CHƯƠNG IV: CÔNG NGHIỆP - THƯƠNG MẠI VỚI HAI NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC: XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA HỘI MIỀN BẮC CHI VIỆN CHO MIỀN NAM (1965 - 1975)

công nhân dệt Công nhân Nhà máy Liên hiệp Dệt Nam Định vừa sản xuất, vừa đeo súng sẵn sàng chiến đấu (Ảnh: Thông tấn Việt Nam) công nhân Supe

Các cán bộ, công nhân viên Nhà máy Supe Phốtphát Lâm Thao điều chế phân bón qua hệ thống cánh khuấy chạy điện (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

lốp xe đạp

Những chiếc lốp xe đạp vừa được tháo ra từ khuôn hấp của dây chuyền sản xuất mới của Nhà máy Cao su Sao Vàng Nội, tháng 10/1974 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

CHƯƠNG IV: CÔNG NGHIỆP - THƯƠNG MẠI VỚI HAI NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC: XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA HỘI MIỀN BẮC CHI VIỆN CHO MIỀN NAM (1965 - 1975)

công nhân dệt Công nhân Nhà máy Liên hiệp Dệt Nam Định vừa sản xuất, vừa đeo súng sẵn sàng chiến đấu (Ảnh: Thông tấn Việt Nam) công nhân Supe

Các cán bộ, công nhân viên Nhà máy Supe Phốtphát Lâm Thao điều chế phân bón qua hệ thống cánh khuấy chạy điện (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

lốp xe đạp

Những chiếc lốp xe đạp vừa được tháo ra từ khuôn hấp của dây chuyền sản xuất mới của Nhà máy Cao su Sao Vàng Nội, tháng 10/1974 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

2. Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965)

a) Nội thương

Căn cứ vào đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, Trung ương nhận định nhiệm vụ đặt ra trong kế hoạch 5 năm là: “Chuyển trọng tâm vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”1.

Phục vụ sự nghiệp “xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”, ngành Nội thương được giao nhiệm vụ tăng cường nguồn lực của thương nghiệp quốc doanh, thu mua và cấp phát đảm bảo nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế. Phương thức thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là, Nhà nước nắm toàn bộ lương thực hàng hóa và đại bộ phận các nông sản hàng hóa khác, quản lý chặt chẽ việc mua bán, định rõ nghĩa vụ cho nông dân bán thóc và các nông sản khác cho Nhà nước và thực hiện chế độ hợp đồng thu mua giữa các cơ quan thu mua của Nhà nước và các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Đối với hàng công nghiệp, thực hiện chế độ hợp đồng bán nguyên liệu và đặt mua sản phẩm, bảo đảm thu mua và tiêu thụ toàn bộ sản phẩm của công nghiệp quốc doanh và của các xí nghiệp công tư hợp doanh; và thu mua phần lớn các hàng thủ công nghiệp có phẩm chất nhất định. Trong việc thực hiện chế độ hợp đồng thu mua, đối với hàng nông sản cũng như hàng công nghiệp, hết sức khuyến khích cải tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất, trên cơ sở đó bảo đảm vững chắc lực lượng vật tư của Nhà nước.

Về mặt tiêu thụ, quy định các chính sách cần thiết, bảo đảm nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, đồng thời hướng dẫn nhân dân tiết kiệm tiêu dùng. Đối với hàng thiết yếu, những loại hàng mà yêu cầu tiêu thụ nhiều nhưng khả năng cung cấp có hạn, thì cần tổ chức cung cấp có kế hoạch để giữ vững cung và cầu.

Như vậy, tư tưởng “Nhà nước phải lo cho dân” được thể hiện mạnh mẽ nhất trong giai đoạn này; và bắt đầu bước vào mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung điển hình, thông qua việc tập trung nguồn lực vào cơ sở kinh doanh nhà nước, định hình mô thức thu mua - cấp phát trong hệ thống thương nghiệp.

Mặt trận chính của hoạt động thương mại giai đoạn này là thu mua nắm hàng công nghiệp, lương thực, thực phẩm và các hàng nông sản khác. Bằng nhiều biện pháp thu mua thiết thực và hiệu quả, tổng giá trị hàng hóa trong nước do ngành Thương mại thu mua không ngừng tăng lên qua các năm. Năm 1965, tổng giá trị thu mua bằng 159,1% năm 1960; trong đó, trị giá về lương thực bằng 139,6%; thực phẩm và hàng nông sản khác bằng 196,75%. Khối lượng hàng công nghiệp thu mua được cũng tăng lên đáng kể qua các năm; năm 1965 bằng 156,3% năm 1960. Mức độ lưu chuyển hàng hóa bán lẻ trong 5 năm đã tăng bình quân hằng năm 7,1%, vượt mức kế hoạch Nhà nước đề ra.

Lưu thông hàng hóa trong nước ngày càng nhanh, tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội tăng 51,2%, trong đó lương thực tăng 46%, vải các loại tăng 51%. Khối lượng sản phẩm của các ngành sản xuất đã được ngành Thương mại quốc doanh tiêu thụ tăng 57,4%, các thành phần kinh tế khác trong ngành Thương nghiệp tăng 23,2% và chiếm 18% thu nhập quốc dân. Thương nghiệp nội địa đã bảo đảm được 75 - 76% nhu cầu mua sắm của gia đình công nhân, viên chức.

Mạng lưới thương nghiệp nội địa bao gồm các cửa hàng, kho trạm cùng các trang thiết bị thương nghiệp và sự phân bố hợp lý mạng lưới giữa các khu vực, các ngành hàng và các khâu kinh doanh đã được tăng cường đáng kể trong kế hoạch 5 năm, điều đó đã làm tăng thêm năng lực tổ chức lưu chuyển hàng hóa và chỉ đạo toàn bộ hoạt động của thị trường.

Tuy nhiên, tình hình có những diễn biến phức tạp: Sản xuất lương thực giảm sút do thiên tai trong khi dân số mỗi năm tăng thêm 0,5 triệu người; dân số phi nông nghiệp tăng với việc tập trung nhiều lao động tại thành thị, khu công nghiệp, các công trường xây dựng lớn; và nhu cầu chi viện cho miền Nam. Đồng thời, có những khó khăn trong cân đối tiền hàng do nhu cầu đầu tư xây dựng những công trình quy mô lớn, như Gang thép Thái Nguyên, Thủy điện Thác Bà, Nhiệt điện Uông Bí, Phân đạm Hà Bắc, Khu công nghiệp Việt Trì,...

Với chức năng phục vụ sản xuất và tiêu dùng, mặc dù ngành Thương mại tích cực tổ chức thu mua hàng hóa, nhập khẩu theo các hình thức viện trợ, vay nợ, và trao đổi mậu dịch nhưng có những lúc không đủ để cung cấp cho xã hội nên xuất hiện “chế độ tem, phiếu”. Tem phiếu - một sản phẩm chính sách đặc trưng của tình trạng cung không đáp ứng đủ nhu cầu.

Tháng 01/1955, các cửa hàng lương thực ở Hà Nội quyết định bán gạo theo phiếu. Từ tháng 3/1955, Hà Nội cấp phiếu gạo chính thức cho người dân. Đây là chế độ tem phiếu không phải do thiếu hụt nguồn cung, mà để ứng phó với hoạt động đầu cơ gạo nhất thời lúc đó; nhưng nó “gợi ý” cho chế độ tem phiếu sau này. Trước năm 1960, trừ mặt hàng gạo có lúc dùng tem phiếu, còn gần như các mặt hàng đều theo chế độ bán lẻ thông thường. Đến năm 1963, áp lực dân số tăng mỗi năm khoảng nửa triệu người, cùng với việc công nghiệp hóa khiến lực lượng lao động từ nông thôn ra các xí nghiệp, khu công nghiệp làm ngày càng nhiều, thương nghiệp buộc phải thực hiện cung cấp lương thực bằng “sổ gạo”. Với tư tưởng “Nhà nước phải lo cho dân”, danh sách các mặt hàng sử dụng tem phiếu liên tục được bổ sung. Từ vải, cá, trứng, nước mắm đến thịt, đường, sữa, quần áo, chất đốt... Chế độ tem phiếu nhằm mục đích cung cấp một cách hạn chế theo định lượng. Ví dụ, nhân viên hành chính sự nghiệp 13 kg gạo/người/tháng; công nhân sản xuất 15 kg gạo/người/tháng; công nhân, viên chức 5 m vải/người/ năm; nhân dân thành thị 4 m vải/người/năm...

Thực tế, không phải việc cung cấp này lúc nào cũng đảm bảo, do sản xuất trong nước còn hạn chế, việc nhập khẩu từ các nước xã hội chủ nghĩa cũng không suôn sẻ: “Cuối năm 1963, Chính phủ đề nghị các nước bạn cung cấp cho ta 12.000 tấn bông, nhưng Trung Quốc chỉ nhận cung cấp 7.000 tấn, Liên Xô do bị mất mùa bông nên không nhận cung cấp cho Việt Nam. Về phân bón, Liên Xô nhận cung cấp 20.000 tấn, nhưng chúng ta chỉ được 7.000 tấn; Chính phủ ta đề nghị Triều Tiên bán cho Việt Nam 40.000 tấn phân bón, nhưng Triều Tiên trả lời “đó là vấn đề rất khó”2.

Định lượng (vốn đã hạn chế) nhu yếu phẩm theo tem phiếu cung cấp cho cán bộ, công nhân, nhân dân cũng gặp phải những khó khăn tương tự. “Sau khi nghe Tổng cục Lương thực báo cáo về tình hình thiếu hụt lương thực năm 1962, Hội đồng Chính phủ đã quyết định lấy 16.000 tấn thóc dự trữ để giải quyết tình hình thiếu đói, rồi sẽ lấy thóc chiêm bù lại, đồng thời rút tiêu chuẩn lương thực của cán bộ, công nhân viên trong 3 tháng hè bình quân 0,5 kg/người/tháng”3. Tình trạng Nhà nước “nợ” nhân dân không hiếm; hoặc nhân dân bị buộc phải chuyển đổi, thay vì 1 lạng thịt sẽ được nhận 5 bìa đậu phụ, hoặc 3 lạng cá khô; phiếu vải, nếu không có vải, có thể được mua phụ tùng xe đạp, phiếu lương thực có thể chuyển thành đường sữa...

Chuyện Nông trường giao nộp sản phẩm

Từ năm 1956, hằng năm, trong kế hoạch nhà nước vẫn có ghi chỉ tiêu sản phẩm do nông trường sản xuất và giao nộp cho Nhà nước. Nhưng một mặt, do số nông trường còn ít, quy mô còn nhỏ, sản phẩm làm ra chưa nhiều, nhiều khi thu hoạch không đạt kế hoạch; mặt khác do việc giao nộp sản phẩm của nông trường chưa được quy định thành chế độ rõ ràng, nên phần đông cán bộ và công nhân viên nông trường chưa nhận thức đầy đủ nông trường là một xí nghiệp quốc doanh, sản xuất và hưởng thụ theo chế độ quốc doanh và có trách nhiệm phải ra sức phát triển sản xuất để cung cấp sản phẩm ngày một nhiều hơn cho Nhà nước.

Một số không ít còn quan niệm sản phẩm làm ra, nông trường có quyền tiêu thụ hoặc tự ý bán cho các cơ quan, đơn vị khác, khi nào thừa mới giao cho Nhà nước, giao hay không giao cũng được. Hơn nữa, việc phân phối sản phẩm của nông trường cho các ngành tiêu thụ chưa theo một kế hoạch nhất định do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước phối hợp với các Bộ có liên quan xây dựng thống nhất và theo một chính sách giá cả cụ thể, rõ ràng.

Do đó, ngày 30/8/1961 Phủ Thủ tướng đã ban hành Thông tư số 348/TTg quy định chế độ nông trường quốc doanh giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Thông tư quy định các nông trường quốc doanh là những đơn vị xí nghiệp của Nhà nước, quản lý theo chế độ kinh tế hạch toán, được Nhà nước cấp vốn để sản xuất theo kế hoạch của Nhà nước. Toàn bộ sản phẩm của nông trường làm ra thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, do Nhà nước phân phối theo kế hoạch. Nông trường có trách nhiệm giao nộp sản phẩm cho Nhà nước theo số lượng đã quy định, và cho các cơ quan, đơn vị được phân phối, theo giá cả điều động nội bộ và Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã công bố. Quan hệ giữa các nông trường và các cơ quan tiêu thụ giải quyết theo chế độ hợp đồng kinh tế do Chính phủ quy định.

Các ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh chỉ được nhận sản phẩm của các nông trường khi được trung ương phân phối, không được tự điều động hoặc giữ sản phẩm ngay của nông trường cho địa phương mình.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng công nhận sản phẩm do công đoàn đứng ra tổ chức cho cán bộ và công nhân viên tranh thủ giờ rỗi hoặc trong ngày nghỉ để sản xuất tập thể thêm, hoặc do cá nhân nông trường viên làm ra để cải thiện sinh hoạt, thuộc quyền công đoàn hoặc nông trường viên tự do sử dụng, không phải giao nộp cho Nhà nước. Nhưng nếu sản xuất được nhiều, tiêu dùng không hết, thì nên bán cho các cơ quan nhà nước theo giá có khuyến khích.

Việc phân phối sản phẩm của các nông trường quốc doanh căn cứ theo những nguyên tắc sau đây:

- Chỉ tiêu kế hoạch phân phối sản phẩm gắn liền với kế hoạch sản xuất hằng năm, hằng quý của nông trường. Bộ Nông trường quốc doanh căn cứ vào chỉ tiêu chung đã ghi trong kế hoạch nhà nước để giao chỉ tiêu cụ thể cho từng nông trường và quyết định điều chỉnh nếu xét cần nhưng phải đảm bảo chỉ tiêu chung. Đối với những sản phẩm chủ yếu, việc điều chỉnh kế hoạch sản xuất và phân phối phải được Ủy ban Kế hoạch Nhà nước thẩm tra lại và trình Hội đồng Chính phủ quyết định.

- Trong kế hoạch phân phối sản phẩm, phải ghi rõ đối với từng loại sản phẩm:

a) Phần nào nông trường được giữ lại để dùng vào việc tái sản xuất (như để giống, thức ăn chăn nuôi,...), để chế biến tại chỗ (ví dụ: khoai, sắn để làm ra khoai, sắn khô; bột, hạt để ép dầu; sữa để làm sữa hộp, mía để ép đường,...) hoặc để cung cấp cho nhu cầu đời sống hằng ngày của cán bộ, công nhân viên nông trường theo chế độ và tiêu chuẩn cung cấp do Nhà nước quy định (như đối với lương thực, thực phẩm).

b) Phần nào nông trường giao nộp cho Nhà nước để điều đi cho các ngành khác và các nông trường khác dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Căn cứ chỉ tiêu phân phối của Nhà nước, Bộ Nông trường quốc doanh ký những hợp đồng nguyên tắc với các Bộ có liên quan để làm cơ sở cho các nông trường trực tiếp ký hợp đồng cụ thể với các đơn vị xí nghiệp tiêu thụ (mậu dịch nội địa, tổng công ty xuất, nhập khẩu, nhà máy), không cần qua khâu trung gian và hai bên hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành hợp đồng đã ký theo đúng chế độ hợp đồng đã ban hành.

- Các nông trường quốc doanh giao dịch với nhau cũng theo chế độ hợp đồng và căn cứ kế hoạch phân phối của Bộ Nông trường. Trường hợp nông trường sản xuất hoặc thu hoạch vượt mức kế hoạch, các ngành tiêu thụ (gồm mậu dịch quốc doanh và các tổng công ty xuất, nhập khẩu) có trách nhiệm bảo đảm tiêu thụ sản phẩm cho nông trường để phục vụ sản xuất phát triển. Trường hợp gặp khó khăn trong sản xuất, thu hoạch hụt mức kế hoạch được Bộ Nông trường công nhận, nông trường có thể đề nghị các cơ quan tiêu thụ điều chỉnh hợp đồng, nhưng phải báo trước kịp thời để các cơ quan trên khỏi bị động.

- Đối với một số sản phẩm phụ sản xuất ngoài kế hoạch nông trường tiêu dùng không hết và không điều đi xa được (ví dụ rau tươi), nông trường có thể tổ chức tiêu thụ tại thị trường địa phương, bán cho các cơ quan, đơn vị và các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp ở chung quanh, nói chung theo giá cả quy định của Nhà nước, vì nông trường không thể chạy theo giá cả của thị trường tự do.

b) Ngoại thương

Cũng nhằm phục vụ sự nghiệp “xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”, Ngoại thương được giao nhiệm vụ đẩy mạnh xuất khẩu; phối hợp chặt chẽ với các ngành công nghiệp, nông nghiệp, nội thương... và các địa phương để mở rộng khối lượng hàng hóa trao đổi với nước ngoài, nhất là khối các nước xã hội chủ nghĩa.

Đồng thời, tham mưu cho Đảng, Nhà nước giải quyết đúng đắn quan hệ giữa tiêu thụ trong nước và ngoài nước, tiết kiệm tiêu dùng đúng mức những thứ có thể và cần phải tiết kiệm. Về mặt nhập khẩu, trên tinh thần hết sức tiết kiệm ngoại hối, phối hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan để bảo đảm cung cấp kịp thời, đúng quy cách phẩm chất các loại vật tư cần thiết cho xây dựng và sản xuất.

thuyền gạo

Các thuyền đang chuyển gạo lên bến bán cho nhân dân và để bình ổn giá thị trường, năm 1955 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Về tổ chức, ngày 23/11/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 203-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Ngoại thương. Theo đó, Bộ Ngoại thương có trách nhiệm quản lý toàn bộ công tác ngoại thương theo đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ và kế hoạch ngoại thương, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển nguồn thu về ngoại hối cho Nhà nước, nhằm phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, tăng cường quan hệ giao dịch buôn bán với các nước, góp phần nâng cao địa vị của Việt Nam trên trường quốc tế. Như vậy, xét về thực chất, Bộ Nội thương và Bộ Ngoại thương tuy khác “địa bàn”, lĩnh vực nhưng cùng chung nhiệm vụ: Phục vụ sự nghiệp “xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”, ổn định và nâng cao mức sống cho người dân. Về quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu, có Vụ Xuất khẩu, Vụ Nhập khẩu thuộc Bộ Ngoại thương. Nhà nước tiến hành các hoạt động ngoại thương thông qua các tổng công ty xuất nhập khẩu ở Trung ương (thuộc Bộ Ngoại thương) và các công ty xuất nhập khẩu ở địa phương. Có 6 tổng công ty xuất nhập khẩu thuộc Bộ Ngoại thương, gồm: Tổng Công ty Xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm; Tổng Công ty Xuất nhập khẩu lâm thổ sản; Tổng Công ty Xuất nhập khẩu tạp phẩm; Tổng Công ty Xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ; Tổng Công ty Máy và phụ tùng; Tổng Công ty Xuất nhập khẩu khoáng sản. Trong lĩnh vực thu mua hàng xuất khẩu, Nhà nước trực tiếp thu mua, trực tiếp định giá cho từng mặt hàng, trực tiếp định ra khối lượng hàng hóa và phân bổ chỉ tiêu xuất khẩu cho từng địa phương, từng xí nghiệp. Hằng năm, Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch về cho các tỉnh và tổng công ty ở trung ương, sau đó tỉnh và tổng công ty lại giao chỉ tiêu kế hoạch về cho các công ty ở địa phương.

Trong lĩnh vực phân phối hàng nhập khẩu, Bộ Ngoại thương phân bổ theo kế hoạch của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Các mặt hàng nhập khẩu bán theo giá quy định của Nhà nước cho những địa chỉ được quy định trong kế hoạch.

Theo thống kê, cán cân xuất, nhập khẩu giai đoạn này tiếp tục nhập siêu. Năm 1962, xuất khẩu 81 triệu rúp-USD, thâm hụt 54 triệu rúp-USD; năm 1964, xuất khẩu 97 triệu rúp USD, thâm hụt 40 triệu rúp-USD4. Năm 1965, xuất khẩu hàng công nghiệp chiếm 62,7%; hàng thủ công nghiệp chiếm 23,3%; hàng nông sản chưa chế biến chiếm 14%. Hàng nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất, bao gồm: thiết bị toàn bộ, nguyên liệu, nhiên liệu và vật liệu thường chiếm gần 80%. Qua việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ, miền Bắc đã cải tạo và xây dựng mới nhiều công trình quan trọng thuộc các ngành Năng lượng, Chế tạo máy, Hóa chất, Khai khoáng,...

đồ da

Sản phẩm đồ da và các loại da hàng Việt Nam tại Hội chợ Budapest - Hunggari năm 1956 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Hoạt động ngoại thương ngày càng được mở rộng. Nếu năm 1955 có 10 nước (trong đó có 7 nước xã hội chủ nghĩa) quan hệ buôn bán, trao đổi với miền Bắc, thì đến năm 1965 đã có 35 nước, trong đó có 12 nước xã hội chủ nghĩa5.

*****

Trong chặng đường 10 năm đầu tiên xây dựng nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa (1955 - 1965), ngành Công Thương đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa; củng cố nền kinh tế miền Bắc về mọi mặt, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.

Các ngành công nghiệp nặng đã có những cơ sở đầu tiên đi vào sản xuất và xây dựng, công nghiệp nhẹ và công nghiệp địa phương có bước phát triển nhanh chóng. Sản xuất công nghiệp đã giải quyết được một phần trang thiết bị kỹ thuật; cung cấp một số tư liệu sản xuất, nguyên vật liệu ngày càng lớn cho các ngành kinh tế quốc dân; bảo đảm được đại bộ phận hàng tiêu dùng cho đời sống nhân dân.

Đã bước đầu hình thành một cơ cấu công nghiệp theo hướng hiện đại, tự chủ; có sự phân công tương đối rõ nét; trong đó, công nghiệp trung ương phát triển chủ yếu về cơ khí, luyện kim, hóa chất, phân bón, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng. Công nghiệp địa phương dựa trên nguồn nguyên liệu tại chỗ để sản xuất các hàng hóa tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng thông dụng.

Trong thương mại, thành tựu quan trọng nhất là xây dựng mạng lưới thương nghiệp quốc doanh, gồm mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán rộng khắp, nắm vững nguồn hàng; phát huy vai trò đòn bẩy, phục vụ thúc đẩy khôi phục và phát triển sản xuất; làm cầu nối giữa sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Hoạt động xuất khẩu được quan tâm, góp phần tăng tích lũy cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ buôn bán với nước ngoài.

Mặc dù vậy, do xuất phát điểm ban đầu thấp, đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu và phân tán, nên sau 10 năm tích lũy xã hội chủ nghĩa, quy mô nền công nghiệp vẫn còn nhỏ bé, một số nguyên liệu quan trọng vẫn phải mua bên ngoài và một phần nhờ các nước trong khối xã hội chủ nghĩa giúp đỡ như bông, sợi, sắt thép, nhôm, xăng dầu và một số hóa chất. Hoạt động thương nghiệp chưa đủ sức cân đối cung - cầu, có những lúc không đủ để cung cấp cho xã hội, nên bắt đầu xuất hiện “chế độ tem phiếu” để cung cấp một cách hạn chế theo định lượng.

Từ năm 1960 đã ghi nhận những nỗ lực cải tiến nhằm làm cho kinh tế kế hoạch hóa vận hành trơn tru và hiệu quả hơn, như mở cuộc vận động thi đua “Hợp lý hóa sản xuất và cải tiến kỹ thuật”; triển khai cuộc vận động cải tiến quản lý “Ba xây ba chống” (với nội dung “nâng cao ý thức trách nhiệm; tăng cường quản lý kinh tế tài chính; chống tham ô, lãng phí, quan liêu”); áp dụng hạch toán tới phân xưởng và tổ sản xuất; để quần chúng tham gia xây dựng định mức, tự phấn đấu hoàn thành và vượt định mức, tham gia công tác quản lý và dân chủ hóa quản lý xí nghiệp; quy định những nguyên tắc về giá bán buôn công nghiệp, hướng dẫn cách xác định giá điều động tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng nội bộ xí nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh... nhưng nhìn chung, chưa thể tháo gỡ căn bản sự “nặng nề” trong điều hành nền kinh tế kế hoạch hóa.

Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung thường đạt kết quả khả quan nhất trong giai đoạn đầu, khi tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào lao động và vốn. Hơn nữa, nó cho phép tập trung tối đa nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhưng càng về sau, những khiếm khuyết bộc lộ thường xuyên hơn, sức mạnh ban đầu của kinh tế kế hoạch hóa sẽ giảm sút. Điều này được thể hiện rõ hơn ở giai đoạn sau (1964 - 1975).


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.841-842.

2, 3. Ban chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam (Tập 2), Sđd, tr.161, 147.

4. Bộ Thương mại: 60 năm thương mại Việt Nam (1946 - 2006), Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2006, tr.489.

5. Xem Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Trần Đức Cường (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 12 (Từ năm 1954 đến năm 1965), Sđd, tr.315.

I- BỐI CẢNH LỊCH SỬ, HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ NGÀNH CÔNG THƯƠNG

1. Chuyển hướng kinh tế miền Bắc

Sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ (tháng 8/1964), Mỹ chính thức gây ra cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc lần thứ nhất kéo dài từ ngày 07/02/1965 đến ngày 01/01/1968, lần thứ hai từ ngày 06/4/1972 đến ngày 30/12/1972.

Trong hai lần đánh phá miền Bắc, không quân và hải quân Mỹ đã ném bom, bắn phá liên tục với cường độ ngày càng tăng. Mục tiêu của các chiến dịch phá hoại đường không nhằm phá hủy hệ thống giao thông, các cơ sở công nghiệp và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam.

Để phù hợp với tình hình mới, tháng 01/1965, Hội đồng Quốc phòng đã họp, đề ra nhiệm vụ tăng cường công tác phòng thủ, trị an, sẵn sàng chiến đấu. Từ ngày 25 đến ngày 27/3/1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III họp Hội nghị lần thứ 11 (đặc biệt) về tình hình và nhiệm vụ cấp bách; quyết định chuyển hướng kinh tế miền Bắc từ thời bình sang thời chiến. Tinh thần và nội dung của sự chuyển hướng này không chỉ để phù hợp với tình hình thời chiến, mà còn nhằm “phù hợp với phương hướng về lâu dài của công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và chú ý đúng mức các yêu cầu về đời sống của nhân dân”1. Hướng phát triển công nghiệp trong giai đoạn mới là:

Thứ nhất, xây dựng nền kinh tế miền Bắc vững mạnh, trở thành hậu phương lớn, chi viện đắc lực cho chiến trường miền Nam.

Thứ hai, di chuyển nhanh chóng các cơ sở sản xuất và kho tàng về nơi sơ tán, bảo vệ an toàn xí nghiệp, duy trì sản xuất trong mọi tình huống, cải tiến công tác tổ chức sản xuất công nghiệp phù hợp với tình hình có chiến tranh, kết hợp sản xuất và chiến đấu, đảm bảo cung cấp các hàng hóa tiêu dùng thiết yếu và duy trì đời sống nhân dân không bị đảo lộn trong chiến tranh.

Thứ ba, khẩn trương xây dựng và phát triển mạng lưới công nghiệp địa phương về các vùng hậu phương trung du và miền núi, phân bố lại sản xuất công nghiệp để gắn với nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ, gắn công nghiệp với nông nghiệp và với các ngành kinh tế quốc dân khác, gắn kinh tế với quốc phòng. Mỗi vùng, miền, mỗi tỉnh có khả năng tự giải quyết phần lớn những nhu cầu ăn, mặc, ở, học, bảo vệ sức khỏe, hàng phục vụ sản xuất, hàng tiêu dùng thiết yếu. Đây cũng là động lực cho việc sáp nhập một số tỉnh, nhằm bảo đảm mỗi tỉnh có đủ cơ cấu kinh tế, điều kiện tự nhiên giải quyết những vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế, bảo vệ sản xuất của mình trong điều kiện chống chiến tranh phá hoại. Nghị quyết số 111-NQ/TW, Nghị quyết số 112-NQ/TW, Nghị quyết số 113-NQ/TW trong cùng ngày 08/4/1965 đã hợp nhất tỉnh Nam Định và Hà Nam; Thái Nguyên và Bắc Kạn; Hà Đông và Sơn Tây2.

Thứ tư, tạm dừng kiến thiết những công trình công nghiệp lớn, xây dựng những xí nghiệp cỡ vừa và cỡ nhỏ, đáp ứng yêu cầu an ninh - quốc phòng và phục vụ đời sống nhân dân.

Đây cũng là những năm tháng mà mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung và cơ chế bao cấp ngày càng bộc lộ sức ỳ của nó. Việc áp dụng kế hoạch hóa mệnh lệnh cứng nhắc trong sản xuất đã hạn chế quyền tự chủ và sự năng động của cơ sở.

Ở cấp vĩ mô, đã có những nỗ lực cải tiến mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung như kết hợp giữa chỉ tiêu hướng dẫn của Nhà nước và kế hoạch từ cơ sở, sau đó mới trở thành chỉ tiêu pháp lệnh. Tuy nhiên, đó vẫn là kế hoạch mang tính pháp lệnh, xí nghiệp muốn thay đổi vẫn phải thông qua cơ chế “xin - cho” mới được phép thay đổi. Thời kỳ xuất hiện nhiều xí nghiệp “hoàn thành kế hoạch” sau khi xin “điều chỉnh chỉ tiêu” - một hoạt động nở rộ vào quý II, quý III hằng năm.

Ở cấp vi mô, Chính phủ cho phép xí nghiệp quốc doanh tính lại giá thành hợp lý cho xí nghiệp, xác định giá bán buôn xí nghiệp, giá bán buôn công nghiệp, lãi định mức của xí nghiệp để có căn cứ phân phối lợi nhuận, nhưng chưa đủ để xí nghiệp quốc doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Bởi lẽ, giá trị vật tư mà Nhà nước “bán” cho xí nghiệp, cũng như giá mà Nhà nước “thu mua” của xí nghiệp không phản ánh quan hệ cung - cầu (mua cũng rẻ mà bán cũng rẻ) chủ yếu do Nhà nước đặt ra và quyết định.

Với những nhược điểm trên, mô hình kinh tế kế hoạch hóa đã dần dần biến thành cơ chế kế hoạch hóa hành chính tập trung; và cơ chế bao cấp đã trở thành cơ chế quan liêu, bao cấp. Đồng thời, chiến tranh đã khiến một nguồn lực lớn từ sản xuất, nhập khẩu hướng tới bảo đảm quốc phòng và các công trình phục vụ quốc phòng.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.111.

2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.140-145.

Danh mục

Tùy chỉnh