1. Khôi phục phát triển công nghiệp (1955 - 1957)

a) Tình hình chủ trương

Công nghiệp miền Bắc sau ngày hòa bình lập lại bị tàn phá xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1955, giá trị tổng sản lượng công nghiệp giảm 61% so với năm 1939 - năm phát triển cao nhất trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong vùng tự do cũ, hầu hết các nhà máy lớn quan trọng, như Xe lửa Trường Thi, Diêm Bến Thủy, Điện Thanh Hóa, Phốtphát Hàm Rồng... đều đã bị phá hủy hoàn toàn hoặc liệt hoạt động.

Trong vùng mới tiếp quản, nhiều nhà máy, hầm mỏ bị đình đốn hoặc sản xuất cầm chừng do không phụ tùng thay thế hoặc thiếu nguyên liệu. Trong các sở công nghiệp doanh thủ công nghiệp, người giỏi nghề cũng không còn nhiều, do một số đã di vào Nam.

Trước tình hình đó, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9/1954 đã đề ra nhiệm vụ cấp bách khôi phục sản xuất ngang mức trước chiến tranh; trong đó nhấn mạnh: “Cần hết sức coi trọng công tác phục hồi công thương nghiệp, làm cho các nghiệp công hiện được tiếp tục kinh doanh, làm cho thị trường hoạt động, vật giá ổn định, phục hồi phát triển mậu dịch đối ngoại”1.

Nghị quyết cũng nêu việc phục hồi công nghiệp, thương nghiệp đối với từng thành phần kinh tế:

“Công thương nghiệp nhân nhất loạt được bảo hộ. Đối với công thương nghiệp của địa chủ cũng nhất loạt không đụng đến. Phàm công thương nghiệp lợi cho quốc kế dân sinh đều được khuyến khích phục hồi phát triển”2.

nhà máy xi măng

Nhà máy Xi măng Hải Phòng phục hồi sản xuất sau khi bị phá hoại nặng nề bởi chiến tranh, năm 1955 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

“Đối với công thương nghiệp của Pháp kiều, theo Hiệp nghị Giơnevơ, ta không tịch thu, cũng không bài trừ hoặc tiếp quản. Ta cần thi hành lời hứa thừa nhận quyền lợi kinh tế của Pháp Việt Nam. Chính sách thể áp dụng được là: không xâm phạm đến tài quyền của Pháp kiều, nhưng bắt họ phải tuân theo pháp luật của Chính phủ ta phục hồi kinh doanh, không được đình chỉ kinh doanh”3.

“Công thương nghiệp quốc doanh thành phần lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân, nhân tố quan trọng để ổn định thị trường nên cần được Đảng hết sức coi trọng”4.

Tháng 3/1955, báo cáo về đường lối khôi phục kinh tế do Chính phủ trình bày trước Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 4 một số điểm nổi bật: Một là, chú trọng gây dựng sở cho công nghiệp hóa; Hai là, phát triển sản xuất làm cho kinh tế dồi dào, công đều được quan tâm, người lao động chủ lao động đều lợi; Ba là, tăng cường kinh tế quốc doanh, chăm lo kinh tế hợp tác xã, khuyến khích sản xuất - kinh doanh của các tầng lớp tiểu sản sản dân tộc.

thể coi đây thời kỳ tương đối cởi mở trong xây dựng kinh tế. Một mặt coi công thương nghiệp quốc doanh thành phần lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân; mặt khác, công nhận khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế khác phát triển. duy này dường như tương đồng với Chính sách kinh tế mới (NEP) do V.I. Lênin khởi xướng năm 1922. Theo đó, Liên chấp nhận một hệ thống kinh tế bao gồm các doanh nghiệp quốc doanh đồng thời với: (1) Thị trường tự do; (2) sở sản xuất theo kiểu bản - hai đối tượng đều thuộc sự giám sát, quản của nhà nước5.

b) Khôi phục, phát triển công nghiệp

Bước vào giai đoạn khôi phục xây dựng công nghiệp hiện đại, phương châm phải dựa vào sức mình chính, sử dụng hiệu quả sự giúp đỡ của các nước hội chủ nghĩa, mời chuyên gia nước bạn sang hướng dẫn hoặc gửi cán bộ, công nhân đi học tập nước ngoài.

Chính sách đầu thời kỳ này tập trung cao độ cho công nghiệp, nhất công nghiệp nặng chế tạo liệu sản xuất nhằm đạt được tiến bộ căn bản của ngành nhanh chóng hình thành nền công nghiệp theo hướng hiện đại, làm sở cho sự độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Trong tổng vốn đầu bản của Nhà nước cho các ngành sản xuất vật chất, vốn đầu vào công nghiệp tăng rất nhanh: từ 7,4% năm 1955 lên 36% năm 1956 vượt ngưỡng 50% năm 1957.

tưởng chỉ đạo của Chính phủ ngành Công Thương trong thời gian này là, cùng với việc khôi phục sản xuất công nghiệp ngang mức trước chiến tranh, cần lo ngay việc xây dựng một số ngành công nghiệp phục vụ cho sản xuất trước đây, trong thời Pháp thuộc không có, hoặc nhưng không đáng kể, quan tâm đến công nghiệp phục vụ tiêu dùng.

đại biểu Liên Xô

Đoàn đại biểu Chính phủ Liên đến thăm phòng tuốcbin Nhà máy Điện Yên Phụ, tháng 4/1956 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Kết quả, trong một thời gian ngắn, miền Bắc đã khôi phục về căn bản các nhà máy, nghiệp quan trọng, gồm 19 nghiệp vùng tự do: Than Quán Triều, Than Làng Cẩm, Than Quyết Thắng, Than Tân Trào, Than Bố Hạ, Giấy Hoàng Văn Thụ, Giấy Lửa Việt, Giấy Lam Sơn, Giấy Hồng Phong, Giấy Lao Động, Phân bón Nam Phát, Phân bón Lang Hít, Phân bón Đông Khê, Phân bón Bến Thủy, Xưởng Phim, Nhà in Tiến Bộ, Xưởng khí Giao thông, Xưởng Thuốc bào chế, Mỏ Cromit Cổ Định; 9 nghiệp vùng mới giải phóng: Than Hồng Gai, Điện Hải Phòng, Điện Nội, Điện Nam Định, Ximăng Hải Phòng, Dệt Nam Định, Nước đá Nội, Rượu Nội, Phốtphát Hải Phòng6.

Miền Bắc đã xây dựng được 18 nghiệp mới, mức tương đối hiện đại lúc bấy giờ như các nhà máy: Chè Phú Thọ, Thuốc Thăng Long, Xay xát gạo Nội, Gỗ dán Cầu Đuống, Diêm Thống Nhất, hộp Hải Phòng, một số nhà máy điện...

Với tưởng ngoại giao “phải luôn luôn lợi ích của dân tộc phục vụ”, ngay sau khi ổn định tình hình của một nửa đất nước sau chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng, Chính phủ Việt Nam thăm ba nước Liên Xô, Trung Quốc, Mông Cổ từ ngày 22/6 đến ngày 22/7/1955, mở ra thời kỳ các nước hội chủ nghĩa nhân dân yêu chuộng hòa bình công trên thế giới ủng hộ giúp đỡ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội của nhân dân Việt Nam.

Sau chuyến thăm, một loạt các thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Liên Xô, Trung Quốc Mông Cổ được kết. Trong hai năm, Liên giúp Việt Nam các thiết bị máy móc, kỹ thuật trị giá 306 nghìn triệu đồng (tiền ngân hàng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) để khôi phục phát triển 25 nghiệp; Trung Quốc giúp khôi phục hệ thống đường sắt, bến tàu, tu sửa cầu đường, xây dựng nhà máy dệt, nhà máy thuộc da, nhà máy giấy... trị giá 1.224 nghìn triệu đồng trong 5 năm; Mông Cổ giúp 500 tấn thịt một số cừu để lập một nông trường chăn nuôi.

Trong 3 năm (1955 - 1957), Việt Nam liên tiếp các hiệp định kinh tế thương mại với các nước hội chủ nghĩa như: Hiệp định viện trợ kinh tế - kỹ thuật với Liên (tháng 7/1955); với Hunggari (tháng 12/1955); Hiệp định thương mại với Bungari (tháng 01/1956); với Tiệp Khắc (tháng 01/1956); Hiệp định viện trợ hàng hóa với Cộng hòa Dân chủ Đức (tháng 01/1956); Hiệp định mậu dịch năm 1956 với Cộng hòa Dân chủ Đức (tháng 3/1955); Hiệp định viện trợ kinh tế Mậu dịch Việt Nam - Rumani (tháng 4/1956); Hiệp định trao đổi hàng hóa Việt Nam - Rumani (tháng 02/1957); Hiệp định trao đổi hàng hóa thanh toán Việt Nam - Tiệp Khắc (tháng 3/1957)...7.

cơ khí Hà Nội

Lễ khánh thành Nhà máy khí Nội (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Trong các công trình viện trợ, Nhà máy khí Nội - còn gọi Nhà máy khí trung quy mô, được đánh giá vào loại hiện đại do Liên giúp xây dựng xong vào cuối năm 1957 thể chế tạo các máy công cụ cắt gọt chính xác, như máy tiện, máy phay, máy bào, máy khoan; hằng năm, Nhà máy bán ra thị trường 600 chiếc máy cái.

Kết quả, số lượng các nghiệp công nghiệp quốc doanh tăng từ 41 sở (năm 1954) lên 151 sở (năm 1957); trong đó 2/3 nghiệp công nghiệp trung ương 1/3 nghiệp công nghiệp địa phương.

Nhờ vậy, chỉ trong vòng 3 năm 1955 - 1957, giá trị sản lượng công nghiệp quốc doanh tăng gấp 6,94 lần, từ 34 tỉ đồng lên 236 tỉ đồng. Nếu cuối năm 1954, giá trị sản lượng công nghiệp chỉ chiếm 1,5% tổng giá trị sản lượng công - nông nghiệp thì đến năm 1957 đã tăng lên 9,3%. Công nghiệp bản doanh tiểu chủ công nghiệp cũng đạt hiệu quả cao trong thời kỳ này; năm 1955 trên 51,6 nghìn sở trên 128,6 nghìn công nhân, đến năm 1956 tăng lên gần 55 nghìn sở 161 nghìn công nhân.

Kết thúc thời kỳ khôi phục, sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu của miền Bắc đã đạt ngang vượt mức năm 1939 - năm cao nhất dưới thời Pháp thuộc; trong đó, sản phẩm liệu sản xuất (nhóm A) bằng 72%, sản phẩm công nghiệp nhẹ (nhóm B) bằng 112% so với năm 19398.

Cụ thể là, sản lượng điện tăng từ 53 triệu kWh lên 121,2 triệu kWh (năm 1939 122,6 triệu kWh); than tăng từ 0,6 triệu tấn lên 1,1 triệu tấn (năm 1939 2,6 triệu tấn); ximăng tăng từ 8.500 tấn lên 165.100 tấn (năm 1939 305.800 tấn); phân bón hóa học tăng từ 6.400 tấn lên 22.500 tấn (năm 1939 35.000 tấn); giấy tăng từ 800 tấn lên 2.400 tấn (năm 1939 3.000 tấn); diêm tăng từ 2,4 triệu bao lên 87,2 triệu bao (năm 1939 323 triệu bao); vải tăng từ 8,8 triệu mét lên 68,1 triệu mét (năm 1939 20,1 triệu mét); sợi bông tăng từ 200 tấn lên 9.400 tấn (năm 1939 12.900 tấn); gạch xây dựng tăng từ 51 triệu viên lên 409,2 triệu viên; gỗ xẻ tăng từ 29.800 m3 lên 89.600 m3; phòng tăng từ 700 tấn lên 2.600 tấn; thuốc chữa bệnh các loại tăng từ 12,1 triệu ống 69,3 triệu viên lên 45,4 triệu ống 188 triệu viên...9.

nhà máy sàng

Nhà máy Sàng Cửa Ông do người Pháp xây dựng năm 1924 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Người Anh hùng Lao động đầu tiên của ngành Than

Năm 1955, vùng mỏ hoàn toàn giải phóng, cùng với cả miền Bắc, công nhân nghiệp Bến Cửa Ông khẩn trương bắt tay vào khôi phục sản xuất. Trước đó, khi chuẩn bị rút đi, người Pháp đã phá hủy máy móc, nhà sàng bến cảng Cửa Ông (nay Công ty Tuyển than Cửa Ông thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam), làm đảo lộn toàn bộ hệ thống điện. Người Pháp còn tuyên bố: “Ít ra cũng phải 20 đến 25 năm nữa, người An Nam mới đào được than đưa sản xuất trở lại”.

Ngay các công nhân cũng cho rằng, muốn khắc phục phải tốn nhiều thời gian công sức, thậm chí nguy hiểm đến cả tính mạng, bởi họ đã mang đi các thiết bị điện quan trọng, các đồ của các hệ thống điện, nhất hệ thống điện cao thế phục vụ cho cầu trục cảng.

Tuy nhiên, với phẩm chất thông minh, sáng tạo trí nhớ tuyệt vời, người thợ điện Văn Hiển trong một thời gian rất ngắn đã vẽ lại toàn bộ hệ thống mạng điện của nghiệp. Chưa đầy một tháng, bến cảng, nhà máy hàn hơi, nhà máy luyện than, đường dây cao thế cảng Cửa Ông, hệ thống vận tải đường sắt, các đầu máy kéo than hệ thống cần trục đều đã được sửa chữa đi vào hoạt động.

Ngày 07/7/1958, công nhân Văn Hiển đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, người đầu tiên của ngành Than được tặng danh hiệu cao quý này.

Năm 1965, Anh hùng Văn Hiển cùng với đội ngũ công nhân nghiệp Bến Cửa Ông đã hoàn thành xuất sắc kế hoạch sản xuất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi. Năm 1967, đại đội tự vệ phân xưởng sàng đã được tuyên dương đơn vị Anh hùng Lực lượng trang nhân dân, cũng đơn vị anh hùng đầu tiên của vùng mỏ. Năm 1968, cán bộ, công nhân viên nghiệp đã thi đua hoàn thành toàn diện kế hoạch sản xuất trước thời hạn 48 ngày, một lần nữa nghiệp được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện khen.

Nguồn: Vinacomin.vn báo Quảng Ninh.

c) Xác lập hệ thống quản mới

Theo Nghị định số 91/BCN-QĐ ngày 28/3/1956, Bộ Công nghiệp được tách ra từ Bộ Công Thương, chức năng quản hành chính - kinh tế - kỹ thuật các nghiệp quốc doanh hợp doanh của ngành, tổ chức điều tra, thăm tài nguyên, quy hoạch đào tạo cán bộ, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp trong tình hình mới.

Điểm nhấn quan trọng của thời kỳ này bắt đầu hình thành tổ chức bộ máy phục vụ công tác kế hoạch hóa nền kinh tế. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khóa II (tháng 8/1955), lần đầu tiên vấn đề kế hoạch hóa kinh tế được nêu lên: “Sau khi khôi phục, nhất định chúng ta phải kiến thiết miền Bắc một cách kế hoạch”10. Việc xây dựng bộ máy được tiến hành rất khẩn trương, Ủy ban Kế hoạch quốc gia được thành lập theo Thông số 603/TTg ngày 14/10/1955. Hệ thống kế hoạch cũng dần được hoàn chỉnh: cấp tỉnh ủy ban kế hoạch tỉnh, cấp huyện phòng kế hoạch huyện, các bộ vụ kế hoạch, các nghiệp phòng kế hoạch.

thủy điện Tà Sa

Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Trần Đại Nghĩa cắt băng khánh thành Nhà máy Thủy điện Sa - Na Ngàn (Cao Bằng), ngày 19/11/1957 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Thông số 603/TTg về việc thành lập Ủy ban Kế hoạch quốc gia nêu rõ: “Trong chế độ kinh tế dân chủ nhân dân của chúng ta miền Bắc, việc khôi phục phát triển kinh tế văn hóa phải dần dần kế hoạch hóa. Ủy ban Kế hoạch quốc gia sẽ thực hiện từng bước công việc kế hoạch hóa, bảo đảm việc củng cố miền Bắc”.

Tháng 12/1955, Ủy ban Kế hoạch quốc gia đã xây dựng kế hoạch năm 1956 trình Hội đồng Chính phủ thông qua. Đây kế hoạch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nội dung chủ yếu của kế hoạch hóa kinh tế Nhà nước quản trực tiếp bằng các chỉ tiêu, kế hoạch mang tính pháp lệnh, quy định chặt chẽ cho các bộ, địa phương, nghiệp sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, phân phối cho ai.

Tiếp đến, các tổ chức bộ máy phục vụ công tác kế hoạch hóa kinh tế dần dần hình thành. Tháng 02/1956, thành lập Cục Thống Trung ương, các ban thống địa phương, các quan thống của các bộ, các nghiệp. Ngày 28/3/1956, thành lập Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ, nhiệm vụ: “Thanh tra công tác các bộ, các quan hành chính chuyên môn các cấp, các doanh nghiệp của Nhà nước; thanh tra việc thực hiện kế hoạch Nhà nước, việc sử dụng, bảo quản tài sản nhà nước chống phá hoại tham ô lãng phí”11.

Kế hoạch hóa kinh tế được gắn liền với hạch toán kinh tế kinh doanh hội chủ nghĩa. Do đó, về quản lý, Chính phủ các bộ đã ban hành các quy chế biện pháp quan trọng sau:

- Về quản tiền mặt, cho phép nghiệp thực hiện tài chính - kế toán độc lập, được mở tài khoản riêng ngân hàng buộc phải gửi tiền mặt, tiền séc vào ngân hàng; ngân hàng thông qua nghiệp vụ nhận gửi cho vay theo dõi, giám sát quản thu - chi cũng như hoạt động sản xuất của nghiệp theo kế hoạch (Thông số 05/TT-LB của liên bộ Công nghiệp Ngân hàng Quốc gia ngày 21/11/1956).

- Về thuế, bổ sung một số quy định áp dụng thuế doanh nghiệp đối với mọi đối tượng kinh doanh, chỉ miễn trong trường hợp làm nhiệm vụ đặc biệt, nhất luật phải nộp thuế hàng hóa đối với những hàng hóa đánh thuế, nhằm tăng cường nguồn thu cho ngân sách thúc đẩy nghiệp cải tiến quản lý, tăng năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm (Chỉ thị số 758/TTg ngày 30/4/1956).

- Điều lệ số 735/TTg ngày 10/4/1956 tạm thời về Hợp đồng kinh doanh được ban hành nhằm tăng cường liên kết kinh tế trách nhiệm vật chất đối với việc thực hiện cam kết hợp đồng giữa các nghiệp quốc doanh với nhau giữa quốc doanh với doanh.

- Quyết định số 130/TTg ngày 04/4/1957 về việc áp dụng chế độ hạch toán kinh tế nhằm tăng cường sự quản tập trung của Nhà nước, đồng thời phát huy tính tích cực của nghiệp.

Mặc đến năm 1956, công tác kế hoạch hóa kinh tế đã được thực hiện đầy đủ trên các mặt tổ chức bộ máy, con người hoạt động thực tiễn, nhưng miền Bắc lúc đó chưa phải nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung như sau này. Bên cạnh các nghiệp quốc doanh thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước vẫn tiếp tục được khuyến khích phát triển. Kinh tế nhân thể được Nhà nước định hướng sản xuất - kinh doanh bằng chính sách, chứ không chịu sự phân công sản xuất theo kế hoạch.

Về đào tạo, bắt đầu xây dựng hệ thống các trường đại học khoa học - kỹ thuật, các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp dạy nghề do Trung ương quản lý. Bộ Công nghiệp cũng thành lập các trường đào tạo của ngành như: Trường Trung cấp Kỹ thuật II Nội đào tạo cán bộ kỹ thuật cho các ngành Hóa chất, Địa chất, Mỏ, Giấy, Thực phẩm; Trường Trung cấp Kỹ thuật III Nam Định đào tạo cán bộ kỹ thuật cho ngành Dệt.

Đối với công tác điều tra bản, miền Bắc đã tiến hành thăm địa chất khoáng sản, đánh giá tài nguyên 22 mỏ, nhằm phục vụ cho việc quy hoạch kế hoạch phát triển công nghiệp, khảo sát, thiết kế xây dựng mới; đồng thời thu thập, xử nhiều tài liệu quý giúp cho việc mở rộng các mỏ cũ. Nhằm phục vụ công tác nghiên cứu, điều tra khảo sát, Bộ Công nghiệp đã tổ chức một số đội khảo sát, các phòng thí nghiệm khoa học, nghiên cứu thành công nhiều đề tài cải tiến kỹ thuật chế tạo thành công hơn 20 mặt hàng mới thay thế nhập khẩu.

mỏ thiếc

Một chuyên gia ngành Địa chất của Liên đang giới thiệu tác dụng của mũi khoan máy thăm cho các công nhân Mỏ thiếc Tĩnh Túc - Cao Bằng (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

“Đứa con đầu lòng” của ngành kim loại màu Việt Nam

Sau giải phóng miền Bắc, cùng các khai trường, hầm mỏ do người Pháp để lại, Cao Bằng được Trung ương định hướng tập trung vào ngành công nghiệp khai thác kim loại màu. Với sự giúp đỡ về vật chất của Liên các chuyên gia Liên Xô, ngày 25/10/1955, Mỏ thiếc Tĩnh Túc khởi công, đồng thời xây dựng đội ngũ công nhân, cải tạo lại các sở, hầm mỏ sản xuất... Đúng một năm sau, ngày 06/10/1956, nghiệp sản xuất Mỏ thiếc Tĩnh Túc được khánh thành đi vào hoạt động.

Hồi ấy, để làm ra hạt quặng Tĩnh Túc, người thợ mỏ phải vượt qua biết bao gian khổ; đường xa xôi, rừng thiêng nước độc. Khi san gạt mặt bằng xây dựng mỏ, công nhân thấy bộ hài cốt xương ống tay xương ống chân vẫn bị còng xích sắt; bộ hài cốt khác thì phần xương sọ chiếc đinh xuyên từ đỉnh đầu đến quai hàm. Những hiện vật này đang lưu giữ bảo tàng tỉnh Cao Bằng. Phải chăng, đó hài cốt của những chiến cộng sản, hoạt động khu mỏ, bị địch tra tấn đã anh dũng hy sinh?

Những ngày đó, Cao Bằng trở thành niềm tự hào của cả nước với Mỏ thiếc Tĩnh Túc hiện đại - “đứa con đầu lòng” của ngành khai khoáng kim loại màu Việt Nam. Công trình khi đó quy lớn nhất Đông Nam Á. Đến nay, nhiều thế hệ người lao động Tĩnh Túc vẫn nhớ đến những năm tháng hào hùng đó.

Thời điểm đó, Mỏ Tĩnh Túc khoảng gần 4.000 công nhân. Từ sáng sớm, còi báo công nhân đi làm vang lên khắp thị trấn, công nhân đi làm theo ca, mỗi ngày ba ca. Tuần này làm ca sáng thì tuần sau làm ca chiều, tuần sau nữa làm ca tối cứ quay vòng như vậy. Hằng ngày xe thùng của mỏ đến đón đi làm đông vui tấp nập.

Nguồn: Vinacomin.vn báo Cao Bằng.

Khuyến khích công nghiệp doanh

Tháng 12/1956, Trung ương họp Hội nghị lần thứ 11 (mở rộng) về tình hình nhiệm vụ kinh tế tài chính trước mắt. Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị tiếp tục khẳng định: “Một vấn đề quan trọng vào bậc nhất hiện nay cần được kiểm điểm kỹ chính sách đối với khu vực kinh tế nhân”12. Sau Hội nghị, Nghị quyết số 02 - NQ/TW được ban hành, yêu cầu: “Củng cố xây dựng dần dần khu vực kinh tế bản nhà nước; ra sức phát huy mọi khả nǎng tiềm tàng của thủ công nghiệp nghề phụ nông thôn, chú trọng tận dụng khả nǎng tích cực đồng thời ngăn ngừa mặt tiêu cực của công thương nghiệp doanh”13.

Đây cũng thời kỳ nhiều chính sách được luật hóa, nhằm hỗ trợ kinh tế ngoài nhà nước. Theo đề nghị của các bộ quản ngành Công Thương, Chính phủ ban hành Nghị định số 488/TTg ngày 30/3/1955 về việc đăng các loại kinh doanh công thương nghiệp; Quyết định số 609/TTg ngày 04/11/1955 của Thủ tướng Chính phủ về việc cho phép kinh doanh đăng kinh doanh công thương nghiệp; Nghị định số 708/TTg ngày 20/3/1956 ban hành Điều lệ tạm thời về các nghiệp nhân; Thông số 3191 ngày 09/12/1955 về việc phân công các ngành đăng công thương nghiệp.

làm nón

Chị em phụ nữ Phương Trung, huyện Thanh Oai, tỉnh Đông (nay thuộc thành phố Nội) làm nón, tháng 10/1957 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp nhân khá đa dạng. thể kể: hỗ trợ vốn lưu động dưới dạng cung cấp nguyên vật liệu; vay vốn; mậu dịch quốc doanh đặt hàng, cung cấp nguyên vật liệu bao tiêu sản phẩm... Nhờ đó, các nghề làng nghề thủ công mỹ nghệ tiêu điều trong chiến tranh đã hoạt động trở lại phục hồi nhanh chóng, nhất các ngành nghề phục vụ cho sản xuất đời sống nhân dân. Tiêu biểu như làng nghề nón Chuông, đúc đồng Ngũ Xã, pháo Bình Đà, lụa Đông, giấy Đông Khê, sứ Bát Tràng, rèn Đa Hội, mộc Đồng Kỵ, sơn mài Đình Bảng, giò chả Ước Lễ...

Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp nhân, thể tạo ra giá trị sản lượng hàng hóa lớn cho hội. Năm 1955 đạt 276 triệu đồng, năm 1956 đạt 466 triệu đồng, năm 1957 đạt 614 triệu đồng. Giai đoạn 1955 - 1957, tốc độ tăng giá trị sản lượng của công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp nhân, thể đạt 222,4%14.

Nhìn chung, giai đoạn ba năm khôi phục phát triển công nghiệp đã kết thúc thắng lợi. Nhờ sự huy động của Nhà nước viện trợ của các nước hội chủ nghĩa, miền Bắc đã đặt nền tảng bước đầu xây dựng nền công nghiệp tự chủ với các phân ngành khí, khai khoáng, điện năng, luyện kim, hóa chất, dược phẩm, ngành dệt, ngành giấy...; đồng thời phát huy được sức mạnh của các thành phần kinh tế tạo ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu sản xuất, nhu cầu tiêu dùng; hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp vị trí, vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế đời sống hội, phục vụ đắc lực cho các ngành nông, lâm, ngư nghiệp.

Nghị quyết số 02-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 11 (mở rộng) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa II, đánh giá: “Những thành tích về việc khôi phục công nghiệp thủ công nghiệp đã góp phần duy trì sinh hoạt của những thành thị mới giải phóng, giải quyết một phần nạn thất nghiệp, cung cấp một số hàng cho nhân dân cho xuất khẩu, tập hợp đào tạo được một số cán bộ công nhân”15.

Việc khuyến khích, hỗ trợ các thành phần kinh tế cùng phát triển thể được xem một thành tựu trong duy phát triển đất nước. “Thiết thực khuyến khích, hướng dẫn, giúp đỡ công nghiệp doanh sản xuất lợi cho kinh tế quốc dân”16; “Sử dụng đúng mức khả năng của thương nghiệp nhân trong việc đẩy mạnh lưu thông hàng hóa trong nước, trong việc buôn bán với miền Nam buôn bán với nước ngoài”17.

Vực dậy nghề rèn làng Vát

Thôn Việt Vân (hay còn gọi làng Vát) một làng cổ nằm phía tây nam Việt Thống, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, nghề rèn nổi tiếng từ lâu đời đem lại việc làm thu nhập cho người dân.

Với người làng Vát, không ai nhớ khởi thủy của nghề rèn, nhưng theo các bậc cao niên trong làng thì nghề rèn đã ít nhất gần nghìn năm tuổi. Vào thời (thế kỷ XI), khi Thái úy Thường Kiệt cho xây dựng phòng tuyến sông Cầu để đánh quân Tống thì người dân làng Vát đã lập thành xưởng rèn khí phục vụ triều đình; hiện ngoài bờ đê vẫn còn đất dấu tích minh chứng.

Dân làng đến nay vẫn kể cho nhau về sự nghiệp vẻ vang, được sử sách ghi lại gắn với sự tích Linh từ Quốc mẫu (vợ Thái Trần Thủ Độ) - người sáng kiến nhờ thợ làng Vát rèn một cây kiếm quý trao cho người công để khích lệ quân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông (thế kỷ XIII).

Sau những năm tháng thăng trầm, nghề rèn phát triển mạnh trở lại. Từ những năm 1945, Mặt trận Việt Minh về đặt vấn đề rèn kiếm dao găm để cung cấp cho nhân dân trong vùng đánh Pháp đuổi Nhật. Thời kỳ 1949 - 1950, khi công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ của dân tộc bước sang giai đoạn phản công, yêu cầu rèn đúc các loại khí đánh giặc được đặt ra, làng nghề đã rèn các loại khí giáo, mác, dao, kiếm...

Từ năm 1955 trở đi thời kỳ phát triển nhất của làng nghề. Mậu dịch quốc doanh đặt gia công các sản phẩm như dao, kéo, liềm, cuốc... để phục vụ phát triển nông nghiệp. Cả làng tất bật với nghề, ba giờ sáng đã bắt đầu nổi lửa. Nhiều gia đình giàu lên nhờ làm nghề như hộ ông Khuông, ông Lương, ông Đốc, ông Minh, ông Quản Lưu, ông Quản Khôi... Thời kỳ này, Hợp tác rèn Việt Vân được thành lập với trên 30 rèn do ông Nguyễn Văn Chiền làm chủ nhiệm, một tổ đảng với 6 - 7 đảng viên sinh hoạt. Cứ vào cuối tuần cả làng lại tấp nập mang hàng lên thị để nhập cho Ty Thương nghiệp phân phối đi các nơi.

Đặc biệt vào năm 1960, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm đê sông Cầu kiểm tra công tác phòng, chống lụt bão của Việt Thống, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nghe người dân kể về tình hình sản xuất của làng nghề. Sau đó, người thợ làng Vát được giao đánh 2 con dao cạo râu kéo cắt tóc để gửi tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cụ Học cụ Đốc được giao nhiệm vụ mang ra Trung ương tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn.

Những năm 1966 - 1967, được sự giúp đỡ của các chuyên gia Triều Tiên, Nhà nước tổ chức xây dựng hệ thống trạm bơm Kim Chân, Hiền Lương, Phả Lại (thuộc huyện Quế Võ) để phục vụ tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp. Các chuyên gia Triều Tiên đã trực tiếp về làng tuyển thợ giỏi để hàn các đầu mối quan trọng. Khi về làng, chuyên gia đã giao đồ cho hiệp thợ rèn làng Vát làm. Chỉ căn cứ bằng “mực mắt” đôi tay lành nghề, người thợ đã nhanh chóng hoàn thành sản phẩm được các chuyên gia đánh giá rất cao giấy chứng nhận thợ bậc 4, bậc 5 cho rất nhiều người thợ làng; trong đó, ông Nguyễn Văn Tụng Nguyễn Văn Kiu được đoàn chuyên gia phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân”.

Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh.


1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.295.

3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.295-296, 296.

5. Xem Lenin: “The role and funcions of the trade unions under the new economic policy”, V.I. Lenin Collected Works, Progress Publishers, Moscow, Vol. 33, pp.184-196.

6. Xem Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Nội, 2006, t.2, tr.36.

7. Xem Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.39.

8, 9. Xem Bộ Công Thương: lược lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Nxb. Công Thương, Nội, 2011, tr.112-113.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.16, tr.507.

11. Sắc lệnh số 261/SL ngày 28/3/1956 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

12, 13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.697, 736-737.

14. Xem Bộ Công Thương: lược lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.114-115.

15, 16, 17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.724, 739, 741.

1. Khôi phục phát triển công nghiệp (1955 - 1957)

a) Tình hình chủ trương

Công nghiệp miền Bắc sau ngày hòa bình lập lại bị tàn phá xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1955, giá trị tổng sản lượng công nghiệp giảm 61% so với năm 1939 - năm phát triển cao nhất trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong vùng tự do cũ, hầu hết các nhà máy lớn quan trọng, như Xe lửa Trường Thi, Diêm Bến Thủy, Điện Thanh Hóa, Phốtphát Hàm Rồng... đều đã bị phá hủy hoàn toàn hoặc liệt hoạt động.

Trong vùng mới tiếp quản, nhiều nhà máy, hầm mỏ bị đình đốn hoặc sản xuất cầm chừng do không phụ tùng thay thế hoặc thiếu nguyên liệu. Trong các sở công nghiệp doanh thủ công nghiệp, người giỏi nghề cũng không còn nhiều, do một số đã di vào Nam.

Trước tình hình đó, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9/1954 đã đề ra nhiệm vụ cấp bách khôi phục sản xuất ngang mức trước chiến tranh; trong đó nhấn mạnh: “Cần hết sức coi trọng công tác phục hồi công thương nghiệp, làm cho các nghiệp công hiện được tiếp tục kinh doanh, làm cho thị trường hoạt động, vật giá ổn định, phục hồi phát triển mậu dịch đối ngoại”1.

Nghị quyết cũng nêu việc phục hồi công nghiệp, thương nghiệp đối với từng thành phần kinh tế:

“Công thương nghiệp nhân nhất loạt được bảo hộ. Đối với công thương nghiệp của địa chủ cũng nhất loạt không đụng đến. Phàm công thương nghiệp lợi cho quốc kế dân sinh đều được khuyến khích phục hồi phát triển”2.

nhà máy xi măng

Nhà máy Xi măng Hải Phòng phục hồi sản xuất sau khi bị phá hoại nặng nề bởi chiến tranh, năm 1955 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

“Đối với công thương nghiệp của Pháp kiều, theo Hiệp nghị Giơnevơ, ta không tịch thu, cũng không bài trừ hoặc tiếp quản. Ta cần thi hành lời hứa thừa nhận quyền lợi kinh tế của Pháp Việt Nam. Chính sách thể áp dụng được là: không xâm phạm đến tài quyền của Pháp kiều, nhưng bắt họ phải tuân theo pháp luật của Chính phủ ta phục hồi kinh doanh, không được đình chỉ kinh doanh”3.

“Công thương nghiệp quốc doanh thành phần lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân, nhân tố quan trọng để ổn định thị trường nên cần được Đảng hết sức coi trọng”4.

Tháng 3/1955, báo cáo về đường lối khôi phục kinh tế do Chính phủ trình bày trước Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 4 một số điểm nổi bật: Một là, chú trọng gây dựng sở cho công nghiệp hóa; Hai là, phát triển sản xuất làm cho kinh tế dồi dào, công đều được quan tâm, người lao động chủ lao động đều lợi; Ba là, tăng cường kinh tế quốc doanh, chăm lo kinh tế hợp tác xã, khuyến khích sản xuất - kinh doanh của các tầng lớp tiểu sản sản dân tộc.

thể coi đây thời kỳ tương đối cởi mở trong xây dựng kinh tế. Một mặt coi công thương nghiệp quốc doanh thành phần lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân; mặt khác, công nhận khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế khác phát triển. duy này dường như tương đồng với Chính sách kinh tế mới (NEP) do V.I. Lênin khởi xướng năm 1922. Theo đó, Liên chấp nhận một hệ thống kinh tế bao gồm các doanh nghiệp quốc doanh đồng thời với: (1) Thị trường tự do; (2) sở sản xuất theo kiểu bản - hai đối tượng đều thuộc sự giám sát, quản của nhà nước5.

b) Khôi phục, phát triển công nghiệp

Bước vào giai đoạn khôi phục xây dựng công nghiệp hiện đại, phương châm phải dựa vào sức mình chính, sử dụng hiệu quả sự giúp đỡ của các nước hội chủ nghĩa, mời chuyên gia nước bạn sang hướng dẫn hoặc gửi cán bộ, công nhân đi học tập nước ngoài.

Chính sách đầu thời kỳ này tập trung cao độ cho công nghiệp, nhất công nghiệp nặng chế tạo liệu sản xuất nhằm đạt được tiến bộ căn bản của ngành nhanh chóng hình thành nền công nghiệp theo hướng hiện đại, làm sở cho sự độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Trong tổng vốn đầu bản của Nhà nước cho các ngành sản xuất vật chất, vốn đầu vào công nghiệp tăng rất nhanh: từ 7,4% năm 1955 lên 36% năm 1956 vượt ngưỡng 50% năm 1957.

tưởng chỉ đạo của Chính phủ ngành Công Thương trong thời gian này là, cùng với việc khôi phục sản xuất công nghiệp ngang mức trước chiến tranh, cần lo ngay việc xây dựng một số ngành công nghiệp phục vụ cho sản xuất trước đây, trong thời Pháp thuộc không có, hoặc nhưng không đáng kể, quan tâm đến công nghiệp phục vụ tiêu dùng.

đại biểu Liên Xô

Đoàn đại biểu Chính phủ Liên đến thăm phòng tuốcbin Nhà máy Điện Yên Phụ, tháng 4/1956 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Kết quả, trong một thời gian ngắn, miền Bắc đã khôi phục về căn bản các nhà máy, nghiệp quan trọng, gồm 19 nghiệp vùng tự do: Than Quán Triều, Than Làng Cẩm, Than Quyết Thắng, Than Tân Trào, Than Bố Hạ, Giấy Hoàng Văn Thụ, Giấy Lửa Việt, Giấy Lam Sơn, Giấy Hồng Phong, Giấy Lao Động, Phân bón Nam Phát, Phân bón Lang Hít, Phân bón Đông Khê, Phân bón Bến Thủy, Xưởng Phim, Nhà in Tiến Bộ, Xưởng khí Giao thông, Xưởng Thuốc bào chế, Mỏ Cromit Cổ Định; 9 nghiệp vùng mới giải phóng: Than Hồng Gai, Điện Hải Phòng, Điện Nội, Điện Nam Định, Ximăng Hải Phòng, Dệt Nam Định, Nước đá Nội, Rượu Nội, Phốtphát Hải Phòng6.

Miền Bắc đã xây dựng được 18 nghiệp mới, mức tương đối hiện đại lúc bấy giờ như các nhà máy: Chè Phú Thọ, Thuốc Thăng Long, Xay xát gạo Nội, Gỗ dán Cầu Đuống, Diêm Thống Nhất, hộp Hải Phòng, một số nhà máy điện...

Với tưởng ngoại giao “phải luôn luôn lợi ích của dân tộc phục vụ”, ngay sau khi ổn định tình hình của một nửa đất nước sau chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng, Chính phủ Việt Nam thăm ba nước Liên Xô, Trung Quốc, Mông Cổ từ ngày 22/6 đến ngày 22/7/1955, mở ra thời kỳ các nước hội chủ nghĩa nhân dân yêu chuộng hòa bình công trên thế giới ủng hộ giúp đỡ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội của nhân dân Việt Nam.

Sau chuyến thăm, một loạt các thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Liên Xô, Trung Quốc Mông Cổ được kết. Trong hai năm, Liên giúp Việt Nam các thiết bị máy móc, kỹ thuật trị giá 306 nghìn triệu đồng (tiền ngân hàng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) để khôi phục phát triển 25 nghiệp; Trung Quốc giúp khôi phục hệ thống đường sắt, bến tàu, tu sửa cầu đường, xây dựng nhà máy dệt, nhà máy thuộc da, nhà máy giấy... trị giá 1.224 nghìn triệu đồng trong 5 năm; Mông Cổ giúp 500 tấn thịt một số cừu để lập một nông trường chăn nuôi.

Trong 3 năm (1955 - 1957), Việt Nam liên tiếp các hiệp định kinh tế thương mại với các nước hội chủ nghĩa như: Hiệp định viện trợ kinh tế - kỹ thuật với Liên (tháng 7/1955); với Hunggari (tháng 12/1955); Hiệp định thương mại với Bungari (tháng 01/1956); với Tiệp Khắc (tháng 01/1956); Hiệp định viện trợ hàng hóa với Cộng hòa Dân chủ Đức (tháng 01/1956); Hiệp định mậu dịch năm 1956 với Cộng hòa Dân chủ Đức (tháng 3/1955); Hiệp định viện trợ kinh tế Mậu dịch Việt Nam - Rumani (tháng 4/1956); Hiệp định trao đổi hàng hóa Việt Nam - Rumani (tháng 02/1957); Hiệp định trao đổi hàng hóa thanh toán Việt Nam - Tiệp Khắc (tháng 3/1957)...7.

cơ khí Hà Nội

Lễ khánh thành Nhà máy khí Nội (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Trong các công trình viện trợ, Nhà máy khí Nội - còn gọi Nhà máy khí trung quy mô, được đánh giá vào loại hiện đại do Liên giúp xây dựng xong vào cuối năm 1957 thể chế tạo các máy công cụ cắt gọt chính xác, như máy tiện, máy phay, máy bào, máy khoan; hằng năm, Nhà máy bán ra thị trường 600 chiếc máy cái.

Kết quả, số lượng các nghiệp công nghiệp quốc doanh tăng từ 41 sở (năm 1954) lên 151 sở (năm 1957); trong đó 2/3 nghiệp công nghiệp trung ương 1/3 nghiệp công nghiệp địa phương.

Nhờ vậy, chỉ trong vòng 3 năm 1955 - 1957, giá trị sản lượng công nghiệp quốc doanh tăng gấp 6,94 lần, từ 34 tỉ đồng lên 236 tỉ đồng. Nếu cuối năm 1954, giá trị sản lượng công nghiệp chỉ chiếm 1,5% tổng giá trị sản lượng công - nông nghiệp thì đến năm 1957 đã tăng lên 9,3%. Công nghiệp bản doanh tiểu chủ công nghiệp cũng đạt hiệu quả cao trong thời kỳ này; năm 1955 trên 51,6 nghìn sở trên 128,6 nghìn công nhân, đến năm 1956 tăng lên gần 55 nghìn sở 161 nghìn công nhân.

Kết thúc thời kỳ khôi phục, sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu của miền Bắc đã đạt ngang vượt mức năm 1939 - năm cao nhất dưới thời Pháp thuộc; trong đó, sản phẩm liệu sản xuất (nhóm A) bằng 72%, sản phẩm công nghiệp nhẹ (nhóm B) bằng 112% so với năm 19398.

Cụ thể là, sản lượng điện tăng từ 53 triệu kWh lên 121,2 triệu kWh (năm 1939 122,6 triệu kWh); than tăng từ 0,6 triệu tấn lên 1,1 triệu tấn (năm 1939 2,6 triệu tấn); ximăng tăng từ 8.500 tấn lên 165.100 tấn (năm 1939 305.800 tấn); phân bón hóa học tăng từ 6.400 tấn lên 22.500 tấn (năm 1939 35.000 tấn); giấy tăng từ 800 tấn lên 2.400 tấn (năm 1939 3.000 tấn); diêm tăng từ 2,4 triệu bao lên 87,2 triệu bao (năm 1939 323 triệu bao); vải tăng từ 8,8 triệu mét lên 68,1 triệu mét (năm 1939 20,1 triệu mét); sợi bông tăng từ 200 tấn lên 9.400 tấn (năm 1939 12.900 tấn); gạch xây dựng tăng từ 51 triệu viên lên 409,2 triệu viên; gỗ xẻ tăng từ 29.800 m3 lên 89.600 m3; phòng tăng từ 700 tấn lên 2.600 tấn; thuốc chữa bệnh các loại tăng từ 12,1 triệu ống 69,3 triệu viên lên 45,4 triệu ống 188 triệu viên...9.

nhà máy sàng

Nhà máy Sàng Cửa Ông do người Pháp xây dựng năm 1924 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Người Anh hùng Lao động đầu tiên của ngành Than

Năm 1955, vùng mỏ hoàn toàn giải phóng, cùng với cả miền Bắc, công nhân nghiệp Bến Cửa Ông khẩn trương bắt tay vào khôi phục sản xuất. Trước đó, khi chuẩn bị rút đi, người Pháp đã phá hủy máy móc, nhà sàng bến cảng Cửa Ông (nay Công ty Tuyển than Cửa Ông thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam), làm đảo lộn toàn bộ hệ thống điện. Người Pháp còn tuyên bố: “Ít ra cũng phải 20 đến 25 năm nữa, người An Nam mới đào được than đưa sản xuất trở lại”.

Ngay các công nhân cũng cho rằng, muốn khắc phục phải tốn nhiều thời gian công sức, thậm chí nguy hiểm đến cả tính mạng, bởi họ đã mang đi các thiết bị điện quan trọng, các đồ của các hệ thống điện, nhất hệ thống điện cao thế phục vụ cho cầu trục cảng.

Tuy nhiên, với phẩm chất thông minh, sáng tạo trí nhớ tuyệt vời, người thợ điện Văn Hiển trong một thời gian rất ngắn đã vẽ lại toàn bộ hệ thống mạng điện của nghiệp. Chưa đầy một tháng, bến cảng, nhà máy hàn hơi, nhà máy luyện than, đường dây cao thế cảng Cửa Ông, hệ thống vận tải đường sắt, các đầu máy kéo than hệ thống cần trục đều đã được sửa chữa đi vào hoạt động.

Ngày 07/7/1958, công nhân Văn Hiển đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, người đầu tiên của ngành Than được tặng danh hiệu cao quý này.

Năm 1965, Anh hùng Văn Hiển cùng với đội ngũ công nhân nghiệp Bến Cửa Ông đã hoàn thành xuất sắc kế hoạch sản xuất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi. Năm 1967, đại đội tự vệ phân xưởng sàng đã được tuyên dương đơn vị Anh hùng Lực lượng trang nhân dân, cũng đơn vị anh hùng đầu tiên của vùng mỏ. Năm 1968, cán bộ, công nhân viên nghiệp đã thi đua hoàn thành toàn diện kế hoạch sản xuất trước thời hạn 48 ngày, một lần nữa nghiệp được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện khen.

Nguồn: Vinacomin.vn báo Quảng Ninh.

c) Xác lập hệ thống quản mới

Theo Nghị định số 91/BCN-QĐ ngày 28/3/1956, Bộ Công nghiệp được tách ra từ Bộ Công Thương, chức năng quản hành chính - kinh tế - kỹ thuật các nghiệp quốc doanh hợp doanh của ngành, tổ chức điều tra, thăm tài nguyên, quy hoạch đào tạo cán bộ, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp trong tình hình mới.

Điểm nhấn quan trọng của thời kỳ này bắt đầu hình thành tổ chức bộ máy phục vụ công tác kế hoạch hóa nền kinh tế. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khóa II (tháng 8/1955), lần đầu tiên vấn đề kế hoạch hóa kinh tế được nêu lên: “Sau khi khôi phục, nhất định chúng ta phải kiến thiết miền Bắc một cách kế hoạch”10. Việc xây dựng bộ máy được tiến hành rất khẩn trương, Ủy ban Kế hoạch quốc gia được thành lập theo Thông số 603/TTg ngày 14/10/1955. Hệ thống kế hoạch cũng dần được hoàn chỉnh: cấp tỉnh ủy ban kế hoạch tỉnh, cấp huyện phòng kế hoạch huyện, các bộ vụ kế hoạch, các nghiệp phòng kế hoạch.

thủy điện Tà Sa

Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Trần Đại Nghĩa cắt băng khánh thành Nhà máy Thủy điện Sa - Na Ngàn (Cao Bằng), ngày 19/11/1957 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Thông số 603/TTg về việc thành lập Ủy ban Kế hoạch quốc gia nêu rõ: “Trong chế độ kinh tế dân chủ nhân dân của chúng ta miền Bắc, việc khôi phục phát triển kinh tế văn hóa phải dần dần kế hoạch hóa. Ủy ban Kế hoạch quốc gia sẽ thực hiện từng bước công việc kế hoạch hóa, bảo đảm việc củng cố miền Bắc”.

Tháng 12/1955, Ủy ban Kế hoạch quốc gia đã xây dựng kế hoạch năm 1956 trình Hội đồng Chính phủ thông qua. Đây kế hoạch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nội dung chủ yếu của kế hoạch hóa kinh tế Nhà nước quản trực tiếp bằng các chỉ tiêu, kế hoạch mang tính pháp lệnh, quy định chặt chẽ cho các bộ, địa phương, nghiệp sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, phân phối cho ai.

Tiếp đến, các tổ chức bộ máy phục vụ công tác kế hoạch hóa kinh tế dần dần hình thành. Tháng 02/1956, thành lập Cục Thống Trung ương, các ban thống địa phương, các quan thống của các bộ, các nghiệp. Ngày 28/3/1956, thành lập Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ, nhiệm vụ: “Thanh tra công tác các bộ, các quan hành chính chuyên môn các cấp, các doanh nghiệp của Nhà nước; thanh tra việc thực hiện kế hoạch Nhà nước, việc sử dụng, bảo quản tài sản nhà nước chống phá hoại tham ô lãng phí”11.

Kế hoạch hóa kinh tế được gắn liền với hạch toán kinh tế kinh doanh hội chủ nghĩa. Do đó, về quản lý, Chính phủ các bộ đã ban hành các quy chế biện pháp quan trọng sau:

- Về quản tiền mặt, cho phép nghiệp thực hiện tài chính - kế toán độc lập, được mở tài khoản riêng ngân hàng buộc phải gửi tiền mặt, tiền séc vào ngân hàng; ngân hàng thông qua nghiệp vụ nhận gửi cho vay theo dõi, giám sát quản thu - chi cũng như hoạt động sản xuất của nghiệp theo kế hoạch (Thông số 05/TT-LB của liên bộ Công nghiệp Ngân hàng Quốc gia ngày 21/11/1956).

- Về thuế, bổ sung một số quy định áp dụng thuế doanh nghiệp đối với mọi đối tượng kinh doanh, chỉ miễn trong trường hợp làm nhiệm vụ đặc biệt, nhất luật phải nộp thuế hàng hóa đối với những hàng hóa đánh thuế, nhằm tăng cường nguồn thu cho ngân sách thúc đẩy nghiệp cải tiến quản lý, tăng năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm (Chỉ thị số 758/TTg ngày 30/4/1956).

- Điều lệ số 735/TTg ngày 10/4/1956 tạm thời về Hợp đồng kinh doanh được ban hành nhằm tăng cường liên kết kinh tế trách nhiệm vật chất đối với việc thực hiện cam kết hợp đồng giữa các nghiệp quốc doanh với nhau giữa quốc doanh với doanh.

- Quyết định số 130/TTg ngày 04/4/1957 về việc áp dụng chế độ hạch toán kinh tế nhằm tăng cường sự quản tập trung của Nhà nước, đồng thời phát huy tính tích cực của nghiệp.

Mặc đến năm 1956, công tác kế hoạch hóa kinh tế đã được thực hiện đầy đủ trên các mặt tổ chức bộ máy, con người hoạt động thực tiễn, nhưng miền Bắc lúc đó chưa phải nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung như sau này. Bên cạnh các nghiệp quốc doanh thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước vẫn tiếp tục được khuyến khích phát triển. Kinh tế nhân thể được Nhà nước định hướng sản xuất - kinh doanh bằng chính sách, chứ không chịu sự phân công sản xuất theo kế hoạch.

Về đào tạo, bắt đầu xây dựng hệ thống các trường đại học khoa học - kỹ thuật, các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp dạy nghề do Trung ương quản lý. Bộ Công nghiệp cũng thành lập các trường đào tạo của ngành như: Trường Trung cấp Kỹ thuật II Nội đào tạo cán bộ kỹ thuật cho các ngành Hóa chất, Địa chất, Mỏ, Giấy, Thực phẩm; Trường Trung cấp Kỹ thuật III Nam Định đào tạo cán bộ kỹ thuật cho ngành Dệt.

Đối với công tác điều tra bản, miền Bắc đã tiến hành thăm địa chất khoáng sản, đánh giá tài nguyên 22 mỏ, nhằm phục vụ cho việc quy hoạch kế hoạch phát triển công nghiệp, khảo sát, thiết kế xây dựng mới; đồng thời thu thập, xử nhiều tài liệu quý giúp cho việc mở rộng các mỏ cũ. Nhằm phục vụ công tác nghiên cứu, điều tra khảo sát, Bộ Công nghiệp đã tổ chức một số đội khảo sát, các phòng thí nghiệm khoa học, nghiên cứu thành công nhiều đề tài cải tiến kỹ thuật chế tạo thành công hơn 20 mặt hàng mới thay thế nhập khẩu.

mỏ thiếc

Một chuyên gia ngành Địa chất của Liên đang giới thiệu tác dụng của mũi khoan máy thăm cho các công nhân Mỏ thiếc Tĩnh Túc - Cao Bằng (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

“Đứa con đầu lòng” của ngành kim loại màu Việt Nam

Sau giải phóng miền Bắc, cùng các khai trường, hầm mỏ do người Pháp để lại, Cao Bằng được Trung ương định hướng tập trung vào ngành công nghiệp khai thác kim loại màu. Với sự giúp đỡ về vật chất của Liên các chuyên gia Liên Xô, ngày 25/10/1955, Mỏ thiếc Tĩnh Túc khởi công, đồng thời xây dựng đội ngũ công nhân, cải tạo lại các sở, hầm mỏ sản xuất... Đúng một năm sau, ngày 06/10/1956, nghiệp sản xuất Mỏ thiếc Tĩnh Túc được khánh thành đi vào hoạt động.

Hồi ấy, để làm ra hạt quặng Tĩnh Túc, người thợ mỏ phải vượt qua biết bao gian khổ; đường xa xôi, rừng thiêng nước độc. Khi san gạt mặt bằng xây dựng mỏ, công nhân thấy bộ hài cốt xương ống tay xương ống chân vẫn bị còng xích sắt; bộ hài cốt khác thì phần xương sọ chiếc đinh xuyên từ đỉnh đầu đến quai hàm. Những hiện vật này đang lưu giữ bảo tàng tỉnh Cao Bằng. Phải chăng, đó hài cốt của những chiến cộng sản, hoạt động khu mỏ, bị địch tra tấn đã anh dũng hy sinh?

Những ngày đó, Cao Bằng trở thành niềm tự hào của cả nước với Mỏ thiếc Tĩnh Túc hiện đại - “đứa con đầu lòng” của ngành khai khoáng kim loại màu Việt Nam. Công trình khi đó quy lớn nhất Đông Nam Á. Đến nay, nhiều thế hệ người lao động Tĩnh Túc vẫn nhớ đến những năm tháng hào hùng đó.

Thời điểm đó, Mỏ Tĩnh Túc khoảng gần 4.000 công nhân. Từ sáng sớm, còi báo công nhân đi làm vang lên khắp thị trấn, công nhân đi làm theo ca, mỗi ngày ba ca. Tuần này làm ca sáng thì tuần sau làm ca chiều, tuần sau nữa làm ca tối cứ quay vòng như vậy. Hằng ngày xe thùng của mỏ đến đón đi làm đông vui tấp nập.

Nguồn: Vinacomin.vn báo Cao Bằng.

Khuyến khích công nghiệp doanh

Tháng 12/1956, Trung ương họp Hội nghị lần thứ 11 (mở rộng) về tình hình nhiệm vụ kinh tế tài chính trước mắt. Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị tiếp tục khẳng định: “Một vấn đề quan trọng vào bậc nhất hiện nay cần được kiểm điểm kỹ chính sách đối với khu vực kinh tế nhân”12. Sau Hội nghị, Nghị quyết số 02 - NQ/TW được ban hành, yêu cầu: “Củng cố xây dựng dần dần khu vực kinh tế bản nhà nước; ra sức phát huy mọi khả nǎng tiềm tàng của thủ công nghiệp nghề phụ nông thôn, chú trọng tận dụng khả nǎng tích cực đồng thời ngăn ngừa mặt tiêu cực của công thương nghiệp doanh”13.

Đây cũng thời kỳ nhiều chính sách được luật hóa, nhằm hỗ trợ kinh tế ngoài nhà nước. Theo đề nghị của các bộ quản ngành Công Thương, Chính phủ ban hành Nghị định số 488/TTg ngày 30/3/1955 về việc đăng các loại kinh doanh công thương nghiệp; Quyết định số 609/TTg ngày 04/11/1955 của Thủ tướng Chính phủ về việc cho phép kinh doanh đăng kinh doanh công thương nghiệp; Nghị định số 708/TTg ngày 20/3/1956 ban hành Điều lệ tạm thời về các nghiệp nhân; Thông số 3191 ngày 09/12/1955 về việc phân công các ngành đăng công thương nghiệp.

làm nón

Chị em phụ nữ Phương Trung, huyện Thanh Oai, tỉnh Đông (nay thuộc thành phố Nội) làm nón, tháng 10/1957 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp nhân khá đa dạng. thể kể: hỗ trợ vốn lưu động dưới dạng cung cấp nguyên vật liệu; vay vốn; mậu dịch quốc doanh đặt hàng, cung cấp nguyên vật liệu bao tiêu sản phẩm... Nhờ đó, các nghề làng nghề thủ công mỹ nghệ tiêu điều trong chiến tranh đã hoạt động trở lại phục hồi nhanh chóng, nhất các ngành nghề phục vụ cho sản xuất đời sống nhân dân. Tiêu biểu như làng nghề nón Chuông, đúc đồng Ngũ Xã, pháo Bình Đà, lụa Đông, giấy Đông Khê, sứ Bát Tràng, rèn Đa Hội, mộc Đồng Kỵ, sơn mài Đình Bảng, giò chả Ước Lễ...

Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp nhân, thể tạo ra giá trị sản lượng hàng hóa lớn cho hội. Năm 1955 đạt 276 triệu đồng, năm 1956 đạt 466 triệu đồng, năm 1957 đạt 614 triệu đồng. Giai đoạn 1955 - 1957, tốc độ tăng giá trị sản lượng của công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp nhân, thể đạt 222,4%14.

Nhìn chung, giai đoạn ba năm khôi phục phát triển công nghiệp đã kết thúc thắng lợi. Nhờ sự huy động của Nhà nước viện trợ của các nước hội chủ nghĩa, miền Bắc đã đặt nền tảng bước đầu xây dựng nền công nghiệp tự chủ với các phân ngành khí, khai khoáng, điện năng, luyện kim, hóa chất, dược phẩm, ngành dệt, ngành giấy...; đồng thời phát huy được sức mạnh của các thành phần kinh tế tạo ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu sản xuất, nhu cầu tiêu dùng; hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp vị trí, vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế đời sống hội, phục vụ đắc lực cho các ngành nông, lâm, ngư nghiệp.

Nghị quyết số 02-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 11 (mở rộng) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa II, đánh giá: “Những thành tích về việc khôi phục công nghiệp thủ công nghiệp đã góp phần duy trì sinh hoạt của những thành thị mới giải phóng, giải quyết một phần nạn thất nghiệp, cung cấp một số hàng cho nhân dân cho xuất khẩu, tập hợp đào tạo được một số cán bộ công nhân”15.

Việc khuyến khích, hỗ trợ các thành phần kinh tế cùng phát triển thể được xem một thành tựu trong duy phát triển đất nước. “Thiết thực khuyến khích, hướng dẫn, giúp đỡ công nghiệp doanh sản xuất lợi cho kinh tế quốc dân”16; “Sử dụng đúng mức khả năng của thương nghiệp nhân trong việc đẩy mạnh lưu thông hàng hóa trong nước, trong việc buôn bán với miền Nam buôn bán với nước ngoài”17.

Vực dậy nghề rèn làng Vát

Thôn Việt Vân (hay còn gọi làng Vát) một làng cổ nằm phía tây nam Việt Thống, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, nghề rèn nổi tiếng từ lâu đời đem lại việc làm thu nhập cho người dân.

Với người làng Vát, không ai nhớ khởi thủy của nghề rèn, nhưng theo các bậc cao niên trong làng thì nghề rèn đã ít nhất gần nghìn năm tuổi. Vào thời (thế kỷ XI), khi Thái úy Thường Kiệt cho xây dựng phòng tuyến sông Cầu để đánh quân Tống thì người dân làng Vát đã lập thành xưởng rèn khí phục vụ triều đình; hiện ngoài bờ đê vẫn còn đất dấu tích minh chứng.

Dân làng đến nay vẫn kể cho nhau về sự nghiệp vẻ vang, được sử sách ghi lại gắn với sự tích Linh từ Quốc mẫu (vợ Thái Trần Thủ Độ) - người sáng kiến nhờ thợ làng Vát rèn một cây kiếm quý trao cho người công để khích lệ quân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông (thế kỷ XIII).

Sau những năm tháng thăng trầm, nghề rèn phát triển mạnh trở lại. Từ những năm 1945, Mặt trận Việt Minh về đặt vấn đề rèn kiếm dao găm để cung cấp cho nhân dân trong vùng đánh Pháp đuổi Nhật. Thời kỳ 1949 - 1950, khi công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ của dân tộc bước sang giai đoạn phản công, yêu cầu rèn đúc các loại khí đánh giặc được đặt ra, làng nghề đã rèn các loại khí giáo, mác, dao, kiếm...

Từ năm 1955 trở đi thời kỳ phát triển nhất của làng nghề. Mậu dịch quốc doanh đặt gia công các sản phẩm như dao, kéo, liềm, cuốc... để phục vụ phát triển nông nghiệp. Cả làng tất bật với nghề, ba giờ sáng đã bắt đầu nổi lửa. Nhiều gia đình giàu lên nhờ làm nghề như hộ ông Khuông, ông Lương, ông Đốc, ông Minh, ông Quản Lưu, ông Quản Khôi... Thời kỳ này, Hợp tác rèn Việt Vân được thành lập với trên 30 rèn do ông Nguyễn Văn Chiền làm chủ nhiệm, một tổ đảng với 6 - 7 đảng viên sinh hoạt. Cứ vào cuối tuần cả làng lại tấp nập mang hàng lên thị để nhập cho Ty Thương nghiệp phân phối đi các nơi.

Đặc biệt vào năm 1960, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm đê sông Cầu kiểm tra công tác phòng, chống lụt bão của Việt Thống, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nghe người dân kể về tình hình sản xuất của làng nghề. Sau đó, người thợ làng Vát được giao đánh 2 con dao cạo râu kéo cắt tóc để gửi tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cụ Học cụ Đốc được giao nhiệm vụ mang ra Trung ương tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn.

Những năm 1966 - 1967, được sự giúp đỡ của các chuyên gia Triều Tiên, Nhà nước tổ chức xây dựng hệ thống trạm bơm Kim Chân, Hiền Lương, Phả Lại (thuộc huyện Quế Võ) để phục vụ tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp. Các chuyên gia Triều Tiên đã trực tiếp về làng tuyển thợ giỏi để hàn các đầu mối quan trọng. Khi về làng, chuyên gia đã giao đồ cho hiệp thợ rèn làng Vát làm. Chỉ căn cứ bằng “mực mắt” đôi tay lành nghề, người thợ đã nhanh chóng hoàn thành sản phẩm được các chuyên gia đánh giá rất cao giấy chứng nhận thợ bậc 4, bậc 5 cho rất nhiều người thợ làng; trong đó, ông Nguyễn Văn Tụng Nguyễn Văn Kiu được đoàn chuyên gia phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân”.

Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh.


1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.295.

3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.295-296, 296.

5. Xem Lenin: “The role and funcions of the trade unions under the new economic policy”, V.I. Lenin Collected Works, Progress Publishers, Moscow, Vol. 33, pp.184-196.

6. Xem Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Nội, 2006, t.2, tr.36.

7. Xem Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.39.

8, 9. Xem Bộ Công Thương: lược lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Nxb. Công Thương, Nội, 2011, tr.112-113.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.16, tr.507.

11. Sắc lệnh số 261/SL ngày 28/3/1956 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

12, 13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.697, 736-737.

14. Xem Bộ Công Thương: lược lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.114-115.

15, 16, 17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.724, 739, 741.

II. CÔNG NGHIỆP

nhà máy xi măng

Nhà máy Xi măng Hải Phòng phục hồi sản xuất sau khi bị phá hoại nặng nề bởi chiến tranh, năm 1955 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

đại biểu Liên Xô

Đoàn đại biểu Chính phủ Liên Xô đến thăm phòng tuốcbin Nhà máy Điện Yên Phụ, tháng 4/1956 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

cơ khí Hà Nội

Lễ khánh thành Nhà máy Cơ khí Hà Nội (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

2. Phát triển và cải tạo công nghiệp (1958 - 1960)

a) Chủ trương

Nhiệm vụ của kế hoạch 3 năm phát triển và cải tạo kinh tế 1958 - 1960 được Chính phủ trình bày trước Quốc hội:

- Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp.

- Ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh theo chủ nghĩa xã hội.

Báo cáo đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh tại Hội nghị Trung ương 16 mở rộng (tháng 4/1959) khẳng định: “Cải tạo thành phần kinh tế tư bản tư doanh là một mặt trận trọng yếu gắn liền với toàn bộ nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa”1.

b) Cải tạo công nghiệp tư doanh

Phát triển và cải tạo công nghiệp tư doanh được tiến hành dưới hai hình thức công tư hợp doanh và hợp tác hóa.

Đối với hình thức công tư hợp doanh, Nhà nước hợp doanh với xí nghiệp sẵn có của nhà tư sản; hoặc có thể cho nhà tư sản góp vốn vào xí nghiệp đã công tư hợp doanh, cũng có thể sáp nhập cơ sở kinh doanh của nhà tư sản vào xí nghiệp công tư hợp doanh. Trong xí nghiệp công tư hợp doanh, việc quản lý sản xuất và kinh doanh theo phương thức xã hội chủ nghĩa. Đại biểu Nhà nước và công nhân viên chức kết hợp với nhau và ở địa vị lãnh đạo, nhà tư sản ở địa vị bị lãnh đạo. Nhà tư sản được trả lợi tức cho phần góp vốn của mình. Đến một thời hạn nhất định, việc trả lợi tức không còn nữa và nhà tư sản sống bằng sức lao động của mình, thì xí nghiệp công tư hợp doanh sẽ trở thành xí nghiệp quốc doanh xã hội chủ nghĩa.

Đối với hình thức hợp tác, chủ xí nghiệp giao tư liệu sản xuất cho tập thể công nhân để thành lập xí nghiệp hợp tác. Tài sản của họ đưa vào xí nghiệp hợp tác được tính giá trị thành tiền. Một phần trong số tiền đó trở thành cổ phần của chủ xí nghiệp cũ, được hưởng lãi theo điều lệ của xí nghiệp hợp tác. Số tiền còn lại không phải là cổ phần cũng được hưởng một tỷ lệ lãi do tập thể xã viên quy định. Người chủ cũ lao động và hưởng thụ theo lao động như các xã viên khác.

Ở giai đoạn khôi phục kinh tế trước đây, kinh tế tư nhân, cá thể và tiểu chủ được khuyến khích tự do phát triển, thì trong giai đoạn cải tạo, các thành phần kinh tế này được cải tạo, chuyển đổi dần theo phương thức sở hữu tư liệu sản xuất tập thể của chủ nghĩa xã hội.

thuyền chuối

Thuyền chuối của Hợp tác xã Sông Hồng (Phú Thọ) cập bến Chí Chủ để đóng gói, bán cho trạm xuất khẩu huyện Thanh Ba (Phú Thọ), năm 1960 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Từ cuối năm 1958 cho tới giữa năm 1960, miền Bắc tiến hành nhiều đợt cải tạo. Riêng Hà Nội, nơi tập trung phần lớn các nhà tư sản công - thương nghiệp, từ tháng 9/1958 đến tháng 6/1960 đã tiến hành 5 đợt cải tạo công nghiệp và thủ công nghiệp, 3 đợt cải tạo ngành vận tải cơ giới. Kết quả là Hà Nội đã đưa 499 cơ sở sản xuất tư bản vào công tư hợp doanh, 49 cơ sở khác vào xí nghiệp hợp tác, chiếm 77% tổng số cơ sở tư bản tư doanh toàn thành phố. Tổng vốn đăng ký của 499 hộ công tư hợp doanh là 13,9 triệu đồng, hằng năm trả cho các nhà tư sản số tiền chuộc dưới hình thức định tức đồng niên 833.036 đồng, tương đương mức lãi tiền gửi 7%/năm.

Đến cuối năm 1960, cải tạo công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp căn bản hoàn thành trên miền Bắc. Kết quả, đã chuyển 729 xí nghiệp tư bản tư doanh thành 661 xí nghiệp công tư hợp doanh và 68 xí nghiệp hợp tác. Có 9.481 người làm thuê được chuyển thành công nhân viên các xí nghiệp công tư hợp doanh, 400 người trong số họ được đề bạt chánh và phó quản đốc, trưởng và phó phân xưởng. Đa số các nhà tư sản đã tiếp thu cải tạo, một số tư sản và nhân sĩ yêu nước còn xin hiến tài sản, hiến cổ tức cho Chính phủ.

Bên cạnh cải tạo tư sản công nghiệp, Nhà nước cũng tiến hành hợp tác hóa tiểu thủ công nghiệp cá thể, tiểu chủ. Tính đến hết năm 1960, đã có khoảng 260.000 lao động thủ công vào các hình thức sản xuất tập thể khác nhau, trong đó có 137.400 người vào hợp tác xã và 126.200 người vào tổ hợp tác, đạt 87,9% số hộ tiểu thủ công nghiệp thuộc diện cải tạo2.

Công cuộc cải tạo đã làm biến động cơ bản các thành phần kinh tế. Trong công nghiệp, năm 1957, công nghiệp quốc doanh chiếm 60,1% toàn ngành công nghiệp, tăng lên 82,5% vào năm 1960. Trong cùng giai đoạn, hình thức công tư hợp doanh tăng từ 0% lên 10,4%; xí nghiệp hợp tác xã tăng từ 0% lên 7,1%; tư bản tư doanh giảm từ 39,9% xuống 0%. Trong tiểu thủ công nghiệp, cá thể, tiểu chủ từ 100% xuống 56%; hợp tác xã tăng từ 0% lên 44%3.

Trong giai đoạn này, một mặt chúng ta đã căn bản hoàn thành công cuộc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ dựa trên chiếm hữu tư bản về tư liệu sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới, với hai hình thức sở hữu quốc doanh và sở hữu tập thể chiếm ưu thế tuyệt đối. Mặt khác, việc nhanh chóng xóa bỏ công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của tư nhân, cá thể đã làm mất đi một nguồn lực xã hội đầy tiềm năng và năng động, trong khi khu vực quốc doanh chưa đủ lớn mạnh để thay thế hoàn toàn.

Sau nhiều thập kỷ, với độ lùi của thời gian, chúng ta có điều kiện nhìn nhận, đánh giá lại vấn đề này. “Với thực trạng kinh tế - xã hội như vậy, chúng ta có thể duy trì và phát triển kinh tế nhiều thành phần... Nhưng Chính phủ lại quyết định phải thực hiện kế hoạch ba năm phát triển và cải tạo kinh tế”4.

Nhìn lại giai đoạn 1957 - 1959, tình hình diễn biến rất nhanh và khá bất ngờ. Tháng 3/1957, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (mở rộng) về kế hoạch nhà nước năm 1957, khi thống nhất về nhiệm vụ phát triển công nghiệp, đã chỉ ra: “hết sức giúp đỡ thủ công nghiệp và công nghiệp tư doanh phát triển sản xuất có lợi cho kinh tế quốc dân”5. Đến Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (tháng 11/1958) và lần thứ 16 mở rộng (tháng 4/1959), đều đặt nhiệm vụ trọng tâm là ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh.

Tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa I (từ ngày 09 đến ngày 14/12/1958) đã ra Nghị quyết thông qua toàn bộ kế hoạch ba năm (1958 - 1960) - Kế hoạch cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế và văn hóa. Nghị quyết của Quốc hội nhấn mạnh: “Cần phải đưa công cuộc phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển văn hóa tiến lên theo một tốc độ nhanh và mạnh; căn bản hoàn thành cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể và thành phần kinh tế tư bản tư doanh trong thời gian từ 2 đến 3 năm tới”6.

Những diễn biến nhanh chóng trong tiếp cận vấn đề kinh tế tư nhân nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu và trước hết là những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc lúc bấy giờ, chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm, cho nên thường chịu ảnh hưởng từ mô hình và kinh nghiệm từ các nước xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1950, Liên Xô đã đứng đầu châu Âu và đứng thứ hai thế giới về sản lượng điện. Được sự giúp đỡ của Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Năm 1955, công nghiệp Ba Lan tăng gấp 4 lần trước chiến tranh, trong đó, có nhiều ngành công nghiệp mới ra đời. Năm 1956, Cộng hòa Dân chủ Đức thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai, trở thành nước đứng đầu châu Âu về sản lượng điện bình quân đầu người, đứng thứ hai thế giới về sản lượng hóa chất đầu người. Đồng thời, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đều hoàn thành công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp và bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội với quy mô lớn. Ở châu Á, năm 1957, Trung Quốc hoàn thành kế hoạch 5 năm (1953 - 1957) với nhiều kết quả mới trong phát triển kinh tế - xã hội. Thành tựu đó chứng minh tính ưu việt của mô hình xã hội chủ nghĩa và cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Liên Xô cùng các nước phát triển xã hội chủ nghĩa đi trước thực hiện, trở thành hình mẫu cho các nước xã hội chủ nghĩa đi sau, trong đó có Việt Nam.

Hơn nữa, có một tâm lý sợ tụt hậu trong xây dựng chủ nghĩa xã hội so với các nước trong cùng hệ thống. Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Phạm Văn Đồng trình bày tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa I, ngày 09/12/1958 nhấn mạnh: Liên Xô đang tiến những bước khổng lồ trên con đường xây dựng chủ nghĩa cộng sản, Tiệp Khắc sắp hoàn thành việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, Triều Tiên và Bungari căn bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa.

Một nguyên nhân nữa thuộc về khách quan. Nguyên lý kinh tế căn bản của C. Mác và Ph. Ăngghen là quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất. Trong điều kiện một nước đi sau, Việt Nam đã chủ trương “đưa việc xây dựng quan hệ sản xuất tiến lên trước để kéo lực lượng sản xuất lên theo” như một mô hình thử nghiệm. Thử nghiệm thì trải qua thực tiễn và thời gian mới đánh giá được, nên khó tránh khỏi sai sót. Đến Đại hội VI, Đảng ta đã nhận ra vấn đề này: “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”7.

Mặc dù giai đoạn này chế độ sở hữu tư liệu sản xuất công cộng với hai hình thức quốc doanh và tập thể đã được tập trung đến mức cao độ, nhưng nền kinh tế cũng chưa đi hẳn vào mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, do vẫn còn một yếu tố nữa là thị trường tự do còn khá mạnh.

Nhà tư sản dân tộc Nguyễn Sơn Hà

Ông Nguyễn Sơn Hà sinh năm 1894 tại huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nay là Hà Nội). Tên Sơn Hà là tên ghép chữ đầu của quê quán và nơi ông sinh ra. Vì nhà nghèo nên từ nhỏ ông đã phải đi làm thuê kiếm sống, lưu lạc mưu sinh và trưởng thành ở đất cảng Hải Phòng.

Khi làm nhân viên đánh máy rồi làm kế toán cho hãng sơn dầu lừng danh của Pháp ở Việt Nam, ông thường tranh thủ thời gian đọc thêm sách vở, tài liệu nói về kỹ thuật chế tác sơn dầu. Buổi tối, ông âm thầm làm thí nghiệm chế biến, sản xuất sơn từ kiến thức học được ở hãng sơn. Chỉ ít lâu sau, sản phẩm của ông đã có mặt trên thị trường Việt Nam, được khách hàng người Hoa, người Việt rất ưa dùng.

Sau Cách mạng Tháng Tám, gia đình nhà tư sản Nguyễn Sơn Hà đã đóng góp cho Chính phủ 105 lượng vàng cùng nhiều tài sản khác. Ông còn cho phép em rể của mình dùng tiền của ông ở đại lý sơn tại Sài Gòn tổ chức một đoàn tàu vượt biển ra Côn Đảo đón tù chính trị bị giam giữ trở về đất liền trước khi Pháp nổ súng gây hấn vào ngày 23/9/1945. Trong số những người được chuyến tàu đón về có nhiều người sau đó trở thành lãnh đạo của cách mạng Việt Nam như Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt, Phạm Hùng, Lê Thanh Nghị.

Những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, người con trai cả của ông là Nguyễn Sơn Lâm đã anh dũng hy sinh ở Hải Phòng. Sau đó, ông lên chiến khu Việt Bắc tham gia đóng góp công sức, trí tuệ của mình cho cách mạng. Ông giúp Cục Thông tin - Bộ Quốc phòng lúc đó làm vải nhựa cách điện với điện áp thấp, dùng cho kỹ thuật thông tin bằng cách đun nóng nhựa thông (hoặc nhựa trám) với dầu luyn rồi bôi lên vải diềm bâu. Ngoài ra, ông cũng tổ chức sản xuất giấy than, mực in lito, vải che mưa. Vải che mưa của xưởng Nguyễn Sơn Hà chế tạo có thể chống mưa, ngụy trang cũng tốt, lại có thể làm chiếu nằm rất tiện cho bộ đội ta.

Tháng 10/1948 và tháng 3/1949, hai lần Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen và động viên ông tiếp tục có thêm sáng kiến đóng góp cho kháng chiến. Ông Nguyễn Sơn Hà từng thay mặt Quốc hội khóa I trao thanh kiếm “Mã đáo thành công” cho Đại đoàn 308 tại chiến khu Việt Bắc.

Sau hòa bình lập lại, gia đình ông trở về Hải Phòng sinh sống, tiếp tục hiến tiền bạc và tài sản cho Chính phủ, với giá trị khoảng 370 cây vàng. Quãng đời còn lại, ông sống thanh bạch, giản dị và dành thời gian viết sách ghi lại kỹ thuật làm sơn. Ông mất tại Hải Phòng năm 1980.

Nguồn: Website của Sơn Hà Group và Cổng thông tin Điện tử thành phố Hải Phòng.

khu Thượng Đình

Năm 1960, khu Thượng Đình đã có 3 nhà máy: Cao su Sao Vàng, Thuốc lá Thăng Long và Xà phòng Hà Nội (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

c) Phát triển công nghiệp quốc doanh

Với các cơ sở công nghiệp quốc doanh quan trọng vừa được khôi phục và xây dựng bước đầu đã có một đội ngũ công nhân và cán bộ khoa học - kỹ thuật có kinh nghiệm quản lý và tổ chức công nghiệp quốc doanh giai đoạn này có nhiều thuận lợi; đồng thời, có sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa về viện trợ, chuyên gia, kỹ thuật và đào tạo.

Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ công nghiệp quốc doanh trung ương và quốc doanh địa phương. Ở trung ương, có hai đặc điểm rõ nét nhất: đó là hình thành các khu công nghiệp và phát triển công nghiệp nặng.

Giai đoạn 1958 - 1960, một số khu công nghiệp được xây dựng ở Việt Trì, Thượng Đình (Hà Nội), Thái Nguyên...

Khu Công nghiệp Việt Trì: Tháng 8/1958, Công ty Kiến trúc Việt Trì được thành lập trực thuộc Bộ Kiến trúc. Sau thời gian làm việc khẩn trương, quy hoạch tổng thể và xây dựng luận chứng kinh tế - kỹ thuật về Khu Công nghiệp Việt Trì đã hoàn thành và được Trung ương phê chuẩn. Ngày 28/11/1958, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Lê Thanh Nghị phát lệnh khởi công xây dựng Khu Công nghiệp Việt Trì.

Trong quý III/1958, hơn 700 cán bộ, chiến sĩ bộ đội thuộc Sư đoàn 305 và Sư đoàn 308 chuyển ngành cùng với hơn 100 công nhân kỹ thuật được điều về xây dựng khu công nghiệp. Đến năm 1959, tổng số cán bộ, công nhân thuộc khu công nghiệp quản lý lên tới trên 4.000 người. Bên cạnh đó, còn có các chuyên gia Trung Quốc hướng dẫn về kỹ thuật và một số chuyên gia Liên Xô giúp xây dựng một tuốcbin nhà máy điện... Khu Công nghiệp Việt Trì được xây dựng theo kiểu tổ hợp kinh tế công nghiệp hiện đại, quy mô, tập trung khá lớn các nhà máy: điện, đường, giấy, hóa chất, miến - mỳ chính...

Việt Trì - Khu công nghiệp đầu tiên của miền Bắc xã hội chủ nghĩa

Tháng 11/1958, Việt Trì được Trung ương chọn làm điểm để xây dựng khu công nghiệp đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tạo tiền đề cho công cuộc công nghiệp hóa đất nước và thúc đẩy công nghiệp địa phương phát triển. Những ngày đầu xây dựng khu công nghiệp đầy khó khăn, gian khổ, cán bộ, công nhân và nhân dân Việt Trì đã lao động không biết mệt mỏi, không quản nắng mưa.

Ngày 13/4/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh về động viên phong trào. Sau khi đi thăm công trường xây dựng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi tinh thần lao động hăng say, nhiệt tình, ý thức trách nhiệm của cán bộ, công nhân khu công nghiệp. Người nói: Đây là khu công nghiệp đầu tiên của nước ta. Xưa, các Vua Hùng đã chọn làm nơi đóng đô, dựng nước. Nay, ta xây dựng Đất Tổ thành một khu công nghiệp to lớn, cơ sở của chủ nghĩa xã hội. Từ đây ta sẽ bắt đầu cho công cuộc xây dựng to lớn của cả đất nước. Vinh dự này thuộc về các cô, các chú đang xây dựng Đất Tổ... Bác mong các cô, các chú cùng thi đua xây dựng sao cho các nhà máy được ra đời để hoạt động càng sớm càng tốt, để ta có được những sản phẩm tự lực cánh sinh mà ta xưa nay vẫn phải mua của nước ngoài...

Khắc ghi lời Bác dạy, toàn khu công nghiệp bừng bừng khí thế các cuộc thi đua. Sau bốn năm (1958 - 1962) một loạt nhà máy như: điện, giấy, hóa chất, đường, xay, mì chính... đã hoàn thành và đi vào hoạt động. Ngày 18/3/1962, Khu công nghiệp Việt Trì chính thức được cắt băng khánh thành. Sự ra đời của Khu công nghiệp Việt Trì đã làm thay đổi căn bản diện mạo của “Thành phố ngã ba sông”. Từ một vùng đất hoang vu đã mọc lên những nhà máy, xí nghiệp công nghiệp hiện đại, là cơ sở để ngày 04/6/1962, Chính phủ quyết định thành lập thành phố Việt Trì trực thuộc tỉnh Phú Thọ.

Nguồn: Cổng thông tin Điện tử Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

Bác Hồ thăm Việt Trì

Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm công trường xây dựng Khu công nghiệp Việt Trì ngày 13/4/1959 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Khu Gang thép Thái Nguyên: Ngày 04/6/1959, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 214/TTg thành lập Ban chỉ huy công trường Khu gang thép Thái Nguyên, do ông Đinh Đức Thiện - Thứ trưởng Bộ Công nghiệp làm Trưởng ban. Ban chỉ huy công trường có nhiệm vụ xây dựng và tổ chức Khu gang thép Thái Nguyên, gồm có: nhà máy gang thép, mỏ sắt, mỏ than, nhà máy điện, đường sắt chuyên dụng, đường bộ, bến tàu; trong đó, công việc hết sức quan trọng là xây dựng nhà máy gang thép lớn nhất của đất nước với công suất 20 vạn tấn/năm.

Khu Công nghiệp Thượng Đình (Hà Nội): Ngày 22/12/1958, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Lê Thanh Nghị phát lệnh khởi công Khu công nghiệp Thượng Đình, thường được biết đến với tên gọi “Khu Cao - Xà - Lá”. Đến năm 1960, khu Thượng Đình đã có 3 nhà máy: Cao su Sao Vàng, Thuốc lá Thăng Long và Xà phòng Hà Nội.

Thành phố Hải Phòng: Là nơi tập trung nhiều nhà máy công nghiệp có tiếng của miền Bắc lúc bấy giờ.

Nhà máy Sắt Tráng Men - Nhôm Hải Phòng được thành lập ngày 17/5/1956, với sự giúp đỡ của Trung Quốc. Cũng vào thời điểm ấy, Hải Phòng đang dấy lên phong trào “kế hoạch nhỏ” của các em thiếu niên, nhi đồng quyên góp sách báo, giấy vụn, vỏ chai... để góp phần xây dựng một nhà máy sản xuất các vật dụng đồ dùng học tập cho học sinh. Tháng 12/1958, Bộ Công nghiệp quyết định xây dựng Nhà máy Nhựa tại Hải Phòng, cũng là cơ sở đầu tiên của ngành gia công chất dẻo của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, trong đó có một phần đóng góp từ “kế hoạch nhỏ”.

Đây cũng là thời kỳ công nghiệp nặng được ưu tiên phát triển. Nhiều nhà máy điện, mỏ than, ximăng, gang thép, hóa chất được đầu tư xây dựng, mở rộng công suất. Hầu hết các mỏ quan trọng ở miền Bắc được khôi phục và mở rộng, như các mỏ than Hòn Gai, Mạo Khê, Làng Cẩm, mỏ thiếc, mỏ apatít... Nhà máy Ximăng Hải Phòng được khôi phục đã vượt sản lượng năm 1939 là 30%. Mỏ Than Uông Bí, Mỏ Kẽm Bắc Kạn cũng được thiết kế xây dựng, chuẩn bị khởi công 1 nhà máy phân đạm và 2 nhà máy phân lân. Các nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng, nhà máy điện cũng được phát triển mạnh, nhờ thế, sản lượng ngành điện tăng hơn 2 lần.

Bên cạnh đó, công nghiệp nhẹ cũng được quan tâm phát triển. Nhà máy Dệt 8-3, Dệt kim Đông Xuân, nhà máy xay, nhà máy gạch và gạch chịu lửa, Nhà máy Gỗ Cầu Đuống... được xây dựng.

Khôi phục Mỏ Apatít Lào Cai

Năm 1886, sau khi chiếm đóng Laokay (Lào Cai), với khát khao thu lợi từ vùng thuộc địa trên “con đường tơ lụa” mà thương gia kiêm nhà ghi chép lịch sử Joan Dupus vẽ lên, người Pháp rất mong sớm khai thác tài nguyên quý hiếm tại đây. Từ năm 1900 đến năm 1914, dù phải đối phó với việc bình định các cuộc nổi dậy, chính quyền Pháp đã cấp 11 giấy phép thăm dò các mỏ ở Laokay.

Việc phát hiện Mỏ Apatít năm 1924 là một sự kiện ngẫu nhiên, hai bố con ông Trần Văn Nỏ, người Tày ở tổng Cam Đường đã phát hiện ra nguyên liệu quặng trong một chuyến đi rừng.

Năm 1939, những tấn quặng apatít đầu tiên tập kết tại ga Gốc Đa thành các goòng quặng được kéo bằng đầu máy hơi nước ra Cửa Ngòi, rót quặng từ bờ cao xuống phà, phà được tời qua sông, bốc lên toa xe đưa về cảng Hải Phòng. Từ năm 1939 đến năm 1942, tuyến đường thô sơ trên đã chuyên chở trên 249.000 tấn quặng.

Năm 1940, sau khi Nhật chiếm đóng mỏ, nhà thầu Nhật độc chiếm việc khai thác, nâng khối lượng gấp rưỡi thời chủ thầu Pháp quản lý.

Năm 1942, Nhật nâng cấp tuyến đường sắt trên từ khổ 60 cm lên 115 cm, thúc đẩy việc khai thác thêm 300 tấn/năm. Theo tài liệu thống kê của Kho lưu trữ Trung ương, từ khi khai thác năm 1934 đến khi đóng cửa mỏ lần thứ nhất (cuối năm 1944), Pháp và Nhật đã khai thác trên 445.700 tấn quặng loại tốt.

Năm 1955, sau ngày miền Bắc được giải phóng, Chính phủ chủ trương khôi phục việc khai thác Mỏ Apatít phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Được sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô cùng nhiều vật tư, máy móc mới, đường sắt Cửa Ngòi - ga Gốc Đa được khôi phục, khai trường Mỏ Cóc mở lại.

ông Nỏ
Chủ tịch Hồ Chí Minh và ông Trần Văn Nỏ (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Ngày 23/9/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng phái đoàn của Chính phủ xuống tàu tại ga Pom Hán mới được khánh thành, lên xe tải tatra về Văn phòng Mỏ Apatít. Khi trò chuyện với cán bộ, công nhân và nhân dân vùng mỏ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi vùng mỏ đã khắc phục khó khăn, nhanh chóng khôi phục mỏ, đi vào sản xuất và ổn định đời sống. Bác cũng nhắc nhở Mỏ Apatít cần đẩy mạnh phong trào thi đua làm “nhiều, nhanh, tốt, rẻ” để làm giàu cho Tổ quốc, đồng thời lưu ý việc giữ gìn máy móc thật tốt, vì đây là mồ hôi, nước mắt của nhân dân Liên Xô và Trung Quốc giúp ta.

Sau đó, Bác trao cho ông Nguyễn Văn Lang, Giám đốc Mỏ Apatit Cam Đường 5 chiếc Huy hiệu mang tên Người để làm phần thưởng cho những công nhân đạt thành tích xuất sắc trong khai thác, vận chuyển quặng apatít.

Trong buổi gặp gỡ đặc biệt này, Chủ tịch Hồ Chí Minh vui vẻ chụp ảnh lưu niệm cùng với ông Trần Văn Nỏ, là người đầu tiên có công phát hiện ra quặng apatít Cam Đường.

Ông Trần Văn Nỏ cảm động rơm rớm nước mắt nói không lên lời vì quá bất ngờ trước tình cảm đặc biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho mình. Thay mặt bà con dân bản vùng mỏ apatít Cam Đường, ông Nỏ đã trân trọng kính tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh tấm khăn thổ cẩm do người dân địa phương thêu dệt.

Nguồn: Theo báo Lào Cai và báo Dân Trí.

Vốn đầu tư cho công nghiệp quốc doanh thời kỳ 1958 - 1960 đạt 638 triệu đồng (hơn 3 lần số vốn đầu tư trong thời kỳ 1955 - 1957); trong đó, cho công nghiệp nặng là 73% và công nghiệp nhẹ là 27% (các chỉ số tương ứng của thời kỳ 1955 - 1957 là 68,6% và 31,4%). Vốn đầu tư cho công nghiệp chiếm 42,2% tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của khu vực sản xuất (thời kỳ 1955 - 1957 là 34,7%).

Nhờ vậy, số lượng xí nghiệp công nghiệp quốc doanh tăng lên nhanh chóng từ 281 xí nghiệp năm 1958 lên 1.012 xí nghiệp năm 1960, trong đó công nghiệp quốc doanh trung ương tăng từ 111 xí nghiệp lên 203 xí nghiệp, chủ yếu là những nhà máy lớn hiện đại.

Trong ba năm, sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp đã phát triển với nhịp độ nhanh. Từ năm 1957 đến năm 1960, bình quân hằng năm tăng 21,7%, trong đó công nghiệp quốc doanh tăng nhanh nhất: bình quân hằng năm tăng 49,6%. Riêng năm 1960, công nghiệp quốc doanh vượt kế hoạch 12,6% và tăng 32,3% so với năm 1959.

Chúng ta đã có nhiều sản phẩm mới như gang, máy công cụ, máy móc xây dựng, máy xay gạo, gỗ dán, gạch chịu lửa, axitsunfuric, thuốc trừ sâu, các loại xà phòng, đồ sắt tráng men, đồ dùng văn phòng, len, hàng dệt kim, đường kính...

Điều đáng chú ý là cơ cấu của công nghiệp miền Bắc đã tiến bộ hơn trước. Trong 3 năm 1957 - 1960, công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất được phát triển mạnh, cơ sở công nghiệp nặng đã bước đầu được xây dựng. Công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất (nhóm A) giai đoạn 1955 - 1960 tăng 43,9% về giá trị tổng sản lượng trong khi nhóm B tăng 34,2%8.

Trong sản xuất tư liệu sản xuất, những ngành chủ chốt như điện lực, chế tạo máy móc, vật liệu xây dựng... được phát triển khá nhanh. Công nghiệp cơ khí miền Bắc trước kia chỉ đáp ứng việc sửa chữa, nay đã chế tạo được một số loại máy công cụ loại nhỏ và vừa, máy phát điện cỡ nhỏ, tàu kéo, canô, toa xe, một số loại máy thi công và một số máy nông nghiệp loại nhỏ.

Đồng thời, công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm tiếp tục phát triển mạnh mẽ: từ năm 1957 đến năm 1960 tăng 60,4%, bình quân hằng năm tăng 17,1%; nhờ đó, từ chỗ trước đây phải nhập hầu hết hàng tiêu dùng, đến cuối giai đoạn đã tự cung cấp được phần lớn hàng tiêu dùng chủ yếu cần thiết cho nhân dân và có một số hàng có phẩm chất tốt để xuất khẩu.

Sự phát triển những sản phẩm chính của công nghiệp trung ương thời kỳ này như sau (số năm 1960 so sánh với năm 1957): điện: 256 triệu kWh, tăng 110%; than: 2,6 triệu tấn, tăng 136%; phốtphát: 51 nghìn tấn, tăng 126%; ximăng: 408 nghìn tấn, tăng 147%; gạch: 942 triệu viên, tăng 130%; ngói: 130,8 triệu viên, tăng 62,2%; gỗ tròn: 753 nghìn mét khối, tăng 71%; giấy viết: 4.600 tấn, tăng 91%; diêm: 182 triệu bao, tăng 109%; vải mặc: 76 triệu mét, tăng 11,7%; sợi bông: 10.400 tấn, tăng 10,6%; đường mật: 32 nghìn tấn, tăng 117%; cá bể: 112.500 tấn, tăng 3,3%; nước mắm: 29,6 triệu lít, tăng 42,3%; thuốc lá: 81,6 triệu bao, tăng 168%... Nhờ thế, chỉ tiêu một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tính theo đầu người vào năm 1959 đã xấp xỉ mức năm 1939: điện: 13,4 kWh/10,7 kWh; than: 142 kg/229 kg; ximăng: 25 kg/25,8 kg; vải: 5 m/4,8 m; giấy: 0,26 thếp/0,5 thếp; muối: 8,4 kg/3,3 kg; đường: 0,7 kg/0,7 kg9...

Hình thành Khu công nghiệp luyện kim đầu tiên

Ngày 04/6/1959, Hội đồng Chính phủ ra quyết định thành lập công trường Khu Gang thép Thái Nguyên. Theo Quyết định thành lập, Trưởng Ban chỉ huy công trường Khu Gang thép Thái Nguyên là ông Đinh Đức Thiện - Thứ trưởng Bộ Công nghiệp; Phó Trưởng ban là ông Nguyễn Văn Xuân - cán bộ Bộ Công nghiệp, ông Lê Hoàng - đại biểu khu tự trị Việt Bắc; các ủy viên gồm các ông: Trần Diệp, Phan Tử Lăng, đều là cán bộ Bộ Công nghiệp và ông Nguyễn Đình Lim, đại biểu tỉnh Thái Nguyên.

Hơn 22 nghìn cán bộ, chiến sĩ quân đội và thanh niên từ khắp mọi miền Tổ quốc hội tụ về đây, cùng nhau san đồi, bạt núi, xúc hàng triệu mét khối đất đá, đổ hàng vạn tấn bêtông, những nhà máy, phân xưởng, mỏ với diện tích rộng gần 160 ha đã lần lượt ra đời. Hơn 50 quả đồi với gần 11 triệu mét khối đất, đá được san gạt; hàng vạn tấn bêtông, hàng nghìn tấn vật tư thiết bị được vận chuyển về mặt bằng công trường khu Gang thép để xây dựng nên khu công nghiệp luyện kim đầu tiên của Việt Nam, với dây chuyền sản xuất liên hợp khép kín từ khai thác quặng sắt đến luyện gang, luyện thép và cán thép...

Đúng ngày Quốc khánh 02/9/1960, Công trường Khu công nghiệp Gang thép làm lễ khởi công bằng việc đổ bêtông móng lò cao số 1 - mở đầu một giai đoạn lịch sử của ngành Luyện kim hiện đại Việt Nam.

Năm 1960 cũng là mốc thời gian đánh dấu hàng loạt xí nghiệp quốc doanh địa phương ở Thái Nguyên, với các ngành nghề: khai thác sản xuất, cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác, chế biến lâm sản, thực phẩm, dệt, da, may mặc được hình thành và đi vào hoạt động. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp địa phương trong năm 1960 tăng gần 5 lần so với năm 1955, sản phẩm chủ yếu là các mặt hàng điện, than, nông cụ, phân bón, vật liệu xây dựng.

Từ năm 1960 đến năm 1965, đã từng bước định hình khu công nghiệp luyện kim khép kín:

- Ngày 31/12/1961: Thành lập Xưởng Luyện Gang (nay là Nhà máy Luyện Gang).

- Ngày 06/9/1963: Thành lập Xưởng Luyện Cốc (nay là Nhà máy Cốc Hóa).

- Ngày 25/11/1963: Thành lập Xưởng Động lực (nay là Xí nghiệp Năng lượng).

- Ngày 29/11/1963: Mẻ gang đầu tiên của lò cao số 1 đã ra lò, đánh dấu quá trình khắc phục khó khăn, dám nghĩ, dám làm với tinh thần tự lực cánh sinh rất cao của hơn 22.000 cán bộ, công nhân toàn công trường.

- Ngày 16/12/1963: Khánh thành phân xưởng tuyển quặng và Mỏ sắt Trại Cau - nơi cung cấp nguyên liệu chính cho Khu Gang thép, hằng năm có thể sản xuất 25 - 30 vạn tấn quặng sạch. Cùng với Mỏ sắt Trại Cau, từ năm 1959 đến năm 1963, hàng loạt mỏ nguyên liệu khác ở nhiều địa phương trên miền Bắc cung cấp cho Khu Gang thép được khẩn trương xây dựng và đưa vào sản xuất, như: Mỏ đá Núi Voi (Thái Nguyên), Mỏ đất chịu lửa Tuyên Quang, Quắc Zít Phú Thọ, Dolomit Thanh Hóa, Măng Gan - Cao Bằng.

- Ngày 20/12/1963: Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đã cắt băng khánh thành lò cao số 1 - công trình đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại luyện kim nước ta.

- Ngày 23/9/1964: Khánh thành lò cao số 2.

- Ngày 21/11/1964: Thành lập phân xưởng Luyện thép (nay là Nhà máy Luyện thép Lưu Xá). Thời kỳ đầu, Nhà máy luyện thép sử dụng phương pháp lò Máctanh (tức lò bằng), mỗi lò 150 tấn thép/mẻ.

- Ngày 21/12/1964: Khánh thành xưởng thiêu kết công suất 12 vạn tấn/ năm, sử dụng nguồn quặng vụn của Mỏ sắt Trại Cau thiêu kết thành quặng cục có độ rắn, xốp, độ hoàn nguyên thích hợp, vừa tiết kiệm quặng và than cốc vừa tăng thêm nguyên liệu tốt cho lò cao.

- Ngày 22/12/1964: Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thanh Nghị đã chính thức cắt băng khánh thành lò cốc với công suất 13 vạn tấn/năm, gồm 45 buồng và ngay trong năm này, Xưởng đã đạt sản lượng 11 vạn 2 nghìn tấn than cốc luyện kim với chất lượng tốt.

- Ngày 20/7/1965: Khánh thành Xưởng Vật liệu chịu lửa (nay là Nhà máy Vật liệu chịu lửa) và lò cao số 3. Lò cao số 3 đi vào sản xuất cùng với lò cao số 1 và lò cao số 2 đã đưa sản lượng luyện gang thép lên 14 vạn tấn năm, đủ nguyên liệu phục vụ cho hệ thống luyện thép.

Nguồn: Theo website của Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên.

Công nghiệp địa phương bắt đầu có sự khởi sắc. Cùng với việc trung ương giao lại một số cơ sở cho địa phương, các tỉnh và địa phương cũng dựa vào nguồn lực của mình và một phần hỗ trợ của trung ương để xây dựng thêm nhiều cơ sở mới. Số cơ sở công nghiệp quốc doanh địa phương tăng từ 170 xí nghiệp với 8.152 công nhân năm 1958 lên 546 xí nghiệp với 25.712 công nhân năm 1959 và 722 xí nghiệp với 44.407 công nhân năm 1960; trong đó, các xưởng, trạm cơ khí chiếm 46%, sản xuất vật liệu xây dựng chiếm 28%, sản xuất phân bón hóa học, thuốc trừ sâu chiếm 5,8%...

Các tỉnh, thành phố trên miền Bắc lúc đó đều có xưởng cơ khí nhỏ sản xuất nông cụ cải tiến và máy móc chế biến nông sản đơn giản. Nhiều tỉnh đã xây dựng được xưởng sản xuất phốtphát, lò cao nhỏ sản xuất gang. Nhiều nơi phát triển các lò gạch ngói thủ công, lò vôi, xưởng chế biến nông - lâm sản, hải sản, xưởng ximăng, xưởng xẻ gỗ thủ công và nửa cơ giới, dệt thủ công và bán cơ khí. Một số địa phương còn xây dựng các trạm điện nhỏ chạy bằng diesel và sức nước... Công nghiệp quốc doanh địa phương đã sản xuất trong 50 ngành nghề và với 56 chủng loại sản phẩm.

Công nghiệp địa phương sản xuất được nhiều sản phẩm thỏa mãn phần lớn nhu cầu tư liệu sản xuất nông nghiệp và dân sinh, như: máy tuốt lúa, công cụ lao động các loại, gạch, ngói, vôi, gỗ khai thác, tàu thuyền đánh cá, chiếu cói, đồ thủy tinh, sứ dân dụng, vải, lụa, áo dệt kim, da, đường mật, nước mắm, xà phòng, đồ dùng gia đình bằng kim loại...

Sản xuất khởi sắc, công nghiệp địa phương đã thu hút khoảng 600 nghìn người và tạo ra giá trị sản lượng 890 triệu đồng; trong đó, thủ công cá thể, tổ hợp tác sản xuất và hợp tác xã chiếm tới 90% lao động và 83% giá trị sản lượng. Đáng chú ý là công nghiệp địa phương đến giai đoạn này mới bắt đầu được chú ý nên có đà phát triển hết sức mạnh mẽ, năm 1960 tăng gấp 10 lần năm 1957.

Đến năm 1960, công nghiệp quốc doanh trung ương và quốc doanh địa phương đều có bước tăng trưởng khá. Theo Báo cáo về nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất về phát triển kinh tế quốc dân (1961 - 1965) tại Đại hội III của Đảng: “Chúng ta có 172 xí nghiệp do trung ương quản lý. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh năm 1960 có thể vượt kế hoạch 3,8% và tăng hơn hai lần so với năm 1957. Công nghiệp quốc doanh địa phương bước đầu được phát triển, đã chiếm 19% trong giá trị sản lượng công nghiệp quốc doanh. Năng suất lao động trong các ngành công nghiệp quốc doanh năm 1959 tăng 3,8 lần so với năm 1955 và tăng hơn 60% so với năm 1957. Thủ công nghiệp được khuyến khích, năm 1960 tăng gần hai lần so với năm 1955 và tăng 34% so với năm 1957”10.

Tuy nhiên, Báo cáo cũng thẳng thắn nhìn nhận: “Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mở rộng chưa khắp và chưa được củng cố vững chắc; trình độ sản xuất vẫn còn lạc hậu... công nghiệp hiện đại, nhất là công nghiệp nặng còn nhỏ bé, chưa giải quyết được các nhu cầu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Các ngành sản xuất và vận tải còn nhiều khả năng tiềm tàng chưa được phát huy. Lực lượng cán bộ và công nhân kỹ thuật còn ít, trình độ kỹ thuật còn non kém. Nhân lực dồi dào nhưng sử dụng chưa được hợp lý. Vì năng suất lao động xã hội còn thấp cho nên thu nhập và mức sống của nhân dân còn thấp”11.

Tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ngành công nghiệp Dầu khí

Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, năm 1957, trong chương trình của chuyến thăm các nước Đông Âu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành thời gian đến thăm giàn khoan dầu ở Anbani và thăm nhà máy lọc dầu ở Bungari.

Câu nói của Người vào ngày 23/7/1959 với các kỹ sư, công nhân dầu khí khu công nghiệp dầu lửa Baku, Adécbaigian, đã thể hiện khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc: “Sau khi Việt Nam kháng chiến thắng lợi, Liên Xô nói chung và Adécbaigian nói riêng phải giúp đỡ Việt Nam khai thác và chế biến dầu khí, xây dựng được những khu công nghiệp dầu khí mạnh như Baku”.

Theo đề nghị của Chính phủ Việt Nam, từ năm 1959, Chính phủ Liên Xô đã cử các chuyên gia địa chất dầu khí sang giúp Việt Nam tiến hành điều tra địa chất dầu khí: Trong hai năm 1959 - 1961, các chuyên gia Liên Xô đã cùng các đồng nghiệp Việt Nam hoàn thành báo cáo tổng hợp “Địa chất và triển vọng dầu khí ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” đầu tiên ở nước ta.

Xuất phát từ tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước về ngành công nghiệp Dầu khí của Việt Nam, cùng với kết luận ban đầu tại báo cáo địa chất dầu khí nói trên, ngày 09/10/1961, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 159-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Địa chất, trong đó đã xác định rõ có tổ chức Đoàn thăm dò Dầu lửa.

dầu lửa

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm mỏ dầu ở sát bờ biển Baku, Adécbaigian năm 1959 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Ngày 27/11/1961, Tổng cục Địa chất ra Quyết định số 271/ĐC thành lập Đoàn Thăm dò Dầu lửa số 36 (tên thường gọi là Đoàn 36 và từ năm 1969 là Liên đoàn Địa chất 36) trực thuộc Tổng cục Địa chất. Đoàn 36 có nhiệm vụ tiến hành tìm kiếm, thăm dò dầu hỏa và khí đốt trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Hơn 10 năm tiếp đó, các kỹ sư Việt Nam đồng hành với chuyên gia Liên Xô đã tiến hành các hoạt động thăm dò dầu khí, công tác địa vật lý và khoan dầu khí ở đồng bằng sông Hồng và vùng trũng An Châu, khẳng định kết quả thăm dò, chính xác hóa cấu trúc địa chất của “tam giác châu thổ sông Hồng”, phát hiện các vết dầu và vỉa khí trong trầm tích Đệ Tam.

Đoàn 36 đã cung cấp rất nhiều tài liệu và thông tin quý giá, những kết luận quan trọng về cấu trúc địa chất, tiềm năng dầu khí ở miền võng Hà Nội, ở vùng trũng An Châu và là “cái nôi” cung cấp nguồn nhân lực quản lý cho ngành Dầu khí Việt Nam trong giai đoạn đầu.

Ngày 18/3/1975, đánh dấu sự kiện nổi bật về tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở miền Bắc Việt Nam khi phát hiện mỏ khí Tiền Hải, với trữ lượng xác minh lên đến 1,3 tỉ m3.

d) Tình hình một số ngành công nghiệp chủ yếu

Điện lực

Là ngành được ưu tiên phát triển và thay đổi tính chất từ ngành công nghiệp tiêu dùng sang ngành sản xuất. Ngày 21/7/1955, thành lập Cục Điện lực trực thuộc Bộ Công Thương, đặt dấu mốc pháp lý về hoạt động chỉ đạo, quản lý của cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách về lĩnh vực điện lực; tháng 01/1958, xây dựng đường dây Trung áp 35 kV đầu tiên (Hà Nội - Phố Nối); ngày 19/5/1961, xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí - nhà máy nhiệt điện công suất lớn nhất đầu tiên ở miền Bắc. Ngày 26/11/1963, dòng điện đầu tiên từ Nhà máy Điện Uông Bí hòa vào lưới điện miền Bắc với sản lượng trung bình trên 100 triệu kWh/năm, đánh dấu một mốc quan trọng của nhà máy điện lớn nhất Đông Dương lúc bấy giờ; ngày 19/8/1964, khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Thác Bà công suất lớn đầu tiên ở miền Bắc trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội.

Bên cạnh các nhà máy điện cũ được khôi phục và 6 nhà máy thủy điện, nhiệt điện nhỏ được xây dựng trước đó, trong thời kỳ 1958 - 1960, đã xây dựng thêm 5 nhà máy nhiệt điện và 1 nhà máy thủy điện cỡ nhỏ và trung, đưa số cơ sở do Bộ Công nghiệp quản lý lên 15, trong đó có 7 cơ sở độc lập và 8 cơ sở trực thuộc các xí nghiệp công nghiệp trung ương. Đồng thời, cũng xúc tiến chuẩn bị điều kiện xây dựng các nhà máy thủy điện cỡ lớn trong kế hoạch 5 năm tiếp theo. Năm 1960, các nhà máy ở miền Bắc đã đạt sản lượng điện 256 triệu kWh, sản lượng điện bình quân đầu người đạt 15,8 kWh (các chỉ số tương ứng năm 1957 là 121,24 triệu kWh và 8 kWh).

Cơ khí chế tạo

Sau việc đưa Nhà máy Cơ khí Hà Nội vào hoạt động năm 1957, nhiều cơ sở cơ khí sửa chữa cũ được cải tạo thành xưởng cơ khí chế tạo, như các nhà máy: Cơ khí Trần Hưng Đạo, Cơ khí Gia Lâm, Xưởng cơ khí Trường Trung cấp Kỹ thuật I, Cơ khí Bộ Kiến trúc, Cơ khí Duyên Hải... Các nhà máy này được tăng năng lực sản xuất và mở rộng chủng loại sản phẩm. Máy móc đạt độ chính xác cấp 2... Ngành Vận tải cũng được mở rộng và xây dựng thêm một số nhà máy cơ khí mới để sản xuất rơmoóc, phụ tùng xe hơi, toa xe lửa, tàu kéo, xà lan, canô, tàu nhỏ đánh cá và chuẩn bị xây dựng Nhà máy Đóng tàu Bạch Đằng... Các nhà máy: Dệt Nam Định, Ximăng Hải Phòng, Điện Hà Nội, Mỏ than Hồng Gai và Mỏ than Cẩm Phả đều có xưởng cơ khí lớn; tại đây, ngoài việc sửa chữa cơ khí, còn nghiên cứu chế tạo máy móc, dụng cụ cho các nhà máy để thay thế nhập khẩu.

Sản phẩm mới của ngành Cơ khí năm 1960 là: máy cắt gọt kim loại: 799 cái, động cơ điện: 488 cái, xe lăn đường: 10 cái, xà lan các loại với tổng trọng tải: 1.200 tấn, goòng vận tải: 298 cái, máy bơm nước: 71 cái, xe đạp: 23.110 cái, săm lốp xe đạp: 12.000 chiếc; ngoài ra còn nghiên cứu chế tạo máy nông nghiệp như máy gieo hạt, máy gặt, máy cày 2 bánh 2 lưỡi...

Luyện kim và khai khoáng

Với sự giúp đỡ của Trung Quốc, ta đã bắt đầu khởi công xây dựng Nhà máy Liên hợp Gang thép Thái Nguyên. Ba lò cao nhỏ (Cọc 5, Hà Giang, Thanh Hóa) đã được đưa vào sử dụng, công suất nấu gang đạt 1.000 tấn/năm. Về sản xuất thép, ngoài lò đúc thép ở Nhà máy Cơ khí Hà Nội, đã nghiên cứu xây dựng lò cao dung tích 30 m3 và những lò nhỏ ở địa phương. Với sự giúp đỡ của Liên Xô, Mỏ thiếc Tĩnh Túc được khôi phục và xây thêm lò phản xạ hiện đại luyện thiếc, tăng chất lượng sản phẩm thiếc từ loại 2, loại 3 lên loại 1. Mở rộng và cơ khí hóa khâu khai thác cho Mỏ Apatít (Lào Cai), đồng thời, chuẩn bị xây dựng nhà máy sấy quặng và làm giàu quặng. Mỏ Cromit Cổ Định (Thanh Hóa) được cơ khí hóa dùng sức nước khai thác. Nghiên cứu chế đồng, chì, graphite, fero và các kim loại khác. Hoàn thành thăm dò Mỏ Kẽm Chợ Điền để chuẩn bị xây dựng nhà máy luyện kẽm quy mô lớn. Sản lượng một số sản phẩm chủ yếu của ngành luyện kim như sau: năm 1959, apatít đạt 260.600 tấn, thiếc đạt 355 tấn; năm 1960, gang đạt 2.800 tấn, quặng cromit đạt 19.420 tấn.

Khai thác than

Các mỏ than quan trọng như: Hồng Gai, Mạo Khê, Cẩm Phả, Làng Cẩm đã được mở rộng. Năm 1959, riêng hai mỏ Hồng Gai và Cẩm Phả đạt sản lượng 2.023.000 tấn (tăng 25,5% so với năm 1939), nhờ thế, sản lượng khai thác các mỏ than tăng nhanh từ 1.080.000 tấn lên 2.570.000 tấn trong thời kỳ 1957 - 1960. Mỏ than Na Dương (Lạng Sơn) được xây dựng để cung cấp than cho các nhà máy ximăng, thay thế cho than nhiều chất bốc trước đây vẫn phải nhập. Tiến hành thăm dò và phát hiện than mỡ ở Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình để phục vụ cho phát triển gang thép trong các kế hoạch sắp tới.

Hóa chất - phân bón

Đã đẩy mạnh sản xuất phân phốtphát từ nguyên liệu quặng apatit đưa sản lượng tăng từ 6.400 tấn lên 51.000 tấn, tức là gần 10 lần trong thời gian 1955 - 1960; riêng sản lượng phân hóa học của các cơ sở trung ương đã đạt 22.530 tấn năm 1957 và tăng lên 490.000 tấn năm 1960; đẩy mạnh xây dựng các nhà máy hiện đại Supe Phốtphát Lâm Thao, Phân lân Văn Điển, Phân đạm Bắc Giang. Năm 1960, đã hoàn thành xây dựng một số xưởng sản xuất xút, pôlivinin, xưởng pin, xưởng dưỡng khí, xưởng làm cứng dầu...

bộ trưởng Nghị Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Lê Thanh Nghị tại lễ khai trương Nhà máy Dệt Nam Định, ngày 29/01/1956 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Công nghiệp nhẹ

Ngay sau hòa bình, với sự giúp đỡ của Trung Quốc, Nhà máy Dệt Nam Định đã được khôi phục và mở rộng trở thành nhà máy dệt cỡ lớn ở Đông Nam Á lúc đó, với sản lượng vải 43,3 triệu mét năm 1959 (gấp 2 lần năm 1939). Sau đó, nhờ xây dựng thêm Nhà máy Dệt Hà Nội, sản lượng vải của miền Bắc đã nâng từ 19,5 triệu mét năm 1957 lên 76 triệu mét năm 1960. Ngoài ra, đã xây dựng các nhà máy Bao tải Hà Nội, Dệt kim Đông Xuân, khôi phục và mở rộng Nhà máy Len Hải Phòng.

Ngành Thực phẩm

Cùng với khôi phục Nhà máy Bia - Rượu Hà Nội, đã hoàn thành việc xây dựng các nhà máy chè, cá hộp, thuốc lá, đường, các xưởng mì chính, hoa quả hộp, xưởng giết mổ lợn cơ khí hóa, cơ sở xay xát phục vụ cho nội địa và xuất khẩu. Nhà máy Đường hiện đại Vạn Điểm (Hà Tây) được khởi công và hoàn thành vào năm 1961. Ngoài ra, còn phát triển các cơ sở sản xuất nước mắm, cá khô, bánh mứt kẹo, đường mật... sản xuất theo phương pháp thủ công. Sản lượng một số sản phẩm thực phẩm trong thời kỳ 1957 - 1960 tăng như sau: đường kính từ 300 tấn lên 4.000 tấn, nước mắm từ 20,8 triệu lít lên 29,6 triệu lít, thuốc lá từ 30,4 triệu bao lên 81,6 triệu bao...

Ngành Tạp phẩm

Cộng hòa Dân chủ Đức giúp xây dựng nhà máy thủy tinh hiện đại ở Hải Phòng. Trung Quốc giúp xây dựng Nhà máy Sứ Hải Dương và Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông. Khôi phục và trang bị hiện đại cho Nhà máy Giấy Hoàng Văn Thụ, xây dựng thêm Nhà máy Giấy Việt Trì có công suất 2 vạn tấn/năm, nhờ thế, đáp ứng phần lớn nhu cầu giấy viết và giấy in. Cộng hòa Dân chủ Đức còn giúp xây dựng Nhà máy In Tiến Bộ với trang thiết bị hiện đại, có thể in các văn hóa phẩm đạt trình độ mỹ thuật cao. Năm 1960, khánh thành Nhà máy Nhựa Thiếu niên Tiền phong ở Hải Phòng.

Nhờ những cố gắng trên, sản xuất trong nước đã đáp ứng hầu hết nhu cầu của nhân dân về các hàng hóa tiêu dùng thông thường. Sản lượng một số sản phẩm chủ yếu vào năm 1960: giấy: 4.600 tấn, đồ thủy tinh: 46,5 tấn, đồ sắt tráng men: 1.291 tấn, bút máy và bút chì các loại: 11,8 triệu chiếc, thuốc đánh răng: 1,6 triệu ống...

Nhà máy 9 lần được đón Bác về thăm

Ngày mùng Một Tết Mậu Tuất (18/02/1958), lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và chúc Tết Nhà máy Cơ khí Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần khuyên bảo: “Công nhân phải thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm, lấy kế hoạch sản xuất đã giao làm mức phấn đấu”.

Ngày 30/8/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nhà máy lần thứ 2, Chủ tịch Hồ Chí Minh thẳng thắn phê bình: Kế hoạch đề ra 2 phần mà làm không đầy một nửa. Ngay sau đó, cán bộ, công nhân phát động thi đua làm theo lời Bác trong toàn nhà máy.

Ngày 25/12/1958, Nhà máy được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm lần thứ 3. Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi Nhà máy đạt được những tiến bộ đáng kể. Chủ tịch Hồ Chí Minh giao trách nhiệm cho cán bộ và công nhân phải làm cho Nhà máy trở thành một nhà máy kiểu mẫu.

Ngày 24/3/1959, Nhà máy đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm cùng Tổng thống Ấn Độ Rajendra Prasad. Lần về thăm thứ 4 này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trồng cây vú sữa tại Nhà máy.

Ngày 27/6/1959, lần thứ 5 Nhà máy đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm cùng với Tổng thống Inđônêxia, Ngài Sukarno.

Ngày 17/01/1960, lần thứ 6 Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nhà máy. Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thăm nhà ăn tập thể, khu tập thể. Cán bộ, công nhân Nhà máy vô cùng xúc động trước sự quan tâm của Người.

Ngày 02/02/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng ông bà luật sư Loseby và con gái đến thăm Nhà máy lần thứ 7. Chủ tịch Hồ Chí Minh khen Nhà máy hoàn thành tốt kế hoạch năm 1959; và đặc biệt quan tâm đến công tác quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê bình việc quản lý vật tư chưa tốt, còn để lãng phí.

Tối 20/10/1960, cán bộ, công nhân Nhà máy đến dự khai giảng lớp học bổ túc văn hóa mới. Trong đêm khai giảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh xuống hội trường và gửi lại 10 huy hiệu để tặng cho những người có thành tích học tập tốt nhất.

Ngày 12/3/1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nhà máy lần thứ 9 cùng với vua Lào Sisavang Vatthana và nói chuyện với cán bộ, công nhân tại phân xưởng Cơ điện.

Như vậy, trong vòng 5 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm nhà máy 9 lần, thể hiện sự quan tâm to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với “cánh chim đầu đàn” của ngành Cơ khí Việt Nam.

Nguồn: Theo Cổng thông tin điện tử quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

đ) Tổ chức và quản lý công nghiệp

Bước sang giai đoạn mới, vấn đề cải tiến quản lý đã trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chỉ đạo công nghiệp.

Từ tháng 10/1957, Bộ Chính trị đã thông qua chế độ quản lý “thủ trưởng phụ trách quản lý xí nghiệp dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy xí nghiệp, công nhân tham gia quản lý”12. Sang tháng 10/1958, Bộ Chính trị chủ trương mở rộng cuộc vận động cải tiến quản lý, nhằm áp dụng đầy đủ chế độ quản lý này trong xí nghiệp quốc doanh. Chế độ quản lý mới dựa trên nguyên tắc kết hợp lãnh đạo tập trung với mở rộng dân chủ, kết hợp công tác lãnh đạo chính trị, tư tưởng với kinh tế, kết hợp tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách, nhằm khắc phục những hạn chế của chế độ quản lý “một thủ trưởng” trước đây.

Trong tình hình mới, chế độ hạch toán kinh tế được coi như phương pháp quản lý xã hội chủ nghĩa, với những nội dung chính sau:

- Nhà nước quản lý kế hoạch toàn diện đối với xí nghiệp trên cơ sở quy định các nhiệm vụ - chỉ tiêu về sản lượng, chất lượng và mặt hàng, về tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm, về trách nhiệm tài chính của xí nghiệp với ngân sách;

- Xí nghiệp được sử dụng vốn Nhà nước giao (có vốn cố định và vốn lưu động) để tổ chức sản xuất theo kế hoạch, được ủy quyền thực hiện chế độ kế toán độc lập, được quyết định chi tiêu về sản xuất và tuyển mộ công nhân viên, được vay tiền, gửi tiền và kết toán mọi khoản vãng lai qua ngân hàng, đồng thời phải chịu trách nhiệm về lỗ lãi;

- Xí nghiệp cũng được ủy quyền tiêu thụ sản phẩm và mua nguyên vật liệu thông qua hợp đồng ký kết với các đơn vị kinh tế quốc doanh khác, trên cơ sở kế hoạch cân đối vật tư của Nhà nước, được trích tỷ lệ phần trăm lợi nhuận kế hoạch và lợi nhuận vượt kế hoạch để lập quỹ tiền thưởng xí nghiệp, nhằm cải thiện đời sống và điều kiện làm việc cho người lao động xí nghiệp.

Năm 1958, chế độ quản lý theo nguyên tắc hạch toán kinh tế đã được phổ biến và áp dụng rộng rãi trong công nghiệp. Để áp dụng chế độ hạch toán kinh tế, đòi hỏi phải kiện toàn các mặt quản lý kế hoạch sản xuất, lao động, vật tư, tiền vốn, giá thành và các chế độ thống kê, kế toán...

Trước hết, tiến hành kiểm kê tài sản và xét định vốn của các xí nghiệp quốc doanh và thành lập Ủy ban Kiểm kê toàn quốc (theo Quyết định số 141-TTg ngày 08/4/1957 của Thủ tướng Chính phủ) từ quý II/1957 và hoàn thành vào quý III/1959. Công tác này đã giúp Nhà nước nắm được số lượng và chất lượng, tình trạng hao mòn và xác định tỷ lệ khấu hao hợp lý đối với số vốn cố định và vốn lưu động cần thiết cho xí nghiệp. Qua việc kiểm kê 95 xí nghiệp quốc doanh (14 xí nghiệp công nghiệp nặng và 26 xí nghiệp công nghiệp nhẹ) so với định mức, đã phát hiện sự chênh lệch đáng kể: tài sản cố định vượt 272% và tài sản lưu động vượt 94%. Năm 1959, đã mở cuộc vận động sử dụng tiết kiệm và hiệu quả vốn “tiền ít mà làm được nhiều việc tốt”, “tăng sản lượng mà không tăng vốn”. Theo báo cáo tổng kết cuộc vận động này, nhờ tăng tốc độ quay vòng vốn, năm 1959 đã tiết kiệm 3,5 triệu đồng và năm 1960 tiết kiệm 2,5 triệu đồng; nhờ đó, sản lượng công nghiệp năm 1960 so với năm 1959 bằng 127%, nhưng vốn lưu động định mức chỉ bằng 112%. Ngoài ra, trong 3 năm 1957 - 1959 ở 24 xí nghiệp công nghiệp đã huy động vào sản xuất số lượng tài sản nhàn rỗi là: 21.967.921 đồng vốn cố định và 30.977.934 đồng vốn lưu động.

Một trong những cơ sở lập kế hoạch của xí nghiệp là phải xây dựng và kiện toàn các chỉ tiêu định mức kinh tế - kỹ thuật tiên tiến. Bộ Công nghiệp đã chỉ đạo công tác này từ tháng 10/1959 ở Nhà máy Bia Hà Nội, sau đó mở Hội nghị tiêu chuẩn vào tháng 4/1960, cuối năm 1960 căn bản hoàn thành cùng với việc mở rộng hạch toán đến phân xưởng. Nhiều nhà máy đã tăng được một số chỉ tiêu năng suất và sản lượng: Nhà máy Chè Phú Thọ tăng công suất thiết bị 20%, Nhà máy Cơ khí Hòn Gai tăng công suất sửa chữa ôtô 30%, Nhà máy Ngói ximăng tăng mức sản xuất từ 270 tấn/ngày lên 370 tấn/ngày,...

Ngay từ năm 1957, Nhà nước ban hành Chế độ kế toán công nghiệp và thi hành Điều lệ tạm thời về chế độ báo cáo quyết toán của xí nghiệp quốc doanh. Đến tháng 10/1958, Hội đồng Chính phủ có quyết định về việc đơn giản hóa các thể lệ kế toán bằng cách thống nhất chế độ chứng từ, biểu mẫu, cải tiến chế độ tài khoản cho phù hợp với từng ngành, sử dụng hình thức lịch nhật ký, giảm thiểu số lượng tài khoản chi tiết. Ngày 16/9/1960, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 43/CP ban hành Điều lệ tạm thời về việc lập kế hoạch hạch toán và thống kê giá thành và phí lưu thông hàng hóa, nhằm tăng cường công tác quản lý tài chính.

Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và các cơ quan nhà nước (Nghị định số 004/TTg ngày 04/01/1960) để tăng cường liên doanh, liên kết và nâng cao trách nhiệm hợp đồng kinh tế, nhằm thúc đẩy hoàn thành kế hoạch nhà nước. Đồng thời, thành lập Hội đồng trọng tài các cấp để xử lý các tranh chấp vi phạm hợp đồng.

Để phát huy vai trò tích cực phát triển sản xuất và cải thiện đời sống của người lao động, Chính phủ ban hành và bổ sung chế độ trích lập quỹ tiền thưởng xí nghiệp áp dụng trong các xí nghiệp hạch toán kinh tế. Nguồn trích lập quỹ được lấy từ một phần lợi nhuận kế hoạch và lợi nhuận vượt kế hoạch hằng năm (với xí nghiệp có kế hoạch lỗ cũng được trích quỹ, nếu hoàn thành tốt kế hoạch này).

Như vậy, việc áp dụng chế độ hạch toán kinh tế và các quy chế, chính sách ban hành kèm theo trong thời kỳ 1958 - 1960 đã xác lập những nguyên tắc căn bản và nội dung chủ yếu của quản lý xã hội chủ nghĩa trong công nghiệp cũng như trong nền kinh tế nói chung: quản lý kế hoạch hóa tập trung. Chế độ quản lý này sẽ được tiếp tục hoàn thiện, củng cố trong các giai đoạn sau như là công cụ quan trọng thực hiện đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

bộ đội Hòn Gai

Bộ đội vào tiếp quản thị xã Hòn Gai, tháng 4/1955 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Phong trào lao động xã hội chủ nghĩa ở vùng Mỏ

Để phấn đấu hoàn thành kế hoạch 3 năm khôi phục kinh tế, Nghị quyết Trung ương 14 khóa II (tháng 11/1958) đã nêu rõ: “Vấn đề quan trọng nhất là phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa xã hội, phát động tư tưởng và nâng cao ý thức người chủ của công nhân, nâng cao tinh thần trách nhiệm và sửa chữa tác phong của cán bộ, thực hiện chế độ công nhân tham gia quản lý xí nghiệp, cán bộ tham gia lao động sản xuất; và dựa vào mối quan hệ thống nhất giữa lãnh đạo và quần chúng mà phát huy tính tích cực, sáng tạo của công nhân, cải tiến các chế độ tổ chức và hành chính, quản lý kỹ thuật, quản lý vật tư, quản lý lao động và tiền lương..., làm cho xí nghiệp theo đúng nền nếp quản lý xã hội chủ nghĩa, sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ. Cần phải nâng cao vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng ở các xí nghiệp, đồng thời kiện toàn chế độ phụ trách của giám đốc xí nghiệp theo nguyên tắc “giám đốc phụ trách quản lý xí nghiệp dưới sự lãnh đạo tập thể của đảng ủy””13. Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Ban Thường vụ Khu ủy Hồng Quảng đã tổ chức thí điểm ở Công trường Vàng Danh A, Hà Tu.

Tiếp theo Công trường Vàng Danh A, toàn bộ vùng Mỏ đã sôi nổi tham gia học tập quản lý xí nghiệp. Các tổ sản xuất được tổ chức theo nguyên tắc: Dây chuyền hoàn chỉnh, theo nghề nghiệp, theo thiết bị. Công nhân được tham gia các công tác quản lý như quản lý kế hoạch, quản lý kỹ thuật, quản lý vật tư, quản lý kinh tế và quản lý lao động... Các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật và định mức sản xuất đã được xây dựng. Các tư tưởng tiên tiến, tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa đã chiến thắng những tư tưởng bảo thủ, ngại khó, tự ti, bản vị và cục bộ.

Năng suất lao động tăng dần, chất lượng sản phẩm tốt hơn và tiết kiệm nhiều hơn, vì vậy trong những năm khôi phục sản xuất đã đạt sản lượng cao hơn năm 1939 - năm cao nhất trong hơn 70 năm khai thác thuộc địa của người Pháp.

Nguồn: Website của Công ty cổ phần Than Hà Tu - Vinacomin.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.20, tr.401.

2, 3. Xem Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, Tập III: 1955 - 1975, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006, tr.208-209, 209.

4. Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.46.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.18, tr.265.

6. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Nghi-quyet-tinh-hinh-nhiem-vuva-ke-hoach-3-nam-1958-1960-phat-trien-va-cai-tao-kinh-te-phat-trien-van-hoa-36844.aspx.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.390.

8. Xem Tổng cục Thống kê: Số liệu thống kê (3 năm cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1961, tr.151.

9. Xem Bộ Công Thương: Sơ lược Lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr.117.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.819.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.835.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.185.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.19, tr.481-482.

Danh mục

Tùy chỉnh