2. Phát triển cải tạo công nghiệp (1958 - 1960)

a) Chủ trương

Nhiệm vụ của kế hoạch 3 năm phát triển cải tạo kinh tế 1958 - 1960 được Chính phủ trình bày trước Quốc hội:

- Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp công nghiệp.

- Ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp công thương nghiệp bản doanh theo chủ nghĩa hội.

Báo cáo đẩy mạnh cuộc cải tạo hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp bản doanh tại Hội nghị Trung ương 16 mở rộng (tháng 4/1959) khẳng định: “Cải tạo thành phần kinh tế bản doanh một mặt trận trọng yếu gắn liền với toàn bộ nhiệm vụ cải tạo hội chủ nghĩa”1.

b) Cải tạo công nghiệp doanh

Phát triển cải tạo công nghiệp doanh được tiến hành dưới hai hình thức công hợp doanh hợp tác hóa.

Đối với hình thức công hợp doanh, Nhà nước hợp doanh với nghiệp sẵn của nhà sản; hoặc thể cho nhà sản góp vốn vào nghiệp đã công hợp doanh, cũng thể sáp nhập sở kinh doanh của nhà sản vào nghiệp công hợp doanh. Trong nghiệp công hợp doanh, việc quản sản xuất kinh doanh theo phương thức hội chủ nghĩa. Đại biểu Nhà nước công nhân viên chức kết hợp với nhau địa vị lãnh đạo, nhà sản địa vị bị lãnh đạo. Nhà sản được trả lợi tức cho phần góp vốn của mình. Đến một thời hạn nhất định, việc trả lợi tức không còn nữa nhà sản sống bằng sức lao động của mình, thì nghiệp công hợp doanh sẽ trở thành nghiệp quốc doanh hội chủ nghĩa.

Đối với hình thức hợp tác, chủ nghiệp giao liệu sản xuất cho tập thể công nhân để thành lập nghiệp hợp tác. Tài sản của họ đưa vào nghiệp hợp tác được tính giá trị thành tiền. Một phần trong số tiền đó trở thành cổ phần của chủ nghiệp cũ, được hưởng lãi theo điều lệ của nghiệp hợp tác. Số tiền còn lại không phải cổ phần cũng được hưởng một tỷ lệ lãi do tập thể viên quy định. Người chủ lao động hưởng thụ theo lao động như các viên khác.

giai đoạn khôi phục kinh tế trước đây, kinh tế nhân, thể tiểu chủ được khuyến khích tự do phát triển, thì trong giai đoạn cải tạo, các thành phần kinh tế này được cải tạo, chuyển đổi dần theo phương thức sở hữu liệu sản xuất tập thể của chủ nghĩa hội.

thuyền chuối

Thuyền chuối của Hợp tác Sông Hồng (Phú Thọ) cập bến Chí Chủ để đóng gói, bán cho trạm xuất khẩu huyện Thanh Ba (Phú Thọ), năm 1960 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Từ cuối năm 1958 cho tới giữa năm 1960, miền Bắc tiến hành nhiều đợt cải tạo. Riêng Nội, nơi tập trung phần lớn các nhà sản công - thương nghiệp, từ tháng 9/1958 đến tháng 6/1960 đã tiến hành 5 đợt cải tạo công nghiệp thủ công nghiệp, 3 đợt cải tạo ngành vận tải giới. Kết quả Nội đã đưa 499 sở sản xuất bản vào công hợp doanh, 49 sở khác vào nghiệp hợp tác, chiếm 77% tổng số sở bản doanh toàn thành phố. Tổng vốn đăng của 499 hộ công hợp doanh 13,9 triệu đồng, hằng năm trả cho các nhà sản số tiền chuộc dưới hình thức định tức đồng niên 833.036 đồng, tương đương mức lãi tiền gửi 7%/năm.

Đến cuối năm 1960, cải tạo công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp căn bản hoàn thành trên miền Bắc. Kết quả, đã chuyển 729 nghiệp bản doanh thành 661 nghiệp công hợp doanh 68 nghiệp hợp tác. 9.481 người làm thuê được chuyển thành công nhân viên các nghiệp công hợp doanh, 400 người trong số họ được đề bạt chánh phó quản đốc, trưởng phó phân xưởng. Đa số các nhà sản đã tiếp thu cải tạo, một số sản nhân yêu nước còn xin hiến tài sản, hiến cổ tức cho Chính phủ.

Bên cạnh cải tạo sản công nghiệp, Nhà nước cũng tiến hành hợp tác hóa tiểu thủ công nghiệp thể, tiểu chủ. Tính đến hết năm 1960, đã khoảng 260.000 lao động thủ công vào các hình thức sản xuất tập thể khác nhau, trong đó 137.400 người vào hợp tác 126.200 người vào tổ hợp tác, đạt 87,9% số hộ tiểu thủ công nghiệp thuộc diện cải tạo2.

Công cuộc cải tạo đã làm biến động bản các thành phần kinh tế. Trong công nghiệp, năm 1957, công nghiệp quốc doanh chiếm 60,1% toàn ngành công nghiệp, tăng lên 82,5% vào năm 1960. Trong cùng giai đoạn, hình thức công hợp doanh tăng từ 0% lên 10,4%; nghiệp hợp tác tăng từ 0% lên 7,1%; bản doanh giảm từ 39,9% xuống 0%. Trong tiểu thủ công nghiệp, thể, tiểu chủ từ 100% xuống 56%; hợp tác tăng từ 0% lên 44%3.

Trong giai đoạn này, một mặt chúng ta đã căn bản hoàn thành công cuộc xóa bỏ quan hệ sản xuất dựa trên chiếm hữu bản về liệu sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới, với hai hình thức sở hữu quốc doanh sở hữu tập thể chiếm ưu thế tuyệt đối. Mặt khác, việc nhanh chóng xóa bỏ công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của nhân, thể đã làm mất đi một nguồn lực hội đầy tiềm năng năng động, trong khi khu vực quốc doanh chưa đủ lớn mạnh để thay thế hoàn toàn.

Sau nhiều thập kỷ, với độ lùi của thời gian, chúng ta điều kiện nhìn nhận, đánh giá lại vấn đề này. “Với thực trạng kinh tế - hội như vậy, chúng ta thể duy trì phát triển kinh tế nhiều thành phần... Nhưng Chính phủ lại quyết định phải thực hiện kế hoạch ba năm phát triển cải tạo kinh tế”4.

Nhìn lại giai đoạn 1957 - 1959, tình hình diễn biến rất nhanh khá bất ngờ. Tháng 3/1957, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (mở rộng) về kế hoạch nhà nước năm 1957, khi thống nhất về nhiệm vụ phát triển công nghiệp, đã chỉ ra: “hết sức giúp đỡ thủ công nghiệp công nghiệp doanh phát triển sản xuất lợi cho kinh tế quốc dân”5. Đến Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (tháng 11/1958) lần thứ 16 mở rộng (tháng 4/1959), đều đặt nhiệm vụ trọng tâm ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp công thương nghiệp bản doanh.

Tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa I (từ ngày 09 đến ngày 14/12/1958) đã ra Nghị quyết thông qua toàn bộ kế hoạch ba năm (1958 - 1960) - Kế hoạch cải tạo hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế văn hóa. Nghị quyết của Quốc hội nhấn mạnh: “Cần phải đưa công cuộc phát triển cải tạo kinh tế, phát triển văn hóa tiến lên theo một tốc độ nhanh mạnh; căn bản hoàn thành cuộc cải tạo hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế thể thành phần kinh tế bản doanh trong thời gian từ 2 đến 3 năm tới”6.

Những diễn biến nhanh chóng trong tiếp cận vấn đề kinh tế nhân nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu trước hết những vấn đề luận thực tiễn xây dựng chủ nghĩa hội miền Bắc lúc bấy giờ, chúng ta chưa nhiều kinh nghiệm, cho nên thường chịu ảnh hưởng từ hình kinh nghiệm từ các nước hội chủ nghĩa. Từ năm 1950, Liên đã đứng đầu châu Âu đứng thứ hai thế giới về sản lượng điện. Được sự giúp đỡ của Liên Xô, các nước hội chủ nghĩa đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - hội. Năm 1955, công nghiệp Ba Lan tăng gấp 4 lần trước chiến tranh, trong đó, nhiều ngành công nghiệp mới ra đời. Năm 1956, Cộng hòa Dân chủ Đức thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai, trở thành nước đứng đầu châu Âu về sản lượng điện bình quân đầu người, đứng thứ hai thế giới về sản lượng hóa chất đầu người. Đồng thời, các nước hội chủ nghĩa Đông Âu đều hoàn thành công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp bước vào xây dựng chủ nghĩa hội với quy lớn. châu Á, năm 1957, Trung Quốc hoàn thành kế hoạch 5 năm (1953 - 1957) với nhiều kết quả mới trong phát triển kinh tế - hội. Thành tựu đó chứng minh tính ưu việt của hình hội chủ nghĩa cách thức xây dựng chủ nghĩa hội Liên cùng các nước phát triển hội chủ nghĩa đi trước thực hiện, trở thành hình mẫu cho các nước hội chủ nghĩa đi sau, trong đó Việt Nam.

Hơn nữa, một tâm sợ tụt hậu trong xây dựng chủ nghĩa hội so với các nước trong cùng hệ thống. Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Phạm Văn Đồng trình bày tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa I, ngày 09/12/1958 nhấn mạnh: Liên đang tiến những bước khổng lồ trên con đường xây dựng chủ nghĩa cộng sản, Tiệp Khắc sắp hoàn thành việc cải tạo hội chủ nghĩa, Triều Tiên Bungari căn bản hoàn thành cải tạo hội chủ nghĩa.

Một nguyên nhân nữa thuộc về khách quan. Nguyên kinh tế căn bản của C. Mác Ph. Ăngghen quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất. Trong điều kiện một nước đi sau, Việt Nam đã chủ trương “đưa việc xây dựng quan hệ sản xuất tiến lên trước để kéo lực lượng sản xuất lên theo” như một hình thử nghiệm. Thử nghiệm thì trải qua thực tiễn thời gian mới đánh giá được, nên khó tránh khỏi sai sót. Đến Đại hội VI, Đảng ta đã nhận ra vấn đề này: “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”7.

Mặc giai đoạn này chế độ sở hữu liệu sản xuất công cộng với hai hình thức quốc doanh tập thể đã được tập trung đến mức cao độ, nhưng nền kinh tế cũng chưa đi hẳn vào hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, do vẫn còn một yếu tố nữa thị trường tự do còn khá mạnh.

Nhà sản dân tộc Nguyễn Sơn

Ông Nguyễn Sơn sinh năm 1894 tại huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nay Nội). Tên Sơn tên ghép chữ đầu của quê quán nơi ông sinh ra. nhà nghèo nên từ nhỏ ông đã phải đi làm thuê kiếm sống, lưu lạc mưu sinh trưởng thành đất cảng Hải Phòng.

Khi làm nhân viên đánh máy rồi làm kế toán cho hãng sơn dầu lừng danh của Pháp Việt Nam, ông thường tranh thủ thời gian đọc thêm sách vở, tài liệu nói về kỹ thuật chế tác sơn dầu. Buổi tối, ông âm thầm làm thí nghiệm chế biến, sản xuất sơn từ kiến thức học được hãng sơn. Chỉ ít lâu sau, sản phẩm của ông đã mặt trên thị trường Việt Nam, được khách hàng người Hoa, người Việt rất ưa dùng.

Sau Cách mạng Tháng Tám, gia đình nhà sản Nguyễn Sơn đã đóng góp cho Chính phủ 105 lượng vàng cùng nhiều tài sản khác. Ông còn cho phép em rể của mình dùng tiền của ông đại sơn tại Sài Gòn tổ chức một đoàn tàu vượt biển ra Côn Đảo đón chính trị bị giam giữ trở về đất liền trước khi Pháp nổ súng gây hấn vào ngày 23/9/1945. Trong số những người được chuyến tàu đón về nhiều người sau đó trở thành lãnh đạo của cách mạng Việt Nam như Tôn Đức Thắng, Duẩn, Hoàng Quốc Việt, Phạm Hùng, Thanh Nghị.

Những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, người con trai cả của ông Nguyễn Sơn Lâm đã anh dũng hy sinh Hải Phòng. Sau đó, ông lên chiến khu Việt Bắc tham gia đóng góp công sức, trí tuệ của mình cho cách mạng. Ông giúp Cục Thông tin - Bộ Quốc phòng lúc đó làm vải nhựa cách điện với điện áp thấp, dùng cho kỹ thuật thông tin bằng cách đun nóng nhựa thông (hoặc nhựa trám) với dầu luyn rồi bôi lên vải diềm bâu. Ngoài ra, ông cũng tổ chức sản xuất giấy than, mực in lito, vải che mưa. Vải che mưa của xưởng Nguyễn Sơn chế tạo thể chống mưa, ngụy trang cũng tốt, lại thể làm chiếu nằm rất tiện cho bộ đội ta.

Tháng 10/1948 tháng 3/1949, hai lần Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen động viên ông tiếp tục thêm sáng kiến đóng góp cho kháng chiến. Ông Nguyễn Sơn từng thay mặt Quốc hội khóa I trao thanh kiếm “Mã đáo thành công” cho Đại đoàn 308 tại chiến khu Việt Bắc.

Sau hòa bình lập lại, gia đình ông trở về Hải Phòng sinh sống, tiếp tục hiến tiền bạc tài sản cho Chính phủ, với giá trị khoảng 370 cây vàng. Quãng đời còn lại, ông sống thanh bạch, giản dị dành thời gian viết sách ghi lại kỹ thuật làm sơn. Ông mất tại Hải Phòng năm 1980.

Nguồn: Website của Sơn Group Cổng thông tin Điện tử thành phố Hải Phòng.

khu Thượng Đình

Năm 1960, khu Thượng Đình đã 3 nhà máy: Cao su Sao Vàng, Thuốc Thăng Long phòng Nội (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

c) Phát triển công nghiệp quốc doanh

Với các sở công nghiệp quốc doanh quan trọng vừa được khôi phục xây dựng bước đầu đã một đội ngũ công nhân cán bộ khoa học - kỹ thuật kinh nghiệm quản tổ chức công nghiệp quốc doanh giai đoạn này nhiều thuận lợi; đồng thời, sự giúp đỡ to lớn của các nước hội chủ nghĩa về viện trợ, chuyên gia, kỹ thuật đào tạo.

Đây thời kỳ phát triển mạnh mẽ công nghiệp quốc doanh trung ương quốc doanh địa phương. trung ương, hai đặc điểm nét nhất: đó hình thành các khu công nghiệp phát triển công nghiệp nặng.

Giai đoạn 1958 - 1960, một số khu công nghiệp được xây dựng Việt Trì, Thượng Đình (Hà Nội), Thái Nguyên...

Khu Công nghiệp Việt Trì: Tháng 8/1958, Công ty Kiến trúc Việt Trì được thành lập trực thuộc Bộ Kiến trúc. Sau thời gian làm việc khẩn trương, quy hoạch tổng thể xây dựng luận chứng kinh tế - kỹ thuật về Khu Công nghiệp Việt Trì đã hoàn thành được Trung ương phê chuẩn. Ngày 28/11/1958, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Thanh Nghị phát lệnh khởi công xây dựng Khu Công nghiệp Việt Trì.

Trong quý III/1958, hơn 700 cán bộ, chiến bộ đội thuộc đoàn 305 đoàn 308 chuyển ngành cùng với hơn 100 công nhân kỹ thuật được điều về xây dựng khu công nghiệp. Đến năm 1959, tổng số cán bộ, công nhân thuộc khu công nghiệp quản lên tới trên 4.000 người. Bên cạnh đó, còn các chuyên gia Trung Quốc hướng dẫn về kỹ thuật một số chuyên gia Liên giúp xây dựng một tuốcbin nhà máy điện... Khu Công nghiệp Việt Trì được xây dựng theo kiểu tổ hợp kinh tế công nghiệp hiện đại, quy mô, tập trung khá lớn các nhà máy: điện, đường, giấy, hóa chất, miến - mỳ chính...

Việt Trì - Khu công nghiệp đầu tiên của miền Bắc hội chủ nghĩa

Tháng 11/1958, Việt Trì được Trung ương chọn làm điểm để xây dựng khu công nghiệp đầu tiên của chủ nghĩa hội miền Bắc, tạo tiền đề cho công cuộc công nghiệp hóa đất nước thúc đẩy công nghiệp địa phương phát triển. Những ngày đầu xây dựng khu công nghiệp đầy khó khăn, gian khổ, cán bộ, công nhân nhân dân Việt Trì đã lao động không biết mệt mỏi, không quản nắng mưa.

Ngày 13/4/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh về động viên phong trào. Sau khi đi thăm công trường xây dựng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi tinh thần lao động hăng say, nhiệt tình, ý thức trách nhiệm của cán bộ, công nhân khu công nghiệp. Người nói: Đây khu công nghiệp đầu tiên của nước ta. Xưa, các Vua Hùng đã chọn làm nơi đóng đô, dựng nước. Nay, ta xây dựng Đất Tổ thành một khu công nghiệp to lớn, sở của chủ nghĩa hội. Từ đây ta sẽ bắt đầu cho công cuộc xây dựng to lớn của cả đất nước. Vinh dự này thuộc về các cô, các chú đang xây dựng Đất Tổ... Bác mong các cô, các chú cùng thi đua xây dựng sao cho các nhà máy được ra đời để hoạt động càng sớm càng tốt, để ta được những sản phẩm tự lực cánh sinh ta xưa nay vẫn phải mua của nước ngoài...

Khắc ghi lời Bác dạy, toàn khu công nghiệp bừng bừng khí thế các cuộc thi đua. Sau bốn năm (1958 - 1962) một loạt nhà máy như: điện, giấy, hóa chất, đường, xay, chính... đã hoàn thành đi vào hoạt động. Ngày 18/3/1962, Khu công nghiệp Việt Trì chính thức được cắt băng khánh thành. Sự ra đời của Khu công nghiệp Việt Trì đã làm thay đổi căn bản diện mạo của “Thành phố ngã ba sông”. Từ một vùng đất hoang vu đã mọc lên những nhà máy, nghiệp công nghiệp hiện đại, sở để ngày 04/6/1962, Chính phủ quyết định thành lập thành phố Việt Trì trực thuộc tỉnh Phú Thọ.

Nguồn: Cổng thông tin Điện tử Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

Bác Hồ thăm Việt Trì

Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm công trường xây dựng Khu công nghiệp Việt Trì ngày 13/4/1959 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Khu Gang thép Thái Nguyên: Ngày 04/6/1959, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 214/TTg thành lập Ban chỉ huy công trường Khu gang thép Thái Nguyên, do ông Đinh Đức Thiện - Thứ trưởng Bộ Công nghiệp làm Trưởng ban. Ban chỉ huy công trường nhiệm vụ xây dựng tổ chức Khu gang thép Thái Nguyên, gồm có: nhà máy gang thép, mỏ sắt, mỏ than, nhà máy điện, đường sắt chuyên dụng, đường bộ, bến tàu; trong đó, công việc hết sức quan trọng xây dựng nhà máy gang thép lớn nhất của đất nước với công suất 20 vạn tấn/năm.

Khu Công nghiệp Thượng Đình (Hà Nội): Ngày 22/12/1958, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Thanh Nghị phát lệnh khởi công Khu công nghiệp Thượng Đình, thường được biết đến với tên gọi “Khu Cao - - Lá”. Đến năm 1960, khu Thượng Đình đã 3 nhà máy: Cao su Sao Vàng, Thuốc Thăng Long phòng Nội.

Thành phố Hải Phòng: nơi tập trung nhiều nhà máy công nghiệp tiếng của miền Bắc lúc bấy giờ.

Nhà máy Sắt Tráng Men - Nhôm Hải Phòng được thành lập ngày 17/5/1956, với sự giúp đỡ của Trung Quốc. Cũng vào thời điểm ấy, Hải Phòng đang dấy lên phong trào “kế hoạch nhỏ” của các em thiếu niên, nhi đồng quyên góp sách báo, giấy vụn, vỏ chai... để góp phần xây dựng một nhà máy sản xuất các vật dụng đồ dùng học tập cho học sinh. Tháng 12/1958, Bộ Công nghiệp quyết định xây dựng Nhà máy Nhựa tại Hải Phòng, cũng sở đầu tiên của ngành gia công chất dẻo của miền Bắc hội chủ nghĩa, trong đó một phần đóng góp từ “kế hoạch nhỏ”.

Đây cũng thời kỳ công nghiệp nặng được ưu tiên phát triển. Nhiều nhà máy điện, mỏ than, ximăng, gang thép, hóa chất được đầu xây dựng, mở rộng công suất. Hầu hết các mỏ quan trọng miền Bắc được khôi phục mở rộng, như các mỏ than Hòn Gai, Mạo Khê, Làng Cẩm, mỏ thiếc, mỏ apatít... Nhà máy Ximăng Hải Phòng được khôi phục đã vượt sản lượng năm 1939 30%. Mỏ Than Uông Bí, Mỏ Kẽm Bắc Kạn cũng được thiết kế xây dựng, chuẩn bị khởi công 1 nhà máy phân đạm 2 nhà máy phân lân. Các nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng, nhà máy điện cũng được phát triển mạnh, nhờ thế, sản lượng ngành điện tăng hơn 2 lần.

Bên cạnh đó, công nghiệp nhẹ cũng được quan tâm phát triển. Nhà máy Dệt 8-3, Dệt kim Đông Xuân, nhà máy xay, nhà máy gạch gạch chịu lửa, Nhà máy Gỗ Cầu Đuống... được xây dựng.

Khôi phục Mỏ Apatít Lào Cai

Năm 1886, sau khi chiếm đóng Laokay (Lào Cai), với khát khao thu lợi từ vùng thuộc địa trên “con đường lụa” thương gia kiêm nhà ghi chép lịch sử Joan Dupus vẽ lên, người Pháp rất mong sớm khai thác tài nguyên quý hiếm tại đây. Từ năm 1900 đến năm 1914, phải đối phó với việc bình định các cuộc nổi dậy, chính quyền Pháp đã cấp 11 giấy phép thăm các mỏ Laokay.

Việc phát hiện Mỏ Apatít năm 1924 một sự kiện ngẫu nhiên, hai bố con ông Trần Văn Nỏ, người Tày tổng Cam Đường đã phát hiện ra nguyên liệu quặng trong một chuyến đi rừng.

Năm 1939, những tấn quặng apatít đầu tiên tập kết tại ga Gốc Đa thành các goòng quặng được kéo bằng đầu máy hơi nước ra Cửa Ngòi, rót quặng từ bờ cao xuống phà, phà được tời qua sông, bốc lên toa xe đưa về cảng Hải Phòng. Từ năm 1939 đến năm 1942, tuyến đường thô trên đã chuyên chở trên 249.000 tấn quặng.

Năm 1940, sau khi Nhật chiếm đóng mỏ, nhà thầu Nhật độc chiếm việc khai thác, nâng khối lượng gấp rưỡi thời chủ thầu Pháp quản lý.

Năm 1942, Nhật nâng cấp tuyến đường sắt trên từ khổ 60 cm lên 115 cm, thúc đẩy việc khai thác thêm 300 tấn/năm. Theo tài liệu thống của Kho lưu trữ Trung ương, từ khi khai thác năm 1934 đến khi đóng cửa mỏ lần thứ nhất (cuối năm 1944), Pháp Nhật đã khai thác trên 445.700 tấn quặng loại tốt.

Năm 1955, sau ngày miền Bắc được giải phóng, Chính phủ chủ trương khôi phục việc khai thác Mỏ Apatít phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội miền Bắc đấu tranh thống nhất đất nước. Được sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên cùng nhiều vật tư, máy móc mới, đường sắt Cửa Ngòi - ga Gốc Đa được khôi phục, khai trường Mỏ Cóc mở lại.

ông Nỏ
Chủ tịch Hồ Chí Minh ông Trần Văn Nỏ (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Ngày 23/9/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng phái đoàn của Chính phủ xuống tàu tại ga Pom Hán mới được khánh thành, lên xe tải tatra về Văn phòng Mỏ Apatít. Khi trò chuyện với cán bộ, công nhân nhân dân vùng mỏ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi vùng mỏ đã khắc phục khó khăn, nhanh chóng khôi phục mỏ, đi vào sản xuất ổn định đời sống. Bác cũng nhắc nhở Mỏ Apatít cần đẩy mạnh phong trào thi đua làm “nhiều, nhanh, tốt, rẻ” để làm giàu cho Tổ quốc, đồng thời lưu ý việc giữ gìn máy móc thật tốt, đây mồ hôi, nước mắt của nhân dân Liên Trung Quốc giúp ta.

Sau đó, Bác trao cho ông Nguyễn Văn Lang, Giám đốc Mỏ Apatit Cam Đường 5 chiếc Huy hiệu mang tên Người để làm phần thưởng cho những công nhân đạt thành tích xuất sắc trong khai thác, vận chuyển quặng apatít.

Trong buổi gặp gỡ đặc biệt này, Chủ tịch Hồ Chí Minh vui vẻ chụp ảnh lưu niệm cùng với ông Trần Văn Nỏ, người đầu tiên công phát hiện ra quặng apatít Cam Đường.

Ông Trần Văn Nỏ cảm động rơm rớm nước mắt nói không lên lời quá bất ngờ trước tình cảm đặc biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho mình. Thay mặt con dân bản vùng mỏ apatít Cam Đường, ông Nỏ đã trân trọng kính tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh tấm khăn thổ cẩm do người dân địa phương thêu dệt.

Nguồn: Theo báo Lào Cai báo Dân Trí.

Vốn đầu cho công nghiệp quốc doanh thời kỳ 1958 - 1960 đạt 638 triệu đồng (hơn 3 lần số vốn đầu trong thời kỳ 1955 - 1957); trong đó, cho công nghiệp nặng 73% công nghiệp nhẹ 27% (các chỉ số tương ứng của thời kỳ 1955 - 1957 68,6% 31,4%). Vốn đầu cho công nghiệp chiếm 42,2% tổng vốn đầu xây dựng bản của khu vực sản xuất (thời kỳ 1955 - 1957 34,7%).

Nhờ vậy, số lượng nghiệp công nghiệp quốc doanh tăng lên nhanh chóng từ 281 nghiệp năm 1958 lên 1.012 nghiệp năm 1960, trong đó công nghiệp quốc doanh trung ương tăng từ 111 nghiệp lên 203 nghiệp, chủ yếu những nhà máy lớn hiện đại.

Trong ba năm, sản xuất công nghiệp thủ công nghiệp đã phát triển với nhịp độ nhanh. Từ năm 1957 đến năm 1960, bình quân hằng năm tăng 21,7%, trong đó công nghiệp quốc doanh tăng nhanh nhất: bình quân hằng năm tăng 49,6%. Riêng năm 1960, công nghiệp quốc doanh vượt kế hoạch 12,6% tăng 32,3% so với năm 1959.

Chúng ta đã nhiều sản phẩm mới như gang, máy công cụ, máy móc xây dựng, máy xay gạo, gỗ dán, gạch chịu lửa, axitsunfuric, thuốc trừ sâu, các loại phòng, đồ sắt tráng men, đồ dùng văn phòng, len, hàng dệt kim, đường kính...

Điều đáng chú ý cấu của công nghiệp miền Bắc đã tiến bộ hơn trước. Trong 3 năm 1957 - 1960, công nghiệp sản xuất liệu sản xuất được phát triển mạnh, sở công nghiệp nặng đã bước đầu được xây dựng. Công nghiệp sản xuất liệu sản xuất (nhóm A) giai đoạn 1955 - 1960 tăng 43,9% về giá trị tổng sản lượng trong khi nhóm B tăng 34,2%8.

Trong sản xuất liệu sản xuất, những ngành chủ chốt như điện lực, chế tạo máy móc, vật liệu xây dựng... được phát triển khá nhanh. Công nghiệp khí miền Bắc trước kia chỉ đáp ứng việc sửa chữa, nay đã chế tạo được một số loại máy công cụ loại nhỏ vừa, máy phát điện cỡ nhỏ, tàu kéo, canô, toa xe, một số loại máy thi công một số máy nông nghiệp loại nhỏ.

Đồng thời, công nghiệp nhẹ công nghiệp thực phẩm tiếp tục phát triển mạnh mẽ: từ năm 1957 đến năm 1960 tăng 60,4%, bình quân hằng năm tăng 17,1%; nhờ đó, từ chỗ trước đây phải nhập hầu hết hàng tiêu dùng, đến cuối giai đoạn đã tự cung cấp được phần lớn hàng tiêu dùng chủ yếu cần thiết cho nhân dân một số hàng phẩm chất tốt để xuất khẩu.

Sự phát triển những sản phẩm chính của công nghiệp trung ương thời kỳ này như sau (số năm 1960 so sánh với năm 1957): điện: 256 triệu kWh, tăng 110%; than: 2,6 triệu tấn, tăng 136%; phốtphát: 51 nghìn tấn, tăng 126%; ximăng: 408 nghìn tấn, tăng 147%; gạch: 942 triệu viên, tăng 130%; ngói: 130,8 triệu viên, tăng 62,2%; gỗ tròn: 753 nghìn mét khối, tăng 71%; giấy viết: 4.600 tấn, tăng 91%; diêm: 182 triệu bao, tăng 109%; vải mặc: 76 triệu mét, tăng 11,7%; sợi bông: 10.400 tấn, tăng 10,6%; đường mật: 32 nghìn tấn, tăng 117%; bể: 112.500 tấn, tăng 3,3%; nước mắm: 29,6 triệu lít, tăng 42,3%; thuốc lá: 81,6 triệu bao, tăng 168%... Nhờ thế, chỉ tiêu một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tính theo đầu người vào năm 1959 đã xấp xỉ mức năm 1939: điện: 13,4 kWh/10,7 kWh; than: 142 kg/229 kg; ximăng: 25 kg/25,8 kg; vải: 5 m/4,8 m; giấy: 0,26 thếp/0,5 thếp; muối: 8,4 kg/3,3 kg; đường: 0,7 kg/0,7 kg9...

Hình thành Khu công nghiệp luyện kim đầu tiên

Ngày 04/6/1959, Hội đồng Chính phủ ra quyết định thành lập công trường Khu Gang thép Thái Nguyên. Theo Quyết định thành lập, Trưởng Ban chỉ huy công trường Khu Gang thép Thái Nguyên ông Đinh Đức Thiện - Thứ trưởng Bộ Công nghiệp; Phó Trưởng ban ông Nguyễn Văn Xuân - cán bộ Bộ Công nghiệp, ông Hoàng - đại biểu khu tự trị Việt Bắc; các ủy viên gồm các ông: Trần Diệp, Phan Tử Lăng, đều cán bộ Bộ Công nghiệp ông Nguyễn Đình Lim, đại biểu tỉnh Thái Nguyên.

Hơn 22 nghìn cán bộ, chiến quân đội thanh niên từ khắp mọi miền Tổ quốc hội tụ về đây, cùng nhau san đồi, bạt núi, xúc hàng triệu mét khối đất đá, đổ hàng vạn tấn bêtông, những nhà máy, phân xưởng, mỏ với diện tích rộng gần 160 ha đã lần lượt ra đời. Hơn 50 quả đồi với gần 11 triệu mét khối đất, đá được san gạt; hàng vạn tấn bêtông, hàng nghìn tấn vật thiết bị được vận chuyển về mặt bằng công trường khu Gang thép để xây dựng nên khu công nghiệp luyện kim đầu tiên của Việt Nam, với dây chuyền sản xuất liên hợp khép kín từ khai thác quặng sắt đến luyện gang, luyện thép cán thép...

Đúng ngày Quốc khánh 02/9/1960, Công trường Khu công nghiệp Gang thép làm lễ khởi công bằng việc đổ bêtông móng cao số 1 - mở đầu một giai đoạn lịch sử của ngành Luyện kim hiện đại Việt Nam.

Năm 1960 cũng mốc thời gian đánh dấu hàng loạt nghiệp quốc doanh địa phương Thái Nguyên, với các ngành nghề: khai thác sản xuất, khí, sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác, chế biến lâm sản, thực phẩm, dệt, da, may mặc được hình thành đi vào hoạt động. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp địa phương trong năm 1960 tăng gần 5 lần so với năm 1955, sản phẩm chủ yếu các mặt hàng điện, than, nông cụ, phân bón, vật liệu xây dựng.

Từ năm 1960 đến năm 1965, đã từng bước định hình khu công nghiệp luyện kim khép kín:

- Ngày 31/12/1961: Thành lập Xưởng Luyện Gang (nay Nhà máy Luyện Gang).

- Ngày 06/9/1963: Thành lập Xưởng Luyện Cốc (nay Nhà máy Cốc Hóa).

- Ngày 25/11/1963: Thành lập Xưởng Động lực (nay nghiệp Năng lượng).

- Ngày 29/11/1963: Mẻ gang đầu tiên của cao số 1 đã ra lò, đánh dấu quá trình khắc phục khó khăn, dám nghĩ, dám làm với tinh thần tự lực cánh sinh rất cao của hơn 22.000 cán bộ, công nhân toàn công trường.

- Ngày 16/12/1963: Khánh thành phân xưởng tuyển quặng Mỏ sắt Trại Cau - nơi cung cấp nguyên liệu chính cho Khu Gang thép, hằng năm thể sản xuất 25 - 30 vạn tấn quặng sạch. Cùng với Mỏ sắt Trại Cau, từ năm 1959 đến năm 1963, hàng loạt mỏ nguyên liệu khác nhiều địa phương trên miền Bắc cung cấp cho Khu Gang thép được khẩn trương xây dựng đưa vào sản xuất, như: Mỏ đá Núi Voi (Thái Nguyên), Mỏ đất chịu lửa Tuyên Quang, Quắc Zít Phú Thọ, Dolomit Thanh Hóa, Măng Gan - Cao Bằng.

- Ngày 20/12/1963: Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đã cắt băng khánh thành cao số 1 - công trình đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại luyện kim nước ta.

- Ngày 23/9/1964: Khánh thành cao số 2.

- Ngày 21/11/1964: Thành lập phân xưởng Luyện thép (nay Nhà máy Luyện thép Lưu Xá). Thời kỳ đầu, Nhà máy luyện thép sử dụng phương pháp Máctanh (tức bằng), mỗi 150 tấn thép/mẻ.

- Ngày 21/12/1964: Khánh thành xưởng thiêu kết công suất 12 vạn tấn/ năm, sử dụng nguồn quặng vụn của Mỏ sắt Trại Cau thiêu kết thành quặng cục độ rắn, xốp, độ hoàn nguyên thích hợp, vừa tiết kiệm quặng than cốc vừa tăng thêm nguyên liệu tốt cho cao.

- Ngày 22/12/1964: Phó Thủ tướng Chính phủ Thanh Nghị đã chính thức cắt băng khánh thành cốc với công suất 13 vạn tấn/năm, gồm 45 buồng ngay trong năm này, Xưởng đã đạt sản lượng 11 vạn 2 nghìn tấn than cốc luyện kim với chất lượng tốt.

- Ngày 20/7/1965: Khánh thành Xưởng Vật liệu chịu lửa (nay Nhà máy Vật liệu chịu lửa) cao số 3. cao số 3 đi vào sản xuất cùng với cao số 1 cao số 2 đã đưa sản lượng luyện gang thép lên 14 vạn tấn năm, đủ nguyên liệu phục vụ cho hệ thống luyện thép.

Nguồn: Theo website của Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên.

Công nghiệp địa phương bắt đầu sự khởi sắc. Cùng với việc trung ương giao lại một số sở cho địa phương, các tỉnh địa phương cũng dựa vào nguồn lực của mình một phần hỗ trợ của trung ương để xây dựng thêm nhiều sở mới. Số sở công nghiệp quốc doanh địa phương tăng từ 170 nghiệp với 8.152 công nhân năm 1958 lên 546 nghiệp với 25.712 công nhân năm 1959 722 nghiệp với 44.407 công nhân năm 1960; trong đó, các xưởng, trạm khí chiếm 46%, sản xuất vật liệu xây dựng chiếm 28%, sản xuất phân bón hóa học, thuốc trừ sâu chiếm 5,8%...

Các tỉnh, thành phố trên miền Bắc lúc đó đều xưởng khí nhỏ sản xuất nông cụ cải tiến máy móc chế biến nông sản đơn giản. Nhiều tỉnh đã xây dựng được xưởng sản xuất phốtphát, cao nhỏ sản xuất gang. Nhiều nơi phát triển các gạch ngói thủ công, vôi, xưởng chế biến nông - lâm sản, hải sản, xưởng ximăng, xưởng xẻ gỗ thủ công nửa giới, dệt thủ công bán khí. Một số địa phương còn xây dựng các trạm điện nhỏ chạy bằng diesel sức nước... Công nghiệp quốc doanh địa phương đã sản xuất trong 50 ngành nghề với 56 chủng loại sản phẩm.

Công nghiệp địa phương sản xuất được nhiều sản phẩm thỏa mãn phần lớn nhu cầu liệu sản xuất nông nghiệp dân sinh, như: máy tuốt lúa, công cụ lao động các loại, gạch, ngói, vôi, gỗ khai thác, tàu thuyền đánh cá, chiếu cói, đồ thủy tinh, sứ dân dụng, vải, lụa, áo dệt kim, da, đường mật, nước mắm, phòng, đồ dùng gia đình bằng kim loại...

Sản xuất khởi sắc, công nghiệp địa phương đã thu hút khoảng 600 nghìn người tạo ra giá trị sản lượng 890 triệu đồng; trong đó, thủ công thể, tổ hợp tác sản xuất hợp tác chiếm tới 90% lao động 83% giá trị sản lượng. Đáng chú ý công nghiệp địa phương đến giai đoạn này mới bắt đầu được chú ý nên đà phát triển hết sức mạnh mẽ, năm 1960 tăng gấp 10 lần năm 1957.

Đến năm 1960, công nghiệp quốc doanh trung ương quốc doanh địa phương đều bước tăng trưởng khá. Theo Báo cáo về nhiệm vụ phương hướng của kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất về phát triển kinh tế quốc dân (1961 - 1965) tại Đại hội III của Đảng: “Chúng ta 172 nghiệp do trung ương quản lý. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh năm 1960 thể vượt kế hoạch 3,8% tăng hơn hai lần so với năm 1957. Công nghiệp quốc doanh địa phương bước đầu được phát triển, đã chiếm 19% trong giá trị sản lượng công nghiệp quốc doanh. Năng suất lao động trong các ngành công nghiệp quốc doanh năm 1959 tăng 3,8 lần so với năm 1955 tăng hơn 60% so với năm 1957. Thủ công nghiệp được khuyến khích, năm 1960 tăng gần hai lần so với năm 1955 tăng 34% so với năm 1957”10.

Tuy nhiên, Báo cáo cũng thẳng thắn nhìn nhận: “Quan hệ sản xuất hội chủ nghĩa mở rộng chưa khắp chưa được củng cố vững chắc; trình độ sản xuất vẫn còn lạc hậu... công nghiệp hiện đại, nhất công nghiệp nặng còn nhỏ bé, chưa giải quyết được các nhu cầu về liệu sản xuất chủ yếu. Các ngành sản xuất vận tải còn nhiều khả năng tiềm tàng chưa được phát huy. Lực lượng cán bộ công nhân kỹ thuật còn ít, trình độ kỹ thuật còn non kém. Nhân lực dồi dào nhưng sử dụng chưa được hợp lý. năng suất lao động hội còn thấp cho nên thu nhập mức sống của nhân dân còn thấp”11.

Tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ngành công nghiệp Dầu khí

Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, năm 1957, trong chương trình của chuyến thăm các nước Đông Âu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành thời gian đến thăm giàn khoan dầu Anbani thăm nhà máy lọc dầu Bungari.

Câu nói của Người vào ngày 23/7/1959 với các kỹ sư, công nhân dầu khí khu công nghiệp dầu lửa Baku, Adécbaigian, đã thể hiện khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc: “Sau khi Việt Nam kháng chiến thắng lợi, Liên nói chung Adécbaigian nói riêng phải giúp đỡ Việt Nam khai thác chế biến dầu khí, xây dựng được những khu công nghiệp dầu khí mạnh như Baku”.

Theo đề nghị của Chính phủ Việt Nam, từ năm 1959, Chính phủ Liên đã cử các chuyên gia địa chất dầu khí sang giúp Việt Nam tiến hành điều tra địa chất dầu khí: Trong hai năm 1959 - 1961, các chuyên gia Liên đã cùng các đồng nghiệp Việt Nam hoàn thành báo cáo tổng hợp “Địa chất triển vọng dầu khí nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” đầu tiên nước ta.

Xuất phát từ tầm nhìn chiến lược của Đảng Nhà nước về ngành công nghiệp Dầu khí của Việt Nam, cùng với kết luận ban đầu tại báo cáo địa chất dầu khí nói trên, ngày 09/10/1961, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 159-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy của Tổng cục Địa chất, trong đó đã xác định tổ chức Đoàn thăm Dầu lửa.

dầu lửa

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm mỏ dầu sát bờ biển Baku, Adécbaigian năm 1959 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Ngày 27/11/1961, Tổng cục Địa chất ra Quyết định số 271/ĐC thành lập Đoàn Thăm Dầu lửa số 36 (tên thường gọi Đoàn 36 từ năm 1969 Liên đoàn Địa chất 36) trực thuộc Tổng cục Địa chất. Đoàn 36 nhiệm vụ tiến hành tìm kiếm, thăm dầu hỏa khí đốt trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Hơn 10 năm tiếp đó, các kỹ Việt Nam đồng hành với chuyên gia Liên đã tiến hành các hoạt động thăm dầu khí, công tác địa vật khoan dầu khí đồng bằng sông Hồng vùng trũng An Châu, khẳng định kết quả thăm dò, chính xác hóa cấu trúc địa chất của “tam giác châu thổ sông Hồng”, phát hiện các vết dầu vỉa khí trong trầm tích Đệ Tam.

Đoàn 36 đã cung cấp rất nhiều tài liệu thông tin quý giá, những kết luận quan trọng về cấu trúc địa chất, tiềm năng dầu khí miền võng Nội, vùng trũng An Châu “cái nôi” cung cấp nguồn nhân lực quản cho ngành Dầu khí Việt Nam trong giai đoạn đầu.

Ngày 18/3/1975, đánh dấu sự kiện nổi bật về tìm kiếm, thăm dầu khí miền Bắc Việt Nam khi phát hiện mỏ khí Tiền Hải, với trữ lượng xác minh lên đến 1,3 tỉ m3.

d) Tình hình một số ngành công nghiệp chủ yếu

Điện lực

ngành được ưu tiên phát triển thay đổi tính chất từ ngành công nghiệp tiêu dùng sang ngành sản xuất. Ngày 21/7/1955, thành lập Cục Điện lực trực thuộc Bộ Công Thương, đặt dấu mốc pháp về hoạt động chỉ đạo, quản của quan quản nhà nước chuyên trách về lĩnh vực điện lực; tháng 01/1958, xây dựng đường dây Trung áp 35 kV đầu tiên (Hà Nội - Phố Nối); ngày 19/5/1961, xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Uông - nhà máy nhiệt điện công suất lớn nhất đầu tiên miền Bắc. Ngày 26/11/1963, dòng điện đầu tiên từ Nhà máy Điện Uông hòa vào lưới điện miền Bắc với sản lượng trung bình trên 100 triệu kWh/năm, đánh dấu một mốc quan trọng của nhà máy điện lớn nhất Đông Dương lúc bấy giờ; ngày 19/8/1964, khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Thác công suất lớn đầu tiên miền Bắc trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa hội.

Bên cạnh các nhà máy điện được khôi phục 6 nhà máy thủy điện, nhiệt điện nhỏ được xây dựng trước đó, trong thời kỳ 1958 - 1960, đã xây dựng thêm 5 nhà máy nhiệt điện 1 nhà máy thủy điện cỡ nhỏ trung, đưa số sở do Bộ Công nghiệp quản lên 15, trong đó 7 sở độc lập 8 sở trực thuộc các nghiệp công nghiệp trung ương. Đồng thời, cũng xúc tiến chuẩn bị điều kiện xây dựng các nhà máy thủy điện cỡ lớn trong kế hoạch 5 năm tiếp theo. Năm 1960, các nhà máy miền Bắc đã đạt sản lượng điện 256 triệu kWh, sản lượng điện bình quân đầu người đạt 15,8 kWh (các chỉ số tương ứng năm 1957 121,24 triệu kWh 8 kWh).

khí chế tạo

Sau việc đưa Nhà máy khí Nội vào hoạt động năm 1957, nhiều sở khí sửa chữa được cải tạo thành xưởng khí chế tạo, như các nhà máy: khí Trần Hưng Đạo, khí Gia Lâm, Xưởng khí Trường Trung cấp Kỹ thuật I, khí Bộ Kiến trúc, khí Duyên Hải... Các nhà máy này được tăng năng lực sản xuất mở rộng chủng loại sản phẩm. Máy móc đạt độ chính xác cấp 2... Ngành Vận tải cũng được mở rộng xây dựng thêm một số nhà máy khí mới để sản xuất rơmoóc, phụ tùng xe hơi, toa xe lửa, tàu kéo, lan, canô, tàu nhỏ đánh chuẩn bị xây dựng Nhà máy Đóng tàu Bạch Đằng... Các nhà máy: Dệt Nam Định, Ximăng Hải Phòng, Điện Nội, Mỏ than Hồng Gai Mỏ than Cẩm Phả đều xưởng khí lớn; tại đây, ngoài việc sửa chữa khí, còn nghiên cứu chế tạo máy móc, dụng cụ cho các nhà máy để thay thế nhập khẩu.

Sản phẩm mới của ngành khí năm 1960 là: máy cắt gọt kim loại: 799 cái, động điện: 488 cái, xe lăn đường: 10 cái, lan các loại với tổng trọng tải: 1.200 tấn, goòng vận tải: 298 cái, máy bơm nước: 71 cái, xe đạp: 23.110 cái, săm lốp xe đạp: 12.000 chiếc; ngoài ra còn nghiên cứu chế tạo máy nông nghiệp như máy gieo hạt, máy gặt, máy cày 2 bánh 2 lưỡi...

Luyện kim khai khoáng

Với sự giúp đỡ của Trung Quốc, ta đã bắt đầu khởi công xây dựng Nhà máy Liên hợp Gang thép Thái Nguyên. Ba cao nhỏ (Cọc 5, Giang, Thanh Hóa) đã được đưa vào sử dụng, công suất nấu gang đạt 1.000 tấn/năm. Về sản xuất thép, ngoài đúc thép Nhà máy khí Nội, đã nghiên cứu xây dựng cao dung tích 30 m3 những nhỏ địa phương. Với sự giúp đỡ của Liên Xô, Mỏ thiếc Tĩnh Túc được khôi phục xây thêm phản xạ hiện đại luyện thiếc, tăng chất lượng sản phẩm thiếc từ loại 2, loại 3 lên loại 1. Mở rộng khí hóa khâu khai thác cho Mỏ Apatít (Lào Cai), đồng thời, chuẩn bị xây dựng nhà máy sấy quặng làm giàu quặng. Mỏ Cromit Cổ Định (Thanh Hóa) được khí hóa dùng sức nước khai thác. Nghiên cứu chế đồng, chì, graphite, fero các kim loại khác. Hoàn thành thăm Mỏ Kẽm Chợ Điền để chuẩn bị xây dựng nhà máy luyện kẽm quy lớn. Sản lượng một số sản phẩm chủ yếu của ngành luyện kim như sau: năm 1959, apatít đạt 260.600 tấn, thiếc đạt 355 tấn; năm 1960, gang đạt 2.800 tấn, quặng cromit đạt 19.420 tấn.

Khai thác than

Các mỏ than quan trọng như: Hồng Gai, Mạo Khê, Cẩm Phả, Làng Cẩm đã được mở rộng. Năm 1959, riêng hai mỏ Hồng Gai Cẩm Phả đạt sản lượng 2.023.000 tấn (tăng 25,5% so với năm 1939), nhờ thế, sản lượng khai thác các mỏ than tăng nhanh từ 1.080.000 tấn lên 2.570.000 tấn trong thời kỳ 1957 - 1960. Mỏ than Na Dương (Lạng Sơn) được xây dựng để cung cấp than cho các nhà máy ximăng, thay thế cho than nhiều chất bốc trước đây vẫn phải nhập. Tiến hành thăm phát hiện than mỡ Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình để phục vụ cho phát triển gang thép trong các kế hoạch sắp tới.

Hóa chất - phân bón

Đã đẩy mạnh sản xuất phân phốtphát từ nguyên liệu quặng apatit đưa sản lượng tăng từ 6.400 tấn lên 51.000 tấn, tức gần 10 lần trong thời gian 1955 - 1960; riêng sản lượng phân hóa học của các sở trung ương đã đạt 22.530 tấn năm 1957 tăng lên 490.000 tấn năm 1960; đẩy mạnh xây dựng các nhà máy hiện đại Supe Phốtphát Lâm Thao, Phân lân Văn Điển, Phân đạm Bắc Giang. Năm 1960, đã hoàn thành xây dựng một số xưởng sản xuất xút, pôlivinin, xưởng pin, xưởng dưỡng khí, xưởng làm cứng dầu...

bộ trưởng Nghị Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Thanh Nghị tại lễ khai trương Nhà máy Dệt Nam Định, ngày 29/01/1956 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Công nghiệp nhẹ

Ngay sau hòa bình, với sự giúp đỡ của Trung Quốc, Nhà máy Dệt Nam Định đã được khôi phục mở rộng trở thành nhà máy dệt cỡ lớn Đông Nam Á lúc đó, với sản lượng vải 43,3 triệu mét năm 1959 (gấp 2 lần năm 1939). Sau đó, nhờ xây dựng thêm Nhà máy Dệt Nội, sản lượng vải của miền Bắc đã nâng từ 19,5 triệu mét năm 1957 lên 76 triệu mét năm 1960. Ngoài ra, đã xây dựng các nhà máy Bao tải Nội, Dệt kim Đông Xuân, khôi phục mở rộng Nhà máy Len Hải Phòng.

Ngành Thực phẩm

Cùng với khôi phục Nhà máy Bia - Rượu Nội, đã hoàn thành việc xây dựng các nhà máy chè, hộp, thuốc lá, đường, các xưởng chính, hoa quả hộp, xưởng giết mổ lợn khí hóa, sở xay xát phục vụ cho nội địa xuất khẩu. Nhà máy Đường hiện đại Vạn Điểm (Hà Tây) được khởi công hoàn thành vào năm 1961. Ngoài ra, còn phát triển các sở sản xuất nước mắm, khô, bánh mứt kẹo, đường mật... sản xuất theo phương pháp thủ công. Sản lượng một số sản phẩm thực phẩm trong thời kỳ 1957 - 1960 tăng như sau: đường kính từ 300 tấn lên 4.000 tấn, nước mắm từ 20,8 triệu lít lên 29,6 triệu lít, thuốc từ 30,4 triệu bao lên 81,6 triệu bao...

Ngành Tạp phẩm

Cộng hòa Dân chủ Đức giúp xây dựng nhà máy thủy tinh hiện đại Hải Phòng. Trung Quốc giúp xây dựng Nhà máy Sứ Hải Dương Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông. Khôi phục trang bị hiện đại cho Nhà máy Giấy Hoàng Văn Thụ, xây dựng thêm Nhà máy Giấy Việt Trì công suất 2 vạn tấn/năm, nhờ thế, đáp ứng phần lớn nhu cầu giấy viết giấy in. Cộng hòa Dân chủ Đức còn giúp xây dựng Nhà máy In Tiến Bộ với trang thiết bị hiện đại, thể in các văn hóa phẩm đạt trình độ mỹ thuật cao. Năm 1960, khánh thành Nhà máy Nhựa Thiếu niên Tiền phong Hải Phòng.

Nhờ những cố gắng trên, sản xuất trong nước đã đáp ứng hầu hết nhu cầu của nhân dân về các hàng hóa tiêu dùng thông thường. Sản lượng một số sản phẩm chủ yếu vào năm 1960: giấy: 4.600 tấn, đồ thủy tinh: 46,5 tấn, đồ sắt tráng men: 1.291 tấn, bút máy bút chì các loại: 11,8 triệu chiếc, thuốc đánh răng: 1,6 triệu ống...

Nhà máy 9 lần được đón Bác về thăm

Ngày mùng Một Tết Mậu Tuất (18/02/1958), lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm chúc Tết Nhà máy khí Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần khuyên bảo: “Công nhân phải thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm, lấy kế hoạch sản xuất đã giao làm mức phấn đấu”.

Ngày 30/8/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nhà máy lần thứ 2, Chủ tịch Hồ Chí Minh thẳng thắn phê bình: Kế hoạch đề ra 2 phần làm không đầy một nửa. Ngay sau đó, cán bộ, công nhân phát động thi đua làm theo lời Bác trong toàn nhà máy.

Ngày 25/12/1958, Nhà máy được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm lần thứ 3. Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi Nhà máy đạt được những tiến bộ đáng kể. Chủ tịch Hồ Chí Minh giao trách nhiệm cho cán bộ công nhân phải làm cho Nhà máy trở thành một nhà máy kiểu mẫu.

Ngày 24/3/1959, Nhà máy đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm cùng Tổng thống Ấn Độ Rajendra Prasad. Lần về thăm thứ 4 này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trồng cây sữa tại Nhà máy.

Ngày 27/6/1959, lần thứ 5 Nhà máy đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm cùng với Tổng thống Inđônêxia, Ngài Sukarno.

Ngày 17/01/1960, lần thứ 6 Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nhà máy. Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thăm nhà ăn tập thể, khu tập thể. Cán bộ, công nhân Nhà máy cùng xúc động trước sự quan tâm của Người.

Ngày 02/02/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng ông luật Loseby con gái đến thăm Nhà máy lần thứ 7. Chủ tịch Hồ Chí Minh khen Nhà máy hoàn thành tốt kế hoạch năm 1959; đặc biệt quan tâm đến công tác quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê bình việc quản vật chưa tốt, còn để lãng phí.

Tối 20/10/1960, cán bộ, công nhân Nhà máy đến dự khai giảng lớp học bổ túc văn hóa mới. Trong đêm khai giảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh xuống hội trường gửi lại 10 huy hiệu để tặng cho những người thành tích học tập tốt nhất.

Ngày 12/3/1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nhà máy lần thứ 9 cùng với vua Lào Sisavang Vatthana nói chuyện với cán bộ, công nhân tại phân xưởng điện.

Như vậy, trong vòng 5 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm nhà máy 9 lần, thể hiện sự quan tâm to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với “cánh chim đầu đàn” của ngành khí Việt Nam.

Nguồn: Theo Cổng thông tin điện tử quận Thanh Xuân, Thành phố Nội.

đ) Tổ chức quản công nghiệp

Bước sang giai đoạn mới, vấn đề cải tiến quản đã trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chỉ đạo công nghiệp.

Từ tháng 10/1957, Bộ Chính trị đã thông qua chế độ quản “thủ trưởng phụ trách quản nghiệp dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy nghiệp, công nhân tham gia quản lý”12. Sang tháng 10/1958, Bộ Chính trị chủ trương mở rộng cuộc vận động cải tiến quản lý, nhằm áp dụng đầy đủ chế độ quản này trong nghiệp quốc doanh. Chế độ quản mới dựa trên nguyên tắc kết hợp lãnh đạo tập trung với mở rộng dân chủ, kết hợp công tác lãnh đạo chính trị, tưởng với kinh tế, kết hợp tập thể lãnh đạo với nhân phụ trách, nhằm khắc phục những hạn chế của chế độ quản “một thủ trưởng” trước đây.

Trong tình hình mới, chế độ hạch toán kinh tế được coi như phương pháp quản hội chủ nghĩa, với những nội dung chính sau:

- Nhà nước quản kế hoạch toàn diện đối với nghiệp trên sở quy định các nhiệm vụ - chỉ tiêu về sản lượng, chất lượng mặt hàng, về tăng năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm, về trách nhiệm tài chính của nghiệp với ngân sách;

- nghiệp được sử dụng vốn Nhà nước giao (có vốn cố định vốn lưu động) để tổ chức sản xuất theo kế hoạch, được ủy quyền thực hiện chế độ kế toán độc lập, được quyết định chi tiêu về sản xuất tuyển mộ công nhân viên, được vay tiền, gửi tiền kết toán mọi khoản vãng lai qua ngân hàng, đồng thời phải chịu trách nhiệm về lỗ lãi;

- nghiệp cũng được ủy quyền tiêu thụ sản phẩm mua nguyên vật liệu thông qua hợp đồng kết với các đơn vị kinh tế quốc doanh khác, trên sở kế hoạch cân đối vật của Nhà nước, được trích tỷ lệ phần trăm lợi nhuận kế hoạch lợi nhuận vượt kế hoạch để lập quỹ tiền thưởng nghiệp, nhằm cải thiện đời sống điều kiện làm việc cho người lao động nghiệp.

Năm 1958, chế độ quản theo nguyên tắc hạch toán kinh tế đã được phổ biến áp dụng rộng rãi trong công nghiệp. Để áp dụng chế độ hạch toán kinh tế, đòi hỏi phải kiện toàn các mặt quản kế hoạch sản xuất, lao động, vật tư, tiền vốn, giá thành các chế độ thống kê, kế toán...

Trước hết, tiến hành kiểm tài sản xét định vốn của các nghiệp quốc doanh thành lập Ủy ban Kiểm toàn quốc (theo Quyết định số 141-TTg ngày 08/4/1957 của Thủ tướng Chính phủ) từ quý II/1957 hoàn thành vào quý III/1959. Công tác này đã giúp Nhà nước nắm được số lượng chất lượng, tình trạng hao mòn xác định tỷ lệ khấu hao hợp đối với số vốn cố định vốn lưu động cần thiết cho nghiệp. Qua việc kiểm 95 nghiệp quốc doanh (14 nghiệp công nghiệp nặng 26 nghiệp công nghiệp nhẹ) so với định mức, đã phát hiện sự chênh lệch đáng kể: tài sản cố định vượt 272% tài sản lưu động vượt 94%. Năm 1959, đã mở cuộc vận động sử dụng tiết kiệm hiệu quả vốn “tiền ít làm được nhiều việc tốt”, “tăng sản lượng không tăng vốn”. Theo báo cáo tổng kết cuộc vận động này, nhờ tăng tốc độ quay vòng vốn, năm 1959 đã tiết kiệm 3,5 triệu đồng năm 1960 tiết kiệm 2,5 triệu đồng; nhờ đó, sản lượng công nghiệp năm 1960 so với năm 1959 bằng 127%, nhưng vốn lưu động định mức chỉ bằng 112%. Ngoài ra, trong 3 năm 1957 - 1959 24 nghiệp công nghiệp đã huy động vào sản xuất số lượng tài sản nhàn rỗi là: 21.967.921 đồng vốn cố định 30.977.934 đồng vốn lưu động.

Một trong những sở lập kế hoạch của nghiệp phải xây dựng kiện toàn các chỉ tiêu định mức kinh tế - kỹ thuật tiên tiến. Bộ Công nghiệp đã chỉ đạo công tác này từ tháng 10/1959 Nhà máy Bia Nội, sau đó mở Hội nghị tiêu chuẩn vào tháng 4/1960, cuối năm 1960 căn bản hoàn thành cùng với việc mở rộng hạch toán đến phân xưởng. Nhiều nhà máy đã tăng được một số chỉ tiêu năng suất sản lượng: Nhà máy Chè Phú Thọ tăng công suất thiết bị 20%, Nhà máy khí Hòn Gai tăng công suất sửa chữa ôtô 30%, Nhà máy Ngói ximăng tăng mức sản xuất từ 270 tấn/ngày lên 370 tấn/ngày,...

Ngay từ năm 1957, Nhà nước ban hành Chế độ kế toán công nghiệp thi hành Điều lệ tạm thời về chế độ báo cáo quyết toán của nghiệp quốc doanh. Đến tháng 10/1958, Hội đồng Chính phủ quyết định về việc đơn giản hóa các thể lệ kế toán bằng cách thống nhất chế độ chứng từ, biểu mẫu, cải tiến chế độ tài khoản cho phù hợp với từng ngành, sử dụng hình thức lịch nhật ký, giảm thiểu số lượng tài khoản chi tiết. Ngày 16/9/1960, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 43/CP ban hành Điều lệ tạm thời về việc lập kế hoạch hạch toán thống giá thành phí lưu thông hàng hóa, nhằm tăng cường công tác quản tài chính.

Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế giữa các nghiệp quốc doanh các quan nhà nước (Nghị định số 004/TTg ngày 04/01/1960) để tăng cường liên doanh, liên kết nâng cao trách nhiệm hợp đồng kinh tế, nhằm thúc đẩy hoàn thành kế hoạch nhà nước. Đồng thời, thành lập Hội đồng trọng tài các cấp để xử các tranh chấp vi phạm hợp đồng.

Để phát huy vai trò tích cực phát triển sản xuất cải thiện đời sống của người lao động, Chính phủ ban hành bổ sung chế độ trích lập quỹ tiền thưởng nghiệp áp dụng trong các nghiệp hạch toán kinh tế. Nguồn trích lập quỹ được lấy từ một phần lợi nhuận kế hoạch lợi nhuận vượt kế hoạch hằng năm (với nghiệp kế hoạch lỗ cũng được trích quỹ, nếu hoàn thành tốt kế hoạch này).

Như vậy, việc áp dụng chế độ hạch toán kinh tế các quy chế, chính sách ban hành kèm theo trong thời kỳ 1958 - 1960 đã xác lập những nguyên tắc căn bản nội dung chủ yếu của quản hội chủ nghĩa trong công nghiệp cũng như trong nền kinh tế nói chung: quản kế hoạch hóa tập trung. Chế độ quản này sẽ được tiếp tục hoàn thiện, củng cố trong các giai đoạn sau như công cụ quan trọng thực hiện đường lối công nghiệp hóa hội chủ nghĩa.

bộ đội Hòn Gai

Bộ đội vào tiếp quản thị Hòn Gai, tháng 4/1955 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Phong trào lao động hội chủ nghĩa vùng Mỏ

Để phấn đấu hoàn thành kế hoạch 3 năm khôi phục kinh tế, Nghị quyết Trung ương 14 khóa II (tháng 11/1958) đã nêu rõ: “Vấn đề quan trọng nhất phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa hội, phát động tưởng nâng cao ý thức người chủ của công nhân, nâng cao tinh thần trách nhiệm sửa chữa tác phong của cán bộ, thực hiện chế độ công nhân tham gia quản nghiệp, cán bộ tham gia lao động sản xuất; dựa vào mối quan hệ thống nhất giữa lãnh đạo quần chúng phát huy tính tích cực, sáng tạo của công nhân, cải tiến các chế độ tổ chức hành chính, quản kỹ thuật, quản vật tư, quản lao động tiền lương..., làm cho nghiệp theo đúng nền nếp quản hội chủ nghĩa, sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ. Cần phải nâng cao vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng các nghiệp, đồng thời kiện toàn chế độ phụ trách của giám đốc nghiệp theo nguyên tắc “giám đốc phụ trách quản nghiệp dưới sự lãnh đạo tập thể của đảng ủy””13. Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Ban Thường vụ Khu ủy Hồng Quảng đã tổ chức thí điểm Công trường Vàng Danh A, Tu.

Tiếp theo Công trường Vàng Danh A, toàn bộ vùng Mỏ đã sôi nổi tham gia học tập quản nghiệp. Các tổ sản xuất được tổ chức theo nguyên tắc: Dây chuyền hoàn chỉnh, theo nghề nghiệp, theo thiết bị. Công nhân được tham gia các công tác quản như quản kế hoạch, quản kỹ thuật, quản vật tư, quản kinh tế quản lao động... Các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật định mức sản xuất đã được xây dựng. Các tưởng tiên tiến, tinh thần hợp tác hội chủ nghĩa đã chiến thắng những tưởng bảo thủ, ngại khó, tự ti, bản vị cục bộ.

Năng suất lao động tăng dần, chất lượng sản phẩm tốt hơn tiết kiệm nhiều hơn, vậy trong những năm khôi phục sản xuất đã đạt sản lượng cao hơn năm 1939 - năm cao nhất trong hơn 70 năm khai thác thuộc địa của người Pháp.

Nguồn: Website của Công ty cổ phần Than Tu - Vinacomin.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.20, tr.401.

2, 3. Xem Viện Khoa học hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, Tập III: 1955 - 1975, Nxb. Khoa học hội, Nội, 2006, tr.208-209, 209.

4. Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.46.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.18, tr.265.

6. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Nghi-quyet-tinh-hinh-nhiem-vuva-ke-hoach-3-nam-1958-1960-phat-trien-va-cai-tao-kinh-te-phat-trien-van-hoa-36844.aspx.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.390.

8. Xem Tổng cục Thống kê: Số liệu thống (3 năm cải tạo phát triển kinh tế, phát triển văn hoá của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà), Nxb. Sự thật, Nội, 1961, tr.151.

9. Xem Bộ Công Thương: lược Lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.117.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.819.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.835.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.185.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.19, tr.481-482.

2. Phát triển cải tạo công nghiệp (1958 - 1960)

a) Chủ trương

Nhiệm vụ của kế hoạch 3 năm phát triển cải tạo kinh tế 1958 - 1960 được Chính phủ trình bày trước Quốc hội:

- Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp công nghiệp.

- Ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp công thương nghiệp bản doanh theo chủ nghĩa hội.

Báo cáo đẩy mạnh cuộc cải tạo hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp bản doanh tại Hội nghị Trung ương 16 mở rộng (tháng 4/1959) khẳng định: “Cải tạo thành phần kinh tế bản doanh một mặt trận trọng yếu gắn liền với toàn bộ nhiệm vụ cải tạo hội chủ nghĩa”1.

b) Cải tạo công nghiệp doanh

Phát triển cải tạo công nghiệp doanh được tiến hành dưới hai hình thức công hợp doanh hợp tác hóa.

Đối với hình thức công hợp doanh, Nhà nước hợp doanh với nghiệp sẵn của nhà sản; hoặc thể cho nhà sản góp vốn vào nghiệp đã công hợp doanh, cũng thể sáp nhập sở kinh doanh của nhà sản vào nghiệp công hợp doanh. Trong nghiệp công hợp doanh, việc quản sản xuất kinh doanh theo phương thức hội chủ nghĩa. Đại biểu Nhà nước công nhân viên chức kết hợp với nhau địa vị lãnh đạo, nhà sản địa vị bị lãnh đạo. Nhà sản được trả lợi tức cho phần góp vốn của mình. Đến một thời hạn nhất định, việc trả lợi tức không còn nữa nhà sản sống bằng sức lao động của mình, thì nghiệp công hợp doanh sẽ trở thành nghiệp quốc doanh hội chủ nghĩa.

Đối với hình thức hợp tác, chủ nghiệp giao liệu sản xuất cho tập thể công nhân để thành lập nghiệp hợp tác. Tài sản của họ đưa vào nghiệp hợp tác được tính giá trị thành tiền. Một phần trong số tiền đó trở thành cổ phần của chủ nghiệp cũ, được hưởng lãi theo điều lệ của nghiệp hợp tác. Số tiền còn lại không phải cổ phần cũng được hưởng một tỷ lệ lãi do tập thể viên quy định. Người chủ lao động hưởng thụ theo lao động như các viên khác.

giai đoạn khôi phục kinh tế trước đây, kinh tế nhân, thể tiểu chủ được khuyến khích tự do phát triển, thì trong giai đoạn cải tạo, các thành phần kinh tế này được cải tạo, chuyển đổi dần theo phương thức sở hữu liệu sản xuất tập thể của chủ nghĩa hội.

thuyền chuối

Thuyền chuối của Hợp tác Sông Hồng (Phú Thọ) cập bến Chí Chủ để đóng gói, bán cho trạm xuất khẩu huyện Thanh Ba (Phú Thọ), năm 1960 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Từ cuối năm 1958 cho tới giữa năm 1960, miền Bắc tiến hành nhiều đợt cải tạo. Riêng Nội, nơi tập trung phần lớn các nhà sản công - thương nghiệp, từ tháng 9/1958 đến tháng 6/1960 đã tiến hành 5 đợt cải tạo công nghiệp thủ công nghiệp, 3 đợt cải tạo ngành vận tải giới. Kết quả Nội đã đưa 499 sở sản xuất bản vào công hợp doanh, 49 sở khác vào nghiệp hợp tác, chiếm 77% tổng số sở bản doanh toàn thành phố. Tổng vốn đăng của 499 hộ công hợp doanh 13,9 triệu đồng, hằng năm trả cho các nhà sản số tiền chuộc dưới hình thức định tức đồng niên 833.036 đồng, tương đương mức lãi tiền gửi 7%/năm.

Đến cuối năm 1960, cải tạo công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp căn bản hoàn thành trên miền Bắc. Kết quả, đã chuyển 729 nghiệp bản doanh thành 661 nghiệp công hợp doanh 68 nghiệp hợp tác. 9.481 người làm thuê được chuyển thành công nhân viên các nghiệp công hợp doanh, 400 người trong số họ được đề bạt chánh phó quản đốc, trưởng phó phân xưởng. Đa số các nhà sản đã tiếp thu cải tạo, một số sản nhân yêu nước còn xin hiến tài sản, hiến cổ tức cho Chính phủ.

Bên cạnh cải tạo sản công nghiệp, Nhà nước cũng tiến hành hợp tác hóa tiểu thủ công nghiệp thể, tiểu chủ. Tính đến hết năm 1960, đã khoảng 260.000 lao động thủ công vào các hình thức sản xuất tập thể khác nhau, trong đó 137.400 người vào hợp tác 126.200 người vào tổ hợp tác, đạt 87,9% số hộ tiểu thủ công nghiệp thuộc diện cải tạo2.

Công cuộc cải tạo đã làm biến động bản các thành phần kinh tế. Trong công nghiệp, năm 1957, công nghiệp quốc doanh chiếm 60,1% toàn ngành công nghiệp, tăng lên 82,5% vào năm 1960. Trong cùng giai đoạn, hình thức công hợp doanh tăng từ 0% lên 10,4%; nghiệp hợp tác tăng từ 0% lên 7,1%; bản doanh giảm từ 39,9% xuống 0%. Trong tiểu thủ công nghiệp, thể, tiểu chủ từ 100% xuống 56%; hợp tác tăng từ 0% lên 44%3.

Trong giai đoạn này, một mặt chúng ta đã căn bản hoàn thành công cuộc xóa bỏ quan hệ sản xuất dựa trên chiếm hữu bản về liệu sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới, với hai hình thức sở hữu quốc doanh sở hữu tập thể chiếm ưu thế tuyệt đối. Mặt khác, việc nhanh chóng xóa bỏ công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của nhân, thể đã làm mất đi một nguồn lực hội đầy tiềm năng năng động, trong khi khu vực quốc doanh chưa đủ lớn mạnh để thay thế hoàn toàn.

Sau nhiều thập kỷ, với độ lùi của thời gian, chúng ta điều kiện nhìn nhận, đánh giá lại vấn đề này. “Với thực trạng kinh tế - hội như vậy, chúng ta thể duy trì phát triển kinh tế nhiều thành phần... Nhưng Chính phủ lại quyết định phải thực hiện kế hoạch ba năm phát triển cải tạo kinh tế”4.

Nhìn lại giai đoạn 1957 - 1959, tình hình diễn biến rất nhanh khá bất ngờ. Tháng 3/1957, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (mở rộng) về kế hoạch nhà nước năm 1957, khi thống nhất về nhiệm vụ phát triển công nghiệp, đã chỉ ra: “hết sức giúp đỡ thủ công nghiệp công nghiệp doanh phát triển sản xuất lợi cho kinh tế quốc dân”5. Đến Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (tháng 11/1958) lần thứ 16 mở rộng (tháng 4/1959), đều đặt nhiệm vụ trọng tâm ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp công thương nghiệp bản doanh.

Tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa I (từ ngày 09 đến ngày 14/12/1958) đã ra Nghị quyết thông qua toàn bộ kế hoạch ba năm (1958 - 1960) - Kế hoạch cải tạo hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế văn hóa. Nghị quyết của Quốc hội nhấn mạnh: “Cần phải đưa công cuộc phát triển cải tạo kinh tế, phát triển văn hóa tiến lên theo một tốc độ nhanh mạnh; căn bản hoàn thành cuộc cải tạo hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế thể thành phần kinh tế bản doanh trong thời gian từ 2 đến 3 năm tới”6.

Những diễn biến nhanh chóng trong tiếp cận vấn đề kinh tế nhân nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu trước hết những vấn đề luận thực tiễn xây dựng chủ nghĩa hội miền Bắc lúc bấy giờ, chúng ta chưa nhiều kinh nghiệm, cho nên thường chịu ảnh hưởng từ hình kinh nghiệm từ các nước hội chủ nghĩa. Từ năm 1950, Liên đã đứng đầu châu Âu đứng thứ hai thế giới về sản lượng điện. Được sự giúp đỡ của Liên Xô, các nước hội chủ nghĩa đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - hội. Năm 1955, công nghiệp Ba Lan tăng gấp 4 lần trước chiến tranh, trong đó, nhiều ngành công nghiệp mới ra đời. Năm 1956, Cộng hòa Dân chủ Đức thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai, trở thành nước đứng đầu châu Âu về sản lượng điện bình quân đầu người, đứng thứ hai thế giới về sản lượng hóa chất đầu người. Đồng thời, các nước hội chủ nghĩa Đông Âu đều hoàn thành công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp bước vào xây dựng chủ nghĩa hội với quy lớn. châu Á, năm 1957, Trung Quốc hoàn thành kế hoạch 5 năm (1953 - 1957) với nhiều kết quả mới trong phát triển kinh tế - hội. Thành tựu đó chứng minh tính ưu việt của hình hội chủ nghĩa cách thức xây dựng chủ nghĩa hội Liên cùng các nước phát triển hội chủ nghĩa đi trước thực hiện, trở thành hình mẫu cho các nước hội chủ nghĩa đi sau, trong đó Việt Nam.

Hơn nữa, một tâm sợ tụt hậu trong xây dựng chủ nghĩa hội so với các nước trong cùng hệ thống. Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Phạm Văn Đồng trình bày tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa I, ngày 09/12/1958 nhấn mạnh: Liên đang tiến những bước khổng lồ trên con đường xây dựng chủ nghĩa cộng sản, Tiệp Khắc sắp hoàn thành việc cải tạo hội chủ nghĩa, Triều Tiên Bungari căn bản hoàn thành cải tạo hội chủ nghĩa.

Một nguyên nhân nữa thuộc về khách quan. Nguyên kinh tế căn bản của C. Mác Ph. Ăngghen quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất. Trong điều kiện một nước đi sau, Việt Nam đã chủ trương “đưa việc xây dựng quan hệ sản xuất tiến lên trước để kéo lực lượng sản xuất lên theo” như một hình thử nghiệm. Thử nghiệm thì trải qua thực tiễn thời gian mới đánh giá được, nên khó tránh khỏi sai sót. Đến Đại hội VI, Đảng ta đã nhận ra vấn đề này: “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”7.

Mặc giai đoạn này chế độ sở hữu liệu sản xuất công cộng với hai hình thức quốc doanh tập thể đã được tập trung đến mức cao độ, nhưng nền kinh tế cũng chưa đi hẳn vào hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, do vẫn còn một yếu tố nữa thị trường tự do còn khá mạnh.

Nhà sản dân tộc Nguyễn Sơn

Ông Nguyễn Sơn sinh năm 1894 tại huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nay Nội). Tên Sơn tên ghép chữ đầu của quê quán nơi ông sinh ra. nhà nghèo nên từ nhỏ ông đã phải đi làm thuê kiếm sống, lưu lạc mưu sinh trưởng thành đất cảng Hải Phòng.

Khi làm nhân viên đánh máy rồi làm kế toán cho hãng sơn dầu lừng danh của Pháp Việt Nam, ông thường tranh thủ thời gian đọc thêm sách vở, tài liệu nói về kỹ thuật chế tác sơn dầu. Buổi tối, ông âm thầm làm thí nghiệm chế biến, sản xuất sơn từ kiến thức học được hãng sơn. Chỉ ít lâu sau, sản phẩm của ông đã mặt trên thị trường Việt Nam, được khách hàng người Hoa, người Việt rất ưa dùng.

Sau Cách mạng Tháng Tám, gia đình nhà sản Nguyễn Sơn đã đóng góp cho Chính phủ 105 lượng vàng cùng nhiều tài sản khác. Ông còn cho phép em rể của mình dùng tiền của ông đại sơn tại Sài Gòn tổ chức một đoàn tàu vượt biển ra Côn Đảo đón chính trị bị giam giữ trở về đất liền trước khi Pháp nổ súng gây hấn vào ngày 23/9/1945. Trong số những người được chuyến tàu đón về nhiều người sau đó trở thành lãnh đạo của cách mạng Việt Nam như Tôn Đức Thắng, Duẩn, Hoàng Quốc Việt, Phạm Hùng, Thanh Nghị.

Những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, người con trai cả của ông Nguyễn Sơn Lâm đã anh dũng hy sinh Hải Phòng. Sau đó, ông lên chiến khu Việt Bắc tham gia đóng góp công sức, trí tuệ của mình cho cách mạng. Ông giúp Cục Thông tin - Bộ Quốc phòng lúc đó làm vải nhựa cách điện với điện áp thấp, dùng cho kỹ thuật thông tin bằng cách đun nóng nhựa thông (hoặc nhựa trám) với dầu luyn rồi bôi lên vải diềm bâu. Ngoài ra, ông cũng tổ chức sản xuất giấy than, mực in lito, vải che mưa. Vải che mưa của xưởng Nguyễn Sơn chế tạo thể chống mưa, ngụy trang cũng tốt, lại thể làm chiếu nằm rất tiện cho bộ đội ta.

Tháng 10/1948 tháng 3/1949, hai lần Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen động viên ông tiếp tục thêm sáng kiến đóng góp cho kháng chiến. Ông Nguyễn Sơn từng thay mặt Quốc hội khóa I trao thanh kiếm “Mã đáo thành công” cho Đại đoàn 308 tại chiến khu Việt Bắc.

Sau hòa bình lập lại, gia đình ông trở về Hải Phòng sinh sống, tiếp tục hiến tiền bạc tài sản cho Chính phủ, với giá trị khoảng 370 cây vàng. Quãng đời còn lại, ông sống thanh bạch, giản dị dành thời gian viết sách ghi lại kỹ thuật làm sơn. Ông mất tại Hải Phòng năm 1980.

Nguồn: Website của Sơn Group Cổng thông tin Điện tử thành phố Hải Phòng.

khu Thượng Đình

Năm 1960, khu Thượng Đình đã 3 nhà máy: Cao su Sao Vàng, Thuốc Thăng Long phòng Nội (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

c) Phát triển công nghiệp quốc doanh

Với các sở công nghiệp quốc doanh quan trọng vừa được khôi phục xây dựng bước đầu đã một đội ngũ công nhân cán bộ khoa học - kỹ thuật kinh nghiệm quản tổ chức công nghiệp quốc doanh giai đoạn này nhiều thuận lợi; đồng thời, sự giúp đỡ to lớn của các nước hội chủ nghĩa về viện trợ, chuyên gia, kỹ thuật đào tạo.

Đây thời kỳ phát triển mạnh mẽ công nghiệp quốc doanh trung ương quốc doanh địa phương. trung ương, hai đặc điểm nét nhất: đó hình thành các khu công nghiệp phát triển công nghiệp nặng.

Giai đoạn 1958 - 1960, một số khu công nghiệp được xây dựng Việt Trì, Thượng Đình (Hà Nội), Thái Nguyên...

Khu Công nghiệp Việt Trì: Tháng 8/1958, Công ty Kiến trúc Việt Trì được thành lập trực thuộc Bộ Kiến trúc. Sau thời gian làm việc khẩn trương, quy hoạch tổng thể xây dựng luận chứng kinh tế - kỹ thuật về Khu Công nghiệp Việt Trì đã hoàn thành được Trung ương phê chuẩn. Ngày 28/11/1958, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Thanh Nghị phát lệnh khởi công xây dựng Khu Công nghiệp Việt Trì.

Trong quý III/1958, hơn 700 cán bộ, chiến bộ đội thuộc đoàn 305 đoàn 308 chuyển ngành cùng với hơn 100 công nhân kỹ thuật được điều về xây dựng khu công nghiệp. Đến năm 1959, tổng số cán bộ, công nhân thuộc khu công nghiệp quản lên tới trên 4.000 người. Bên cạnh đó, còn các chuyên gia Trung Quốc hướng dẫn về kỹ thuật một số chuyên gia Liên giúp xây dựng một tuốcbin nhà máy điện... Khu Công nghiệp Việt Trì được xây dựng theo kiểu tổ hợp kinh tế công nghiệp hiện đại, quy mô, tập trung khá lớn các nhà máy: điện, đường, giấy, hóa chất, miến - mỳ chính...

Việt Trì - Khu công nghiệp đầu tiên của miền Bắc hội chủ nghĩa

Tháng 11/1958, Việt Trì được Trung ương chọn làm điểm để xây dựng khu công nghiệp đầu tiên của chủ nghĩa hội miền Bắc, tạo tiền đề cho công cuộc công nghiệp hóa đất nước thúc đẩy công nghiệp địa phương phát triển. Những ngày đầu xây dựng khu công nghiệp đầy khó khăn, gian khổ, cán bộ, công nhân nhân dân Việt Trì đã lao động không biết mệt mỏi, không quản nắng mưa.

Ngày 13/4/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh về động viên phong trào. Sau khi đi thăm công trường xây dựng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi tinh thần lao động hăng say, nhiệt tình, ý thức trách nhiệm của cán bộ, công nhân khu công nghiệp. Người nói: Đây khu công nghiệp đầu tiên của nước ta. Xưa, các Vua Hùng đã chọn làm nơi đóng đô, dựng nước. Nay, ta xây dựng Đất Tổ thành một khu công nghiệp to lớn, sở của chủ nghĩa hội. Từ đây ta sẽ bắt đầu cho công cuộc xây dựng to lớn của cả đất nước. Vinh dự này thuộc về các cô, các chú đang xây dựng Đất Tổ... Bác mong các cô, các chú cùng thi đua xây dựng sao cho các nhà máy được ra đời để hoạt động càng sớm càng tốt, để ta được những sản phẩm tự lực cánh sinh ta xưa nay vẫn phải mua của nước ngoài...

Khắc ghi lời Bác dạy, toàn khu công nghiệp bừng bừng khí thế các cuộc thi đua. Sau bốn năm (1958 - 1962) một loạt nhà máy như: điện, giấy, hóa chất, đường, xay, chính... đã hoàn thành đi vào hoạt động. Ngày 18/3/1962, Khu công nghiệp Việt Trì chính thức được cắt băng khánh thành. Sự ra đời của Khu công nghiệp Việt Trì đã làm thay đổi căn bản diện mạo của “Thành phố ngã ba sông”. Từ một vùng đất hoang vu đã mọc lên những nhà máy, nghiệp công nghiệp hiện đại, sở để ngày 04/6/1962, Chính phủ quyết định thành lập thành phố Việt Trì trực thuộc tỉnh Phú Thọ.

Nguồn: Cổng thông tin Điện tử Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

Bác Hồ thăm Việt Trì

Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm công trường xây dựng Khu công nghiệp Việt Trì ngày 13/4/1959 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Khu Gang thép Thái Nguyên: Ngày 04/6/1959, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 214/TTg thành lập Ban chỉ huy công trường Khu gang thép Thái Nguyên, do ông Đinh Đức Thiện - Thứ trưởng Bộ Công nghiệp làm Trưởng ban. Ban chỉ huy công trường nhiệm vụ xây dựng tổ chức Khu gang thép Thái Nguyên, gồm có: nhà máy gang thép, mỏ sắt, mỏ than, nhà máy điện, đường sắt chuyên dụng, đường bộ, bến tàu; trong đó, công việc hết sức quan trọng xây dựng nhà máy gang thép lớn nhất của đất nước với công suất 20 vạn tấn/năm.

Khu Công nghiệp Thượng Đình (Hà Nội): Ngày 22/12/1958, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Thanh Nghị phát lệnh khởi công Khu công nghiệp Thượng Đình, thường được biết đến với tên gọi “Khu Cao - - Lá”. Đến năm 1960, khu Thượng Đình đã 3 nhà máy: Cao su Sao Vàng, Thuốc Thăng Long phòng Nội.

Thành phố Hải Phòng: nơi tập trung nhiều nhà máy công nghiệp tiếng của miền Bắc lúc bấy giờ.

Nhà máy Sắt Tráng Men - Nhôm Hải Phòng được thành lập ngày 17/5/1956, với sự giúp đỡ của Trung Quốc. Cũng vào thời điểm ấy, Hải Phòng đang dấy lên phong trào “kế hoạch nhỏ” của các em thiếu niên, nhi đồng quyên góp sách báo, giấy vụn, vỏ chai... để góp phần xây dựng một nhà máy sản xuất các vật dụng đồ dùng học tập cho học sinh. Tháng 12/1958, Bộ Công nghiệp quyết định xây dựng Nhà máy Nhựa tại Hải Phòng, cũng sở đầu tiên của ngành gia công chất dẻo của miền Bắc hội chủ nghĩa, trong đó một phần đóng góp từ “kế hoạch nhỏ”.

Đây cũng thời kỳ công nghiệp nặng được ưu tiên phát triển. Nhiều nhà máy điện, mỏ than, ximăng, gang thép, hóa chất được đầu xây dựng, mở rộng công suất. Hầu hết các mỏ quan trọng miền Bắc được khôi phục mở rộng, như các mỏ than Hòn Gai, Mạo Khê, Làng Cẩm, mỏ thiếc, mỏ apatít... Nhà máy Ximăng Hải Phòng được khôi phục đã vượt sản lượng năm 1939 30%. Mỏ Than Uông Bí, Mỏ Kẽm Bắc Kạn cũng được thiết kế xây dựng, chuẩn bị khởi công 1 nhà máy phân đạm 2 nhà máy phân lân. Các nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng, nhà máy điện cũng được phát triển mạnh, nhờ thế, sản lượng ngành điện tăng hơn 2 lần.

Bên cạnh đó, công nghiệp nhẹ cũng được quan tâm phát triển. Nhà máy Dệt 8-3, Dệt kim Đông Xuân, nhà máy xay, nhà máy gạch gạch chịu lửa, Nhà máy Gỗ Cầu Đuống... được xây dựng.

Khôi phục Mỏ Apatít Lào Cai

Năm 1886, sau khi chiếm đóng Laokay (Lào Cai), với khát khao thu lợi từ vùng thuộc địa trên “con đường lụa” thương gia kiêm nhà ghi chép lịch sử Joan Dupus vẽ lên, người Pháp rất mong sớm khai thác tài nguyên quý hiếm tại đây. Từ năm 1900 đến năm 1914, phải đối phó với việc bình định các cuộc nổi dậy, chính quyền Pháp đã cấp 11 giấy phép thăm các mỏ Laokay.

Việc phát hiện Mỏ Apatít năm 1924 một sự kiện ngẫu nhiên, hai bố con ông Trần Văn Nỏ, người Tày tổng Cam Đường đã phát hiện ra nguyên liệu quặng trong một chuyến đi rừng.

Năm 1939, những tấn quặng apatít đầu tiên tập kết tại ga Gốc Đa thành các goòng quặng được kéo bằng đầu máy hơi nước ra Cửa Ngòi, rót quặng từ bờ cao xuống phà, phà được tời qua sông, bốc lên toa xe đưa về cảng Hải Phòng. Từ năm 1939 đến năm 1942, tuyến đường thô trên đã chuyên chở trên 249.000 tấn quặng.

Năm 1940, sau khi Nhật chiếm đóng mỏ, nhà thầu Nhật độc chiếm việc khai thác, nâng khối lượng gấp rưỡi thời chủ thầu Pháp quản lý.

Năm 1942, Nhật nâng cấp tuyến đường sắt trên từ khổ 60 cm lên 115 cm, thúc đẩy việc khai thác thêm 300 tấn/năm. Theo tài liệu thống của Kho lưu trữ Trung ương, từ khi khai thác năm 1934 đến khi đóng cửa mỏ lần thứ nhất (cuối năm 1944), Pháp Nhật đã khai thác trên 445.700 tấn quặng loại tốt.

Năm 1955, sau ngày miền Bắc được giải phóng, Chính phủ chủ trương khôi phục việc khai thác Mỏ Apatít phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội miền Bắc đấu tranh thống nhất đất nước. Được sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên cùng nhiều vật tư, máy móc mới, đường sắt Cửa Ngòi - ga Gốc Đa được khôi phục, khai trường Mỏ Cóc mở lại.

ông Nỏ
Chủ tịch Hồ Chí Minh ông Trần Văn Nỏ (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Ngày 23/9/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng phái đoàn của Chính phủ xuống tàu tại ga Pom Hán mới được khánh thành, lên xe tải tatra về Văn phòng Mỏ Apatít. Khi trò chuyện với cán bộ, công nhân nhân dân vùng mỏ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi vùng mỏ đã khắc phục khó khăn, nhanh chóng khôi phục mỏ, đi vào sản xuất ổn định đời sống. Bác cũng nhắc nhở Mỏ Apatít cần đẩy mạnh phong trào thi đua làm “nhiều, nhanh, tốt, rẻ” để làm giàu cho Tổ quốc, đồng thời lưu ý việc giữ gìn máy móc thật tốt, đây mồ hôi, nước mắt của nhân dân Liên Trung Quốc giúp ta.

Sau đó, Bác trao cho ông Nguyễn Văn Lang, Giám đốc Mỏ Apatit Cam Đường 5 chiếc Huy hiệu mang tên Người để làm phần thưởng cho những công nhân đạt thành tích xuất sắc trong khai thác, vận chuyển quặng apatít.

Trong buổi gặp gỡ đặc biệt này, Chủ tịch Hồ Chí Minh vui vẻ chụp ảnh lưu niệm cùng với ông Trần Văn Nỏ, người đầu tiên công phát hiện ra quặng apatít Cam Đường.

Ông Trần Văn Nỏ cảm động rơm rớm nước mắt nói không lên lời quá bất ngờ trước tình cảm đặc biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho mình. Thay mặt con dân bản vùng mỏ apatít Cam Đường, ông Nỏ đã trân trọng kính tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh tấm khăn thổ cẩm do người dân địa phương thêu dệt.

Nguồn: Theo báo Lào Cai báo Dân Trí.

Vốn đầu cho công nghiệp quốc doanh thời kỳ 1958 - 1960 đạt 638 triệu đồng (hơn 3 lần số vốn đầu trong thời kỳ 1955 - 1957); trong đó, cho công nghiệp nặng 73% công nghiệp nhẹ 27% (các chỉ số tương ứng của thời kỳ 1955 - 1957 68,6% 31,4%). Vốn đầu cho công nghiệp chiếm 42,2% tổng vốn đầu xây dựng bản của khu vực sản xuất (thời kỳ 1955 - 1957 34,7%).

Nhờ vậy, số lượng nghiệp công nghiệp quốc doanh tăng lên nhanh chóng từ 281 nghiệp năm 1958 lên 1.012 nghiệp năm 1960, trong đó công nghiệp quốc doanh trung ương tăng từ 111 nghiệp lên 203 nghiệp, chủ yếu những nhà máy lớn hiện đại.

Trong ba năm, sản xuất công nghiệp thủ công nghiệp đã phát triển với nhịp độ nhanh. Từ năm 1957 đến năm 1960, bình quân hằng năm tăng 21,7%, trong đó công nghiệp quốc doanh tăng nhanh nhất: bình quân hằng năm tăng 49,6%. Riêng năm 1960, công nghiệp quốc doanh vượt kế hoạch 12,6% tăng 32,3% so với năm 1959.

Chúng ta đã nhiều sản phẩm mới như gang, máy công cụ, máy móc xây dựng, máy xay gạo, gỗ dán, gạch chịu lửa, axitsunfuric, thuốc trừ sâu, các loại phòng, đồ sắt tráng men, đồ dùng văn phòng, len, hàng dệt kim, đường kính...

Điều đáng chú ý cấu của công nghiệp miền Bắc đã tiến bộ hơn trước. Trong 3 năm 1957 - 1960, công nghiệp sản xuất liệu sản xuất được phát triển mạnh, sở công nghiệp nặng đã bước đầu được xây dựng. Công nghiệp sản xuất liệu sản xuất (nhóm A) giai đoạn 1955 - 1960 tăng 43,9% về giá trị tổng sản lượng trong khi nhóm B tăng 34,2%8.

Trong sản xuất liệu sản xuất, những ngành chủ chốt như điện lực, chế tạo máy móc, vật liệu xây dựng... được phát triển khá nhanh. Công nghiệp khí miền Bắc trước kia chỉ đáp ứng việc sửa chữa, nay đã chế tạo được một số loại máy công cụ loại nhỏ vừa, máy phát điện cỡ nhỏ, tàu kéo, canô, toa xe, một số loại máy thi công một số máy nông nghiệp loại nhỏ.

Đồng thời, công nghiệp nhẹ công nghiệp thực phẩm tiếp tục phát triển mạnh mẽ: từ năm 1957 đến năm 1960 tăng 60,4%, bình quân hằng năm tăng 17,1%; nhờ đó, từ chỗ trước đây phải nhập hầu hết hàng tiêu dùng, đến cuối giai đoạn đã tự cung cấp được phần lớn hàng tiêu dùng chủ yếu cần thiết cho nhân dân một số hàng phẩm chất tốt để xuất khẩu.

Sự phát triển những sản phẩm chính của công nghiệp trung ương thời kỳ này như sau (số năm 1960 so sánh với năm 1957): điện: 256 triệu kWh, tăng 110%; than: 2,6 triệu tấn, tăng 136%; phốtphát: 51 nghìn tấn, tăng 126%; ximăng: 408 nghìn tấn, tăng 147%; gạch: 942 triệu viên, tăng 130%; ngói: 130,8 triệu viên, tăng 62,2%; gỗ tròn: 753 nghìn mét khối, tăng 71%; giấy viết: 4.600 tấn, tăng 91%; diêm: 182 triệu bao, tăng 109%; vải mặc: 76 triệu mét, tăng 11,7%; sợi bông: 10.400 tấn, tăng 10,6%; đường mật: 32 nghìn tấn, tăng 117%; bể: 112.500 tấn, tăng 3,3%; nước mắm: 29,6 triệu lít, tăng 42,3%; thuốc lá: 81,6 triệu bao, tăng 168%... Nhờ thế, chỉ tiêu một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tính theo đầu người vào năm 1959 đã xấp xỉ mức năm 1939: điện: 13,4 kWh/10,7 kWh; than: 142 kg/229 kg; ximăng: 25 kg/25,8 kg; vải: 5 m/4,8 m; giấy: 0,26 thếp/0,5 thếp; muối: 8,4 kg/3,3 kg; đường: 0,7 kg/0,7 kg9...

Hình thành Khu công nghiệp luyện kim đầu tiên

Ngày 04/6/1959, Hội đồng Chính phủ ra quyết định thành lập công trường Khu Gang thép Thái Nguyên. Theo Quyết định thành lập, Trưởng Ban chỉ huy công trường Khu Gang thép Thái Nguyên ông Đinh Đức Thiện - Thứ trưởng Bộ Công nghiệp; Phó Trưởng ban ông Nguyễn Văn Xuân - cán bộ Bộ Công nghiệp, ông Hoàng - đại biểu khu tự trị Việt Bắc; các ủy viên gồm các ông: Trần Diệp, Phan Tử Lăng, đều cán bộ Bộ Công nghiệp ông Nguyễn Đình Lim, đại biểu tỉnh Thái Nguyên.

Hơn 22 nghìn cán bộ, chiến quân đội thanh niên từ khắp mọi miền Tổ quốc hội tụ về đây, cùng nhau san đồi, bạt núi, xúc hàng triệu mét khối đất đá, đổ hàng vạn tấn bêtông, những nhà máy, phân xưởng, mỏ với diện tích rộng gần 160 ha đã lần lượt ra đời. Hơn 50 quả đồi với gần 11 triệu mét khối đất, đá được san gạt; hàng vạn tấn bêtông, hàng nghìn tấn vật thiết bị được vận chuyển về mặt bằng công trường khu Gang thép để xây dựng nên khu công nghiệp luyện kim đầu tiên của Việt Nam, với dây chuyền sản xuất liên hợp khép kín từ khai thác quặng sắt đến luyện gang, luyện thép cán thép...

Đúng ngày Quốc khánh 02/9/1960, Công trường Khu công nghiệp Gang thép làm lễ khởi công bằng việc đổ bêtông móng cao số 1 - mở đầu một giai đoạn lịch sử của ngành Luyện kim hiện đại Việt Nam.

Năm 1960 cũng mốc thời gian đánh dấu hàng loạt nghiệp quốc doanh địa phương Thái Nguyên, với các ngành nghề: khai thác sản xuất, khí, sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác, chế biến lâm sản, thực phẩm, dệt, da, may mặc được hình thành đi vào hoạt động. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp địa phương trong năm 1960 tăng gần 5 lần so với năm 1955, sản phẩm chủ yếu các mặt hàng điện, than, nông cụ, phân bón, vật liệu xây dựng.

Từ năm 1960 đến năm 1965, đã từng bước định hình khu công nghiệp luyện kim khép kín:

- Ngày 31/12/1961: Thành lập Xưởng Luyện Gang (nay Nhà máy Luyện Gang).

- Ngày 06/9/1963: Thành lập Xưởng Luyện Cốc (nay Nhà máy Cốc Hóa).

- Ngày 25/11/1963: Thành lập Xưởng Động lực (nay nghiệp Năng lượng).

- Ngày 29/11/1963: Mẻ gang đầu tiên của cao số 1 đã ra lò, đánh dấu quá trình khắc phục khó khăn, dám nghĩ, dám làm với tinh thần tự lực cánh sinh rất cao của hơn 22.000 cán bộ, công nhân toàn công trường.

- Ngày 16/12/1963: Khánh thành phân xưởng tuyển quặng Mỏ sắt Trại Cau - nơi cung cấp nguyên liệu chính cho Khu Gang thép, hằng năm thể sản xuất 25 - 30 vạn tấn quặng sạch. Cùng với Mỏ sắt Trại Cau, từ năm 1959 đến năm 1963, hàng loạt mỏ nguyên liệu khác nhiều địa phương trên miền Bắc cung cấp cho Khu Gang thép được khẩn trương xây dựng đưa vào sản xuất, như: Mỏ đá Núi Voi (Thái Nguyên), Mỏ đất chịu lửa Tuyên Quang, Quắc Zít Phú Thọ, Dolomit Thanh Hóa, Măng Gan - Cao Bằng.

- Ngày 20/12/1963: Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đã cắt băng khánh thành cao số 1 - công trình đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại luyện kim nước ta.

- Ngày 23/9/1964: Khánh thành cao số 2.

- Ngày 21/11/1964: Thành lập phân xưởng Luyện thép (nay Nhà máy Luyện thép Lưu Xá). Thời kỳ đầu, Nhà máy luyện thép sử dụng phương pháp Máctanh (tức bằng), mỗi 150 tấn thép/mẻ.

- Ngày 21/12/1964: Khánh thành xưởng thiêu kết công suất 12 vạn tấn/ năm, sử dụng nguồn quặng vụn của Mỏ sắt Trại Cau thiêu kết thành quặng cục độ rắn, xốp, độ hoàn nguyên thích hợp, vừa tiết kiệm quặng than cốc vừa tăng thêm nguyên liệu tốt cho cao.

- Ngày 22/12/1964: Phó Thủ tướng Chính phủ Thanh Nghị đã chính thức cắt băng khánh thành cốc với công suất 13 vạn tấn/năm, gồm 45 buồng ngay trong năm này, Xưởng đã đạt sản lượng 11 vạn 2 nghìn tấn than cốc luyện kim với chất lượng tốt.

- Ngày 20/7/1965: Khánh thành Xưởng Vật liệu chịu lửa (nay Nhà máy Vật liệu chịu lửa) cao số 3. cao số 3 đi vào sản xuất cùng với cao số 1 cao số 2 đã đưa sản lượng luyện gang thép lên 14 vạn tấn năm, đủ nguyên liệu phục vụ cho hệ thống luyện thép.

Nguồn: Theo website của Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên.

Công nghiệp địa phương bắt đầu sự khởi sắc. Cùng với việc trung ương giao lại một số sở cho địa phương, các tỉnh địa phương cũng dựa vào nguồn lực của mình một phần hỗ trợ của trung ương để xây dựng thêm nhiều sở mới. Số sở công nghiệp quốc doanh địa phương tăng từ 170 nghiệp với 8.152 công nhân năm 1958 lên 546 nghiệp với 25.712 công nhân năm 1959 722 nghiệp với 44.407 công nhân năm 1960; trong đó, các xưởng, trạm khí chiếm 46%, sản xuất vật liệu xây dựng chiếm 28%, sản xuất phân bón hóa học, thuốc trừ sâu chiếm 5,8%...

Các tỉnh, thành phố trên miền Bắc lúc đó đều xưởng khí nhỏ sản xuất nông cụ cải tiến máy móc chế biến nông sản đơn giản. Nhiều tỉnh đã xây dựng được xưởng sản xuất phốtphát, cao nhỏ sản xuất gang. Nhiều nơi phát triển các gạch ngói thủ công, vôi, xưởng chế biến nông - lâm sản, hải sản, xưởng ximăng, xưởng xẻ gỗ thủ công nửa giới, dệt thủ công bán khí. Một số địa phương còn xây dựng các trạm điện nhỏ chạy bằng diesel sức nước... Công nghiệp quốc doanh địa phương đã sản xuất trong 50 ngành nghề với 56 chủng loại sản phẩm.

Công nghiệp địa phương sản xuất được nhiều sản phẩm thỏa mãn phần lớn nhu cầu liệu sản xuất nông nghiệp dân sinh, như: máy tuốt lúa, công cụ lao động các loại, gạch, ngói, vôi, gỗ khai thác, tàu thuyền đánh cá, chiếu cói, đồ thủy tinh, sứ dân dụng, vải, lụa, áo dệt kim, da, đường mật, nước mắm, phòng, đồ dùng gia đình bằng kim loại...

Sản xuất khởi sắc, công nghiệp địa phương đã thu hút khoảng 600 nghìn người tạo ra giá trị sản lượng 890 triệu đồng; trong đó, thủ công thể, tổ hợp tác sản xuất hợp tác chiếm tới 90% lao động 83% giá trị sản lượng. Đáng chú ý công nghiệp địa phương đến giai đoạn này mới bắt đầu được chú ý nên đà phát triển hết sức mạnh mẽ, năm 1960 tăng gấp 10 lần năm 1957.

Đến năm 1960, công nghiệp quốc doanh trung ương quốc doanh địa phương đều bước tăng trưởng khá. Theo Báo cáo về nhiệm vụ phương hướng của kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất về phát triển kinh tế quốc dân (1961 - 1965) tại Đại hội III của Đảng: “Chúng ta 172 nghiệp do trung ương quản lý. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh năm 1960 thể vượt kế hoạch 3,8% tăng hơn hai lần so với năm 1957. Công nghiệp quốc doanh địa phương bước đầu được phát triển, đã chiếm 19% trong giá trị sản lượng công nghiệp quốc doanh. Năng suất lao động trong các ngành công nghiệp quốc doanh năm 1959 tăng 3,8 lần so với năm 1955 tăng hơn 60% so với năm 1957. Thủ công nghiệp được khuyến khích, năm 1960 tăng gần hai lần so với năm 1955 tăng 34% so với năm 1957”10.

Tuy nhiên, Báo cáo cũng thẳng thắn nhìn nhận: “Quan hệ sản xuất hội chủ nghĩa mở rộng chưa khắp chưa được củng cố vững chắc; trình độ sản xuất vẫn còn lạc hậu... công nghiệp hiện đại, nhất công nghiệp nặng còn nhỏ bé, chưa giải quyết được các nhu cầu về liệu sản xuất chủ yếu. Các ngành sản xuất vận tải còn nhiều khả năng tiềm tàng chưa được phát huy. Lực lượng cán bộ công nhân kỹ thuật còn ít, trình độ kỹ thuật còn non kém. Nhân lực dồi dào nhưng sử dụng chưa được hợp lý. năng suất lao động hội còn thấp cho nên thu nhập mức sống của nhân dân còn thấp”11.

Tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ngành công nghiệp Dầu khí

Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, năm 1957, trong chương trình của chuyến thăm các nước Đông Âu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành thời gian đến thăm giàn khoan dầu Anbani thăm nhà máy lọc dầu Bungari.

Câu nói của Người vào ngày 23/7/1959 với các kỹ sư, công nhân dầu khí khu công nghiệp dầu lửa Baku, Adécbaigian, đã thể hiện khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc: “Sau khi Việt Nam kháng chiến thắng lợi, Liên nói chung Adécbaigian nói riêng phải giúp đỡ Việt Nam khai thác chế biến dầu khí, xây dựng được những khu công nghiệp dầu khí mạnh như Baku”.

Theo đề nghị của Chính phủ Việt Nam, từ năm 1959, Chính phủ Liên đã cử các chuyên gia địa chất dầu khí sang giúp Việt Nam tiến hành điều tra địa chất dầu khí: Trong hai năm 1959 - 1961, các chuyên gia Liên đã cùng các đồng nghiệp Việt Nam hoàn thành báo cáo tổng hợp “Địa chất triển vọng dầu khí nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” đầu tiên nước ta.

Xuất phát từ tầm nhìn chiến lược của Đảng Nhà nước về ngành công nghiệp Dầu khí của Việt Nam, cùng với kết luận ban đầu tại báo cáo địa chất dầu khí nói trên, ngày 09/10/1961, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 159-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy của Tổng cục Địa chất, trong đó đã xác định tổ chức Đoàn thăm Dầu lửa.

dầu lửa

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm mỏ dầu sát bờ biển Baku, Adécbaigian năm 1959 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Ngày 27/11/1961, Tổng cục Địa chất ra Quyết định số 271/ĐC thành lập Đoàn Thăm Dầu lửa số 36 (tên thường gọi Đoàn 36 từ năm 1969 Liên đoàn Địa chất 36) trực thuộc Tổng cục Địa chất. Đoàn 36 nhiệm vụ tiến hành tìm kiếm, thăm dầu hỏa khí đốt trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Hơn 10 năm tiếp đó, các kỹ Việt Nam đồng hành với chuyên gia Liên đã tiến hành các hoạt động thăm dầu khí, công tác địa vật khoan dầu khí đồng bằng sông Hồng vùng trũng An Châu, khẳng định kết quả thăm dò, chính xác hóa cấu trúc địa chất của “tam giác châu thổ sông Hồng”, phát hiện các vết dầu vỉa khí trong trầm tích Đệ Tam.

Đoàn 36 đã cung cấp rất nhiều tài liệu thông tin quý giá, những kết luận quan trọng về cấu trúc địa chất, tiềm năng dầu khí miền võng Nội, vùng trũng An Châu “cái nôi” cung cấp nguồn nhân lực quản cho ngành Dầu khí Việt Nam trong giai đoạn đầu.

Ngày 18/3/1975, đánh dấu sự kiện nổi bật về tìm kiếm, thăm dầu khí miền Bắc Việt Nam khi phát hiện mỏ khí Tiền Hải, với trữ lượng xác minh lên đến 1,3 tỉ m3.

d) Tình hình một số ngành công nghiệp chủ yếu

Điện lực

ngành được ưu tiên phát triển thay đổi tính chất từ ngành công nghiệp tiêu dùng sang ngành sản xuất. Ngày 21/7/1955, thành lập Cục Điện lực trực thuộc Bộ Công Thương, đặt dấu mốc pháp về hoạt động chỉ đạo, quản của quan quản nhà nước chuyên trách về lĩnh vực điện lực; tháng 01/1958, xây dựng đường dây Trung áp 35 kV đầu tiên (Hà Nội - Phố Nối); ngày 19/5/1961, xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Uông - nhà máy nhiệt điện công suất lớn nhất đầu tiên miền Bắc. Ngày 26/11/1963, dòng điện đầu tiên từ Nhà máy Điện Uông hòa vào lưới điện miền Bắc với sản lượng trung bình trên 100 triệu kWh/năm, đánh dấu một mốc quan trọng của nhà máy điện lớn nhất Đông Dương lúc bấy giờ; ngày 19/8/1964, khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Thác công suất lớn đầu tiên miền Bắc trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa hội.

Bên cạnh các nhà máy điện được khôi phục 6 nhà máy thủy điện, nhiệt điện nhỏ được xây dựng trước đó, trong thời kỳ 1958 - 1960, đã xây dựng thêm 5 nhà máy nhiệt điện 1 nhà máy thủy điện cỡ nhỏ trung, đưa số sở do Bộ Công nghiệp quản lên 15, trong đó 7 sở độc lập 8 sở trực thuộc các nghiệp công nghiệp trung ương. Đồng thời, cũng xúc tiến chuẩn bị điều kiện xây dựng các nhà máy thủy điện cỡ lớn trong kế hoạch 5 năm tiếp theo. Năm 1960, các nhà máy miền Bắc đã đạt sản lượng điện 256 triệu kWh, sản lượng điện bình quân đầu người đạt 15,8 kWh (các chỉ số tương ứng năm 1957 121,24 triệu kWh 8 kWh).

khí chế tạo

Sau việc đưa Nhà máy khí Nội vào hoạt động năm 1957, nhiều sở khí sửa chữa được cải tạo thành xưởng khí chế tạo, như các nhà máy: khí Trần Hưng Đạo, khí Gia Lâm, Xưởng khí Trường Trung cấp Kỹ thuật I, khí Bộ Kiến trúc, khí Duyên Hải... Các nhà máy này được tăng năng lực sản xuất mở rộng chủng loại sản phẩm. Máy móc đạt độ chính xác cấp 2... Ngành Vận tải cũng được mở rộng xây dựng thêm một số nhà máy khí mới để sản xuất rơmoóc, phụ tùng xe hơi, toa xe lửa, tàu kéo, lan, canô, tàu nhỏ đánh chuẩn bị xây dựng Nhà máy Đóng tàu Bạch Đằng... Các nhà máy: Dệt Nam Định, Ximăng Hải Phòng, Điện Nội, Mỏ than Hồng Gai Mỏ than Cẩm Phả đều xưởng khí lớn; tại đây, ngoài việc sửa chữa khí, còn nghiên cứu chế tạo máy móc, dụng cụ cho các nhà máy để thay thế nhập khẩu.

Sản phẩm mới của ngành khí năm 1960 là: máy cắt gọt kim loại: 799 cái, động điện: 488 cái, xe lăn đường: 10 cái, lan các loại với tổng trọng tải: 1.200 tấn, goòng vận tải: 298 cái, máy bơm nước: 71 cái, xe đạp: 23.110 cái, săm lốp xe đạp: 12.000 chiếc; ngoài ra còn nghiên cứu chế tạo máy nông nghiệp như máy gieo hạt, máy gặt, máy cày 2 bánh 2 lưỡi...

Luyện kim khai khoáng

Với sự giúp đỡ của Trung Quốc, ta đã bắt đầu khởi công xây dựng Nhà máy Liên hợp Gang thép Thái Nguyên. Ba cao nhỏ (Cọc 5, Giang, Thanh Hóa) đã được đưa vào sử dụng, công suất nấu gang đạt 1.000 tấn/năm. Về sản xuất thép, ngoài đúc thép Nhà máy khí Nội, đã nghiên cứu xây dựng cao dung tích 30 m3 những nhỏ địa phương. Với sự giúp đỡ của Liên Xô, Mỏ thiếc Tĩnh Túc được khôi phục xây thêm phản xạ hiện đại luyện thiếc, tăng chất lượng sản phẩm thiếc từ loại 2, loại 3 lên loại 1. Mở rộng khí hóa khâu khai thác cho Mỏ Apatít (Lào Cai), đồng thời, chuẩn bị xây dựng nhà máy sấy quặng làm giàu quặng. Mỏ Cromit Cổ Định (Thanh Hóa) được khí hóa dùng sức nước khai thác. Nghiên cứu chế đồng, chì, graphite, fero các kim loại khác. Hoàn thành thăm Mỏ Kẽm Chợ Điền để chuẩn bị xây dựng nhà máy luyện kẽm quy lớn. Sản lượng một số sản phẩm chủ yếu của ngành luyện kim như sau: năm 1959, apatít đạt 260.600 tấn, thiếc đạt 355 tấn; năm 1960, gang đạt 2.800 tấn, quặng cromit đạt 19.420 tấn.

Khai thác than

Các mỏ than quan trọng như: Hồng Gai, Mạo Khê, Cẩm Phả, Làng Cẩm đã được mở rộng. Năm 1959, riêng hai mỏ Hồng Gai Cẩm Phả đạt sản lượng 2.023.000 tấn (tăng 25,5% so với năm 1939), nhờ thế, sản lượng khai thác các mỏ than tăng nhanh từ 1.080.000 tấn lên 2.570.000 tấn trong thời kỳ 1957 - 1960. Mỏ than Na Dương (Lạng Sơn) được xây dựng để cung cấp than cho các nhà máy ximăng, thay thế cho than nhiều chất bốc trước đây vẫn phải nhập. Tiến hành thăm phát hiện than mỡ Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình để phục vụ cho phát triển gang thép trong các kế hoạch sắp tới.

Hóa chất - phân bón

Đã đẩy mạnh sản xuất phân phốtphát từ nguyên liệu quặng apatit đưa sản lượng tăng từ 6.400 tấn lên 51.000 tấn, tức gần 10 lần trong thời gian 1955 - 1960; riêng sản lượng phân hóa học của các sở trung ương đã đạt 22.530 tấn năm 1957 tăng lên 490.000 tấn năm 1960; đẩy mạnh xây dựng các nhà máy hiện đại Supe Phốtphát Lâm Thao, Phân lân Văn Điển, Phân đạm Bắc Giang. Năm 1960, đã hoàn thành xây dựng một số xưởng sản xuất xút, pôlivinin, xưởng pin, xưởng dưỡng khí, xưởng làm cứng dầu...

bộ trưởng Nghị Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Thanh Nghị tại lễ khai trương Nhà máy Dệt Nam Định, ngày 29/01/1956 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Công nghiệp nhẹ

Ngay sau hòa bình, với sự giúp đỡ của Trung Quốc, Nhà máy Dệt Nam Định đã được khôi phục mở rộng trở thành nhà máy dệt cỡ lớn Đông Nam Á lúc đó, với sản lượng vải 43,3 triệu mét năm 1959 (gấp 2 lần năm 1939). Sau đó, nhờ xây dựng thêm Nhà máy Dệt Nội, sản lượng vải của miền Bắc đã nâng từ 19,5 triệu mét năm 1957 lên 76 triệu mét năm 1960. Ngoài ra, đã xây dựng các nhà máy Bao tải Nội, Dệt kim Đông Xuân, khôi phục mở rộng Nhà máy Len Hải Phòng.

Ngành Thực phẩm

Cùng với khôi phục Nhà máy Bia - Rượu Nội, đã hoàn thành việc xây dựng các nhà máy chè, hộp, thuốc lá, đường, các xưởng chính, hoa quả hộp, xưởng giết mổ lợn khí hóa, sở xay xát phục vụ cho nội địa xuất khẩu. Nhà máy Đường hiện đại Vạn Điểm (Hà Tây) được khởi công hoàn thành vào năm 1961. Ngoài ra, còn phát triển các sở sản xuất nước mắm, khô, bánh mứt kẹo, đường mật... sản xuất theo phương pháp thủ công. Sản lượng một số sản phẩm thực phẩm trong thời kỳ 1957 - 1960 tăng như sau: đường kính từ 300 tấn lên 4.000 tấn, nước mắm từ 20,8 triệu lít lên 29,6 triệu lít, thuốc từ 30,4 triệu bao lên 81,6 triệu bao...

Ngành Tạp phẩm

Cộng hòa Dân chủ Đức giúp xây dựng nhà máy thủy tinh hiện đại Hải Phòng. Trung Quốc giúp xây dựng Nhà máy Sứ Hải Dương Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông. Khôi phục trang bị hiện đại cho Nhà máy Giấy Hoàng Văn Thụ, xây dựng thêm Nhà máy Giấy Việt Trì công suất 2 vạn tấn/năm, nhờ thế, đáp ứng phần lớn nhu cầu giấy viết giấy in. Cộng hòa Dân chủ Đức còn giúp xây dựng Nhà máy In Tiến Bộ với trang thiết bị hiện đại, thể in các văn hóa phẩm đạt trình độ mỹ thuật cao. Năm 1960, khánh thành Nhà máy Nhựa Thiếu niên Tiền phong Hải Phòng.

Nhờ những cố gắng trên, sản xuất trong nước đã đáp ứng hầu hết nhu cầu của nhân dân về các hàng hóa tiêu dùng thông thường. Sản lượng một số sản phẩm chủ yếu vào năm 1960: giấy: 4.600 tấn, đồ thủy tinh: 46,5 tấn, đồ sắt tráng men: 1.291 tấn, bút máy bút chì các loại: 11,8 triệu chiếc, thuốc đánh răng: 1,6 triệu ống...

Nhà máy 9 lần được đón Bác về thăm

Ngày mùng Một Tết Mậu Tuất (18/02/1958), lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm chúc Tết Nhà máy khí Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần khuyên bảo: “Công nhân phải thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm, lấy kế hoạch sản xuất đã giao làm mức phấn đấu”.

Ngày 30/8/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nhà máy lần thứ 2, Chủ tịch Hồ Chí Minh thẳng thắn phê bình: Kế hoạch đề ra 2 phần làm không đầy một nửa. Ngay sau đó, cán bộ, công nhân phát động thi đua làm theo lời Bác trong toàn nhà máy.

Ngày 25/12/1958, Nhà máy được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm lần thứ 3. Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi Nhà máy đạt được những tiến bộ đáng kể. Chủ tịch Hồ Chí Minh giao trách nhiệm cho cán bộ công nhân phải làm cho Nhà máy trở thành một nhà máy kiểu mẫu.

Ngày 24/3/1959, Nhà máy đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm cùng Tổng thống Ấn Độ Rajendra Prasad. Lần về thăm thứ 4 này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trồng cây sữa tại Nhà máy.

Ngày 27/6/1959, lần thứ 5 Nhà máy đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm cùng với Tổng thống Inđônêxia, Ngài Sukarno.

Ngày 17/01/1960, lần thứ 6 Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nhà máy. Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thăm nhà ăn tập thể, khu tập thể. Cán bộ, công nhân Nhà máy cùng xúc động trước sự quan tâm của Người.

Ngày 02/02/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng ông luật Loseby con gái đến thăm Nhà máy lần thứ 7. Chủ tịch Hồ Chí Minh khen Nhà máy hoàn thành tốt kế hoạch năm 1959; đặc biệt quan tâm đến công tác quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê bình việc quản vật chưa tốt, còn để lãng phí.

Tối 20/10/1960, cán bộ, công nhân Nhà máy đến dự khai giảng lớp học bổ túc văn hóa mới. Trong đêm khai giảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh xuống hội trường gửi lại 10 huy hiệu để tặng cho những người thành tích học tập tốt nhất.

Ngày 12/3/1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nhà máy lần thứ 9 cùng với vua Lào Sisavang Vatthana nói chuyện với cán bộ, công nhân tại phân xưởng điện.

Như vậy, trong vòng 5 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm nhà máy 9 lần, thể hiện sự quan tâm to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với “cánh chim đầu đàn” của ngành khí Việt Nam.

Nguồn: Theo Cổng thông tin điện tử quận Thanh Xuân, Thành phố Nội.

đ) Tổ chức quản công nghiệp

Bước sang giai đoạn mới, vấn đề cải tiến quản đã trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chỉ đạo công nghiệp.

Từ tháng 10/1957, Bộ Chính trị đã thông qua chế độ quản “thủ trưởng phụ trách quản nghiệp dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy nghiệp, công nhân tham gia quản lý”12. Sang tháng 10/1958, Bộ Chính trị chủ trương mở rộng cuộc vận động cải tiến quản lý, nhằm áp dụng đầy đủ chế độ quản này trong nghiệp quốc doanh. Chế độ quản mới dựa trên nguyên tắc kết hợp lãnh đạo tập trung với mở rộng dân chủ, kết hợp công tác lãnh đạo chính trị, tưởng với kinh tế, kết hợp tập thể lãnh đạo với nhân phụ trách, nhằm khắc phục những hạn chế của chế độ quản “một thủ trưởng” trước đây.

Trong tình hình mới, chế độ hạch toán kinh tế được coi như phương pháp quản hội chủ nghĩa, với những nội dung chính sau:

- Nhà nước quản kế hoạch toàn diện đối với nghiệp trên sở quy định các nhiệm vụ - chỉ tiêu về sản lượng, chất lượng mặt hàng, về tăng năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm, về trách nhiệm tài chính của nghiệp với ngân sách;

- nghiệp được sử dụng vốn Nhà nước giao (có vốn cố định vốn lưu động) để tổ chức sản xuất theo kế hoạch, được ủy quyền thực hiện chế độ kế toán độc lập, được quyết định chi tiêu về sản xuất tuyển mộ công nhân viên, được vay tiền, gửi tiền kết toán mọi khoản vãng lai qua ngân hàng, đồng thời phải chịu trách nhiệm về lỗ lãi;

- nghiệp cũng được ủy quyền tiêu thụ sản phẩm mua nguyên vật liệu thông qua hợp đồng kết với các đơn vị kinh tế quốc doanh khác, trên sở kế hoạch cân đối vật của Nhà nước, được trích tỷ lệ phần trăm lợi nhuận kế hoạch lợi nhuận vượt kế hoạch để lập quỹ tiền thưởng nghiệp, nhằm cải thiện đời sống điều kiện làm việc cho người lao động nghiệp.

Năm 1958, chế độ quản theo nguyên tắc hạch toán kinh tế đã được phổ biến áp dụng rộng rãi trong công nghiệp. Để áp dụng chế độ hạch toán kinh tế, đòi hỏi phải kiện toàn các mặt quản kế hoạch sản xuất, lao động, vật tư, tiền vốn, giá thành các chế độ thống kê, kế toán...

Trước hết, tiến hành kiểm tài sản xét định vốn của các nghiệp quốc doanh thành lập Ủy ban Kiểm toàn quốc (theo Quyết định số 141-TTg ngày 08/4/1957 của Thủ tướng Chính phủ) từ quý II/1957 hoàn thành vào quý III/1959. Công tác này đã giúp Nhà nước nắm được số lượng chất lượng, tình trạng hao mòn xác định tỷ lệ khấu hao hợp đối với số vốn cố định vốn lưu động cần thiết cho nghiệp. Qua việc kiểm 95 nghiệp quốc doanh (14 nghiệp công nghiệp nặng 26 nghiệp công nghiệp nhẹ) so với định mức, đã phát hiện sự chênh lệch đáng kể: tài sản cố định vượt 272% tài sản lưu động vượt 94%. Năm 1959, đã mở cuộc vận động sử dụng tiết kiệm hiệu quả vốn “tiền ít làm được nhiều việc tốt”, “tăng sản lượng không tăng vốn”. Theo báo cáo tổng kết cuộc vận động này, nhờ tăng tốc độ quay vòng vốn, năm 1959 đã tiết kiệm 3,5 triệu đồng năm 1960 tiết kiệm 2,5 triệu đồng; nhờ đó, sản lượng công nghiệp năm 1960 so với năm 1959 bằng 127%, nhưng vốn lưu động định mức chỉ bằng 112%. Ngoài ra, trong 3 năm 1957 - 1959 24 nghiệp công nghiệp đã huy động vào sản xuất số lượng tài sản nhàn rỗi là: 21.967.921 đồng vốn cố định 30.977.934 đồng vốn lưu động.

Một trong những sở lập kế hoạch của nghiệp phải xây dựng kiện toàn các chỉ tiêu định mức kinh tế - kỹ thuật tiên tiến. Bộ Công nghiệp đã chỉ đạo công tác này từ tháng 10/1959 Nhà máy Bia Nội, sau đó mở Hội nghị tiêu chuẩn vào tháng 4/1960, cuối năm 1960 căn bản hoàn thành cùng với việc mở rộng hạch toán đến phân xưởng. Nhiều nhà máy đã tăng được một số chỉ tiêu năng suất sản lượng: Nhà máy Chè Phú Thọ tăng công suất thiết bị 20%, Nhà máy khí Hòn Gai tăng công suất sửa chữa ôtô 30%, Nhà máy Ngói ximăng tăng mức sản xuất từ 270 tấn/ngày lên 370 tấn/ngày,...

Ngay từ năm 1957, Nhà nước ban hành Chế độ kế toán công nghiệp thi hành Điều lệ tạm thời về chế độ báo cáo quyết toán của nghiệp quốc doanh. Đến tháng 10/1958, Hội đồng Chính phủ quyết định về việc đơn giản hóa các thể lệ kế toán bằng cách thống nhất chế độ chứng từ, biểu mẫu, cải tiến chế độ tài khoản cho phù hợp với từng ngành, sử dụng hình thức lịch nhật ký, giảm thiểu số lượng tài khoản chi tiết. Ngày 16/9/1960, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 43/CP ban hành Điều lệ tạm thời về việc lập kế hoạch hạch toán thống giá thành phí lưu thông hàng hóa, nhằm tăng cường công tác quản tài chính.

Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế giữa các nghiệp quốc doanh các quan nhà nước (Nghị định số 004/TTg ngày 04/01/1960) để tăng cường liên doanh, liên kết nâng cao trách nhiệm hợp đồng kinh tế, nhằm thúc đẩy hoàn thành kế hoạch nhà nước. Đồng thời, thành lập Hội đồng trọng tài các cấp để xử các tranh chấp vi phạm hợp đồng.

Để phát huy vai trò tích cực phát triển sản xuất cải thiện đời sống của người lao động, Chính phủ ban hành bổ sung chế độ trích lập quỹ tiền thưởng nghiệp áp dụng trong các nghiệp hạch toán kinh tế. Nguồn trích lập quỹ được lấy từ một phần lợi nhuận kế hoạch lợi nhuận vượt kế hoạch hằng năm (với nghiệp kế hoạch lỗ cũng được trích quỹ, nếu hoàn thành tốt kế hoạch này).

Như vậy, việc áp dụng chế độ hạch toán kinh tế các quy chế, chính sách ban hành kèm theo trong thời kỳ 1958 - 1960 đã xác lập những nguyên tắc căn bản nội dung chủ yếu của quản hội chủ nghĩa trong công nghiệp cũng như trong nền kinh tế nói chung: quản kế hoạch hóa tập trung. Chế độ quản này sẽ được tiếp tục hoàn thiện, củng cố trong các giai đoạn sau như công cụ quan trọng thực hiện đường lối công nghiệp hóa hội chủ nghĩa.

bộ đội Hòn Gai

Bộ đội vào tiếp quản thị Hòn Gai, tháng 4/1955 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Phong trào lao động hội chủ nghĩa vùng Mỏ

Để phấn đấu hoàn thành kế hoạch 3 năm khôi phục kinh tế, Nghị quyết Trung ương 14 khóa II (tháng 11/1958) đã nêu rõ: “Vấn đề quan trọng nhất phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa hội, phát động tưởng nâng cao ý thức người chủ của công nhân, nâng cao tinh thần trách nhiệm sửa chữa tác phong của cán bộ, thực hiện chế độ công nhân tham gia quản nghiệp, cán bộ tham gia lao động sản xuất; dựa vào mối quan hệ thống nhất giữa lãnh đạo quần chúng phát huy tính tích cực, sáng tạo của công nhân, cải tiến các chế độ tổ chức hành chính, quản kỹ thuật, quản vật tư, quản lao động tiền lương..., làm cho nghiệp theo đúng nền nếp quản hội chủ nghĩa, sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ. Cần phải nâng cao vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng các nghiệp, đồng thời kiện toàn chế độ phụ trách của giám đốc nghiệp theo nguyên tắc “giám đốc phụ trách quản nghiệp dưới sự lãnh đạo tập thể của đảng ủy””13. Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Ban Thường vụ Khu ủy Hồng Quảng đã tổ chức thí điểm Công trường Vàng Danh A, Tu.

Tiếp theo Công trường Vàng Danh A, toàn bộ vùng Mỏ đã sôi nổi tham gia học tập quản nghiệp. Các tổ sản xuất được tổ chức theo nguyên tắc: Dây chuyền hoàn chỉnh, theo nghề nghiệp, theo thiết bị. Công nhân được tham gia các công tác quản như quản kế hoạch, quản kỹ thuật, quản vật tư, quản kinh tế quản lao động... Các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật định mức sản xuất đã được xây dựng. Các tưởng tiên tiến, tinh thần hợp tác hội chủ nghĩa đã chiến thắng những tưởng bảo thủ, ngại khó, tự ti, bản vị cục bộ.

Năng suất lao động tăng dần, chất lượng sản phẩm tốt hơn tiết kiệm nhiều hơn, vậy trong những năm khôi phục sản xuất đã đạt sản lượng cao hơn năm 1939 - năm cao nhất trong hơn 70 năm khai thác thuộc địa của người Pháp.

Nguồn: Website của Công ty cổ phần Than Tu - Vinacomin.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.20, tr.401.

2, 3. Xem Viện Khoa học hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, Tập III: 1955 - 1975, Nxb. Khoa học hội, Nội, 2006, tr.208-209, 209.

4. Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.46.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.18, tr.265.

6. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Nghi-quyet-tinh-hinh-nhiem-vuva-ke-hoach-3-nam-1958-1960-phat-trien-va-cai-tao-kinh-te-phat-trien-van-hoa-36844.aspx.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.390.

8. Xem Tổng cục Thống kê: Số liệu thống (3 năm cải tạo phát triển kinh tế, phát triển văn hoá của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà), Nxb. Sự thật, Nội, 1961, tr.151.

9. Xem Bộ Công Thương: lược Lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.117.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.819.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.835.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.185.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.19, tr.481-482.

1. Khôi phục và phát triển công nghiệp (1955 - 1957)

a) Tình hình và chủ trương

Công nghiệp miền Bắc sau ngày hòa bình lập lại bị tàn phá và xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1955, giá trị tổng sản lượng công nghiệp giảm 61% so với năm 1939 - năm phát triển cao nhất trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong vùng tự do cũ, hầu hết các nhà máy lớn và quan trọng, như Xe lửa Trường Thi, Diêm Bến Thủy, Điện Thanh Hóa, Phốtphát Hàm Rồng... đều đã bị phá hủy hoàn toàn hoặc tê liệt hoạt động.

Trong vùng mới tiếp quản, nhiều nhà máy, hầm mỏ bị đình đốn hoặc sản xuất cầm chừng do không có phụ tùng thay thế hoặc thiếu nguyên liệu. Trong các cơ sở công nghiệp tư doanh và thủ công nghiệp, người giỏi nghề cũng không còn nhiều, do một số đã di cư vào Nam.

Trước tình hình đó, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9/1954 đã đề ra nhiệm vụ cấp bách là khôi phục sản xuất ngang mức trước chiến tranh; trong đó nhấn mạnh: “Cần hết sức coi trọng công tác phục hồi công thương nghiệp, làm cho các xí nghiệp công và tư hiện có được tiếp tục kinh doanh, làm cho thị trường hoạt động, vật giá ổn định, phục hồi và phát triển mậu dịch đối ngoại”1.

Nghị quyết cũng nêu rõ việc phục hồi công nghiệp, thương nghiệp đối với từng thành phần kinh tế:

“Công thương nghiệp tư nhân nhất loạt được bảo hộ. Đối với công thương nghiệp của địa chủ cũng nhất loạt không đụng đến. Phàm là công thương nghiệp có lợi cho quốc kế dân sinh đều được khuyến khích phục hồi và phát triển”2.

nhà máy xi măng

Nhà máy Xi măng Hải Phòng phục hồi sản xuất sau khi bị phá hoại nặng nề bởi chiến tranh, năm 1955 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

“Đối với công thương nghiệp của Pháp kiều, theo Hiệp nghị ở Giơnevơ, ta không tịch thu, cũng không bài trừ hoặc tiếp quản. Ta cần thi hành lời hứa thừa nhận quyền lợi kinh tế của Pháp ở Việt Nam. Chính sách có thể áp dụng được là: không xâm phạm đến tài quyền của Pháp kiều, nhưng bắt họ phải tuân theo pháp luật của Chính phủ ta và phục hồi kinh doanh, không được đình chỉ kinh doanh”3.

“Công thương nghiệp quốc doanh là thành phần lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố quan trọng để ổn định thị trường nên cần được Đảng hết sức coi trọng”4.

Tháng 3/1955, báo cáo về đường lối khôi phục kinh tế do Chính phủ trình bày trước Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 4 có một số điểm nổi bật: Một là, chú trọng gây dựng cơ sở cho công nghiệp hóa; Hai là, phát triển sản xuất làm cho kinh tế dồi dào, công tư đều được quan tâm, người lao động và chủ lao động đều có lợi; Ba là, tăng cường kinh tế quốc doanh, chăm lo kinh tế hợp tác xã, khuyến khích sản xuất - kinh doanh của các tầng lớp tiểu tư sản và tư sản dân tộc.

Có thể coi đây là thời kỳ tương đối cởi mở trong xây dựng kinh tế. Một mặt coi công thương nghiệp quốc doanh là thành phần lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân; mặt khác, công nhận và khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế khác phát triển. Tư duy này dường như tương đồng với Chính sách kinh tế mới (NEP) do V.I. Lênin khởi xướng năm 1922. Theo đó, Liên Xô chấp nhận một hệ thống kinh tế bao gồm các doanh nghiệp quốc doanh đồng thời với: (1) Thị trường tự do; (2) Cơ sở sản xuất theo kiểu tư bản - hai đối tượng đều thuộc sự giám sát, quản lý của nhà nước5.

b) Khôi phục, phát triển công nghiệp

Bước vào giai đoạn khôi phục và xây dựng công nghiệp hiện đại, phương châm là phải dựa vào sức mình là chính, sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, mời chuyên gia nước bạn sang hướng dẫn hoặc gửi cán bộ, công nhân đi học tập ở nước ngoài.

Chính sách đầu tư thời kỳ này tập trung cao độ cho công nghiệp, nhất là công nghiệp nặng chế tạo tư liệu sản xuất nhằm đạt được tiến bộ căn bản của ngành và nhanh chóng hình thành nền công nghiệp theo hướng hiện đại, làm cơ sở cho sự độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Trong tổng vốn đầu tư cơ bản của Nhà nước cho các ngành sản xuất vật chất, vốn đầu tư vào công nghiệp tăng rất nhanh: từ 7,4% năm 1955 lên 36% năm 1956 và vượt ngưỡng 50% năm 1957.

Tư tưởng chỉ đạo của Chính phủ và ngành Công Thương trong thời gian này là, cùng với việc khôi phục sản xuất công nghiệp ngang mức trước chiến tranh, cần lo ngay việc xây dựng một số ngành công nghiệp phục vụ cho sản xuất mà trước đây, trong thời Pháp thuộc không có, hoặc có nhưng không đáng kể, và quan tâm đến công nghiệp phục vụ tiêu dùng.

đại biểu Liên Xô

Đoàn đại biểu Chính phủ Liên Xô đến thăm phòng tuốcbin Nhà máy Điện Yên Phụ, tháng 4/1956 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Kết quả, trong một thời gian ngắn, miền Bắc đã khôi phục về căn bản các nhà máy, xí nghiệp quan trọng, gồm 19 xí nghiệp ở vùng tự do: Than Quán Triều, Than Làng Cẩm, Than Quyết Thắng, Than Tân Trào, Than Bố Hạ, Giấy Hoàng Văn Thụ, Giấy Lửa Việt, Giấy Lam Sơn, Giấy Hồng Phong, Giấy Lao Động, Phân bón Nam Phát, Phân bón Lang Hít, Phân bón Đông Khê, Phân bón Bến Thủy, Xưởng Phim, Nhà in Tiến Bộ, Xưởng Cơ khí Giao thông, Xưởng Thuốc bào chế, Mỏ Cromit Cổ Định; và 9 xí nghiệp ở vùng mới giải phóng: Than Hồng Gai, Điện Hải Phòng, Điện Hà Nội, Điện Nam Định, Ximăng Hải Phòng, Dệt Nam Định, Nước đá Hà Nội, Rượu Hà Nội, Phốtphát Hải Phòng6.

Miền Bắc đã xây dựng được 18 xí nghiệp mới, ở mức tương đối hiện đại lúc bấy giờ như các nhà máy: Chè Phú Thọ, Thuốc lá Thăng Long, Xay xát gạo Hà Nội, Gỗ dán Cầu Đuống, Diêm Thống Nhất, Cá hộp Hải Phòng, một số nhà máy điện...

Với tư tưởng ngoại giao “phải luôn luôn vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ”, ngay sau khi ổn định tình hình của một nửa đất nước sau chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng, Chính phủ Việt Nam thăm ba nước Liên Xô, Trung Quốc, Mông Cổ từ ngày 22/6 đến ngày 22/7/1955, mở ra thời kỳ các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới ủng hộ và giúp đỡ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam.

Sau chuyến thăm, một loạt các thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Liên Xô, Trung Quốc và Mông Cổ được ký kết. Trong hai năm, Liên Xô giúp Việt Nam các thiết bị máy móc, kỹ thuật trị giá 306 nghìn triệu đồng (tiền ngân hàng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) để khôi phục và phát triển 25 xí nghiệp; Trung Quốc giúp khôi phục hệ thống đường sắt, bến tàu, tu sửa cầu đường, xây dựng nhà máy dệt, nhà máy thuộc da, nhà máy giấy... trị giá 1.224 nghìn triệu đồng trong 5 năm; Mông Cổ giúp 500 tấn thịt và một số bò và cừu để lập một nông trường chăn nuôi.

Trong 3 năm (1955 - 1957), Việt Nam ký liên tiếp các hiệp định kinh tế thương mại với các nước xã hội chủ nghĩa như: Hiệp định viện trợ kinh tế - kỹ thuật với Liên Xô (tháng 7/1955); với Hunggari (tháng 12/1955); Hiệp định thương mại với Bungari (tháng 01/1956); với Tiệp Khắc (tháng 01/1956); Hiệp định viện trợ hàng hóa với Cộng hòa Dân chủ Đức (tháng 01/1956); Hiệp định mậu dịch năm 1956 với Cộng hòa Dân chủ Đức (tháng 3/1955); Hiệp định viện trợ kinh tế và Mậu dịch Việt Nam - Rumani (tháng 4/1956); Hiệp định trao đổi hàng hóa Việt Nam - Rumani (tháng 02/1957); Hiệp định trao đổi hàng hóa và thanh toán Việt Nam - Tiệp Khắc (tháng 3/1957)...7.

cơ khí Hà Nội

Lễ khánh thành Nhà máy Cơ khí Hà Nội (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Trong các công trình viện trợ, Nhà máy Cơ khí Hà Nội - còn gọi là Nhà máy Cơ khí trung quy mô, được đánh giá vào loại hiện đại do Liên Xô giúp xây dựng xong vào cuối năm 1957 có thể chế tạo các máy công cụ cắt gọt chính xác, như máy tiện, máy phay, máy bào, máy khoan; hằng năm, Nhà máy bán ra thị trường 600 chiếc máy cái.

Kết quả, số lượng các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh tăng từ 41 cơ sở (năm 1954) lên 151 cơ sở (năm 1957); trong đó 2/3 là xí nghiệp công nghiệp trung ương và 1/3 là xí nghiệp công nghiệp địa phương.

Nhờ vậy, chỉ trong vòng 3 năm 1955 - 1957, giá trị sản lượng công nghiệp quốc doanh tăng gấp 6,94 lần, từ 34 tỉ đồng lên 236 tỉ đồng. Nếu cuối năm 1954, giá trị sản lượng công nghiệp chỉ chiếm 1,5% tổng giá trị sản lượng công - nông nghiệp thì đến năm 1957 đã tăng lên 9,3%. Công nghiệp tư bản tư doanh và tiểu chủ công nghiệp cũng đạt hiệu quả cao trong thời kỳ này; năm 1955 có trên 51,6 nghìn cơ sở và trên 128,6 nghìn công nhân, đến năm 1956 tăng lên gần 55 nghìn cơ sở và 161 nghìn công nhân.

Kết thúc thời kỳ khôi phục, sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu của miền Bắc đã đạt ngang và vượt mức năm 1939 - là năm cao nhất dưới thời Pháp thuộc; trong đó, sản phẩm tư liệu sản xuất (nhóm A) bằng 72%, sản phẩm công nghiệp nhẹ (nhóm B) bằng 112% so với năm 19398.

Cụ thể là, sản lượng điện tăng từ 53 triệu kWh lên 121,2 triệu kWh (năm 1939 là 122,6 triệu kWh); than tăng từ 0,6 triệu tấn lên 1,1 triệu tấn (năm 1939 là 2,6 triệu tấn); ximăng tăng từ 8.500 tấn lên 165.100 tấn (năm 1939 là 305.800 tấn); phân bón hóa học tăng từ 6.400 tấn lên 22.500 tấn (năm 1939 là 35.000 tấn); giấy tăng từ 800 tấn lên 2.400 tấn (năm 1939 là 3.000 tấn); diêm tăng từ 2,4 triệu bao lên 87,2 triệu bao (năm 1939 là 323 triệu bao); vải tăng từ 8,8 triệu mét lên 68,1 triệu mét (năm 1939 là 20,1 triệu mét); sợi bông tăng từ 200 tấn lên 9.400 tấn (năm 1939 là 12.900 tấn); gạch xây dựng tăng từ 51 triệu viên lên 409,2 triệu viên; gỗ xẻ tăng từ 29.800 m3 lên 89.600 m3; xà phòng tăng từ 700 tấn lên 2.600 tấn; thuốc chữa bệnh các loại tăng từ 12,1 triệu ống và 69,3 triệu viên lên 45,4 triệu ống và 188 triệu viên...9.

nhà máy sàng

Nhà máy Sàng Cửa Ông do người Pháp xây dựng năm 1924 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Người Anh hùng Lao động đầu tiên của ngành Than

Năm 1955, vùng mỏ hoàn toàn giải phóng, cùng với cả miền Bắc, công nhân Xí nghiệp Bến Cửa Ông khẩn trương bắt tay vào khôi phục sản xuất. Trước đó, khi chuẩn bị rút đi, người Pháp đã phá hủy máy móc, nhà sàng và bến cảng Cửa Ông (nay là Công ty Tuyển than Cửa Ông thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam), làm đảo lộn toàn bộ hệ thống điện. Người Pháp còn tuyên bố: “Ít ra cũng phải 20 đến 25 năm nữa, người An Nam mới đào được than và đưa sản xuất trở lại”.

Ngay các công nhân cũng cho rằng, muốn khắc phục phải tốn nhiều thời gian và công sức, thậm chí nguy hiểm đến cả tính mạng, bởi họ đã mang đi các thiết bị điện quan trọng, các sơ đồ của các hệ thống điện, nhất là hệ thống điện cao thế phục vụ cho cầu trục ở cảng.

Tuy nhiên, với phẩm chất thông minh, sáng tạo và trí nhớ tuyệt vời, người thợ điện Lê Văn Hiển trong một thời gian rất ngắn đã vẽ lại toàn bộ hệ thống mạng điện của xí nghiệp. Chưa đầy một tháng, bến cảng, nhà máy hàn hơi, nhà máy luyện than, đường dây cao thế ở cảng Cửa Ông, hệ thống vận tải đường sắt, các đầu máy kéo than và hệ thống cần trục đều đã được sửa chữa và đi vào hoạt động.

Ngày 07/7/1958, công nhân Lê Văn Hiển đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, là người đầu tiên của ngành Than được tặng danh hiệu cao quý này.

Năm 1965, Anh hùng Lê Văn Hiển cùng với đội ngũ công nhân Xí nghiệp Bến Cửa Ông đã hoàn thành xuất sắc kế hoạch sản xuất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi. Năm 1967, đại đội tự vệ phân xưởng sàng đã được tuyên dương đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, cũng là đơn vị anh hùng đầu tiên của vùng mỏ. Năm 1968, cán bộ, công nhân viên Xí nghiệp đã thi đua hoàn thành toàn diện kế hoạch sản xuất trước thời hạn 48 ngày, một lần nữa Xí nghiệp được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện khen.

Nguồn: Vinacomin.vn và báo Quảng Ninh.

c) Xác lập hệ thống quản lý mới

Theo Nghị định số 91/BCN-QĐ ngày 28/3/1956, Bộ Công nghiệp được tách ra từ Bộ Công Thương, có chức năng quản lý hành chính - kinh tế - kỹ thuật các xí nghiệp quốc doanh và hợp doanh của ngành, tổ chức điều tra, thăm dò tài nguyên, quy hoạch và đào tạo cán bộ, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp trong tình hình mới.

Điểm nhấn quan trọng của thời kỳ này là bắt đầu hình thành tổ chức bộ máy phục vụ công tác kế hoạch hóa nền kinh tế. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khóa II (tháng 8/1955), lần đầu tiên vấn đề kế hoạch hóa kinh tế được nêu lên: “Sau khi khôi phục, nhất định chúng ta phải kiến thiết miền Bắc một cách có kế hoạch”10. Việc xây dựng bộ máy được tiến hành rất khẩn trương, Ủy ban Kế hoạch quốc gia được thành lập theo Thông tư số 603/TTg ngày 14/10/1955. Hệ thống kế hoạch cũng dần được hoàn chỉnh: cấp tỉnh có ủy ban kế hoạch tỉnh, cấp huyện có phòng kế hoạch huyện, các bộ có vụ kế hoạch, các xí nghiệp có phòng kế hoạch.

thủy điện Tà Sa

Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Trần Đại Nghĩa cắt băng khánh thành Nhà máy Thủy điện Tà Sa - Na Ngàn (Cao Bằng), ngày 19/11/1957 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Thông tư số 603/TTg về việc thành lập Ủy ban Kế hoạch quốc gia nêu rõ: “Trong chế độ kinh tế dân chủ nhân dân của chúng ta ở miền Bắc, việc khôi phục và phát triển kinh tế và văn hóa phải dần dần kế hoạch hóa. Ủy ban Kế hoạch quốc gia sẽ thực hiện từng bước công việc kế hoạch hóa, bảo đảm việc củng cố miền Bắc”.

Tháng 12/1955, Ủy ban Kế hoạch quốc gia đã xây dựng kế hoạch năm 1956 trình Hội đồng Chính phủ thông qua. Đây là kế hoạch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nội dung chủ yếu của kế hoạch hóa kinh tế là Nhà nước quản lý trực tiếp bằng các chỉ tiêu, kế hoạch mang tính pháp lệnh, quy định chặt chẽ cho các bộ, địa phương, xí nghiệp sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, phân phối cho ai.

Tiếp đến, các tổ chức bộ máy phục vụ công tác kế hoạch hóa kinh tế dần dần hình thành. Tháng 02/1956, thành lập Cục Thống kê Trung ương, các ban thống kê địa phương, các cơ quan thống kê của các bộ, các xí nghiệp. Ngày 28/3/1956, thành lập Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ, có nhiệm vụ: “Thanh tra công tác các bộ, các cơ quan hành chính và chuyên môn các cấp, các doanh nghiệp của Nhà nước; thanh tra việc thực hiện kế hoạch Nhà nước, việc sử dụng, bảo quản tài sản nhà nước chống phá hoại tham ô và lãng phí”11.

Kế hoạch hóa kinh tế được gắn liền với hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Do đó, về quản lý, Chính phủ và các bộ đã ban hành các quy chế và biện pháp quan trọng sau:

- Về quản lý tiền mặt, cho phép xí nghiệp thực hiện tài chính - kế toán độc lập, được mở tài khoản riêng ở ngân hàng và buộc phải gửi tiền mặt, tiền séc vào ngân hàng; ngân hàng thông qua nghiệp vụ nhận gửi và cho vay mà theo dõi, giám sát và quản lý thu - chi cũng như hoạt động sản xuất của xí nghiệp theo kế hoạch (Thông tư số 05/TT-LB của liên bộ Công nghiệp và Ngân hàng Quốc gia ngày 21/11/1956).

- Về thuế, bổ sung một số quy định áp dụng thuế doanh nghiệp đối với mọi đối tượng kinh doanh, chỉ miễn trong trường hợp làm nhiệm vụ đặc biệt, nhất là luật phải nộp thuế hàng hóa đối với những hàng hóa đánh thuế, nhằm tăng cường nguồn thu cho ngân sách và thúc đẩy xí nghiệp cải tiến quản lý, tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm (Chỉ thị số 758/TTg ngày 30/4/1956).

- Điều lệ số 735/TTg ngày 10/4/1956 tạm thời về Hợp đồng kinh doanh được ban hành nhằm tăng cường liên kết kinh tế và trách nhiệm vật chất đối với việc thực hiện cam kết hợp đồng giữa các xí nghiệp quốc doanh với nhau và giữa quốc doanh với tư doanh.

- Quyết định số 130/TTg ngày 04/4/1957 về việc áp dụng chế độ hạch toán kinh tế nhằm tăng cường sự quản lý tập trung của Nhà nước, đồng thời phát huy tính tích cực của xí nghiệp.

Mặc dù đến năm 1956, công tác kế hoạch hóa kinh tế đã được thực hiện đầy đủ trên các mặt tổ chức bộ máy, con người và hoạt động thực tiễn, nhưng miền Bắc lúc đó chưa phải là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung như sau này. Bên cạnh các xí nghiệp quốc doanh thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước vẫn tiếp tục được khuyến khích phát triển. Kinh tế tư nhân và cá thể được Nhà nước định hướng sản xuất - kinh doanh bằng chính sách, chứ không chịu sự phân công sản xuất theo kế hoạch.

Về đào tạo, bắt đầu xây dựng hệ thống các trường đại học khoa học - kỹ thuật, các trường cao đẳng, và trung học chuyên nghiệp và dạy nghề do Trung ương quản lý. Bộ Công nghiệp cũng thành lập các trường đào tạo của ngành như: Trường Trung cấp Kỹ thuật II ở Hà Nội đào tạo cán bộ kỹ thuật cho các ngành Hóa chất, Địa chất, Mỏ, Giấy, Thực phẩm; Trường Trung cấp Kỹ thuật III ở Nam Định đào tạo cán bộ kỹ thuật cho ngành Dệt.

Đối với công tác điều tra cơ bản, miền Bắc đã tiến hành thăm dò địa chất và khoáng sản, đánh giá tài nguyên 22 mỏ, nhằm phục vụ cho việc quy hoạch và kế hoạch phát triển công nghiệp, khảo sát, thiết kế xây dựng mới; đồng thời thu thập, xử lý nhiều tài liệu quý giúp cho việc mở rộng các mỏ cũ. Nhằm phục vụ công tác nghiên cứu, điều tra và khảo sát, Bộ Công nghiệp đã tổ chức một số đội khảo sát, các phòng thí nghiệm khoa học, nghiên cứu thành công nhiều đề tài cải tiến kỹ thuật và chế tạo thành công hơn 20 mặt hàng mới thay thế nhập khẩu.

mỏ thiếc

Một chuyên gia ngành Địa chất của Liên Xô đang giới thiệu tác dụng của mũi khoan máy thăm dò cho các công nhân Mỏ thiếc Tĩnh Túc - Cao Bằng (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

“Đứa con đầu lòng” của ngành kim loại màu Việt Nam

Sau giải phóng miền Bắc, cùng các khai trường, hầm mỏ do người Pháp để lại, Cao Bằng được Trung ương định hướng tập trung vào ngành công nghiệp khai thác kim loại màu. Với sự giúp đỡ về vật chất của Liên Xô và các chuyên gia Liên Xô, ngày 25/10/1955, Mỏ thiếc Tĩnh Túc khởi công, đồng thời xây dựng đội ngũ công nhân, cải tạo lại các cơ sở, hầm mỏ sản xuất... Đúng một năm sau, ngày 06/10/1956, Xí nghiệp sản xuất Mỏ thiếc Tĩnh Túc được khánh thành và đi vào hoạt động.

Hồi ấy, để làm ra hạt quặng ở Tĩnh Túc, người thợ mỏ phải vượt qua biết bao gian khổ; đường sá xa xôi, rừng thiêng nước độc. Khi san gạt mặt bằng xây dựng mỏ, công nhân thấy có bộ hài cốt mà xương ống tay và xương ống chân vẫn bị còng xích sắt; bộ hài cốt khác thì phần xương sọ có chiếc đinh xuyên từ đỉnh đầu đến quai hàm. Những hiện vật này đang lưu giữ ở bảo tàng tỉnh Cao Bằng. Phải chăng, đó là hài cốt của những chiến sĩ cộng sản, hoạt động ở khu mỏ, bị địch tra tấn đã anh dũng hy sinh?

Những ngày đó, Cao Bằng trở thành niềm tự hào của cả nước với Mỏ thiếc Tĩnh Túc hiện đại - “đứa con đầu lòng” của ngành khai khoáng kim loại màu Việt Nam. Công trình khi đó có quy mô lớn nhất Đông Nam Á. Đến nay, nhiều thế hệ người lao động Tĩnh Túc vẫn nhớ đến những năm tháng hào hùng đó.

Thời điểm đó, Mỏ Tĩnh Túc có khoảng gần 4.000 công nhân. Từ sáng sớm, còi báo công nhân đi làm vang lên khắp thị trấn, công nhân đi làm theo ca, mỗi ngày có ba ca. Tuần này làm ca sáng thì tuần sau làm ca chiều, tuần sau nữa làm ca tối và cứ quay vòng như vậy. Hằng ngày có xe thùng của mỏ đến đón đi làm đông vui tấp nập.

Nguồn: Vinacomin.vn và báo Cao Bằng.

Khuyến khích công nghiệp tư doanh

Tháng 12/1956, Trung ương họp Hội nghị lần thứ 11 (mở rộng) về tình hình và nhiệm vụ kinh tế tài chính trước mắt. Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị tiếp tục khẳng định: “Một vấn đề quan trọng vào bậc nhất hiện nay cần được kiểm điểm kỹ là chính sách đối với khu vực kinh tế tư nhân”12. Sau Hội nghị, Nghị quyết số 02 - NQ/TW được ban hành, yêu cầu: “Củng cố và xây dựng dần dần khu vực kinh tế tư bản nhà nước; ra sức phát huy mọi khả nǎng tiềm tàng của thủ công nghiệp và nghề phụ ở nông thôn, chú trọng tận dụng khả nǎng tích cực đồng thời ngăn ngừa mặt tiêu cực của công thương nghiệp tư doanh”13.

Đây cũng là thời kỳ có nhiều chính sách được luật hóa, nhằm hỗ trợ kinh tế ngoài nhà nước. Theo đề nghị của các bộ quản lý ngành Công Thương, Chính phủ ban hành Nghị định số 488/TTg ngày 30/3/1955 về việc đăng ký các loại kinh doanh công thương nghiệp; Quyết định số 609/TTg ngày 04/11/1955 của Thủ tướng Chính phủ về việc cho phép kinh doanh và đăng ký kinh doanh công thương nghiệp; Nghị định số 708/TTg ngày 20/3/1956 ban hành Điều lệ tạm thời về các xí nghiệp tư nhân; Thông tư số 3191 ngày 09/12/1955 về việc phân công các ngành đăng ký công thương nghiệp.

làm nón

Chị em phụ nữ xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội) làm nón, tháng 10/1957 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tư nhân khá đa dạng. Có thể kể: hỗ trợ vốn lưu động dưới dạng cung cấp nguyên vật liệu; vay vốn; mậu dịch quốc doanh đặt hàng, cung cấp nguyên vật liệu và bao tiêu sản phẩm... Nhờ đó, các nghề và làng nghề thủ công mỹ nghệ tiêu điều trong chiến tranh đã hoạt động trở lại và phục hồi nhanh chóng, nhất là các ngành nghề phục vụ cho sản xuất và đời sống nhân dân. Tiêu biểu như làng nghề nón Chuông, đúc đồng Ngũ Xã, pháo Bình Đà, tơ lụa Hà Đông, giấy dó Đông Khê, sứ Bát Tràng, rèn Đa Hội, mộc Đồng Kỵ, sơn mài Đình Bảng, giò chả Ước Lễ...

Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tư nhân, cá thể tạo ra giá trị sản lượng hàng hóa lớn cho xã hội. Năm 1955 đạt 276 triệu đồng, năm 1956 đạt 466 triệu đồng, năm 1957 đạt 614 triệu đồng. Giai đoạn 1955 - 1957, tốc độ tăng giá trị sản lượng của công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tư nhân, cá thể đạt 222,4%14.

Nhìn chung, giai đoạn ba năm khôi phục và phát triển công nghiệp đã kết thúc thắng lợi. Nhờ sự huy động của Nhà nước và viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, miền Bắc đã đặt nền tảng bước đầu xây dựng nền công nghiệp tự chủ với các phân ngành cơ khí, khai khoáng, điện năng, luyện kim, hóa chất, dược phẩm, ngành dệt, ngành giấy...; đồng thời phát huy được sức mạnh của các thành phần kinh tế tạo ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu sản xuất, nhu cầu tiêu dùng; hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có vị trí, vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế và đời sống xã hội, phục vụ đắc lực cho các ngành nông, lâm, ngư nghiệp.

Nghị quyết số 02-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 11 (mở rộng) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa II, đánh giá: “Những thành tích về việc khôi phục công nghiệp và thủ công nghiệp đã góp phần duy trì sinh hoạt của những thành thị mới giải phóng, giải quyết một phần nạn thất nghiệp, cung cấp một số hàng cho nhân dân và cho xuất khẩu, tập hợp và đào tạo được một số cán bộ và công nhân”15.

Việc khuyến khích, hỗ trợ các thành phần kinh tế cùng phát triển có thể được xem là một thành tựu trong tư duy phát triển đất nước. “Thiết thực khuyến khích, hướng dẫn, giúp đỡ công nghiệp tư doanh sản xuất có lợi cho kinh tế quốc dân”16; “Sử dụng đúng mức khả năng của thương nghiệp tư nhân trong việc đẩy mạnh lưu thông hàng hóa trong nước, trong việc buôn bán với miền Nam và buôn bán với nước ngoài”17.

Vực dậy nghề rèn làng Vát

Thôn Việt Vân (hay còn gọi là làng Vát) là một làng cổ nằm ở phía tây nam xã Việt Thống, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, có nghề rèn nổi tiếng từ lâu đời đem lại việc làm và thu nhập cho người dân.

Với người làng Vát, không ai nhớ rõ khởi thủy của nghề rèn, nhưng theo các bậc cao niên trong làng thì nghề rèn đã có ít nhất gần nghìn năm tuổi. Vào thời Lý (thế kỷ XI), khi Thái úy Lý Thường Kiệt cho xây dựng phòng tuyến sông Cầu để đánh quân Tống thì người dân làng Vát đã lập thành xưởng rèn vũ khí phục vụ triều đình; hiện ngoài bờ đê vẫn còn mô đất là dấu tích minh chứng.

Dân làng đến nay vẫn kể cho nhau về sự nghiệp vẻ vang, được sử sách ghi lại gắn với sự tích Linh từ Quốc mẫu (vợ Thái sư Trần Thủ Độ) - là người có sáng kiến nhờ thợ làng Vát rèn một cây kiếm quý trao cho người có công để khích lệ quân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông (thế kỷ XIII).

Sau những năm tháng thăng trầm, nghề rèn phát triển mạnh trở lại. Từ những năm 1945, Mặt trận Việt Minh về đặt vấn đề rèn kiếm và dao găm để cung cấp cho nhân dân trong vùng đánh Pháp đuổi Nhật. Thời kỳ 1949 - 1950, khi công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ của dân tộc bước sang giai đoạn phản công, yêu cầu rèn đúc các loại vũ khí đánh giặc được đặt ra, làng nghề đã rèn các loại vũ khí là giáo, mác, dao, kiếm...

Từ năm 1955 trở đi là thời kỳ phát triển nhất của làng nghề. Mậu dịch quốc doanh đặt gia công các sản phẩm như dao, kéo, liềm, cuốc... để phục vụ phát triển nông nghiệp. Cả làng tất bật với nghề, ba giờ sáng đã bắt đầu nổi lửa. Nhiều gia đình giàu lên nhờ làm nghề như hộ ông Khuông, ông Lương, ông Đốc, ông Minh, ông Quản Lưu, ông Quản Khôi... Thời kỳ này, Hợp tác xã lò rèn Việt Vân được thành lập với trên 30 lò rèn do ông Nguyễn Văn Chiền làm chủ nhiệm, có một tổ đảng với 6 - 7 đảng viên sinh hoạt. Cứ vào cuối tuần là cả làng lại tấp nập mang hàng lên thị xã để nhập cho Ty Thương nghiệp phân phối đi các nơi.

Đặc biệt vào năm 1960, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm đê sông Cầu và kiểm tra công tác phòng, chống lụt bão của xã Việt Thống, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nghe người dân kể về tình hình sản xuất của làng nghề. Sau đó, người thợ làng Vát được giao đánh 2 con dao cạo râu và kéo cắt tóc để gửi tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cụ Học và cụ Đốc được giao nhiệm vụ mang ra Trung ương tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh và được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn.

Những năm 1966 - 1967, được sự giúp đỡ của các chuyên gia Triều Tiên, Nhà nước tổ chức xây dựng hệ thống trạm bơm ở Kim Chân, Hiền Lương, Phả Lại (thuộc huyện Quế Võ) để phục vụ tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp. Các chuyên gia Triều Tiên đã trực tiếp về làng tuyển thợ giỏi để gò hàn các đầu mối quan trọng. Khi về làng, chuyên gia đã giao đồ cho hiệp thợ rèn làng Vát làm. Chỉ căn cứ bằng “mực mắt” và đôi tay lành nghề, người thợ đã nhanh chóng hoàn thành sản phẩm và được các chuyên gia đánh giá rất cao và có giấy chứng nhận thợ bậc 4, bậc 5 cho rất nhiều người thợ ở làng; trong đó, ông Nguyễn Văn Tụng và Nguyễn Văn Kiu được đoàn chuyên gia phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân”.

Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh.


1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.295.

3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.295-296, 296.

5. Xem Lenin: “The role and funcions of the trade unions under the new economic policy”, V.I. Lenin Collected Works, Progress Publishers, Moscow, Vol. 33, pp.184-196.

6. Xem Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.2, tr.36.

7. Xem Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.39.

8, 9. Xem Bộ Công Thương: Sơ lược lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Nxb. Công Thương, Hà Nội, 2011, tr.112-113.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.16, tr.507.

11. Sắc lệnh số 261/SL ngày 28/3/1956 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

12, 13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.697, 736-737.

14. Xem Bộ Công Thương: Sơ lược lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.114-115.

15, 16, 17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.724, 739, 741.

3. Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965)

a) Chủ trương

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960) đã đề ra đường lối cách mạng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội xác định đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, thông qua nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế quốc dân. Tháng 4/1962, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III bàn về vấn đề xây dựng và phát triển công nghiệp theo phương hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý; kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với ưu tiên phát triển công nghiệp nặng; ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương, kết hợp xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ, kết hợp kỹ thuật hiện đại với kỹ thuật thô sơ.

Tiếp đến, Hội nghị lần thứ 8 (tháng 4/1963) về kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), xác định phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu và biện pháp chủ yếu của kế hoạch này.

Nội dung công nghiệp hóa

Thứ nhất, xác định rằng, thực chất của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là làm cách mạng khoa học - kỹ thuật; phát triển công nghiệp nặng để từng bước cải tạo kỹ thuật và trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế quốc dân.

Thứ hai, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; là khâu quyết định nhất để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên.

Thứ ba, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện và ra sức phát triển công nghiệp nhẹ. Ba bộ phận: công nghiệp nặng - nông nghiệp - công nghiệp nhẹ quan hệ mật thiết với nhau, cùng nương tựa nhau, thúc đẩy nhau phát triển với nhịp độ nhanh và theo tỷ lệ cân đối.

Thứ tư, kết hợp chặt chẽ ba mặt: phát huy cao độ tinh thần tự lực cánh sinh; sử dụng sự giúp đỡ của các nước anh em một cách hợp lý và có lợi nhất; và tích cực mở rộng sự hợp tác kinh tế của ta với các nước anh em.

Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được cụ thể hóa thành phương hướng, nhiệm vụ phát triển toàn ngành công nghiệp và các phân ngành công nghiệp trong kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965).

Nhiệm vụ của toàn ngành công nghiệp

- Xây dựng một bước cơ sở vật chất và kỹ thuật cho một nền công nghiệp hiện đại xã hội chủ nghĩa theo đường lối phát triển ưu tiên công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển công nghiệp nhẹ. Kết hợp với phát triển công nghiệp hiện đại của Nhà nước, vẫn phải coi trọng và ra sức phát triển thủ công nghiệp hợp tác hóa bằng cách đẩy mạnh cải tiến công cụ, cải tiến thiết bị và cải tiến kỹ thuật.

- Đẩy mạnh sản xuất các tư liệu sản xuất, chủ yếu là phát triển điện lực đi trước một bước, phát triển công nghiệp gang thép và công nghiệp chế tạo cơ khí, đồng thời phát triển công nghiệp than, công nghiệp vật liệu xây dựng và bước đầu xây dựng công nghiệp hóa học, nhằm phát huy năng lực trong nước, cung cấp một số loại vật tư kỹ thuật, nguyên liệu, vật liệu cho xây dựng cơ bản, cho sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải. Đặc biệt, cần chú trọng hướng công nghiệp phục vụ nông nghiệp, phục vụ cải tiến nông cụ, cải tiến kỹ thuật và chế biến nông sản.

- Ra sức phát triển các hàng tiêu dùng, thỏa mãn hầu hết các nhu cầu phổ thông về mặc, ăn uống, đồ dùng, học tập, bảo vệ sức khỏe, nâng cao dần đời sống của nhân dân.

- Đẩy mạnh chế biến các nông sản, mở rộng khai thác một số khoáng sản, mở rộng gia công các loại hàng thủ công có giá trị để tăng thêm nguồn hàng xuất khẩu.

Phương hướng phát triển các ngành công nghiệp

Điện lực: Phát triển thủy điện kết hợp với phát triển nhiệt điện, nhằm giảm giá thành xây dựng và giá thành phát điện, điều hòa việc cung cấp điện, phục vụ kịp thời cho nhu cầu phát triển kinh tế trong kế hoạch 5 năm và chuẩn bị một phần cho kế hoạch sau. Đi đôi với việc xây dựng các nhà máy mới, cải tiến thiết bị, tăng thêm công suất một số nhà máy sẵn có. Ở các địa phương, chú trọng lợi dụng sức nước, sức gió, hơi mêtan, xây dựng những trạm phát điện nhỏ để phục vụ cho nhu cầu của địa phương.

Xây dựng hệ thống lưới điện nối liền các nhà máy loại lớn và loại vừa với nhau và với những nơi tiêu thụ điện. Mặt khác, tăng cường quản lý việc dùng điện, hết sức tiết kiệm điện. Trong những năm 1961 - 1963, cần nghiên cứu mọi biện pháp để giảm nhẹ tình hình căng thẳng về cung cấp điện, đồng thời phải tập trung sức xây dựng xong các công trình đúng thời hạn để khắc phục sớm khó khăn về thiếu điện.

Luyện kim: Nhiệm vụ chủ yếu về công nghiệp luyện kim là cố gắng cung cấp phần lớn nhu cầu về gang, thép thông thường cho xây dựng cơ bản và một phần cho việc chế tạo cơ khí. Xây dựng xong Khu gang thép Thái Nguyên với công suất 200.000 tấn/năm; chú trọng phát triển sớm các lò cao cỡ nhỏ ở những nơi có điều kiện để sản xuất gang và xây dựng một số xí nghiệp liên hợp gang thép cỡ nhỏ. Để phục vụ cho công nghiệp gang thép, xây dựng và khai thác các mỏ sắt, đá vôi, đất chịu lửa,... xây dựng một số xưởng luyện các loại hợp kim gang cần cho việc nấu thép. Đồng thời, xúc tiến việc điều tra, thǎm dò, thiết kế, tích cực chuẩn bị để tiếp tục phát triển hơn nữa công nghiệp gang thép trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai.

Về luyện kim màu, xúc tiến việc khai thác và sản xuất chì, kẽm, khai thác bôxít và luyện nhôm, tích cực tăng thêm khả năng khai thác cromit, huy động tốt nhà máy thiếc. Đối với những mỏ đồng có trữ lượng ít, cần xây dựng cơ sở khai thác và sản xuất quy mô nhỏ.

Chế tạo cơ khí: Sản xuất một số loại máy móc công cụ chính xác cấp II trở xuống, một số loại thiết bị phối hợp đi theo với thiết bị toàn bộ, thiết bị về điện từ 100 kW trở xuống, tàu thủy từ 1.000 tấn trở xuống, xà lan, tàu kéo, canô, toa xe, một số thiết bị khoan lò, thiết bị thi công xây dựng cơ bản loại nhỏ.

Sản xuất các loại nông cụ cải tiến, một số máy móc nông nghiệp loại nhỏ, các loại máy móc giản đơn chế biến nông sản, ép gạch... để phục vụ nông nghiệp và công nghiệp địa phương.

Bảo đảm sửa chữa lớn và sản xuất một số loại phụ tùng, dụng cụ cho các ngành công nghiệp, vận tải, xây dựng cơ bản...

Kết hợp các xưởng cơ khí sẽ xây dựng trong kế hoạch 5 năm với các cơ sở sẵn có, bố trí thành một màng lưới cơ khí ở các địa phương để thực hiện các nhiệm vụ nói trên.

Gấp rút thống nhất và tăng cường quản lý ngành cơ khí, phân công sản xuất hợp lý giữa các cơ sở quốc doanh và công tư hợp doanh, giữa các cơ sở của Trung ương và các cơ sở địa phương để tận dụng khả năng hiện có và sử dụng tốt các cơ sở sẽ xây dựng thêm.

Khai thác than: Thỏa mãn đầy đủ nhu cầu trong nước về các loại than không khói, đồng thời tăng thêm mức xuất khẩu. Về than mỡ, cần hết sức đẩy mạnh thăm dò, thiết kế... để tiến tới giải quyết cho nhu cầu luyện than cốc.

Hướng chính để tăng sản lượng than vẫn là Hòn Gai, Cẩm Phả; chú trọng nâng cao trình độ khai thác cơ giới hóa và dần dần mở rộng việc khai thác bằng hầm lò; đồng thời tranh thủ mở các công trường khai thác ở Uông Bí, Mạo Khê, Tràng Bạch, Làng Cẩm. Ngoài ra, các địa phương có những mỏ than nhỏ, tổ chức khai thác để phục vụ nhu cầu của công nghiệp địa phương.

Vật liệu xây dựng: Thống nhất quản lý ngành vật liệu xây dựng, cố gắng đẩy mạnh sản xuất và khai thác để thỏa mãn nhu cầu về xây dựng cơ bản: tăng thêm cơ sở và phát triển sản xuất các loại gạch máy, ngói máy, gạch chịu lửa, cải tiến kỹ thuật và nâng cao chất lượng gạch ngói thủ công; đẩy mạnh khai thác cát, sỏi, đá; tăng thêm sản xuất các loại xi măng và các loại vôi; sản xuất các loại vật liệu đúc sẵn dể phục vụ việc cơ giới hóa ngành xây dựng; sản xuất các loại kính, đồ dùng vệ sinh..., cần cho việc xây dựng ở thành phố và xây dựng các nhà máy; đồng thời nghiên cứu, sản xuất các loại vật liệu rẻ tiền cần cho việc xây dựng nhà cửa ở nông thôn.

Hóa chất và phân bón: Sản xuất phân bón và thuốc trừ sâu cho nông nghiệp, đồng thời sản xuất một số hóa chất cơ bản như xút, axít sunfuríc, một số loại nguyên liệu hóa chất như thuốc nhuộm, sản xuất thuốc kháng sinh và một số dược liệu, sản xuất bông tơ nhân tạo theo quy mô nhỏ và tích cực chuẩn bị tiến tới sản xuất bông tơ nhân tạo theo quy mô lớn.

Xây dựng sớm nhà máy phân đạm; tích cực mở rộng khai thác mỏ apatít, xây dựng nhà máy làm giàu quặng, đẩy mạnh khai thác apatít để trao đổi với các nước anh em; tích cực thăm dò quặng lưu huỳnh cần cho việc sản xuất axít sunfuríc.

Khai thác gỗ và chế biến gỗ: Nhiệm vụ chính là tăng khối lượng gỗ khai thác hết sức lợi dụng các loại gỗ cành, gỗ nhánh; cơ giới hóa việc cưa, xẻ, gỗ; nghiên cứu, tổ chức ép gỗ vụn và sấy gỗ để tiết kiệm gỗ; chú trọng sản xuất các đồ gỗ dùng trong gia đình, cung cấp cho một phần nhu cầu của nhân dân.

Cần cố gắng thỏa mãn nhu cầu về giấy cho việc phát triển văn hóa. Đi đôi với việc xây dựng các xưởng hiện đại sản xuất giấy viết, giấy in, giấy báo, cần mở những xưởng giấy nhỏ ở các địa phương để sản xuất loại giấy thường.

Dệt, may mặc và da: Mở rộng và cải tiến Nhà máy Dệt Nam Định, Nhà máy Sợi và cải tiến nghề dệt thủ công. Xây dựng các nhà máy dệt kim, dệt bao tải, chế biến gai, đan lưới đánh cá, thuộc da, đóng giày.

Nâng cao kỹ thuật bật bông, kéo sợi; nghiên cứu dùng các loại cây có sợi như đay, gai,... để dệt vải. Cần tổ chức thu mua và thuộc da lợn để tăng sản lượng da.

Công nghiệp thực phẩm: Thỏa mãn nhu cầu về một số thực phẩm chủ yếu như đường, nước mắm và tăng thêm mức cung cấp về một số sản phẩm khác. Đồng thời, cần đẩy mạnh việc chế biến những sản phẩm để xuất khẩu.

Sử dụng tốt năng lực của nhà máy cá hộp; phát triển thêm các nhà máy xay loại vừa và nhỏ. Đi đôi với kế hoạch phát triển nông trường quốc doanh, cần xây dựng và sắp xếp hợp lý các cơ sở chế biến nông sản, như xưởng chè, xưởng chế biến cà phê, xưởng làm hoa quả hộp, bột, thịt, sữa.

Các ngành công nghiệp nhẹ khác: Chú trọng phát triển sản xuất các đồ dùng trong gia đình, xây dựng thêm nhà in, xây dựng xưởng phim, xưởng sản xuất đồ dùng thể thao, xưởng sản xuất học cụ, xưởng sản xuất xe đạp, kết hợp với xưởng máy điện thoại, sản xuất các phụ tùng thông dụng về vô tuyến điện để phục vụ công tác truyền thanh...

Công nghiệp quốc doanh địa phương: Có kế hoạch đẩy mạnh phát triển thủ công nghiệp và tận dụng năng lực sản xuất của các cơ sở công nghiệp công tư hợp doanh. Kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp do Trung ương quản lý và công nghiệp địa phương, giữa công nghiệp quốc doanh, công nghiệp công tư hợp doanh và thủ công nghiệp hợp tác hóa để hỗ trợ nhau cùng phát triển và bổ sung cho nhau.

Xây dựng những cơ sở nhỏ sản xuất theo lối bán cơ khí, nhằm giải quyết những nhu cầu của địa phương và hỗ trợ cho công nghiệp của Trung ương. Chú trọng những ngành nghề mà thủ công nghiệp không giải quyết được, hoặc không cung cấp đủ như nông cụ cải tiến, phương tiện vận tải thô sơ cải tiến, phân bón, vật liệu xây dựng, xay xát gạo, đường, bột, nước mắm, cá sấy,...

Chú trọng khả năng giải quyết nguyên liệu của địa phương trên cơ sở bảo đảm cung cấp nguyên liệu cho Trung ương và không ỷ lại vào việc Trung ương cung cấp nguyên liệu; cố gắng bảo đảm chất lượng và tiêu thụ; với một số loại sản phẩm cần đặc biệt khuyến khích như gang, thép... Nhà nước có chính sách bù lỗ trong thời gian đầu giá thành sản xuất còn cao, nhưng địa phương và cơ sở sản xuất phải phấn đấu để hạ dần giá thành.

Thủ công nghiệp: Hướng dẫn và giúp đỡ đẩy mạnh sản xuất vật liệu xây dựng nhà ở cho nhân dân, chế biến thực phẩm dùng ở địa phương, chế biến lần đầu các loại nông sản, lâm sản, hải sản để cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, phát triển các nghề làm đồ mây, cói, tre, song, các hàng mỹ nghệ và các hàng khác có giá trị xuất khẩu. Những ngành quan trọng như sản xuất ngũ kim nhỏ, sản xuất vật liệu xây dựng, dệt vải, thuộc da,... cần được chú ý giúp đỡ cải tiến thiết bị, cải tiến kỹ thuật, nâng cao phẩm chất và hạ giá thành sản phẩm.

b) Kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất đặt ra những chỉ tiêu lớn phát triển công nghiệp đến năm 1965

- Tỷ trọng trong nền kinh tế: Công nghiệp và thủ công nghiệp chiếm khoảng 51%, nông nghiệp chiếm khoảng 49%.

- Tỷ trọng của các thành phần kinh tế: Trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp, công nghiệp quốc doanh chiếm 68,9%, các xí nghiệp công tư hợp doanh và xí nghiệp hợp tác chiếm 5,3%, thủ công nghiệp hợp tác hóa chiếm 17,7%1.

- Vốn đầu tư vào công nghiệp chiếm khoảng 48% tổng mức đầu tư vào kinh tế và văn hóa; trong đó, nhóm A khoảng dưới 80% và nhóm B khoảng trên 20%.

- Giá trị sản lượng công nghiệp tăng bình quân hằng năm 17%, trong đó nhóm A tăng khoảng 20% và nhóm B tăng khoảng 15%, công nghiệp quốc doanh trung ương tăng bình quân hằng năm khoảng 22%, công nghiệp quốc doanh địa phương khoảng 20% và tiểu thủ công nghiệp 9%2.

Rất tiếc kế hoạch 5 năm đang được khẩn trương thực hiện còn chưa kết thúc thì cuối năm 1964, không quân Mỹ đánh phá miền Bắc. Từ đây, công nghiệp và toàn bộ đời sống kinh tế được đặt trong hoàn cảnh thời chiến.

c) Bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội

Trong 5 năm 1961 - 1965, tổng khối lượng vốn đầu tư cho công nghiệp thực hiện 1.351,8 triệu đồng, trong đó công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất (nhóm A): 78% và công nghiệp nhẹ (nhóm B): 22%. Theo cách phân loại khác: công nghiệp trung ương: 74,7%, công nghiệp địa phương: 25,3%. Riêng hai ngành Điện lực và Luyện kim đen chiếm 40% tổng vốn đầu tư vào công nghiệp. Do đó, tổng giá trị tài sản cố định mới tăng thêm của công nghiệp trong 4 năm 1961 - 1964 là 1.031,5 triệu đồng, trong đó công nghiệp trung ương tăng 964,5 triệu đồng và công nghiệp địa phương tăng 67 triệu đồng.

Cả thời kỳ kế hoạch 5 năm đã xây dựng thêm 120 xí nghiệp, đưa tổng số xí nghiệp quốc doanh tăng từ 1.012 xí nghiệp năm 1960 lên 1.132 xí nghiệp năm 1965, trong đó công nghiệp trung ương: 205 xí nghiệp và công nghiệp quốc doanh địa phương: 927 xí nghiệp.

Trong thời kỳ này đã tăng thêm 113 xí nghiệp quy mô lớn, kỹ thuật hiện đại. Xây dựng xong và đưa vào sản xuất các xí nghiệp công nghiệp nặng như các nhà máy nhiệt điện: Uông Bí, Việt Trì, Thái Nguyên, Hà Bắc, Vinh; Phân đạm Hà Bắc; Phân lân Văn Điển và Thanh Hóa; Hóa chất và thuốc trừ sâu Việt Trì.

nhà máy dệt

Nhà máy Dệt 8-3 chính thức được khánh thành ngày 08/3/1965, sau 5 năm xây dựng (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Hoàn thành xây dựng và mở rộng nhiều xí nghiệp công nghiệp nhẹ như Dệt 8-3, Dệt len Hải Phòng, Sắt tráng men Hải Phòng, Nhuộm in hoa Hà Đông, Giấy Việt Trì, Đường Vạn Điểm và Sông Lam, Sứ Hải Dương, Xe đạp Thống Nhất, Cao su Sao Vàng, Bóng đèn Phích nước Rạng Đông... Đặc biệt, đẩy mạnh tốc độ xây dựng công trình cỡ lớn - Liên hợp Gang thép Thái Nguyên, vốn được khởi công từ cuối thời kỳ trước.

Giá trị sản lượng công nghiệp tăng 89% sau 5 năm, từ 1.458 triệu đồng năm 1960 lên 2.761 triệu đồng năm 1965. Tốc độ tăng giá trị sản lượng bình quân hằng năm đạt 13,6%; trong đó, công nghiệp nặng: 19,3% và công nghiệp nhẹ: 10,4%, công nghiệp quốc doanh trung ương: 20,4% và công nghiệp quốc doanh địa phương: 8,4%.

Tỷ trọng công nghiệp trong tổng giá trị sản lượng công - nông nghiệp từ 47% năm 1960 tăng lên 55% năm 1965. Cơ cấu công nghiệp cũng có sự thay đổi: công nghiệp nặng tăng từ 33,7% lên 42% và công nghiệp nhẹ giảm từ 66,3% xuống còn 58%; tỷ trọng công nghiệp trung ương: 51% và công nghiệp địa phương: 49%.

Bước đầu hình thành một cơ cấu công nghiệp theo hướng hiện đại, tự chủ. Công nghiệp trung ương phát triển chủ yếu về cơ khí, luyện kim, hóa chất, phân bón, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng. Công nghiệp địa phương dựa trên nguồn nguyên liệu tại chỗ để sản xuất các hàng hóa tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng thông dụng.

Hệ thống công nghiệp mới bao gồm ba bộ phận chủ yếu: công nghiệp quốc doanh trung ương, công nghiệp quốc doanh địa phương và tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã; trong đó công nghiệp nặng trung ương là xương sống của nền kinh tế quốc dân. Bước đầu hình thành một số khu công nghiệp tập trung như Hà Nội, Đông Anh, Việt Trì, Thái Nguyên, Hải Phòng, Nam Định, Hồng Quảng, Vinh,...

Công nghiệp quốc doanh, đặc biệt là công nghiệp trung ương, đã cung cấp cho nền kinh tế một khối lượng lớn những sản phẩm tư liệu sản xuất và hàng hóa tiêu dùng quan trọng: điện, than, gang, máy cắt gọt kim loại, động cơ điện, xà lan, bơm nước, phân bón hóa học, quặng apatít, ximăng, xe đạp, săm lốp xe đạp, nông cụ, vải, giấy, đồ thủy tinh, đồ sứ, đường mật, nước mắm,...

Những sản phẩm mới của công nghiệp nặng trung ương thời kỳ này chủ yếu là chế tạo thiết bị cỡ lớn và máy móc chính xác, như máy tiện 1 K62, máy mài M120, biến thế 1.800 kVA, động cơ 75 kW, bơm nước 4.000 - 8.000 m3/h, đầu máy xe lửa “Tự Lực”, bơm cao áp cho máy diesel, xích máy kéo, 14 loại phụ tùng cho ôtô. Ngoài ra, cũng tích cực nghiên cứu chế thử và đưa vào sản xuất máy mài chính xác, máy doa ngang, máy búa, máy dập, máy khoan đá, xe gạt, tàu hút bùn...

Anh hùng Lao động, “cha đẻ” choòng khoan “Made in Việt Nam”

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử năm 1954, miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế, Anh hùng Lao động Trần Văn Giao cũng vừa học xong lớp 7 phổ thông. Ông rời quê ra Hà Nội tham gia học một lớp địa chất của trường đào tạo thuộc Bộ Công Thương ngày nay. Cùng học một trường “Chùa Láng” với ông còn có những người về sau đều là cán bộ cao cấp của ngành. Ông Giao nhớ lại: “Khóa học chỉ 6 tháng, nhưng đã trang bị cho chúng tôi những kiến thức vô cùng quý báu. Hết khóa học, nhà trường tổ chức một đội tình nguyện lên Lào Cai, làm nhiệm vụ thăm dò mỏ apatít, tôi giơ tay và được chấm ngay”.

Lào Cai lúc đó bạt ngàn là rừng nguyên sinh. Cả đội như lặn vào cánh rừng bạt ngàn ấy. Công việc nặng nề, triền miên, ăn uống kham khổ, bệnh sốt rét da vàng hoành hành dữ dội. Sau sáu, bảy tháng, ông chuyển về công tác tại Mỏ than Na Dương rồi sau đó là các mỏ than Quán Triều, Làng Cẩm (Thái Nguyên)...

Năm 1959, tổ chức lại điều động ông về thăm dò các mỏ sắt thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Cao Bằng, trong đó có mỏ sắt Trại Cau. Khi về công tác ở Đoàn Địa chất số 8, ông trở thành Đội trưởng Đội Khoan máy khi vừa tròn 20 tuổi. Đội Khoan của Trần Văn Giao có 12 máy khoan do Liên Xô trang bị. Có thể nói đó là khối thiết bị hiện đại nhất thời bấy giờ. Công trường xây dựng Khu Gang thép Thái Nguyên đang vào giai đoạn khởi động. Một yêu cầu đặt ra là phải nhanh chóng có báo cáo đánh giá về trữ lượng quặng sắt của Việt Nam để lập quy hoạch và kế hoạch khai thác, phục vụ chủ trương phát triển ngành công nghiệp luyện gang thép của đất nước. Cả đội lao vào làm việc không kể đêm ngày...

Và sau những cống hiến không mệt mỏi của mình, ngày 03/5/1962, ông được vinh dự đại diện cho hàng nghìn cán bộ, công nhân viên của ngành Địa chất tham gia Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn miền Bắc lần thứ ba. Tại Đại hội, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động (khi đó, ông mới vừa tròn 23 tuổi).

Trong bằng chứng nhận Anh hùng Lao động do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký còn ghi rõ: “Phát huy được nhiều sáng kiến có giá trị sử dụng máy khoan, thực hiện phương pháp khoan liên tục, giảm mỗi kíp khoan từ 6 giờ xuống còn 4 giờ, cải tiến phương pháp khoan sâu đạt kỷ lục cao nhất toàn ngành Địa chất, luôn luôn nêu cao tinh thần dám nghĩ dám làm, hăng say lao động, xung phong gương mẫu, ham học hỏi, tiêu biểu cho thế hệ thanh niên mới”.

Năm 1963, khi mẻ gang đầu tiên tại Khu Liên hợp Gang thép Thái Nguyên ra đời, cũng là lúc ông Trần Văn Giao được điều về Đoàn Thăm dò Dầu lửa 36 thuộc Tổng cục Địa chất với nhiệm vụ tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở đồng bằng Bắc Bộ.

Tháng 9/1975, Tổng cục Dầu khí được thành lập. Ông Nguyễn Văn Biên được bổ nhiệm làm Tổng cục trưởng, Trung tướng Đinh Đức Thiện được Chính phủ cử sang làm Bộ trưởng phụ trách Dầu khí. Ông Trần Văn Giao được điều động từ Đoàn 36 Y về làm chuyên viên ở bộ phận quản lý khoa học kỹ thuật thuộc Vụ Kế hoạch của Tổng cục Dầu khí. Ông Đinh Đức Thiện đã yêu cầu phải nghiên cứu chế tạo cho được choòng khoan (mũi khoan). Anh hùng Trần Văn Giao được giao trực tiếp điều phối công tác đó.

Ông lục tung đống tài liệu mang từ Rumani về. Trong số sách mang về ấy có một cuốn về công nghệ chế tạo choòng khoan. Ông và các đồng nghiệp lao vào nghiên cứu.

Kết quả là sau một thời gian, những choòng khoan mang nhãn hiệu “Made in Việt Nam” đã ra đời, đưa về giếng khoan 104 ở Phù Cừ khoan thử ở độ sâu hơn 3.000 m, được Hội đồng nghiệm thu đề tài nghiên cứu chế tạo thử nghiệm choòng khoan đánh giá chất lượng cao.

Nguồn: Website của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương.

Công nghiệp địa phương, tiểu thủ công nghiệp

Tinh thần Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 05/7/1961 của Ban Bí thư về nhiệm vụ, phương hướng phát triển sản xuất và củng cố hợp tác xã thủ công nghiệp và Nghị quyết số 105-NQ/TW ngày 19/9/1964 của Bộ Chính trị về phương châm phát triển công nghiệp địa phương là đi từ nhỏ lên lớn, từ giản đơn đến phức tạp, từ thủ công và bán cơ khí lên cơ khí, từ phân tán, quy mô nhỏ đến tập trung, thích hợp với quá trình đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.

Năm 1965, miền Bắc có 927 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh địa phương và 2.529 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp với 517.548 công nhân và thợ thủ công chuyên nghiệp. Công nghiệp địa phương tạo ra 1.290 triệu đồng giá trị sản lượng, chiếm 49% giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp miền Bắc, tăng 4,8 lần so với năm 1955 và 142% so với năm 1960; trong đó, công nghiệp quốc doanh địa phương và công tư hợp doanh tăng 100% so với năm 1960 và chiếm 39%, tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã, cá thể tăng 22,5% và chiếm 61%. Phân theo ngành phục vụ: sản xuất tư liệu tiêu dùng chiếm 60,8%, sản xuất tư liệu sản xuất chiếm 34,6% và xuất khẩu 4,6%3.

Những sản phẩm chủ yếu của công nghiệp địa phương bao gồm các hàng hóa tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng thông dụng cho dân cư như điện, than, gang, phân bón hóa học, gạch ngói, ximăng, gỗ tròn, tre nứa, song mây, nông cụ cải tiến, chiếu cói, da thuộc, đường mật, cá, muối...

Tiểu thủ công nghiệp, lực lượng to lớn của công nghiệp địa phương, sản xuất ra 61% giá trị sản lượng công nghiệp địa phương và 40% giá trị sản lượng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp miền Bắc. Công cuộc cải tạo đã thu hút nửa triệu lao động (chiếm 95% thợ thủ công trong diện cải tạo) vào các hợp tác xã, tổ sản xuất hợp tác, chỉ còn một bộ phận nhỏ làm ăn cá thể, chiếm 4% giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp và 13,8% giá trị sản lượng công nghiệp địa phương. Tuy nhiên, nếu không kể bộ phận cá thể tiếp tục duy trì được nhịp độ tăng trưởng (2,1 lần trong thời gian 1961 - 1965), thì bộ phận hợp tác xã đang suy giảm liên tục: giá trị sản lượng năm 1962 bằng 114% so với năm 1961, năm 1963 chỉ còn 97% và năm 1964 là 98,5%.

d) Những ngành công nghiệp chủ yếu

Điện lực: Đạt tốc độ phát triển nhanh: 248% (tốc độ chung của công nghiệp 189%). Xây dựng thêm các nhà máy điện như Uông Bí - Nhà máy nhiệt điện có công suất lớn nhất đầu tiên ở miền Bắc, Việt Trì, Thái Nguyên, Hà Bắc, Vinh,... đưa tổng số cơ sở từ 33 năm 1961 lên 40 năm 1965. Làm xong 571 km đường dây 110 kV, 1.135 km đường dây 35 kV. Hình thành mạng lưới điện 110 kV thống nhất phân phối điện cho phía Nam và Bắc Hà Nội, khu vực Nam Định, Hải Phòng, Bắc Giang, Việt Trì, Phú Thọ, Thái Nguyên, khu mỏ than. Hoàn thành các đường dây 110 kV Đông Anh - Hà Nội - Nam Định, Uông Bí - Mông Dương, Đông Anh - Bắc Giang. Hoàn thành và đưa vào sử dụng các trạm biến thế 110/35/6 kV như Hà Đông (40 nghìn kVA), Trình Xuyên và Mông Dương (20 nghìn kVA). Ngoài ra, đã xây dựng một số trạm phát điện nhỏ ở các thị xã, thị trấn, các trạm thủy điện nhỏ miền núi. Năm 1964, khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Thác Bà - Nhà máy thủy điện có công suất lớn đầu tiên ở miền Bắc, Nhà máy Thủy điện Na Hang, Nhà máy Thủy điện Suối Cun, Nhà máy Thủy điện Lạng Sơn.

Năm 1965, miền Bắc đạt sản lượng điện 633,6 triệu kWh, tăng gấp 2,5 lần so với năm 1960. Công suất huy động thêm của ngành Điện trong thời gian này là 103.000 kW; công suất có khả năng huy động là 192.000 kW, đảm bảo cung cấp điện ổn định cho các nhà máy và khu công nghiệp quan trọng, cho nông nghiệp chống úng và chống hạn ở đồng bằng Bắc Bộ, một số khu vực trung du và miền núi.

Khai thác than: Sản lượng than khai thác tăng từ 2,6 triệu tấn năm 1960 lên 4,2 triệu tấn năm 1965; trong đó, Công ty Than Hòn Gai sản xuất phần chủ yếu, ngoài ra còn có các mỏ Uông Bí, Mông Dương. Ngành Than đã xây dựng thêm một số mỏ phụ; khởi công xây dựng mỏ than Mông Dương; nghiên cứu khôi phục mỏ than Mạo Khê; mở rộng mỏ than Uông Bí; hoàn thành xây dựng cơ sở luyện cốc Hồng Gai; thăm dò bổ sung trữ lượng các mỏ than Vàng Danh, Cánh Gà, Mông Dương, Mạo Khê; nâng cấp trữ lượng than Hà Tu, Hà Lầm, Tây Bắc; khởi công thăm dò Khe Chàm,...

Cơ khí: Đã có khả năng chế tạo các máy công cụ chính xác cấp 2, các loại máy nổ, máy bơm, các thiết bị toàn bộ cho một số ngành công nghiệp nhẹ. Xây dựng thêm một số nhà máy cơ khí quan trọng, như: Cơ khí Trung tâm Cẩm Phả, Cơ khí Nông nghiệp Hà Đông; cải tạo và mở rộng các nhà máy: Cơ khí Duyên Hải, Điện Cơ, Cơ khí Uông Bí, Xe đạp Thống Nhất, Cơ khí Trần Hưng Đạo; hoàn thành xây dựng phân xưởng cắt gọt và mở rộng phân xưởng cơ khí của Nhà máy Cơ khí Hà Nội, hoàn thành Nhà máy Đóng tầu Bạch Đằng (đợt I), mở rộng Nhà máy Xe lửa Gia Lâm, khởi công Nhà máy Liên hợp Diesel, Nhà máy Cẩm Phả, Nhà máy Điện cơ Hunggari, Nhà máy Dụng cụ đồ nghề và cân, Nhà máy Cơ khí Gia Lâm...; đưa số xí nghiệp cơ khí lên 148 xí nghiệp năm 1965, đạt giá trị sản lượng 309 triệu đồng, trong đó cơ khí chế tạo chiếm 80% và cơ khí sửa chữa chiếm 20%, cơ khí phục vụ sản xuất chiếm 90% và phục vụ tiêu dùng chiếm 10%.

Luyện kim: Sản lượng gang miền Bắc vào năm 1965 đạt 115 nghìn tấn (riêng Thái Nguyên đạt 90 nghìn tấn), thép thỏi đạt 10 nghìn tấn. Nghiên cứu đúc các bán thành phẩm để giảm ứ đọng thép thỏi, chuẩn bị phương án cho mở rộng Khu Liên hợp Gang thép Thái Nguyên đợt 2. Ngoài ra, tích cực đẩy mạnh khai thác kim loại màu, đạt sản lượng thiếc thỏi: 436 tấn và quặng Cromit khô: 13,1 nghìn tấn, tổ chức khai thác mỏ thiếc Sơn Dương (Tuyên Quang), tích cực giải quyết bãi thải và áp dụng phương pháp khai thác mới để nâng sản lượng khai thác quặng Cromit ở Cổ Định (Thanh Hóa).

Phân bón, hóa chất: Năm 1965, các loại phân bón đạt sản lượng: supe phốtphát: 87,2 nghìn tấn, quặng apatít cục: 680 nghìn tấn, thuốc bột 666: 1.569 tấn, axít sunfuríc: 4.688 tấn. Năm 1965, đã hoàn thành xây dựng Nhà máy Phân đạm Hà Bắc và bắt đầu xây dựng cơ sở nghiền apatít, mở rộng phân xưởng axít sunfuríc, gấp rút nghiên cứu xây dựng nhà máy điện giải và thuốc nhuộm.

hóa chất Việt Trì

Sau gần hai năm xây dựng, ngày 19/5/1961, Nhà máy Hóa chất số 1 Việt Trì đã mở máy sản xuất an toàn và cho ra mẻ xút đầu tiên (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng: Số cơ sở công nghiệp thực phẩm và công nghiệp hàng tiêu dùng tăng từ 321 cơ sở năm 1960 lên 336 cơ sở năm 1965. Tập trung mở rộng và nâng công suất cho hai nhà máy đường Nghệ An và Việt Trì (đưa công suất từ 350 tấn mía/ngày lên 500 tấn mía/ngày), Nhà máy Thuốc lá Thăng Long (tăng công suất lên 100 triệu bao/năm), cân đối thiết bị và nâng công suất Nhà máy Giấy Việt Trì (đạt công suất 20 nghìn tấn), mở rộng Nhà máy Gỗ Cầu Đuống, hoàn thành xây dựng và huy động hết công suất Nhà máy Dệt 8-3 (35 triệu mét vải), hoàn thành các phân xưởng phụ và huy động hết công suất Nhà máy Mì chính Việt Trì, tăng thiết bị cho các cơ sở sản xuất đường, chè, rượu, xà phòng, sữa bột, đậu nành, bột ngô. Ngoài ra, cũng khởi công xây dựng các nhà máy: Đường Sao Vàng, Hoa quả Việt Trì, Sấy thuốc lá Ninh Bình, Giấy Vạn Điểm, Thuộc da Vinh, Chế biến thịt Phú Thụy,...

đ) Tổ chức, quản lý và phát triển công nghiệp

Thi đua, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản lý, củng cố chế độ hạch toán kinh tế: Ngay từ đầu năm 1961, toàn ngành Công nghiệp đã mở cuộc vận động thi đua “Hợp lý hóa sản xuất và cải tiến kỹ thuật”, đồng thời kết hợp triển khai cuộc vận động cải tiến quản lý “Ba xây, ba chống” (với nội dung “nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu”).

Trong ngành công nghiệp nặng, từ cuối năm 1960, đã áp dụng hạch toán tới phân xưởng và tổ sản xuất (Cơ khí Hà Nội, Ximăng Hải Phòng, Phốtphát Hải Phòng, Nông cụ Hà Đông, Cơ khí Trần Hưng Đạo, Gạch Cầu Đuống, Than Hồng Gai,...). Các xí nghiệp, công trường thành lập Hội đồng định mức để thực hiện trả lương theo sản phẩm, góp phần củng cố chế độ hạch toán kinh tế. Việc áp dụng hạch toán tới phân xưởng phát triển rộng khắp và mang hình thức mới: để quần chúng tham gia xây dựng định mức, tự phấn đấu hoàn thành và vượt định mức, tham gia công tác quản lý và dân chủ hóa quản lý xí nghiệp.

Để giải quyết những khó khăn trong tiêu thụ và cung ứng nguyên liệu, thúc đẩy sản xuất của các cơ sở hợp tác xã thủ công nghiệp và công tư hợp doanh địa phương, Nghị quyết số 21-NQ/TW đã chủ trương thay chế độ gia công bằng hợp đồng kinh tế. Các hợp tác xã sẽ không còn phụ thuộc, bị động vào nhà cung ứng và tiêu thụ duy nhất là mậu dịch quốc doanh, mà được chủ động ký kết hợp đồng mua nguyên vật liệu và bán sản phẩm của mình với các cơ quan, đơn vị kinh tế khác. Các hợp tác xã cũng được phép mở đại lý tiêu thụ sản phẩm, tổ chức trưng bày triển lãm, để có thể tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng. Khuyến khích cơ sở sản xuất tự định giá gia công và thu mua hợp lý, theo nguyên tắc đảm bảo chi phí sản xuất, cải thiện đời sống, tăng cường trang thiết bị cho cơ sở và đảm bảo tích lũy cho Nhà nước. Giá thu mua hoặc gia công phải lấy giá thành làm cơ sở4.

Nghị quyết số 105-NQ/TW đã mở rộng quyền hạn cho các địa phương về quản lý phát triển công nghiệp địa phương. Trung ương sẽ chỉ giao kế hoạch sản xuất, cung cấp vật tư, tiêu thụ sản phẩm đối với một số mặt hàng quan trọng. Việc quản lý vốn, tài sản và sản xuất công nghiệp địa phương do Ủy ban hành chính địa phương hay các sở, ty công nghiệp địa phương đảm nhiệm. Thành lập Vụ (hay Cục) Công nghiệp địa phương trực thuộc Văn phòng Phủ Thủ tướng; thành lập Liên hiệp Hợp tác xã thủ công nghiệp (gọi tắt là Liên hiệp xã trung ương) như một tổ chức xã hội - nghề nghiệp của thợ thủ công, để vận động thi đua sản xuất, cải tiến kỹ thuật. Các địa phương cũng thành lập Sở Quản lý công nghiệp quốc doanh địa phương và Sở Quản lý hợp tác xã thủ công nghiệp từ các ty công nghiệp cũ5.

Lời Bác dạy về quản lý sản xuất

Một buổi sáng ngày 28/4/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông. Nói chuyện với cán bộ, người lao động Nhà máy, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Tổ chức chính quyền cần có kế hoạch, biện pháp sát đúng. Tổ chức thật tốt bộ máy quản lý, đội ngũ những người làm công tác khoa học kỹ thuật, nhằm tăng năng suất lao động, chú trọng việc nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, thực hành tiết kiệm, đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của nhân dân. Đó là ý thức giai cấp, là lương tâm và trách nhiệm của mỗi cán bộ, công nhân”.

Rạng Đông
Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và nói chuyện với công nhân, viên chức Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông, ngày 28/4/1964 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến các phân xưởng, Người luôn hỏi: “Chất lượng hôm nay đã tốt hơn chưa? Mỗi ngày các cháu làm được bao nhiêu phích, bao nhiêu bóng đèn?”. Chủ tịch Hồ Chí Minh hỏi đồng chí Giám đốc Nhà máy:

- Chú làm Giám đốc, trong bữa ăn tối của gia đình, bóng đèn bị hỏng, chú có bực không?

- Dạ thưa Bác, có ạ!

- Thế thì mọi người dùng bóng đèn kém chất lượng họ cũng bực như chú đấy!

Rồi Chủ tịch Hồ Chí Minh kể một câu chuyện: “Có mấy gia đình công nhân được nhận nhà mới. Nhờ anh em giúp đỡ, họ đã mua sắm giường mới, bóng đèn, phích nước, xe đạp... mọi người đều phấn khởi. Tiếc thay các thứ đó chỉ dùng được mấy hôm “đã có vấn đề”. Các cô, các chú thử nghĩ xem, cảm tình của những gia đình ấy đối với ngành Công nghiệp nhẹ nồng hậu thế nào?”.

Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm tới giữ gìn môi trường, vệ sinh và cảnh quan công nghiệp của Công ty. Ngày ấy, vật tư hóa chất được cung cấp giá rẻ, anh em chưa biết tiết kiệm, nhặt nhạnh, chắt chiu. Đi tới phân xưởng phích nước, thấy mảnh thủy tinh hình thoi cong cong rơi vãi, Bác cúi xuống nhặt bỏ nhẹ vào thùng đựng mảnh. Thấy vệ sinh công nghiệp, cảnh quan môi trường Nhà máy còn chưa tốt, Bác nói: “Bác đã có dịp đến thăm những nhà máy ở nước bạn, anh em công nhân nước bạn giữ nhà máy rất sạch, rất đẹp. Còn Nhà máy Bóng đèn Phích nước của chúng ta đây bẩn quá. Máy móc bẩn này, tường nhà bẩn này, nơi làm việc cũng bẩn này. Vệ sinh công nghiệp không đảm bảo thì ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, có đúng không các chú!”.

Tới Phân xưởng Thủy tinh, Bác hỏi thợ thổi: “Các chú được đào tạo nghề ở đâu? - Dạ thưa Bác, chúng cháu được đào tạo tại Nhà máy ạ. - Bác khen: Thế thì các chú làm việc giỏi đấy!”.

Cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần nhắc nhở cán bộ, công nhân viên Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông nhiều điều sâu sắc. Trước lúc ra về, Bác dặn: “Các cô, các chú cố gắng làm tốt, Bác sẽ về thăm...”.

Nguồn: Cổng thông tin điện tử quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

e) Tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế

Cùng với việc phát huy nguồn lực trong nước, chúng ta tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa để phát triển công nghiệp. Sự giúp đỡ của các nước chủ yếu là đưa chuyên gia và công nhân kỹ thuật sang Việt Nam để thiết kế, thi công các công trình, hạng mục; giúp đỡ thiết bị toàn bộ, viện trợ nguyên, vật liệu, thiết bị lẻ, vật tư.

Theo Hiệp định Kinh tế, thương mại Việt Nam - Liên Xô giai đoạn 1961 - 1965, Liên Xô giúp Việt Nam xây dựng 43 xí nghiệp và các công trình công nghiệp. Theo Hiệp định Kinh tế, thương mại dài hạn Việt Nam - Trung Quốc ký ngày 31/01/1961, Trung Quốc cho Việt Nam vay số tiền gần 142 triệu rúp chuyển đổi. Việt Nam dùng số tiền này thanh toán cho việc mua các thiết bị của Trung Quốc để xây dựng và mở rộng 28 xí nghiệp thuộc ngành luyện kim, công nghiệp nhẹ và đường sắt. Tiêu biểu là Nhà máy Hóa chất Việt Trì, Cao su Sao Vàng, Phân đạm Hà Bắc, Sứ Hải Dương... Theo Hiệp định kinh tế thương mại dài hạn 3 năm giữa Việt Nam và Hunggari cũng có nhiều công trình công nghiệp nước bạn giúp Việt Nam.

Để có được những kết quả hợp tác đó, tại Đại hội III, Đảng Lao động Việt Nam đã chủ trương tăng cường sự hợp tác kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa; trong đó, căn cứ vào tình hình thực tiễn, có những phương thức hợp tác với những nhóm nước cụ thể: Trong quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, chủ yếu là ta nhận sự giúp đỡ của bạn, đồng thời hết sức phát huy sự hợp tác của ta với bạn. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa khác, cần cân nhắc yêu cầu và khả năng của ta cũng như của bạn, bảo đảm lợi ích chính trị và kinh tế của hai bên.

Về hợp tác khoa học và kỹ thuật, cần tranh thủ học tập kinh nghiệm tiên tiến của Liên Xô, Trung Quốc và của các nước khác, nhờ giúp đỡ trong việc điều tra, thăm dò, thiết kế, đào tạo cán bộ nghiên cứu khoa học và cán bộ kỹ thuật, nghiên cứu giải quyết một số vấn đề kỹ thuật theo yêu cầu của điều kiện tự nhiên ở nước ta.

“Trong việc trao đổi ngoại thương, cần bảo đảm phân phối phần lớn kim ngạch xuất nhập khẩu trong khối các nước xã hội chủ nghĩa, hết sức cố gắng tăng kim ngạch hàng năm với các nước anh em; cần chú trọng cung cấp những loại hàng mà các nước anh em cần với khối lượng ngày càng tăng như apatít, crommit, gỗ, các đặc sản nhiệt đới...”6.

Nhìn chung, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) đã đạt được những thành tựu quan trọng. Trong công nghiệp, công nghiệp quốc doanh phát triển với nhịp độ cao. Các ngành công nghiệp nặng như dầu khí, luyện kim, hóa chất... được xây dựng và đi vào sản xuất. Công nghiệp nhẹ và mạng lưới công nghiệp địa phương phát triển khá. Mặc dù vậy, công nghiệp vẫn còn chưa hướng vào mục tiêu trung tâm là phục vụ sản xuất nông nghiệp và hàng tiêu dùng. Quan niệm về công nghiệp hóa còn quá nhấn mạnh đến việc phát triển công nghiệp nặng. Báo cáo tại Hội đồng Chính phủ ngày 25/02/1964, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đánh giá: “Trong những năm vừa qua, chúng ta chưa nhìn thấy hết vị trí và tác dụng của công nghiệp nhẹ trong công cuộc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”7.


1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.839.

2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.24, tr.460-461.

3. Xem Bộ Công Thương: Sơ lược lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.129.

4. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.22, tr.381-382.

5. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.25, tr.258-262.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.835.

7. Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.140.

Danh mục

Tùy chỉnh