sống bằng sức lao động của mình, thì xí nghiệp công tư hợp doanh sẽ trở thành xí nghiệp quốc doanh xã hội chủ nghĩa.

Đối với hình thức hợp tác, chủ xí nghiệp giao tư liệu sản xuất cho tập thể công nhân để thành lập xí nghiệp hợp tác. Tài sản của họ đưa vào xí nghiệp hợp tác được tính giá trị thành tiền. Một phần trong số tiền đó trở thành cổ phần của chủ xí nghiệp cũ, được hưởng lãi theo điều lệ của xí nghiệp hợp tác. Số tiền còn lại không phải là cổ phần cũng được hưởng một tỷ lệ lãi do tập thể xã viên quy định. Người chủ cũ lao động và hưởng thụ theo lao động như các xã viên khác.

Ở giai đoạn khôi phục kinh tế trước đây, kinh tế tư nhân, cá thể và tiểu chủ được khuyến khích tự do phát triển, thì trong giai đoạn cải tạo, các thành phần kinh tế này được cải tạo, chuyển đổi dần theo phương thức sở hữu tư liệu sản xuất tập thể của chủ nghĩa xã hội.

thuyền chuối

Thuyền chuối của Hợp tác xã Sông Hồng (Phú Thọ) cập bến Chí Chủ để đóng gói, bán cho trạm xuất khẩu huyện Thanh Ba (Phú Thọ), năm 1960 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Từ cuối năm 1958 cho tới giữa năm 1960, miền Bắc tiến hành nhiều đợt cải tạo. Riêng Hà Nội, nơi tập trung phần lớn các nhà tư sản công - thương nghiệp, từ tháng 9/1958 đến tháng 6/1960 đã tiến hành 5 đợt cải tạo công nghiệp và thủ công nghiệp, 3 đợt cải tạo ngành vận tải cơ giới. Kết quả là Hà Nội đã đưa 499 cơ sở sản xuất tư bản vào công tư hợp doanh, 49 cơ sở khác vào xí nghiệp hợp tác, chiếm 77% tổng số cơ sở tư bản tư doanh toàn thành phố. Tổng vốn đăng ký của 499 hộ công tư hợp doanh là 13,9 triệu đồng, hằng năm trả cho các nhà tư sản số tiền chuộc dưới hình thức định tức đồng niên 833.036 đồng, tương đương mức lãi tiền gửi 7%/năm.

Đến cuối năm 1960, cải tạo công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp căn bản hoàn thành trên miền Bắc. Kết quả, đã chuyển 729 xí nghiệp tư bản tư doanh thành 661 xí nghiệp công tư hợp doanh và 68 xí nghiệp hợp tác. Có 9.481 người làm thuê được chuyển thành công nhân viên các xí nghiệp công tư hợp doanh, 400 người trong số họ được đề bạt chánh và phó quản đốc, trưởng và phó phân xưởng. Đa số các nhà tư sản đã tiếp thu cải tạo, một số tư sản và nhân sĩ yêu nước còn xin hiến tài sản, hiến cổ tức cho Chính phủ.

Bên cạnh cải tạo tư sản công nghiệp, Nhà nước cũng tiến hành hợp tác hóa tiểu thủ công nghiệp cá thể, tiểu chủ. Tính đến hết năm 1960, đã có khoảng 260.000 lao động thủ công vào các hình thức sản xuất tập thể khác nhau, trong đó có 137.400 người vào hợp tác xã và 126.200 người vào tổ hợp tác, đạt 87,9% số hộ tiểu thủ công nghiệp thuộc diện cải tạo2.

Công cuộc cải tạo đã làm biến động cơ bản các thành phần kinh tế. Trong công nghiệp, năm 1957, công nghiệp quốc doanh chiếm 60,1% toàn ngành công nghiệp, tăng lên 82,5% vào năm 1960. Trong cùng giai đoạn, hình thức công tư hợp doanh tăng từ 0% lên 10,4%; xí nghiệp hợp tác xã tăng từ 0% lên 7,1%; tư bản tư doanh giảm từ 39,9% xuống 0%. Trong tiểu thủ công nghiệp, cá thể, tiểu chủ từ 100% xuống 56%; hợp tác xã tăng từ 0% lên 44%3.

Trong giai đoạn này, một mặt chúng ta đã căn bản hoàn thành công cuộc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ dựa trên chiếm hữu tư bản về tư liệu sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới, với hai hình thức sở hữu quốc doanh và sở hữu tập thể chiếm ưu thế tuyệt đối. Mặt khác, việc nhanh chóng xóa bỏ công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của tư nhân, cá thể đã làm mất đi một nguồn lực xã hội đầy tiềm năng và năng động, trong khi khu vực quốc doanh chưa đủ lớn mạnh để thay thế hoàn toàn.

Sau nhiều thập kỷ, với độ lùi của thời gian, chúng ta có điều kiện nhìn nhận, đánh giá lại vấn đề này. “Với thực trạng kinh tế - xã hội như vậy, chúng ta có thể duy trì và phát triển kinh tế nhiều thành phần... Nhưng Chính phủ lại quyết định phải thực hiện kế hoạch ba năm phát triển và cải tạo kinh tế”4.

Nhìn lại giai đoạn 1957 - 1959, tình hình diễn biến rất nhanh và khá bất ngờ. Tháng 3/1957, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (mở rộng) về kế hoạch nhà nước năm 1957, khi thống nhất về nhiệm vụ phát triển công nghiệp, đã chỉ ra: “hết sức giúp đỡ thủ công nghiệp và công nghiệp tư doanh phát triển sản xuất có lợi cho kinh tế quốc dân”5. Đến Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (tháng 11/1958) và lần thứ 16 mở rộng (tháng 4/1959), đều đặt nhiệm vụ trọng tâm là ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh.

Tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa I (từ ngày 09 đến ngày 14/12/1958) đã ra Nghị quyết thông qua toàn bộ kế hoạch ba năm (1958 - 1960) - Kế hoạch cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế và văn hóa. Nghị quyết của Quốc hội nhấn mạnh: “Cần phải đưa công cuộc phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển văn hóa tiến lên theo một tốc độ nhanh và mạnh; căn bản hoàn thành cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể và thành phần kinh tế tư bản tư doanh trong thời gian từ 2 đến 3 năm tới”6.

Những diễn biến nhanh chóng trong tiếp cận vấn đề kinh tế tư nhân nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu và trước hết là những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc lúc bấy giờ, chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm, cho nên thường chịu ảnh hưởng từ mô hình và kinh nghiệm từ các nước xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1950, Liên Xô đã đứng đầu châu Âu và đứng thứ hai thế giới về sản lượng điện. Được sự giúp đỡ của Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Năm 1955, công nghiệp Ba Lan tăng gấp 4 lần trước chiến tranh, trong đó, có nhiều ngành công nghiệp mới ra đời. Năm 1956, Cộng hòa Dân chủ Đức thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai, trở thành nước đứng đầu châu Âu về sản lượng điện bình quân đầu người, đứng thứ hai thế giới về sản lượng hóa chất đầu người. Đồng thời, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đều hoàn thành công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp và bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội với quy mô lớn. Ở châu Á, năm 1957, Trung Quốc hoàn thành kế hoạch 5 năm (1953 - 1957) với nhiều kết quả mới trong phát triển kinh tế - xã hội. Thành tựu đó chứng minh tính ưu việt của mô hình xã hội chủ nghĩa và cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Liên Xô cùng các nước phát triển xã hội chủ nghĩa đi trước thực hiện, trở thành hình mẫu cho các nước xã hội chủ nghĩa đi sau, trong đó có Việt Nam.

Hơn nữa, có một tâm lý sợ tụt hậu trong xây dựng chủ nghĩa xã hội so với các nước trong cùng hệ thống. Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Phạm Văn Đồng trình bày tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa I, ngày 09/12/1958 nhấn mạnh: Liên Xô đang tiến những bước khổng lồ trên con đường xây dựng chủ nghĩa cộng sản, Tiệp Khắc sắp hoàn thành việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, Triều Tiên và Bungari căn bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa.

Một nguyên nhân nữa thuộc về khách quan. Nguyên lý kinh tế căn bản của C. Mác và Ph. Ăngghen là quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất. Trong điều kiện một nước đi sau, Việt Nam đã chủ trương “đưa việc xây dựng quan hệ sản xuất tiến lên trước để kéo lực lượng sản xuất lên theo” như một mô hình thử nghiệm. Thử nghiệm thì trải qua thực tiễn và thời gian mới đánh giá được, nên khó tránh khỏi sai sót. Đến Đại hội VI, Đảng ta đã nhận ra vấn đề này: “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”7.

Mặc dù giai đoạn này chế độ sở hữu tư liệu sản xuất công cộng với hai hình thức quốc doanh và tập thể đã được tập trung đến mức cao độ, nhưng nền kinh tế cũng chưa đi hẳn vào mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, do vẫn còn một yếu tố nữa là thị trường tự do còn khá mạnh.

Nhà tư sản dân tộc Nguyễn Sơn Hà

Ông Nguyễn Sơn Hà sinh năm 1894 tại huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nay là Hà Nội). Tên Sơn Hà là tên ghép chữ đầu của quê quán và nơi ông sinh ra. Vì nhà nghèo nên từ nhỏ ông đã phải đi làm thuê kiếm sống, lưu lạc mưu sinh và trưởng thành ở đất cảng Hải Phòng.

Khi làm nhân viên đánh máy rồi làm kế toán cho hãng sơn dầu lừng danh của Pháp ở Việt Nam, ông thường tranh thủ thời gian đọc thêm sách vở, tài liệu nói về kỹ thuật chế tác sơn dầu. Buổi tối, ông âm thầm làm thí nghiệm chế biến, sản xuất sơn từ kiến thức học được ở hãng sơn. Chỉ ít lâu sau, sản phẩm của ông đã có mặt trên thị trường Việt Nam, được khách hàng người Hoa, người Việt rất ưa dùng.

Sau Cách mạng Tháng Tám, gia đình nhà tư sản Nguyễn Sơn Hà đã đóng góp cho Chính phủ 105 lượng vàng cùng nhiều tài sản khác. Ông còn cho phép em rể của mình dùng tiền của ông ở đại lý sơn tại Sài Gòn tổ chức một đoàn tàu vượt biển ra Côn Đảo đón tù chính trị bị giam giữ trở về đất liền trước khi Pháp nổ súng gây hấn vào ngày 23/9/1945. Trong số những người được chuyến tàu đón về có nhiều người sau đó trở thành lãnh đạo của cách mạng Việt Nam như Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt, Phạm Hùng, Lê Thanh Nghị.

Những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, người con trai cả của ông là Nguyễn Sơn Lâm đã anh dũng hy sinh ở Hải Phòng. Sau đó, ông lên chiến khu Việt Bắc tham gia đóng góp công sức, trí tuệ của mình cho cách mạng. Ông giúp Cục Thông tin - Bộ Quốc phòng lúc đó làm vải nhựa cách điện với điện áp thấp, dùng cho kỹ thuật thông tin bằng cách đun nóng nhựa thông (hoặc nhựa trám) với dầu luyn rồi bôi lên vải diềm bâu. Ngoài ra, ông cũng tổ chức sản xuất giấy than, mực in lito, vải che mưa. Vải che mưa của xưởng Nguyễn Sơn Hà chế tạo có thể chống mưa, ngụy trang cũng tốt, lại có thể làm chiếu nằm rất tiện cho bộ đội ta.

Tháng 10/1948 và tháng 3/1949, hai lần Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen và động viên ông tiếp tục có thêm sáng kiến đóng góp cho kháng chiến. Ông Nguyễn Sơn Hà từng thay mặt Quốc hội khóa I trao thanh kiếm “Mã đáo thành công” cho Đại đoàn 308 tại chiến khu Việt Bắc.

Sau hòa bình lập lại, gia đình ông trở về Hải Phòng sinh sống, tiếp tục hiến tiền bạc và tài sản cho Chính phủ, với giá trị khoảng 370 cây vàng. Quãng đời còn lại, ông sống thanh bạch, giản dị và dành thời gian viết sách ghi lại kỹ thuật làm sơn. Ông mất tại Hải Phòng năm 1980.

Nguồn: Website của Sơn Hà Group và Cổng thông tin Điện tử thành phố Hải Phòng.

khu Thượng Đình

Năm 1960, khu Thượng Đình đã có 3 nhà máy: Cao su Sao Vàng, Thuốc lá Thăng Long và Xà phòng Hà Nội (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

c) Phát triển công nghiệp quốc doanh

Với các cơ sở công nghiệp quốc doanh quan trọng vừa được khôi phục và xây dựng bước đầu đã có một đội ngũ công nhân và cán bộ khoa học - kỹ thuật có kinh nghiệm quản lý và tổ chức công nghiệp quốc doanh giai đoạn này có nhiều thuận lợi; đồng thời, có sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa về viện trợ, chuyên gia, kỹ thuật và đào tạo.

Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ công nghiệp quốc doanh trung ương và quốc doanh địa phương. Ở trung ương, có hai đặc điểm rõ nét nhất: đó là hình thành các khu công nghiệp và phát triển công nghiệp nặng.

Giai đoạn 1958 - 1960, một số khu công nghiệp được xây dựng ở Việt Trì, Thượng Đình (Hà Nội), Thái Nguyên...

Khu Công nghiệp Việt Trì: Tháng 8/1958, Công ty Kiến trúc Việt Trì được thành lập trực thuộc Bộ Kiến trúc. Sau thời gian làm việc khẩn trương, quy hoạch tổng thể và xây dựng luận chứng kinh tế - kỹ thuật về Khu Công nghiệp Việt Trì đã hoàn thành và được Trung ương phê chuẩn. Ngày 28/11/1958, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Lê Thanh Nghị phát lệnh khởi công xây dựng Khu Công nghiệp Việt Trì.

Trong quý III/1958, hơn 700 cán bộ, chiến sĩ bộ đội thuộc Sư đoàn 305 và Sư đoàn 308 chuyển ngành cùng với hơn 100 công nhân kỹ thuật được điều về xây dựng khu công nghiệp. Đến năm 1959, tổng số cán bộ, công nhân thuộc khu công nghiệp quản lý lên tới trên 4.000 người. Bên cạnh đó, còn có các chuyên gia Trung Quốc hướng dẫn về kỹ thuật và một số chuyên gia Liên Xô giúp xây dựng một tuốcbin nhà máy điện... Khu Công nghiệp Việt Trì được xây dựng theo kiểu tổ hợp kinh tế công nghiệp hiện đại, quy mô, tập trung khá lớn các nhà máy: điện, đường, giấy, hóa chất, miến - mỳ chính...

Việt Trì - Khu công nghiệp đầu tiên của miền Bắc xã hội chủ nghĩa

Tháng 11/1958, Việt Trì được Trung ương chọn làm điểm để xây dựng khu công nghiệp đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tạo tiền đề cho công cuộc công nghiệp hóa đất nước và thúc đẩy công nghiệp địa phương phát triển. Những ngày đầu xây dựng khu công nghiệp đầy khó khăn, gian khổ, cán bộ, công nhân và nhân dân Việt Trì đã lao động không biết mệt mỏi, không quản nắng mưa.

Ngày 13/4/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh về động viên phong trào. Sau khi đi thăm công trường xây dựng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi tinh thần lao động hăng say, nhiệt tình, ý thức trách nhiệm của cán bộ, công nhân khu công nghiệp. Người nói: Đây là khu công nghiệp đầu tiên của nước ta. Xưa, các Vua Hùng đã chọn làm nơi đóng đô, dựng nước. Nay, ta xây dựng Đất Tổ thành một khu công nghiệp to lớn, cơ sở của chủ nghĩa xã hội. Từ đây ta sẽ bắt đầu cho công cuộc xây dựng to lớn của cả đất nước. Vinh dự này thuộc về các cô, các chú đang xây dựng Đất Tổ... Bác mong các cô, các chú cùng thi đua xây dựng sao cho các nhà máy được ra đời để hoạt động càng sớm càng tốt, để ta có được những sản phẩm tự lực cánh sinh mà ta xưa nay vẫn phải mua của nước ngoài...

Khắc ghi lời Bác dạy, toàn khu công nghiệp bừng bừng khí thế các cuộc thi đua. Sau bốn năm (1958 - 1962) một loạt nhà máy như: điện, giấy, hóa chất, đường, xay, mì chính... đã hoàn thành và đi vào hoạt động. Ngày 18/3/1962, Khu công nghiệp Việt Trì chính thức được cắt băng khánh thành. Sự ra đời của Khu công nghiệp Việt Trì đã làm thay đổi căn bản diện mạo của “Thành phố ngã ba sông”. Từ một vùng đất hoang vu đã mọc lên những nhà máy, xí nghiệp công nghiệp hiện đại, là cơ sở để ngày 04/6/1962, Chính phủ quyết định thành lập thành phố Việt Trì trực thuộc tỉnh Phú Thọ.

Nguồn: Cổng thông tin Điện tử Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

Bác Hồ thăm Việt Trì

Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm công trường xây dựng Khu công nghiệp Việt Trì ngày 13/4/1959 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Khu Gang thép Thái Nguyên: Ngày 04/6/1959, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 214/TTg thành lập Ban chỉ huy công trường Khu gang thép Thái Nguyên, do ông Đinh Đức Thiện - Thứ trưởng Bộ Công nghiệp làm Trưởng ban. Ban chỉ huy công trường có nhiệm vụ xây dựng và tổ chức Khu gang thép Thái Nguyên, gồm có: nhà máy gang thép, mỏ sắt, mỏ than, nhà máy điện, đường sắt chuyên dụng, đường bộ, bến tàu; trong đó, công việc hết sức quan trọng là xây dựng nhà máy gang thép lớn nhất của đất nước với công suất 20 vạn tấn/năm.

Khu Công nghiệp Thượng Đình (Hà Nội): Ngày 22/12/1958, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Lê Thanh Nghị phát lệnh khởi công Khu công nghiệp Thượng Đình, thường được biết đến với tên gọi “Khu Cao - Xà - Lá”. Đến năm 1960, khu Thượng Đình đã có 3 nhà máy: Cao su Sao Vàng, Thuốc lá Thăng Long và Xà phòng Hà Nội.

Thành phố Hải Phòng: Là nơi tập trung nhiều nhà máy công nghiệp có tiếng của miền Bắc lúc bấy giờ.

Nhà máy Sắt Tráng Men - Nhôm Hải Phòng được thành lập ngày 17/5/1956, với sự giúp đỡ của Trung Quốc. Cũng vào thời điểm ấy, Hải Phòng đang dấy lên phong trào “kế hoạch nhỏ” của các em thiếu niên, nhi đồng quyên góp sách báo, giấy vụn, vỏ chai... để góp phần xây dựng một nhà máy sản xuất các vật dụng đồ dùng học tập cho học sinh. Tháng 12/1958, Bộ Công nghiệp quyết định xây dựng Nhà máy Nhựa tại Hải Phòng, cũng là cơ sở đầu tiên của ngành gia công chất dẻo của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, trong đó có một phần đóng góp từ “kế hoạch nhỏ”.

Đây cũng là thời kỳ công nghiệp nặng được ưu tiên phát triển. Nhiều nhà máy điện, mỏ than, ximăng, gang thép, hóa chất được đầu tư xây dựng, mở rộng công suất. Hầu hết các mỏ quan trọng ở miền Bắc được khôi phục và mở rộng, như các mỏ than Hòn Gai, Mạo Khê, Làng Cẩm, mỏ thiếc, mỏ apatít... Nhà máy Ximăng Hải Phòng được khôi phục đã vượt sản lượng năm 1939 là 30%. Mỏ Than Uông Bí, Mỏ Kẽm Bắc Kạn cũng được thiết kế xây dựng, chuẩn bị khởi công 1 nhà máy phân đạm và 2 nhà máy phân lân. Các nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng, nhà máy điện cũng được phát triển mạnh, nhờ thế, sản lượng ngành điện tăng hơn 2 lần.

Bên cạnh đó, công nghiệp nhẹ cũng được quan tâm phát triển. Nhà máy Dệt 8-3, Dệt kim Đông Xuân, nhà máy xay, nhà máy gạch và gạch chịu lửa, Nhà máy Gỗ Cầu Đuống... được xây dựng.

Khôi phục Mỏ Apatít Lào Cai

Năm 1886, sau khi chiếm đóng Laokay (Lào Cai), với khát khao thu lợi từ vùng thuộc địa trên “con đường tơ lụa” mà thương gia kiêm nhà ghi chép lịch sử Joan Dupus vẽ lên, người Pháp rất mong sớm khai thác tài nguyên quý hiếm tại đây. Từ năm 1900 đến năm 1914, dù phải đối phó với việc bình định các cuộc nổi dậy, chính quyền Pháp đã cấp 11 giấy phép thăm dò các mỏ ở Laokay.

Việc phát hiện Mỏ Apatít năm 1924 là một sự kiện ngẫu nhiên, hai bố con ông Trần Văn Nỏ, người Tày ở tổng Cam Đường đã phát hiện ra nguyên liệu quặng trong một chuyến đi rừng.

Năm 1939, những tấn quặng apatít đầu tiên tập kết tại ga Gốc Đa thành các goòng quặng được kéo bằng đầu máy hơi nước ra Cửa Ngòi, rót quặng từ bờ cao xuống phà, phà được tời qua sông, bốc lên toa xe đưa về cảng Hải Phòng. Từ năm 1939 đến năm 1942, tuyến đường thô sơ trên đã chuyên chở trên 249.000 tấn quặng.

Năm 1940, sau khi Nhật chiếm đóng mỏ, nhà thầu Nhật độc chiếm việc khai thác, nâng khối lượng gấp rưỡi thời chủ thầu Pháp quản lý.

Năm 1942, Nhật nâng cấp tuyến đường sắt trên từ khổ 60 cm lên 115 cm, thúc đẩy việc khai thác thêm 300 tấn/năm. Theo tài liệu thống kê của Kho lưu trữ Trung ương, từ khi khai thác năm 1934 đến khi đóng cửa mỏ lần thứ nhất (cuối năm 1944), Pháp và Nhật đã khai thác trên 445.700 tấn quặng loại tốt.

Năm 1955, sau ngày miền Bắc được giải phóng, Chính phủ chủ trương khôi phục việc khai thác Mỏ Apatít phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Được sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô cùng nhiều vật tư, máy móc mới, đường sắt Cửa Ngòi - ga Gốc Đa được khôi phục, khai trường Mỏ Cóc mở lại.

ông Nỏ
Chủ tịch Hồ Chí Minh và ông Trần Văn Nỏ (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Ngày 23/9/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng phái đoàn của Chính phủ xuống tàu tại ga Pom Hán mới được khánh thành, lên xe tải tatra về Văn phòng Mỏ Apatít. Khi trò chuyện với cán bộ, công nhân và nhân dân vùng mỏ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi vùng mỏ đã khắc phục khó khăn, nhanh chóng khôi phục mỏ, đi vào sản xuất và ổn định đời sống. Bác cũng nhắc nhở Mỏ Apatít cần đẩy mạnh phong trào thi đua làm “nhiều, nhanh, tốt, rẻ” để làm giàu cho Tổ quốc, đồng thời lưu ý việc giữ gìn máy móc thật tốt, vì đây là mồ hôi, nước mắt của nhân dân Liên Xô và Trung Quốc giúp ta.

Sau đó, Bác trao cho ông Nguyễn Văn Lang, Giám đốc Mỏ Apatit Cam Đường 5 chiếc Huy hiệu mang tên Người để làm phần thưởng cho những công nhân đạt thành tích xuất sắc trong khai thác, vận chuyển quặng apatít.

Trong buổi gặp gỡ đặc biệt này, Chủ tịch Hồ Chí Minh vui vẻ chụp ảnh lưu niệm cùng với ông Trần Văn Nỏ, là người đầu tiên có công phát hiện ra quặng apatít Cam Đường.

Ông Trần Văn Nỏ cảm động rơm rớm nước mắt nói không lên lời vì quá bất ngờ trước tình cảm đặc biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho mình. Thay mặt bà con dân bản vùng mỏ apatít Cam Đường, ông Nỏ đã trân trọng kính tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh tấm khăn thổ cẩm do người dân địa phương thêu dệt.

Nguồn: Theo báo Lào Cai và báo Dân Trí.

Vốn đầu tư cho công nghiệp quốc doanh thời kỳ 1958 - 1960 đạt 638 triệu đồng (hơn 3 lần số vốn đầu tư trong thời kỳ 1955 - 1957); trong đó, cho công nghiệp nặng là 73% và công nghiệp nhẹ là 27% (các chỉ số tương ứng của thời kỳ 1955 - 1957 là 68,6% và 31,4%). Vốn đầu tư cho công nghiệp chiếm 42,2% tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của khu vực sản xuất (thời kỳ 1955 - 1957 là 34,7%).

Nhờ vậy, số lượng xí nghiệp công nghiệp quốc doanh tăng lên nhanh chóng từ 281 xí nghiệp năm 1958 lên 1.012 xí nghiệp năm 1960, trong đó công nghiệp quốc doanh trung ương tăng từ 111 xí nghiệp lên 203 xí nghiệp, chủ yếu là những nhà máy lớn hiện đại.

Trong ba năm, sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp đã phát triển với nhịp độ nhanh. Từ năm 1957 đến năm 1960, bình quân hằng năm tăng 21,7%, trong đó công nghiệp quốc doanh tăng nhanh nhất: bình quân hằng năm tăng 49,6%. Riêng năm 1960, công nghiệp quốc doanh vượt kế hoạch 12,6% và tăng 32,3% so với năm 1959.

Chúng ta đã có nhiều sản phẩm mới như gang, máy công cụ, máy móc xây dựng, máy xay gạo, gỗ dán, gạch chịu lửa, axitsunfuric, thuốc trừ sâu, các loại xà phòng, đồ sắt tráng men, đồ dùng văn phòng, len, hàng dệt kim, đường kính...

Điều đáng chú ý là cơ cấu của công nghiệp miền Bắc đã tiến bộ hơn trước. Trong 3 năm 1957 - 1960, công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất được phát triển mạnh, cơ sở công nghiệp nặng đã bước đầu được xây dựng. Công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất (nhóm A) giai đoạn 1955 - 1960 tăng 43,9% về giá trị tổng sản lượng trong khi nhóm B tăng 34,2%8.

Trong sản xuất tư liệu sản xuất, những ngành chủ chốt như điện lực, chế tạo máy móc, vật liệu xây dựng... được phát triển khá nhanh. Công nghiệp cơ khí miền Bắc trước kia chỉ đáp ứng việc sửa chữa, nay đã chế tạo được một số loại máy công cụ loại nhỏ và vừa, máy phát điện cỡ nhỏ, tàu kéo, canô, toa xe, một số loại máy thi công và một số máy nông nghiệp loại nhỏ.

Đồng thời, công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm tiếp tục phát triển mạnh mẽ: từ năm 1957 đến năm 1960 tăng 60,4%, bình quân hằng năm tăng 17,1%; nhờ đó, từ chỗ trước đây phải nhập hầu hết hàng tiêu dùng, đến cuối giai đoạn đã tự cung cấp được phần lớn hàng tiêu dùng chủ yếu cần thiết cho nhân dân và có một số hàng có phẩm chất tốt để xuất khẩu.

Sự phát triển những sản phẩm chính của công nghiệp trung ương thời kỳ này như sau (số năm 1960 so sánh với năm 1957): điện: 256 triệu kWh, tăng 110%; than: 2,6 triệu tấn, tăng 136%; phốtphát: 51 nghìn tấn, tăng 126%; ximăng: 408 nghìn tấn, tăng 147%; gạch: 942 triệu viên, tăng 130%; ngói: 130,8 triệu viên, tăng 62,2%; gỗ tròn: 753 nghìn mét khối, tăng 71%; giấy viết: 4.600 tấn, tăng 91%; diêm: 182 triệu bao, tăng 109%; vải mặc: 76 triệu mét, tăng 11,7%; sợi bông: 10.400 tấn, tăng 10,6%; đường mật: 32 nghìn tấn, tăng 117%; cá bể: 112.500 tấn, tăng 3,3%; nước mắm: 29,6 triệu lít, tăng 42,3%; thuốc lá: 81,6 triệu bao, tăng 168%... Nhờ thế, chỉ tiêu một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tính theo đầu người vào năm 1959 đã xấp xỉ mức năm 1939: điện: 13,4 kWh/10,7 kWh; than: 142 kg/229 kg; ximăng: 25 kg/25,8 kg; vải: 5 m/4,8 m; giấy: 0,26 thếp/0,5 thếp; muối: 8,4 kg/3,3 kg; đường: 0,7 kg/0,7 kg9...

Hình thành Khu công nghiệp luyện kim đầu tiên

Ngày 04/6/1959, Hội đồng Chính phủ ra quyết định thành lập công trường Khu Gang thép Thái Nguyên. Theo Quyết định thành lập, Trưởng Ban chỉ huy công trường Khu Gang thép Thái Nguyên là ông Đinh Đức Thiện - Thứ trưởng Bộ Công nghiệp; Phó Trưởng ban là ông Nguyễn Văn Xuân - cán bộ Bộ Công nghiệp, ông Lê Hoàng - đại biểu khu tự trị Việt Bắc; các ủy viên gồm các ông: Trần Diệp, Phan Tử Lăng, đều là cán bộ Bộ Công nghiệp và ông Nguyễn Đình Lim, đại biểu tỉnh Thái Nguyên.

Hơn 22 nghìn cán bộ, chiến sĩ quân đội và thanh niên từ khắp mọi miền Tổ quốc hội tụ về đây, cùng nhau san đồi, bạt núi, xúc hàng triệu mét khối đất đá, đổ hàng vạn tấn bêtông, những nhà máy, phân xưởng, mỏ với diện tích rộng gần 160 ha đã lần lượt ra đời. Hơn 50 quả đồi với gần 11 triệu mét khối đất, đá được san gạt; hàng vạn tấn bêtông, hàng nghìn tấn vật tư thiết bị được vận chuyển về mặt bằng công trường khu Gang thép để xây dựng nên khu công nghiệp luyện kim đầu tiên của Việt Nam, với dây chuyền sản xuất liên hợp khép kín từ khai thác quặng sắt đến luyện gang, luyện thép và cán thép...

Đúng ngày Quốc khánh 02/9/1960, Công trường Khu công nghiệp Gang thép làm lễ khởi công bằng việc đổ bêtông móng lò cao số 1 - mở đầu một giai đoạn lịch sử của ngành Luyện kim hiện đại Việt Nam.

Năm 1960 cũng là mốc thời gian đánh dấu hàng loạt xí nghiệp quốc doanh địa phương ở Thái Nguyên, với các ngành nghề: khai thác sản xuất, cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác, chế biến lâm sản, thực phẩm, dệt, da, may mặc được hình thành và đi vào hoạt động. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp địa phương trong năm 1960 tăng gần 5 lần so với năm 1955, sản phẩm chủ yếu là các mặt hàng điện, than, nông cụ, phân bón, vật liệu xây dựng.

Từ năm 1960 đến năm 1965, đã từng bước định hình khu công nghiệp luyện kim khép kín:

- Ngày 31/12/1961: Thành lập Xưởng Luyện Gang (nay là Nhà máy Luyện Gang).

- Ngày 06/9/1963: Thành lập Xưởng Luyện Cốc (nay là Nhà máy Cốc Hóa).

- Ngày 25/11/1963: Thành lập Xưởng Động lực (nay là Xí nghiệp Năng lượng).

- Ngày 29/11/1963: Mẻ gang đầu tiên của lò cao số 1 đã ra lò, đánh dấu quá trình khắc phục khó khăn, dám nghĩ, dám làm với tinh thần tự lực cánh sinh rất cao của hơn 22.000 cán bộ, công nhân toàn công trường.

- Ngày 16/12/1963: Khánh thành phân xưởng tuyển quặng và Mỏ sắt Trại Cau - nơi cung cấp nguyên liệu chính cho Khu Gang thép, hằng năm có thể sản xuất 25 - 30 vạn tấn quặng sạch. Cùng với Mỏ sắt Trại Cau, từ năm 1959 đến năm 1963, hàng loạt mỏ nguyên liệu khác ở nhiều địa phương trên miền Bắc cung cấp cho Khu Gang thép được khẩn trương xây dựng và đưa vào sản xuất, như: Mỏ đá Núi Voi (Thái Nguyên), Mỏ đất chịu lửa Tuyên Quang, Quắc Zít Phú Thọ, Dolomit Thanh Hóa, Măng Gan - Cao Bằng.

- Ngày 20/12/1963: Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đã cắt băng khánh thành lò cao số 1 - công trình đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại luyện kim nước ta.

- Ngày 23/9/1964: Khánh thành lò cao số 2.

- Ngày 21/11/1964: Thành lập phân xưởng Luyện thép (nay là Nhà máy Luyện thép Lưu Xá). Thời kỳ đầu, Nhà máy luyện thép sử dụng phương pháp lò Máctanh (tức lò bằng), mỗi lò 150 tấn thép/mẻ.

- Ngày 21/12/1964: Khánh thành xưởng thiêu kết công suất 12 vạn tấn/ năm, sử dụng nguồn quặng vụn của Mỏ sắt Trại Cau thiêu kết thành quặng cục có độ rắn, xốp, độ hoàn nguyên thích hợp, vừa tiết kiệm quặng và than cốc vừa tăng thêm nguyên liệu tốt cho lò cao.

- Ngày 22/12/1964: Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thanh Nghị đã chính thức cắt băng khánh thành lò cốc với công suất 13 vạn tấn/năm, gồm 45 buồng và ngay trong năm này, Xưởng đã đạt sản lượng 11 vạn 2 nghìn tấn than cốc luyện kim với chất lượng tốt.

- Ngày 20/7/1965: Khánh thành Xưởng Vật liệu chịu lửa (nay là Nhà máy Vật liệu chịu lửa) và lò cao số 3. Lò cao số 3 đi vào sản xuất cùng với lò cao số 1 và lò cao số 2 đã đưa sản lượng luyện gang thép lên 14 vạn tấn năm, đủ nguyên liệu phục vụ cho hệ thống luyện thép.

Nguồn: Theo website của Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên.

Công nghiệp địa phương bắt đầu có sự khởi sắc. Cùng với việc trung ương giao lại một số cơ sở cho địa phương, các tỉnh và địa phương cũng dựa vào nguồn lực của mình và một phần hỗ trợ của trung ương để xây dựng thêm nhiều cơ sở mới. Số cơ sở công nghiệp quốc doanh địa phương tăng từ 170 xí nghiệp với 8.152 công nhân năm 1958 lên 546 xí nghiệp với 25.712 công nhân năm 1959 và 722 xí nghiệp với 44.407 công nhân năm 1960; trong đó, các xưởng, trạm cơ khí chiếm 46%, sản xuất vật liệu xây dựng chiếm 28%, sản xuất phân bón hóa học, thuốc trừ sâu chiếm 5,8%...

Các tỉnh, thành phố trên miền Bắc lúc đó đều có xưởng cơ khí nhỏ sản xuất nông cụ cải tiến và máy móc chế biến nông sản đơn giản. Nhiều tỉnh đã xây dựng được xưởng sản xuất phốtphát, lò cao nhỏ sản xuất gang. Nhiều nơi phát triển các lò gạch ngói thủ công, lò vôi, xưởng chế biến nông - lâm sản, hải sản, xưởng ximăng, xưởng xẻ gỗ thủ công và nửa cơ giới, dệt thủ công và bán cơ khí. Một số địa phương còn xây dựng các trạm điện nhỏ chạy bằng diesel và sức nước... Công nghiệp quốc doanh địa phương đã sản xuất trong 50 ngành nghề và với 56 chủng loại sản phẩm.

Công nghiệp địa phương sản xuất được nhiều sản phẩm thỏa mãn phần lớn nhu cầu tư liệu sản xuất nông nghiệp và dân sinh, như: máy tuốt lúa, công cụ lao động các loại, gạch, ngói, vôi, gỗ khai thác, tàu thuyền đánh cá, chiếu cói, đồ thủy tinh, sứ dân dụng, vải, lụa, áo dệt kim, da, đường mật, nước mắm, xà phòng, đồ dùng gia đình bằng kim loại...

Sản xuất khởi sắc, công nghiệp địa phương đã thu hút khoảng 600 nghìn người và tạo ra giá trị sản lượng 890 triệu đồng; trong đó, thủ công cá thể, tổ hợp tác sản xuất và hợp tác xã chiếm tới 90% lao động và 83% giá trị sản lượng. Đáng chú ý là công nghiệp địa phương đến giai đoạn này mới bắt đầu được chú ý nên có đà phát triển hết sức mạnh mẽ, năm 1960 tăng gấp 10 lần năm 1957.

Đến năm 1960, công nghiệp quốc doanh trung ương và quốc doanh địa phương đều có bước tăng trưởng khá. Theo Báo cáo về nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất về phát triển kinh tế quốc dân (1961 - 1965) tại Đại hội III của Đảng: “Chúng ta có 172 xí nghiệp do trung ương quản lý. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh năm 1960 có thể vượt kế hoạch 3,8% và tăng hơn hai lần so với năm 1957. Công nghiệp quốc doanh địa phương bước đầu được phát triển, đã chiếm 19% trong giá trị sản lượng công nghiệp quốc doanh. Năng suất lao động trong các ngành công nghiệp quốc doanh năm 1959 tăng 3,8 lần so với năm 1955 và tăng hơn 60% so với năm 1957. Thủ công nghiệp được khuyến khích, năm 1960 tăng gần hai lần so với năm 1955 và tăng 34% so với năm 1957”10.

Tuy nhiên, Báo cáo cũng thẳng thắn nhìn nhận: “Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mở rộng chưa khắp và chưa được củng cố vững chắc; trình độ sản xuất vẫn còn lạc hậu... công nghiệp hiện đại, nhất là công nghiệp nặng còn nhỏ bé, chưa giải quyết được các nhu cầu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Các ngành sản xuất và vận tải còn nhiều khả năng tiềm tàng chưa được phát huy. Lực lượng cán bộ và công nhân kỹ thuật còn ít, trình độ kỹ thuật còn non kém. Nhân lực dồi dào nhưng sử dụng chưa được hợp lý. Vì năng suất lao động xã hội còn thấp cho nên thu nhập và mức sống của nhân dân còn thấp”11.

Tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ngành công nghiệp Dầu khí

Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, năm 1957, trong chương trình của chuyến thăm các nước Đông Âu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành thời gian đến thăm giàn khoan dầu ở Anbani và thăm nhà máy lọc dầu ở Bungari.

Câu nói của Người vào ngày 23/7/1959 với các kỹ sư, công nhân dầu khí khu công nghiệp dầu lửa Baku, Adécbaigian, đã thể hiện khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc: “Sau khi Việt Nam kháng chiến thắng lợi, Liên Xô nói chung và Adécbaigian nói riêng phải giúp đỡ Việt Nam khai thác và chế biến dầu khí, xây dựng được những khu công nghiệp dầu khí mạnh như Baku”.

Theo đề nghị của Chính phủ Việt Nam, từ năm 1959, Chính phủ Liên Xô đã cử các chuyên gia địa chất dầu khí sang giúp Việt Nam tiến hành điều tra địa chất dầu khí: Trong hai năm 1959 - 1961, các chuyên gia Liên Xô đã cùng các đồng nghiệp Việt Nam hoàn thành báo cáo tổng hợp “Địa chất và triển vọng dầu khí ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” đầu tiên ở nước ta.

Xuất phát từ tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước về ngành công nghiệp Dầu khí của Việt Nam, cùng với kết luận ban đầu tại báo cáo địa chất dầu khí nói trên, ngày 09/10/1961, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 159-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Địa chất, trong đó đã xác định rõ có tổ chức Đoàn thăm dò Dầu lửa.

dầu lửa

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm mỏ dầu ở sát bờ biển Baku, Adécbaigian năm 1959 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Ngày 27/11/1961, Tổng cục Địa chất ra Quyết định số 271/ĐC thành lập Đoàn Thăm dò Dầu lửa số 36 (tên thường gọi là Đoàn 36 và từ năm 1969 là Liên đoàn Địa chất 36) trực thuộc Tổng cục Địa chất. Đoàn 36 có nhiệm vụ tiến hành tìm kiếm, thăm dò dầu hỏa và khí đốt trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Hơn 10 năm tiếp đó, các kỹ sư Việt Nam đồng hành với chuyên gia Liên Xô đã tiến hành các hoạt động thăm dò dầu khí, công tác địa vật lý và khoan dầu khí ở đồng bằng sông Hồng và vùng trũng An Châu, khẳng định kết quả thăm dò, chính xác hóa cấu trúc địa chất của “tam giác châu thổ sông Hồng”, phát hiện các vết dầu và vỉa khí trong trầm tích Đệ Tam.

Đoàn 36 đã cung cấp rất nhiều tài liệu và thông tin quý giá, những kết luận quan trọng về cấu trúc địa chất, tiềm năng dầu khí ở miền võng Hà Nội, ở vùng trũng An Châu và là “cái nôi” cung cấp nguồn nhân lực quản lý cho ngành Dầu khí Việt Nam trong giai đoạn đầu.

Ngày 18/3/1975, đánh dấu sự kiện nổi bật về tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở miền Bắc Việt Nam khi phát hiện mỏ khí Tiền Hải, với trữ lượng xác minh lên đến 1,3 tỉ m3.

d) Tình hình một số ngành công nghiệp chủ yếu

Điện lực

Là ngành được ưu tiên phát triển và thay đổi tính chất từ ngành công nghiệp tiêu dùng sang ngành sản xuất. Ngày 21/7/1955, thành lập Cục Điện lực trực thuộc Bộ Công Thương, đặt dấu mốc pháp lý về hoạt động chỉ đạo, quản lý của cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách về lĩnh vực điện lực; tháng 01/1958, xây dựng đường dây Trung áp 35 kV đầu tiên (Hà Nội - Phố Nối); ngày 19/5/1961, xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí - nhà máy nhiệt điện công suất lớn nhất đầu tiên ở miền Bắc. Ngày 26/11/1963, dòng điện đầu tiên từ Nhà máy Điện Uông Bí hòa vào lưới điện miền Bắc với sản lượng trung bình trên 100 triệu kWh/năm, đánh dấu một mốc quan trọng của nhà máy điện lớn nhất Đông Dương lúc bấy giờ; ngày 19/8/1964, khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Thác Bà công suất lớn đầu tiên ở miền Bắc trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội.

Bên cạnh các nhà máy điện cũ được khôi phục và 6 nhà máy thủy điện, nhiệt điện nhỏ được xây dựng trước đó, trong thời kỳ 1958 - 1960, đã xây dựng thêm 5 nhà máy nhiệt điện và 1 nhà máy thủy điện cỡ nhỏ và trung, đưa số cơ sở do Bộ Công nghiệp quản lý lên 15, trong đó có 7 cơ sở độc lập và 8 cơ sở trực thuộc các xí nghiệp công nghiệp trung ương. Đồng thời, cũng xúc tiến chuẩn bị điều kiện xây dựng các nhà máy thủy điện cỡ lớn trong kế hoạch 5 năm tiếp theo. Năm 1960, các nhà máy ở miền Bắc đã đạt sản lượng điện 256 triệu kWh, sản lượng điện bình quân đầu người đạt 15,8 kWh (các chỉ số tương ứng năm 1957 là 121,24 triệu kWh và 8 kWh).

Cơ khí chế tạo

Sau việc đưa Nhà máy Cơ khí Hà Nội vào hoạt động năm 1957, nhiều cơ sở cơ khí sửa chữa cũ được cải tạo thành xưởng cơ khí chế tạo, như các nhà máy: Cơ khí Trần Hưng Đạo, Cơ khí Gia Lâm, Xưởng cơ khí Trường Trung cấp Kỹ thuật I, Cơ khí Bộ Kiến trúc, Cơ khí Duyên Hải... Các nhà máy này được tăng năng lực sản xuất và mở rộng chủng loại sản phẩm. Máy móc đạt độ chính xác cấp 2... Ngành Vận tải cũng được mở rộng và xây dựng thêm một số nhà máy cơ khí mới để sản xuất rơmoóc, phụ tùng xe hơi, toa xe lửa, tàu kéo, xà lan, canô, tàu nhỏ đánh cá và chuẩn bị xây dựng Nhà máy Đóng tàu Bạch Đằng... Các nhà máy: Dệt Nam Định, Ximăng Hải Phòng, Điện Hà Nội, Mỏ than Hồng Gai và Mỏ than Cẩm Phả đều có xưởng cơ khí lớn; tại đây, ngoài việc sửa chữa cơ khí, còn nghiên cứu chế tạo máy móc, dụng cụ cho các nhà máy để thay thế nhập khẩu.

Sản phẩm mới của ngành Cơ khí năm 1960 là: máy cắt gọt kim loại: 799 cái, động cơ điện: 488 cái, xe lăn đường: 10 cái, xà lan các loại với tổng trọng tải: 1.200 tấn, goòng vận tải: 298 cái, máy bơm nước: 71 cái, xe đạp: 23.110 cái, săm lốp xe đạp: 12.000 chiếc; ngoài ra còn nghiên cứu chế tạo máy nông nghiệp như máy gieo hạt, máy gặt, máy cày 2 bánh 2 lưỡi...

Luyện kim và khai khoáng

Với sự giúp đỡ của Trung Quốc, ta đã bắt đầu khởi công xây dựng Nhà máy Liên hợp Gang thép Thái Nguyên. Ba lò cao nhỏ (Cọc 5, Hà Giang, Thanh Hóa) đã được đưa vào sử dụng, công suất nấu gang đạt 1.000 tấn/năm. Về sản xuất thép, ngoài lò đúc thép ở Nhà máy Cơ khí Hà Nội, đã nghiên cứu xây dựng lò cao dung tích 30 m3 và những lò nhỏ ở địa phương. Với sự giúp đỡ của Liên Xô, Mỏ thiếc Tĩnh Túc được khôi phục và xây thêm lò phản xạ hiện đại luyện thiếc, tăng chất lượng sản phẩm thiếc từ loại 2, loại 3 lên loại 1. Mở rộng và cơ khí hóa khâu khai thác cho Mỏ Apatít (Lào Cai), đồng thời, chuẩn bị xây dựng nhà máy sấy quặng và làm giàu quặng. Mỏ Cromit Cổ Định (Thanh Hóa) được cơ khí hóa dùng sức nước khai thác. Nghiên cứu chế đồng, chì, graphite, fero và các kim loại khác. Hoàn thành thăm dò Mỏ Kẽm Chợ Điền để chuẩn bị xây dựng nhà máy luyện kẽm quy mô lớn. Sản lượng một số sản phẩm chủ yếu của ngành luyện kim như sau: năm 1959, apatít đạt 260.600 tấn, thiếc đạt 355 tấn; năm 1960, gang đạt 2.800 tấn, quặng cromit đạt 19.420 tấn.

Khai thác than

Các mỏ than quan trọng như: Hồng Gai, Mạo Khê, Cẩm Phả, Làng Cẩm đã được mở rộng. Năm 1959, riêng hai mỏ Hồng Gai và Cẩm Phả đạt sản lượng 2.023.000 tấn (tăng 25,5% so với năm 1939), nhờ thế, sản lượng khai thác các mỏ than tăng nhanh từ 1.080.000 tấn lên 2.570.000 tấn trong thời kỳ 1957 - 1960. Mỏ than Na Dương (Lạng Sơn) được xây dựng để cung cấp than cho các nhà máy ximăng, thay thế cho than nhiều chất bốc trước đây vẫn phải nhập. Tiến hành thăm dò và phát hiện than mỡ ở Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình để phục vụ cho phát triển gang thép trong các kế hoạch sắp tới.

Hóa chất - phân bón

Đã đẩy mạnh sản xuất phân phốtphát từ nguyên liệu quặng apatit đưa sản lượng tăng từ 6.400 tấn lên 51.000 tấn, tức là gần 10 lần trong thời gian 1955 - 1960; riêng sản lượng phân hóa học của các cơ sở trung ương đã đạt 22.530 tấn năm 1957 và tăng lên 490.000 tấn năm 1960; đẩy mạnh xây dựng các nhà máy hiện đại Supe Phốtphát Lâm Thao, Phân lân Văn Điển, Phân đạm Bắc Giang. Năm 1960, đã hoàn thành xây dựng một số xưởng sản xuất xút, pôlivinin, xưởng pin, xưởng dưỡng khí, xưởng làm cứng dầu...

bộ trưởng Nghị Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Lê Thanh Nghị tại lễ khai trương Nhà máy Dệt Nam Định, ngày 29/01/1956 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Công nghiệp nhẹ

Ngay sau hòa bình, với sự giúp đỡ của Trung Quốc, Nhà máy Dệt Nam Định đã được khôi phục và mở rộng trở thành nhà máy dệt cỡ lớn ở Đông Nam Á lúc đó, với sản lượng vải 43,3 triệu mét năm 1959 (gấp 2 lần năm 1939). Sau đó, nhờ xây dựng thêm Nhà máy Dệt Hà Nội, sản lượng vải của miền Bắc đã nâng từ 19,5 triệu mét năm 1957 lên 76 triệu mét năm 1960. Ngoài ra, đã xây dựng các nhà máy Bao tải Hà Nội, Dệt kim Đông Xuân, khôi phục và mở rộng Nhà máy Len Hải Phòng.

Ngành Thực phẩm

Cùng với khôi phục Nhà máy Bia - Rượu Hà Nội, đã hoàn thành việc xây dựng các nhà máy chè, cá hộp, thuốc lá, đường, các xưởng mì chính, hoa quả hộp, xưởng giết mổ lợn cơ khí hóa, cơ sở xay xát phục vụ cho nội địa và xuất khẩu. Nhà máy Đường hiện đại Vạn Điểm (Hà Tây) được khởi công và hoàn thành vào năm 1961. Ngoài ra, còn phát triển các cơ sở sản xuất nước mắm, cá khô, bánh mứt kẹo, đường mật... sản xuất theo phương pháp thủ công. Sản lượng một số sản phẩm thực phẩm trong thời kỳ 1957 - 1960 tăng như sau: đường kính từ 300 tấn lên 4.000 tấn, nước mắm từ 20,8 triệu lít lên 29,6 triệu lít, thuốc lá từ 30,4 triệu bao lên 81,6 triệu bao...

Ngành Tạp phẩm

Cộng hòa Dân chủ Đức giúp xây dựng nhà máy thủy tinh hiện đại ở Hải Phòng. Trung Quốc giúp xây dựng Nhà máy Sứ Hải Dương và Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông. Khôi phục và trang bị hiện đại cho Nhà máy Giấy Hoàng Văn Thụ, xây dựng thêm Nhà máy Giấy Việt Trì có công suất 2 vạn tấn/năm, nhờ thế, đáp ứng phần lớn nhu cầu giấy viết và giấy in. Cộng hòa Dân chủ Đức còn giúp xây dựng Nhà máy In Tiến Bộ với trang thiết bị hiện đại, có thể in các văn hóa phẩm đạt trình độ mỹ thuật cao. Năm 1960, khánh thành Nhà máy Nhựa Thiếu niên Tiền phong ở Hải Phòng.

Nhờ những cố gắng trên, sản xuất trong nước đã đáp ứng hầu hết nhu cầu của nhân dân về các hàng hóa tiêu dùng thông thường. Sản lượng một số sản phẩm chủ yếu vào năm 1960: giấy: 4.600 tấn, đồ thủy tinh: 46,5 tấn, đồ sắt tráng men: 1.291 tấn, bút máy và bút chì các loại: 11,8 triệu chiếc, thuốc đánh răng: 1,6 triệu ống...

Nhà máy 9 lần được đón Bác về thăm

Ngày mùng Một Tết Mậu Tuất (18/02/1958), lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và chúc Tết Nhà máy Cơ khí Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần khuyên bảo: “Công nhân phải thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm, lấy kế hoạch sản xuất đã giao làm mức phấn đấu”.

Ngày 30/8/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nhà máy lần thứ 2, Chủ tịch Hồ Chí Minh thẳng thắn phê bình: Kế hoạch đề ra 2 phần mà làm không đầy một nửa. Ngay sau đó, cán bộ, công nhân phát động thi đua làm theo lời Bác trong toàn nhà máy.

Ngày 25/12/1958, Nhà máy được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm lần thứ 3. Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi Nhà máy đạt được những tiến bộ đáng kể. Chủ tịch Hồ Chí Minh giao trách nhiệm cho cán bộ và công nhân phải làm cho Nhà máy trở thành một nhà máy kiểu mẫu.

Ngày 24/3/1959, Nhà máy đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm cùng Tổng thống Ấn Độ Rajendra Prasad. Lần về thăm thứ 4 này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trồng cây vú sữa tại Nhà máy.

Ngày 27/6/1959, lần thứ 5 Nhà máy đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm cùng với Tổng thống Inđônêxia, Ngài Sukarno.

Ngày 17/01/1960, lần thứ 6 Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nhà máy. Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thăm nhà ăn tập thể, khu tập thể. Cán bộ, công nhân Nhà máy vô cùng xúc động trước sự quan tâm của Người.

Ngày 02/02/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng ông bà luật sư Loseby và con gái đến thăm Nhà máy lần thứ 7. Chủ tịch Hồ Chí Minh khen Nhà máy hoàn thành tốt kế hoạch năm 1959; và đặc biệt quan tâm đến công tác quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê bình việc quản lý vật tư chưa tốt, còn để lãng phí.

Tối 20/10/1960, cán bộ, công nhân Nhà máy đến dự khai giảng lớp học bổ túc văn hóa mới. Trong đêm khai giảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh xuống hội trường và gửi lại 10 huy hiệu để tặng cho những người có thành tích học tập tốt nhất.

Ngày 12/3/1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nhà máy lần thứ 9 cùng với vua Lào Sisavang Vatthana và nói chuyện với cán bộ, công nhân tại phân xưởng Cơ điện.

Như vậy, trong vòng 5 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm nhà máy 9 lần, thể hiện sự quan tâm to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với “cánh chim đầu đàn” của ngành Cơ khí Việt Nam.

Nguồn: Theo Cổng thông tin điện tử quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

đ) Tổ chức và quản lý công nghiệp

Bước sang giai đoạn mới, vấn đề cải tiến quản lý đã trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chỉ đạo công nghiệp.

Từ tháng 10/1957, Bộ Chính trị đã thông qua chế độ quản lý “thủ trưởng phụ trách quản lý xí nghiệp dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy xí nghiệp, công nhân tham gia quản lý”12. Sang tháng 10/1958, Bộ Chính trị chủ trương mở rộng cuộc vận động cải tiến quản lý, nhằm áp dụng đầy đủ chế độ quản lý này trong xí nghiệp quốc doanh. Chế độ quản lý mới dựa trên nguyên tắc kết hợp lãnh đạo tập trung với mở rộng dân chủ, kết hợp công tác lãnh đạo chính trị, tư tưởng với kinh tế, kết hợp tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách, nhằm khắc phục những hạn chế của chế độ quản lý “một thủ trưởng” trước đây.

Trong tình hình mới, chế độ hạch toán kinh tế được coi như phương pháp quản lý xã hội chủ nghĩa, với những nội dung chính sau:

- Nhà nước quản lý kế hoạch toàn diện đối với xí nghiệp trên cơ sở quy định các nhiệm vụ - chỉ tiêu về sản lượng, chất lượng và mặt hàng, về tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm, về trách nhiệm tài chính của xí nghiệp với ngân sách;

- Xí nghiệp được sử dụng vốn Nhà nước giao (có vốn cố định và vốn lưu động) để tổ chức sản xuất theo kế hoạch, được ủy quyền thực hiện chế độ kế toán độc lập, được quyết định chi tiêu về sản xuất và tuyển mộ công nhân viên, được vay tiền, gửi tiền và kết toán mọi khoản vãng lai qua ngân hàng, đồng thời phải chịu trách nhiệm về lỗ lãi;

- Xí nghiệp cũng được ủy quyền tiêu thụ sản phẩm và mua nguyên vật liệu thông qua hợp đồng ký kết với các đơn vị kinh tế quốc doanh khác, trên cơ sở kế hoạch cân đối vật tư của Nhà nước, được trích tỷ lệ phần trăm lợi nhuận kế hoạch và lợi nhuận vượt kế hoạch để lập quỹ tiền thưởng xí nghiệp, nhằm cải thiện đời sống và điều kiện làm việc cho người lao động xí nghiệp.

Năm 1958, chế độ quản lý theo nguyên tắc hạch toán kinh tế đã được phổ biến và áp dụng rộng rãi trong công nghiệp. Để áp dụng chế độ hạch toán kinh tế, đòi hỏi phải kiện toàn các mặt quản lý kế hoạch sản xuất, lao động, vật tư, tiền vốn, giá thành và các chế độ thống kê, kế toán...

Trước hết, tiến hành kiểm kê tài sản và xét định vốn của các xí nghiệp quốc doanh và thành lập Ủy ban Kiểm kê toàn quốc (theo Quyết định số 141-TTg ngày 08/4/1957 của Thủ tướng Chính phủ) từ quý II/1957 và hoàn thành vào quý III/1959. Công tác này đã giúp Nhà nước nắm được số lượng và chất lượng, tình trạng hao mòn và xác định tỷ lệ khấu hao hợp lý đối với số vốn cố định và vốn lưu động cần thiết cho xí nghiệp. Qua việc kiểm kê 95 xí nghiệp quốc doanh (14 xí nghiệp công nghiệp nặng và 26 xí nghiệp công nghiệp nhẹ) so với định mức, đã phát hiện sự chênh lệch đáng kể: tài sản cố định vượt 272% và tài sản lưu động vượt 94%. Năm 1959, đã mở cuộc vận động sử dụng tiết kiệm và hiệu quả vốn “tiền ít mà làm được nhiều việc tốt”, “tăng sản lượng mà không tăng vốn”. Theo báo cáo tổng kết cuộc vận động này, nhờ tăng tốc độ quay vòng vốn, năm 1959 đã tiết kiệm 3,5 triệu đồng và năm 1960 tiết kiệm 2,5 triệu đồng; nhờ đó, sản lượng công nghiệp năm 1960 so với năm 1959 bằng 127%, nhưng vốn lưu động định mức chỉ bằng 112%. Ngoài ra, trong 3 năm 1957 - 1959 ở 24 xí nghiệp công nghiệp đã huy động vào sản xuất số lượng tài sản nhàn rỗi là: 21.967.921 đồng vốn cố định và 30.977.934 đồng vốn lưu động.

Một trong những cơ sở lập kế hoạch của xí nghiệp là phải xây dựng và kiện toàn các chỉ tiêu định mức kinh tế - kỹ thuật tiên tiến. Bộ Công nghiệp đã chỉ đạo công tác này từ tháng 10/1959 ở Nhà máy Bia Hà Nội, sau đó mở Hội nghị tiêu chuẩn vào tháng 4/1960, cuối năm 1960 căn bản hoàn thành cùng với việc mở rộng hạch toán đến phân xưởng. Nhiều nhà máy đã tăng được một số chỉ tiêu năng suất và sản lượng: Nhà máy Chè Phú Thọ tăng công suất thiết bị 20%, Nhà máy Cơ khí Hòn Gai tăng công suất sửa chữa ôtô 30%, Nhà máy Ngói ximăng tăng mức sản xuất từ 270 tấn/ngày lên 370 tấn/ngày,...

Ngay từ năm 1957, Nhà nước ban hành Chế độ kế toán công nghiệp và thi hành Điều lệ tạm thời về chế độ báo cáo quyết toán của xí nghiệp quốc doanh. Đến tháng 10/1958, Hội đồng Chính phủ có quyết định về việc đơn giản hóa các thể lệ kế toán bằng cách thống nhất chế độ chứng từ, biểu mẫu, cải tiến chế độ tài khoản cho phù hợp với từng ngành, sử dụng hình thức lịch nhật ký, giảm thiểu số lượng tài khoản chi tiết. Ngày 16/9/1960, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 43/CP ban hành Điều lệ tạm thời về việc lập kế hoạch hạch toán và thống kê giá thành và phí lưu thông hàng hóa, nhằm tăng cường công tác quản lý tài chính.

Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và các cơ quan nhà nước (Nghị định số 004/TTg ngày 04/01/1960) để tăng cường liên doanh, liên kết và nâng cao trách nhiệm hợp đồng kinh tế, nhằm thúc đẩy hoàn thành kế hoạch nhà nước. Đồng thời, thành lập Hội đồng trọng tài các cấp để xử lý các tranh chấp vi phạm hợp đồng.

Để phát huy vai trò tích cực phát triển sản xuất và cải thiện đời sống của người lao động, Chính phủ ban hành và bổ sung chế độ trích lập quỹ tiền thưởng xí nghiệp áp dụng trong các xí nghiệp hạch toán kinh tế. Nguồn trích lập quỹ được lấy từ một phần lợi nhuận kế hoạch và lợi nhuận vượt kế hoạch hằng năm (với xí nghiệp có kế hoạch lỗ cũng được trích quỹ, nếu hoàn thành tốt kế hoạch này).

Như vậy, việc áp dụng chế độ hạch toán kinh tế và các quy chế, chính sách ban hành kèm theo trong thời kỳ 1958 - 1960 đã xác lập những nguyên tắc căn bản và nội dung chủ yếu của quản lý xã hội chủ nghĩa trong công nghiệp cũng như trong nền kinh tế nói chung: quản lý kế hoạch hóa tập trung. Chế độ quản lý này sẽ được tiếp tục hoàn thiện, củng cố trong các giai đoạn sau như là công cụ quan trọng thực hiện đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

bộ đội Hòn Gai

Bộ đội vào tiếp quản thị xã Hòn Gai, tháng 4/1955 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Phong trào lao động xã hội chủ nghĩa ở vùng Mỏ

Để phấn đấu hoàn thành kế hoạch 3 năm khôi phục kinh tế, Nghị quyết Trung ương 14 khóa II (tháng 11/1958) đã nêu rõ: “Vấn đề quan trọng nhất là phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa xã hội, phát động tư tưởng và nâng cao ý thức người chủ của công nhân, nâng cao tinh thần trách nhiệm và sửa chữa tác phong của cán bộ, thực hiện chế độ công nhân tham gia quản lý xí nghiệp, cán bộ tham gia lao động sản xuất; và dựa vào mối quan hệ thống nhất giữa lãnh đạo và quần chúng mà phát huy tính tích cực, sáng tạo của công nhân, cải tiến các chế độ tổ chức và hành chính, quản lý kỹ thuật, quản lý vật tư, quản lý lao động và tiền lương..., làm cho xí nghiệp theo đúng nền nếp quản lý xã hội chủ nghĩa, sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ. Cần phải nâng cao vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng ở các xí nghiệp, đồng thời kiện toàn chế độ phụ trách của giám đốc xí nghiệp theo nguyên tắc “giám đốc phụ trách quản lý xí nghiệp dưới sự lãnh đạo tập thể của đảng ủy””13. Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Ban Thường vụ Khu ủy Hồng Quảng đã tổ chức thí điểm ở Công trường Vàng Danh A, Hà Tu.

Tiếp theo Công trường Vàng Danh A, toàn bộ vùng Mỏ đã sôi nổi tham gia học tập quản lý xí nghiệp. Các tổ sản xuất được tổ chức theo nguyên tắc: Dây chuyền hoàn chỉnh, theo nghề nghiệp, theo thiết bị. Công nhân được tham gia các công tác quản lý như quản lý kế hoạch, quản lý kỹ thuật, quản lý vật tư, quản lý kinh tế và quản lý lao động... Các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật và định mức sản xuất đã được xây dựng. Các tư tưởng tiên tiến, tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa đã chiến thắng những tư tưởng bảo thủ, ngại khó, tự ti, bản vị và cục bộ.

Năng suất lao động tăng dần, chất lượng sản phẩm tốt hơn và tiết kiệm nhiều hơn, vì vậy trong những năm khôi phục sản xuất đã đạt sản lượng cao hơn năm 1939 - năm cao nhất trong hơn 70 năm khai thác thuộc địa của người Pháp.

Nguồn: Website của Công ty cổ phần Than Hà Tu - Vinacomin.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.20, tr.401.

2, 3. Xem Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, Tập III: 1955 - 1975, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006, tr.208-209, 209.

4. Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.46.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.18, tr.265.

6. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Nghi-quyet-tinh-hinh-nhiem-vuva-ke-hoach-3-nam-1958-1960-phat-trien-va-cai-tao-kinh-te-phat-trien-van-hoa-36844.aspx.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.390.

8. Xem Tổng cục Thống kê: Số liệu thống kê (3 năm cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1961, tr.151.

9. Xem Bộ Công Thương: Sơ lược Lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.117.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.819.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.835.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.185.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.19, tr.481-482.

III. THƯƠNG MẠI

thu mua thóc

Mỗi ngày, trạm thu mua của hợp tác xã mua bán huyện Thanh Trì thu mua của nông dân khoảng 10 tấn thóc (tháng 12/1958) (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

thu mua bông

Cửa hàng Bách hóa huyện Quỳnh Côi (Thái Bình) thu mua bông của nông dân, năm 1956 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Danh mục

Tùy chỉnh