MỘT SỐ SỰ KIỆN LỊCH SỬ TIÊU BIỂU CỦA NGÀNH CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM (1945 - 2010)

NĂM 1945

Ngày 28/8

Thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó Bộ Kinh tế quốc gia (tiền thân của Bộ Công Thương ngày nay). Bộ trưởng: Nguyễn Mạnh Hà.

Ngày 05/9

Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 07/SL cho phép tự do buôn bán chuyên chở thóc gạo trong toàn hạt Bắc Bộ Việt Nam.

Ngày 17 - 24/9

Diễn ra “Tuần lễ Vàng” theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khuyến khích người dân đóng góp ngân sách quốc gia nhằm tháo gỡ sự khó khăn về mặt tài chính của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ.

Ngày 18/9

Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp gỡ giới Công Thương Việt Nam.

Ngày 22/9

Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 36/SL về việc bãi bỏ các nghiệp đoàn Nông sản Lâm sản, Kỹ nghệ, Khoáng sản, Thương mại, Nội thương, Ngoại thương, Vận tải Ngân hàng…

Ngày 02/10

- Bộ Kinh tế quốc gia ra Nghị định (không số) cho phép các nhà kinh doanh quyền tự do khai trương, mở rộng, nhượng lại hay di chuyển sở kinh doanh.

- Nội dung của Sắc lệnh số 07/SL về tự do buôn bán chuyên chở thóc gạo được mở rộng áp dụng cho cả Trung Bộ.

Ngày 02/10

Thành lập Nha Thương vụ Nha Kinh tế tín dụng trực thuộc Bộ Kinh tế quốc gia1.

Ngày 09/10

Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 50/SL về việc cấm xuất cảng thóc, gạo, ngô, đỗ, các chế phẩm thuộc về ngũ cốc.

Ngày 13/10

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các giới Công Thương Việt Nam.

Ngày 15/11

Bộ Kinh tế quốc gia ban hành Nghị định số 41/BKT khuyến khích tận dụng đất đai, trồng màu cứu đói; tổ chức sản xuất nông cụ cho phát triển nông nghiệp.

Ngày 25/11

Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc, xác định: “mở lại các nhà máy do Nhật bỏ, khai thác các mỏ, cho nhân góp vốn vào việc kinh doanh các nhà máy mỏ ấy, khuyến khích các giới công thương mở hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham gia kiến thiết lại nước nhà”2.

NĂM 1946

Ngày 01/01

Thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bộ Kinh tế quốc gia đổi tên thành Bộ Quốc dân kinh tế (tiền thân của Bộ Công Thương ngày nay). Bộ trưởng: Nguyễn Tường Long.

Ngày 24/01

Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 12/SL “quy định quyền hạn của ông Bộ trưởng Bộ Kinh tế”3.

Ngày 02/3

Thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bộ Quốc dân kinh tế được đổi tên thành Bộ Kinh tế (tiền thân của Bộ Công Thương ngày nay). Bộ trưởng: Chu Phượng.

Tháng 3

- mật di chuyển máy móc, thiết bị, vật nguyên liệu sản xuất từ các đô thị, vùng công nghiệp quan trọng về các khu vực an toàn nhằm chuẩn bị di chuyển lên Chiến khu Việt Bắc.

- Nha Tiếp tế thực hiện thu mua, vận chuyển dự trữ hàng vạn tấn thóc gạo về các khu an toàn.

Ngày 30/5

- Ban hành Sắc lệnh số 89/SL về việc Chính phủ Việt Nam tạm thời giành quyền tìm kiếm mỏ.

- Ban hành Sắc lệnh số 90/SL ấn định những khu mỏ thuộc quyền sở hữu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Pháp dự Hội nghị Phôngtennơbờlô, trong đó các ông Phan Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Chu Phượng, Bộ trưởng Bộ Kinh tế; Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Bộ trưởng Bộ Kinh tế quốc gia, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc dân kinh tế.

Tháng 6

Di chuyển máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu sản xuất lên Chiến khu Việt Bắc.

Ngày 05/6

- Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 61/SL quy định về tổ

chức của Bộ Quốc dân kinh tế.

- Thành lập mới Nha Tiếp tế (Bộ Kinh tế) dựa trên việc tổ chức lại các

quan tiếp tế trước đây. Nha Tiếp tế phụ trách phân phối nguyên vật

liệu, hàng hóa cho hoạt động sản xuất, tiểu thủ công nghiệp cũng như

cho tiêu dùng của người dân.

- Thành lập mới Ban Thanh tra nhằm kiểm tra các đơn vị trong việc

tuân thủ, thi hành chủ trương, chính sách của Bộ Quốc dân kinh tế.

Ngày 03/11

Bộ Kinh tế nằm trong Chính phủ mới (thay cho Chính phủ liên hiệp kháng chiến).

Ngày 05/11

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ, nhấn mạnh việc phát triển “thủ công nghệ (vải, giấy, v.v.)” một trong những nhiệm vụ phát triển kinh tế trọng tâm.

Ngày 13/11

Toàn bộ công nhân Nhà máy Sợi Nam Định đã tổ chức đình công chống lại sự áp bức của thực dân Pháp. Công nhân nhân dân các tỉnh Nam Định, Hồng Gai, Đông, Phú Thọ, Sơn Tây, Quảng Ngãi, Nội đã gửi thư cổ vũ, quyên tiền ủng hộ công nhân Nhà máy Sợi Nam Định. Cuộc bãi công kéo dài đến ngày Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Ngày 26/11

Theo Sắc lệnh số 220/SL, Nha Kỹ nghệ đổi tên thành Nha Khoáng chất Kỹ nghệ (Bộ Kinh tế) để đảm nhiệm thêm việc lập bản đồ địa chất, quản hoạt động thăm dò, khai thác, nhượng quyền khai thác các mỏ khoáng sản.

NĂM 1947

Năm 1947

Luật Phan Anh được Chính phủ cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Kinh tế.

Ngày 03/02

Thành lập Nha Tín dụng sản xuất để thay thế Nha Nông nghiệp tín dụng Nha Kinh tế tín dụng.

Ngày 16/02

Thành lập Hội đồng Sản xuất kỹ nghệ (Bộ Kinh tế).

Ngày 16/3

Thành lập Ngoại thương Cục theo Sắc lệnh số 29B/SL. Sắc lệnh chia hàng hóa xuất, nhập khẩu thành hai danh mục: (1) Hàng hóa cấm xuất nhập cảng hàng hóa do Chính phủ trực tiếp xuất, nhập khẩu; (2) Hàng hóa nhân được xuất, nhập cảng dưới sự kiểm soát của Chính phủ.

Tháng 4

Hoàn thành việc di chuyển máy móc, thiết bị, vật nguyên liệu sản xuất lên Chiến khu Việt Bắc.

Ngày 19/4

Thành lập Nhà máy khí Trần Hưng Đạo tại Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa (Tuyên Quang), được xem cái nôi của ngành khí Việt Nam.

Ngày 01/6

Chủ tịch Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 54/SL bãi bỏ Hội đồng Quản trị Ngoại thương Cục (gồm đại biểu của 4 bộ: Kinh tế, Tài chính, Quốc phòng, Nội vụ) để đặt Cục này về Bộ Kinh tế quản trực tiếp.

Ngày 17/7

Bộ Kinh tế ban hành Nghị định số 112/BKT tạm ấn định những “đồn biên giới hay hải khẩu” hoạt động ngoại thương tại Lào Cai, Giang, Cao Bằng, Thất Khê (Lạng Sơn), Thanh Hóa, Nghệ An.

NĂM 1948

Năm 1948

Theo đề xuất của Bộ trưởng Bộ Kinh tế Phan Anh, năm 1948 đã mở 2 khóa đào tạo cán bộ quản kinh tế.

Cũng trong năm 1948, mở Trường Cán bộ kỹ thuật Trung Bộ đặt tại Đồng Thanh, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Đây trường cao đẳng kỹ thuật đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhiệm vụ của Trường đào tạo cán bộ kỹ thuật cho ngành khí, Đúc - Luyện kim.

Tháng 01

Nhà máy Giấy Hoàng Văn Thụ, tiền thân Nhà máy Giấy Đáp Cầu, đã tạo ra loại giấy dai đặc biệt từ cây rừng, chuyên phục vụ cho việc in tiền.

Ngày 01/01

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 104/SL ấn định các nguyên tắc căn bản của các “doanh nghiệp quốc gia”.

Ngày 29/02

Thành lập Cục Tiếp tế vận tải thay cho Nha Tiếp tế, để chuyển chế độ hoạt động của quan này từ đơn vị hành chính sang “doanh nghiệp quốc gia” (nay gọi doanh nghiệp nhà nước).

Ngày 14/4

Ban hành Nghị định Liên bộ Kinh tế - Tài chính - Nội vụ - pháp số 101/BKT-BT về thể lệ mậu dịch giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm.

Ngày 27/4

Bộ Kinh tế ra Thông số 09/KT-TT-NT ấn định các loại hàng hóa được phép lưu thông giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm.

Ngày 28/5

Tái lập Nha Thống kê, Bộ Kinh tế theo Sắc lệnh số 190/SL. Nha Thống nhiệm vụ lưu trữ số liệu về tất cả các lĩnh vực do Bộ Kinh tế quản lý.

Ngày 12/10

Thành lập Ban Trung ương bao vây kinh tế địch theo Sắc lệnh số 241/SL. Bộ trưởng Bộ Kinh tế Chủ tịch Ban, đại diện Bộ Tài chính đại diện Ngân hàng Nhà nước Ủy viên thường trực, đại diện Bộ Quốc phòng đại diện Bộ Công an Ủy viên.

Ngày 15/11

cao thí nghiệm tại huyện Con Cuông, Nghệ An cho ra mẻ gang đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 19/11

Chủ tịch Hồ Chí Minh Sắc lệnh số 257/SL “cấm chỉ mọi sự tích trữ tính chất đầu những hàng hóa cần thiết cho đời sống nhân dân”.

NĂM 1949

Đầu năm 1949

Bốn mỏ than: Phấn Mễ, Minh Khai, Đầm Đùn Khe Bố được tổ chức lại, trở thành những đơn vị công nghiệp nhà nước đầu tiên trong chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 25/02

Ban hành Sắc lệnh số 8/SL quy định “cấm không được bán những loại hàng hóa cần thiết cho đời sống nhân dân công cuộc kháng chiến quá giá tối đa do Chính phủ ấn định”.

Ngày 25/4

Nha Thống chuyển sang Văn phòng Chủ tịch Chính phủ theo Sắc lệnh số 33/SL.

Ngày 18/6

Nhiệm vụ của Ban Trung ương bao vây kinh tế địch được giao cho Bộ Kinh tế theo Sắc lệnh số 58/SL.

NĂM 1950

Đầu năm 1950

Bộ Kinh tế tổ chức lớp bồi dưỡng về kinh tế cho hơn 40 học viên.

Ngày 17/11

Thành lập Sở Nội thương thuộc Bộ Kinh tế thay cho Cục Tiếp tế vận tải.

NĂM 1951

Ngày 11 - 19/02

Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng nêu: “bảo vệ phát triển nền tảng kinh tế của ta, đấu tranh kinh tế với địch”4.

Ngày 03/5

Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Thứ trưởng Bộ Kinh tế Đặng Việt Châu cuộc gặp với đoàn đại biểu Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để thảo luận, đàm phán về việc giao thương hàng hóa giữa hai nước.

Ngày 14/5

- Bộ Kinh tế được đổi tên thành Bộ Công Thương theo Sắc lệnh số 21/SL của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông Phan Anh tiếp tục đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng.

- Thành lập Sở Mậu dịch, nằm trong Bộ Công Thương theo Sắc lệnh số 22/SL.

Ngày 15/8

Giải thể Ban Trung ương bao vây kinh tế địch thành lập Ban Trung ương quản xuất, nhập khẩu theo Nghị định số 118/TTg với nhiệm vụ kiểm soát xuất, nhập khẩu, kết hối ngoại tệ, quản thuế xuất, nhập khẩu.

Ngày 20/9

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị Mậu dịch.

NĂM 1952

Tháng 3

Bộ Công Thương triệu tập Hội nghị toàn quốc phổ biến chủ trương mới về đấu tranh kinh tế với địch tại Tuyên Quang. Hội nghị nhấn mạnh phải chủ động tăng cường xuất khẩu, quản chặt chẽ nhập khẩu, tích lũy ngoại tệ.

Tháng 7

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hiệp định Thương mại với Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Ngày 04/11

Ban hành Sắc lệnh số 182/SL xác định xây dựng các doanh nghiệp quốc gia nhằm phát triển kinh tế nhà nước, lãnh đạo giúp đỡ kinh tế hợp tác kinh tế nhân phát triển theo những phương châm, chính sách kế hoạch kinh tế của Chính phủ.

NĂM 1953

Tháng 01

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nghị định thư về mậu dịch tiểu ngạch với Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Tháng 11

cao NX3 dung tích tới 8,3 m3, cao 13 m được xây dựng mới trong lòng hang đá Như Xuân (Thanh Hóa) chính thức hoạt động, cung cấp cho việc sản xuất khí các chiến trường.

NĂM 1954

Chuẩn bị cho tiếp quản Thủ đô

- Bộ Công Thương đề xuất gom mua tối đa hàng hóa nhằm vừa giữ giá vùng tự do để duy trì nền kinh tế tại đây vận hành bình thường, vừa tăng cường nguồn hàng hóa, vật dự trữ cần thiết cho hệ thống mậu dịch chuẩn bị tiếp quản Thủ đô cũng như các vùng mới được giải phóng.

- Bộ Công Thương tổ chức các đoàn cán bộ mật vào Nội để đàm phán mua lại hàng tồn kho của các hãng buôn đang cần bán thu hồi vốn trước khi di tản vào miền Nam, lên kế hoạch bố trí các điểm bán hàng thuận lợi, cũng như chuẩn bị cho công tác quản các hoạt động kinh tế tại Thủ đô sau này.

- Sở Mậu dịch khẩn trương tổ chức hàng loạt trạm thu mua dọc các đường ranh giới giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm trước đây với nhiệm vụ gom mua càng nhiều càng tốt các loại hàng hóa thiết yếu như lương thực, chất đốt… được chuyển từ vùng mới được giải phóng vào vùng tự do.

- Đối với mặt hàng than, Bộ Công Thương chỉ đạo các mỏ khai thác tại vùng tự do nỗ lực tăng sản lượng nhằm đáp ứng thêm một phần nhu cầu tại vùng mới được giải phóng.

- Nhiều cán bộ mậu dịch được cử tìm kiếm, liên hệ với các hãng kinh doanh than tại Nội để hợp đồng mua. Sau ngày 10/10/1954, các hãng buôn đều chuyển giao đầy đủ than chất lượng tốt theo hợp đồng.

- Một lượng lớn hàng hóa tiêu dùng, vật sản xuất cần thiết như vải các loại, dầu hỏa, sợi dệt… nằm sẵn tại các kho Nội được Sở Mậu dịch thu mua, giúp tổ chức bán hàng ra cho nhân dân ngay khi tiếp quản.

Tháng 7

Hội nghị Trung ương 6 khóa II xác định nhiệm vụ cách mạng “phục hồi phát triển công thương nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng nền tài chính vững chắc để đạt tới ổn định vật giá, ổn định tiền tệ, tạo điều kiện tiến tới thăng bằng thu chi”5.

Tháng 9

Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới chính sách mới của Đảng. Trong đó, nhấn mạnh: “Cần hết sức coi trọng phục hồi công thương nghiệp làm cho các nghiệp công hiện được tiếp tục kinh doanh, làm cho thị trường hoạt động, vật giá ổn định, phục hồi phát triển mậu dịch đối ngoại”6.

Tháng 10

Hoạt động xuất, nhập khẩu thông qua tuyến đường sắt giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc được triển khai.

Ngày 04/12

Phủ Thủ tướng ban hành Nghị định số 419/TTg về thành lập các tổng công ty chuyên nghiệp mậu dịch quốc doanh.

Ngày 09/12

Bộ Chính trị họp bàn về khôi phục kinh tế.

Ngày 21/12

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Nhà máy Đèn Bờ Hồ Nhà máy Điện Yên Phụ. Sự kiện này đã trở thành một mốc son lịch sử ngày 12/10/2009, Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 1594/QĐ-TTg lấy ngày 21/12 hằng năm “Ngày truyền thống ngành Điện lực Việt Nam”.

NĂM 1955

Năm 1955

Khôi phục mỏ Apatít Lào Cai với sự giúp đỡ của Liên Xô.

Tháng 3

Báo cáo về đường lối khôi phục kinh tế do Chính phủ trình bày trước kỳ họp thứ Quốc hội khóa I nêu ba nội dung: Một là, chú trọng gây dựng sở cho công nghiệp hóa. Hai là, phát triển sản xuất làm cho kinh tế dồi dào, công đều được quan tâm. Ba là, tăng cường kinh tế quốc doanh, chăm lo kinh tế hợp tác xã, khuyến khích sản xuất - kinh doanh của các tầng lớp tiểu sản sản dân tộc.

Ngày 15/3

- Bộ Công Thương ra Chỉ thị số 454/BCT-KB tổ chức lại ngành mậu dịch quốc doanh, thành lập sắp xếp lại hệ thống công ty chuyên nghiệp mậu dịch quốc doanh.

- Thành lập những hợp tác mua bán đầu tiên.

Ngày 30/3

Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ số 489/TTg về việc ban hành đăng các loại kinh doanh công thương nghiệp.

Ngày 25/4

Bộ đội ta vào tiếp quản vùng Mỏ Quảng Ninh.

Tháng 6

Thương nghiệp quốc doanh tổ chức đấu tranh thắng lợi cuộc bình ổn giá lúa gạo đầu tiên sau khi miền Bắc được giải phóng.

Tháng 7

Việt Nam Hiệp định Viện trợ kinh tế - kỹ thuật với Liên Xô.

Ngày 01/7

Bộ Công Thương ra quyết định thành lập Ban phục hồi Nhà máy Sợi Nam Định, sáp nhập Nhà máy thành một phân xưởng của Nhà máy Sợi đổi tên thành Nhà máy Dệt Nam Định. Ngày 25/12, Nhà máy chính thức đi vào hoạt động.

Ngày 21/7

Thành lập Cục Điện lực, quan quản nhà nước đầu tiên chuyên trách lĩnh vực điện.

Ngày 22/9

Bộ Công Thương tách ra thành Bộ Công nghiệp (Bộ trưởng: Thanh Nghị) Bộ Thương nghiệp (Bộ trưởng: Phan Anh).

Ngày 04/11

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 609/TTg về việc cho phép kinh doanh đăng kinh doanh công thương nghiệp.

Ngày 15/11

Nhà máy Ximăng Hải Phòng bắt đầu sản xuất sau thời gian khôi phục.

Ngày 24/11

Ban thư ra Chỉ thị số 47-CT/TW về việc tổ chức hợp tác mua bán nông thôn hợp tác tiêu thụ thành thị.

Tháng 12

Việt Nam Hiệp định Viện trợ kinh tế - kỹ thuật với Hunggari.

Ngày 26/12

Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 641/TTg thành lập các quan quản hợp tác các cấp: Trung ương, khu, tỉnh thành phố.

Ngày 27/12

Ban hành Điều lệ tạm thời số 646/TTg quy định việc điều chỉnh quan hệ giữa người làm công chủ nghiệp trong các nghiệp doanh.

NĂM 1956

Tháng 01

- Việt Nam Hiệp định Thương mại với Bungari, Tiệp Khắc.

- Việt Nam Hiệp định Viện trợ hàng hóa với Cộng hòa Dân chủ Đức.

Ngày 29/01

Nhà máy Dệt Nam Định làm lễ khai trương, đi vào sản xuất sau thời gian khôi phục.

Ngày 20/3

Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 708/TTg ban hành bản Điều lệ tạm thời về các nghiệp nhân.

Tháng 4

- Hiệp định Viện trợ kinh tế mậu dịch Việt Nam - Rumani.

- Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ số 735/TTg ngày 10/4/1956 tạm thời về hợp đồng kinh doanh, nhằm tăng cường liên kết kinh tế trách nhiệm vật chất đối với việc thực hiện cam kết hợp đồng giữa các nghiệp quốc doanh với nhau giữa quốc doanh với doanh.

Ngày 16/6

Khánh thành Nhà máy Diêm Thống Nhất.

Ngày 27/9

Khánh thành Công trình cải tạo Nhà máy Rượu Nội.

Ngày 06/10

Mỏ thiếc Tĩnh Túc, được coi “đứa con đầu lòng” của ngành Kim loại màu Việt Nam, do Liên viện trợ, khánh thành đi vào hoạt động.

Ngày 21/11

Liên bộ Công nghiệp Tài chính ra Thông liên tịch số 05/TT-LB về thể lệ quản tiền mặt của các nghiệp quốc doanh thuộc Bộ Công nghiệp.

Ngày 13 - 17/12

Hội nghị lần thứ 11 mở rộng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam kết luận: “Những thành tích về việc khôi phục công nghiệp thủ công nghiệp trên đây đã góp phần duy trì sinh hoạt của những thành thị mới giải phóng, giải quyết một phần nạn thất nghiệp, cung cấp một số hàng cho nhân dân cho xuất khẩu, tập hợp đào tạo được một số cán bộ công nhân”7.

NĂM 1957

Tháng 02

Hiệp định trao đổi hàng hóa Việt Nam - Rumani.

Tháng 3

Hiệp định trao đổi hàng hóa thanh toán Việt Nam - Tiệp Khắc.

Ngày 13/3

Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 05-NQ/TW về vấn đề bình ổn vật giá, quản thị trường.

Ngày 04/4

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 130/TTg về việc thi hành từng bước chế độ hạch toán kinh tế để tăng cường việc quản kinh doanh của nghiệp quốc doanh.

Ngày 19/4

Chủ tịch Hồ Chí Minh Sắc luật số 011/SLT cấm chỉ mọi hành động đầu về kinh tế.

Tháng 6

Bộ Thương nghiệp chỉ đạo Tổng Công ty Lương thực phải mua hết lúa gạo của nông dân. Cuộc đấu tranh này kéo dài sang cả các năm 1958 - 1959, không những đối với lúa gạo, cả đối với một số nông sản khác như mía, đường mật... Kết quả đã giữ được giá thị trường mức giá chỉ đạo lợi cho sản xuất, thúc đẩy nhanh chóng phục hồi phát triển nông nghiệp.

Ngày 03/7

Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 290/TTg về việc thành lập Ban Quản thị trường Trung ương các ban quản thị trường các tỉnh, thành phố, khu tự trị.

Ngày 07/7

Sở Địa chất đổi tên thành Cục Địa chất trực thuộc Bộ Công nghiệp theo Quyết định số 1225-BCN/QĐ của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp.

Ngày 17/7

Thứ trưởng Bộ Thương nghiệp Đỗ Mười trình bày tại Hội nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (mở rộng) dự thảo chính sách của Nhà nước đối với công thương nghiệp bản doanh.

Ngày 23/9

Khánh thành Nhà máy Chè Phú Thọ do Liên giúp đỡ.

Ngày 20/11

Khánh thành hai Nhà máy Thủy điện Sa Ngàn.

NĂM 1958

Tháng 01

Xây dựng đường dây trung áp 35 kV đầu tiên (Hà Nội - Phố Nối).

Tháng 4

Bộ Thương nghiệp tách ra thành Bộ Nội thương (Bộ trưởng: Đỗ Mười) Bộ Ngoại thương (Bộ trưởng: Phan Anh).

Ngày 12/4

Nhà máy khí Nội, do Liên giúp đỡ, chính thức đi vào hoạt động với nhiệm vụ sản xuất các loại máy công cụ độ chính xác cấp 2 để trang bị cho ngành khí non trẻ của nước ta.

Ngày 13/6

Thủ tướng Chính phủ ra Thông số 297/TTg ban hành bản Quy tắc tổ chức tạm thời hợp tác thủ công nghiệp.

Ngày 15/8

Hoàn thành việc khôi phục Nhà máy Bia Nội.

Tháng 10

Bộ Chính trị chủ trương mở rộng cuộc vận động cải tiến quản lý, nhằm áp dụng đầy đủ chế độ quản này trong nghiệp quốc doanh.

Ngày 04/11

Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 486/TTg ban hành bản Điều lệ quản mậu dịch tiểu ngạch nhân dân trong khu vực biên giới Việt - Trung.

Ngày 28/11

Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Thanh Nghị phát lệnh khởi công xây dựng Khu Công nghiệp Việt Trì.

Tháng 12

Bộ Công nghiệp quyết định xây dựng Nhà máy Nhựa tại Hải Phòng. Đây sở đầu tiên của ngành Gia công chất dẻo của miền Bắc hội chủ nghĩa.

Ngày 01/12

nghiệp Da Thụy Khuê được công nhận nghiệp công hợp doanh (thí điểm).

Ngày 09 - 14/12

Kỳ họp thứ chín Quốc hội khóa I ra Nghị quyết thông qua toàn bộ kế hoạch 3 năm (1958 - 1960) - Kế hoạch cải tạo hội chủ nghĩa, trong đó cải tạo công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp.

Ngày 22/12

Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Thanh Nghị phát lệnh khởi công Khu công nghiệp Thượng Đình.

NĂM 1959

Ngày 18/02

Việt Nam - Trung Quốc 7 văn kiện, gồm các hiệp định, nghị định thư, công hàm về việc Trung Quốc giúp Việt Nam về kinh tế - kỹ thuật, viện trợ không hoàn lại, trao đổi mậu dịch hai bên.

Ngày 07/3

Hiệp định Hợp tác khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Liên Xô. Theo đó, Liên cho Việt Nam vay 100 triệu rúp giúp Việt Nam xây dựng Nhà máy Điện Uông Bí, Nhà máy Điện Bàn Thạch.

Ngày 13/4

Khánh thành Nhà máy Dệt kim Đông Xuân.

Ngày 14/5

Khánh thành Nhà máy Điện Vinh.

Ngày 11/7

Khánh thành Nhà máy Gỗ Cầu Đuống.

Ngày 14/7

nghị định thư về việc Mông Cổ giúp Việt Nam 1,3 triệu rúp 2.000 tấn da.

Ngày 07/11

Khánh thành Nhà máy Điện Lào Cai.

Ngày 09/11

Hội nghị tổng kết thí điểm cải tiến quản nghiệp 6 đơn vị: khí Nội, Điện Nội, Xe lửa Gia Lâm, Điện Hải Phòng, Than Vàng Danh Nông trường Tây Hiếu.

NĂM 1960

Ngày 04/01

Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 004/TTg ban hành Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế giữa các nghiệp quốc doanh quan nhà nước.

Ngày 07/3

kết Hiệp định, Nghị định thư về Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam, mậu dịch tiểu ngạch biên giới Việt - Trung.

Ngày 17/3

Hội nghị tổng kết cuộc vận động cải tiến quản nghiệp tại nghiệp quốc doanh theo chế độ “Thủ trưởng phụ trách dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, công nhân tham gia quản lý”.

Ngày 18 - 21/3

Đại hội các chủ nhiệm hợp tác chiến thi đua các ngành thủ công nghiệp toàn miền Bắc lần thứ nhất.

Ngày 17/5

Khánh thành Nhà máy Sắt tráng men - Nhôm Hải Phòng Nhà máy Nhựa Thiếu niên tiền phong.

Ngày 18/5

Khánh thành Nhà máy Cao su Sao Vàng, Thuốc Thăng Long phòng Nội.

Ngày 26/7

- Tách Bộ Công nghiệp thành Bộ Công nghiệp nặng (Bộ trưởng:

Nguyễn Văn Trân), Bộ Công nghiệp nhẹ (Bộ trưởng: Kha Vạng Cân).

- Thành lập Tổng cục Địa chất Tổng cục Vật tư.

Ngày 02/9

Khu công nghiệp Gang thép Thái Nguyên làm lễ khởi công bằng việc đổ bêtông móng cao số 1, mở đầu một giai đoạn lịch sử của ngành Luyện kim hiện đại Việt Nam.

Ngày 05 - 10/9

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, lần đầu tiên xác định đường lối công nghiệp hóa: “nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ miền Bắc nước ta công nghiệp hóa hội chủ nghĩa, mấu chốt ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”8.

Ngày 28/11

Hiệp định Hợp tác khoa học - kỹ thuật Việt - Trung.

Tháng 12

Công cuộc cải tạo công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp căn bản hoàn thành trên miền Bắc. Kết quả, đã chuyển 729 nghiệp bản doanh thành 661 nghiệp công hợp doanh 68 nghiệp hợp tác.

Ngày 23/12

Hiệp định Kinh tế Thương mại Việt - 1961 - 1965 được kết. Liên giúp xây dựng 43 nghiệp, cho vay dài hạn 430 triệu rúp.

Tháng 12

Công cuộc cải tạo công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp căn bản hoàn thành trên miền Bắc. Kết quả, đã chuyển 729 nghiệp bản doanh thành 661 nghiệp công hợp doanh 68 nghiệp hợp tác.

Ngày 23/12

Hiệp định Kinh tế Thương mại Việt - 1961 - 1965 được kết. Liên giúp xây dựng 43 nghiệp, cho vay dài hạn 430 triệu rúp.

NĂM 1961

Ngày 31/01

Trung Quốc Hiệp định Thương mại cho Việt Nam vay dài hạn 141,75 triệu rúp; giúp xây dựng, mở rộng 28 nghiệp công nghiệp giao thông, gồm các nghiệp luyện kim, công nghiệp nhẹ đường sắt.

Ngày 08/02

Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 11-NQ/TW về chế độ lãnh đạo, quản nghiệp hội chủ nghĩa.

Tháng 4

- Phát động phong trào “thi đua với Duyên Hải” trong các nghiệp

miền Bắc.

- Khởi công xây dựng Nhà máy Ximăng Tiên.

- Khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Đa Nhim.

Ngày 12/4

Báo cáo của Ủy ban Kế hoạch nhà nước, do Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh trình bày tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa II, nhận định: “Công tác thương nghiệp được mở rộng tăng cường, trong 3 năm, mức bán ra của mậu dịch quốc doanh tăng 142%. Khối lượng thu mua năm 1960 đã tăng 170% so với năm 1957”.

Ngày 19/5

Khởi công xây dựng Nhà máy Điện Uông với sự giúp đỡ của Liên Xô.

Ngày 05/7

Ban thư ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về nhiệm vụ, phương hướng phát triển sản xuất củng cố hợp tác thủ công nghiệp.

Ngày 30/8

Thủ tướng Chính phủ ra Thông số 348/TTg quy định chế độ nông trường quốc doanh giao nộp sản phẩm cho Nhà nước.

Ngày 23/11

Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 203/CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy của Bộ Ngoại thương.

Ngày 27/11

Tổng cục Địa chất ra Quyết định số 271/ĐC thành lập Đoàn Thăm Dầu lửa, số hiệu của Đoàn Đoàn 36 dầu lửa, nhiệm vụ tiến hành tìm kiếm, thăm dầu mỏ khí đốt trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 28/11

Khánh thành Nhà máy Đường Nghệ An.

Ngày 14/12

Khánh thành đường dây 110 kV đầu tiên miền Bắc từ Việt Trì đi Đông Anh.

Ngày 31/12

Thành lập Xưởng Luyện Gang (nay Nhà máy Luyện Gang), thuộc Khu Gang Thép Thái Nguyên

NĂM 1962

Ngày 22/01

Khánh thành Nhà máy Đường Vạn Điểm.

Ngày 12/02

Phát động thi đua “ba tốt” trong ngành Nội thương: tổ chức nguồn hàng tốt, lãnh đạo thị trường phân phối hàng hóa tốt, quản kinh doanh tốt.

Ngày 05/3

Hoàn thành việc đặt đường dây 110 kV Đông Anh - Thái Nguyên.

Tháng 4

Hội nghị Trung ương 7 khóa III bàn về nhiệm vụ phương hướng xây dựng phát triển công nghiệp.

Ngày 24/6

Khánh thành Nhà máy Supe Phốtphát Lâm Thao.

Ngày 15/11

Hội nghị kiểm điểm công tác cải tạo những người buôn bán nhỏ toàn miền Bắc.

NĂM 1963

Ngày 08/01

Khánh thành Nhà máy Bóng đèn, Phích nước Rạng Đông.

Ngày 08/5

Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) kế hoạch nhà nước năm 1963, xác định nội dung công nghiệp hóa xây dựng sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội.

Ngày 06/9

Thành lập Xưởng Luyện Cốc (nay Nhà máy Cốc Hóa), thuộc Khu Gang thép Thái Nguyên.

Ngày 28/9

Khánh thành Nhà máy Phân lân Văn Điển.

Ngày 25/11

Thành lập Xưởng Động lực (nay nghiệp Năng lượng), thuộc Khu Gang thép Thái Nguyên.

Ngày 26/11

Dòng điện từ Nhà máy Điện Uông đã hòa vào lưới điện miền Bắc.

Ngày 29/11

Mẻ gang đầu tiên của cao số 1 đã ra lò, đánh dấu quá trình khắc phục khó khăn, dám nghĩ, dám làm với tinh thần tự lực cánh sinh rất cao của hơn 2,2 vạn cán bộ, công nhân Gang thép Thái Nguyên.

Ngày 20/12

Khánh thành cao số 1 Khu Gang thép Thái Nguyên.

NĂM 1964

Ngày 18/01

Khánh thành Nhà máy Điện Uông Bí.

Ngày 05/8

Kho xăng dầu Bến Thủy điểm đầu tiên trên miền Bắc hội chủ nghĩa bị bắn phá.

Ngày 19/8

Khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Thác - “đứa con đầu lòng” của ngành Thủy điện miền Bắc hội chủ nghĩa.

Ngày 17/9

Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 105-NQ/TW về tình hình, nhiệm vụ, phương hướng, chính sách phát triển công nghiệp địa phương.

Ngày 21/11

Thành lập phân xưởng Luyện thép (nay Nhà máy Luyện thép Lưu Xá), luyện thép theo phương pháp Máctanh (tức bằng), mỗi 150 tấn thép/mẻ.

Ngày 22/12

Hoàn thành việc đóng mới đầu máy xe lửa kiểu Tự Lực, mang tên Nguyễn Văn Trỗi.

Tháng 12

Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III họp bàn về vấn đề thương nghiệp giá cả.

NĂM 1965

Ngày 16/01

Chủ tịch Hồ Chí Minh tới dự nói chuyện tại Hội nghị ngành Công nghiệp nhẹ. Chủ tịch biểu dương những nỗ lực của ngành trong các chỉ tiêu về công nghiệp, thủ công nghiệp, năng suất lao động; thi đua sản xuất làm ra được những sản phẩm “nhiều, nhanh, tốt, rẻ” cho người dân.

Ngày 08/3

Khánh thành Nhà máy Dệt 8/3 sau 5 năm xây dựng.

Ngày 25 - 27/3

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III họp Hội nghị lần thứ 11 (đặc biệt) về tình hình nhiệm vụ cấp bách; quyết định chuyển hướng kinh tế miền Bắc từ thời bình sang thời chiến.

Ngày 07/7

Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 123-NQ/TW về việc chuyển hướng công tác tổ chức trong tình hình nhiệm vụ mới, yêu cầu các ngành kinh tế “căn cứ vào nhiệm vụ kế hoạch cụ thể của ngành mình việc phân cấp quản giữa trung ương địa phương, giữa cấp trên cấp dưới để xác định cụ thể việc kiện toàn những bộ phận, những cấp cần thiết”9.

NĂM 1966

Ngày 18/01

Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 200-NQ/TVQH ấn định thuế công thương nghiệp đối với các hợp tác xã, tổ chức hợp tác hộ riêng lẻ kinh doanh công thương nghiệp (kèm theo Điều lệ về thuế công thương nghiệp đối với các hợp tác xã, tổ chức hợp tác hộ riêng lẻ kinh doanh công thương nghiệp).

Ngày 22/3

Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ ra Quyết định số 184-BCNNh/TCCB ban hành bản Quy định về hệ thống tổ chức các quan thi đua từ Bộ đến các đơn vị sở với tinh thần “thi đua chống Mỹ, cứu nước” thi đua giành ba điểm cao toàn ngành.

Ngày 16/4

Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước Nguyễn Côn trình bày Báo cáo của Hội đồng Chính phủ tại phiên họp Quốc hội về kế hoạch xây dựng phát triển kinh tế hai năm 1966 - 1967, trong đó nêu nhiệm vụ trọng tâm: Tăng cường năng lực sản xuất công nghiệp, tận dụng công suất của các nghiệp, đẩy mạnh sản xuất để giải quyết nhu cầu thiết bị, nguyên liệu, vật liệu hàng tiêu dùng Trung ương phải phụ trách, tập trung sức giúp đỡ cho việc xây dựng, phát triển kinh tế địa phương.

Ngày 27/4

Ban thư ban hành Chỉ thị số 124-CT/TW về việc tăng cường lãnh đạo công tác tài chính, thương nghiệp giá cả năm 1966 - 1967.

Ngày 07/5

Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông số 76/TTg-CN, giao cho Tổng cục Thống nghiên cứu ban hành “Quy định việc phân ngành cụ thể trong công nghiệp” nhằm phục vụ công tác lãnh đạo của Đảng Nhà nước trong tổ chức quản công nghiệp của các bộ, tổng cục, các ngành Trung ương địa phương.

Ngày 29/6

Không quân Mỹ đồng loạt ném bom vào Kho Xăng dầu Đức Giang (Hà Nội).

NĂM 1967

Ngày 23/01

Ban thư ra Thông tri số 191-TT/TW về tăng cường hơn nữa việc lãnh đạo củng cố phong trào hợp tác mua bán xã.

Ngày 10/5

Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 59/CP về tăng cường bảo vệ tài sản thực hành tiết kiệm.

Ngày 30/7

Binh đoàn Than với gần 2.000 thợ mỏ một số đơn vị khác làm lễ xuất quân lên đường chi viện cho chiến trường miền Nam.

NĂM 1968

Tháng 01

Báo cáo của Ủy ban Kế hoạch nhà nước tại Hội nghị Trung ương 14 khóa III kiến nghị tập trung sức bảo đảm nhu cầu điện, than cho các ngành sản xuất, đẩy mạnh chế tạo khí sửa chữa nhằm phục vụ cho giao thông vận tải, nông nghiệp công nghiệp địa phương.

Ngày 25/5

Ban thư ra Thông báo số 11-TB/TW về việc chuẩn bị tiến hành cuộc vận động phát huy vai trò làm chủ tập thể của cán bộ, công nhân, viên chức, cải tiến quản kinh tế trong các nghiệp các ngành thuộc khối công nghiệp.

Ngày 07/9

Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết số 98/CP về quản thị trường, chống đầu cơ, ăn cắp vật tư, hàng hóa của Nhà nước.

Ngày 26/12

Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 185-NQ/TW về nhận định tình hình kinh tế hiện nay nhiệm vụ kinh tế năm 1969, đặt ra yêu cầu đối với công tác lưu thông - phân phối: Kiểm tra để nắm chắc thiết bị, vật tư, hàng hóa hiện có. Cải tiến tổ chức phân phối vật nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trung ương kinh tế địa phương10.

NĂM 1969

Ngày 19/3

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 28/TTg-TN về cấp phát cho vay vốn xây dựng bản vốn lưu động đối với nghiệp công nghiệp quốc doanh địa phương.

Ngày 09/5

Ban thư ra Thông báo số 07-TB/TW về công tác nội thương năm 1969, trong đó chỉ đạo ngành Nội thương xuất phát từ nhu cầu trong nước tham gia vào việc cân đối xuất, nhập khẩu hàng tiêu dùng mở rộng trao đổi quan hệ nội thương (bao gồm cả hợp tác mua bán) với các nước để phục vụ tốt đời sống.

Ngày 11/8

- Tách Bộ Công nghiệp nặng thành: Bộ Điện Than (Bộ trưởng: Nguyễn

Hữu Mai), Bộ khí Luyện kim (Bộ trưởng: Đinh Đức Thiện)

Tổng cục Hóa chất trực thuộc Hội đồng Chính phủ.

- Thành lập Bộ Lương thực Thực phẩm (Bộ trưởng: Ngô Minh

Loan), Bộ Vật (Bộ trưởng: Trần Danh Tuyên).

Ngày 19/8

Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 146/CP quy định chức năng bộ máy của Bộ Điện Than.

Ngày 05/10

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ban hành Nghị quyết số 12/NQNT về tổ chức bộ máy Chính phủ Cách mạng lâm thời (miền Nam Việt Nam), trong đó Bộ Kinh tế - Tài chính với nhiệm vụ nghiên cứu tình hình sản xuất công thương nghiệp.

Ngày 09/10

Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 203-CP thành lập Liên đoàn Địa chất 36 nhằm đẩy mạnh công tác tìm kiếm, thăm dầu khí miền Bắc Việt Nam.

NĂM 1970

Ngày 17/01

Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 194-NQ/TW về phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch nhà nước năm 1970, xác định: Ra sức khôi phục đẩy mạnh sản xuất một số ngành công nghiệp nặng quan trọng nhất như: điện, than, khí, phân bón, vật liệu xây dựng,...; đồng thời khôi phục phát triển thêm một bước sản xuất công nghiệp nhẹ công nghiệp chế biến thực phẩm, tiểu công nghiệp thủ công nghiệp1.

Ngày 12/3

Hội đồng Chính phủ Quyết định số 48/CP ban hành bản Danh mục sản phẩm, hàng hóa do Chính phủ Trung ương quy định giá.

Ngày 19/8

Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 978/NQ-TVQH phê chuẩn Hiệp định thương mại hiệp định thanh toán đã được kết ngày 31/12/1969 giữa Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Chính phủ nước Cộng hòa Rập Xyri.

Ngày 22/10

Việt Nam - Liên thỏa thuận liên Chính phủ về công tác thiết kế chung cho Công trình Thủy điện Hòa Bình.

Ngày 12/9 - 25/11

Đoàn đại biểu kinh tế Chính phủ Việt Nam đi Trung Quốc, Tiệp Khắc, Triều Tiên kết các hiệp định viện trợ kinh tế.

NĂM 1971

Ngày 09/01

Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 11/TTg về ổn định tình hình sản xuất cải tiến một bước công tác quản nghiệp công nghiệp quốc doanh.

Ngày 12/5

Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 91/CP về tăng cường cải tiến quản bảo vệ tài sản hội chủ nghĩa.

Ngày 29/5

Bộ Chính trị ra Nghị quyết về xây dựng Công trình Thủy điện Hòa Bình trên sông Đà.

Ngày 05/10

Tổ máy đầu tiên của Thủy điện Thác bắt đầu phát điện.

NĂM 1972

Năm 1972

Mỹ cài mìn, thủy lôi các cảng miền Bắc, cho tàu chiến bao vây vùng biển miền Bắc.

Ngày 03/5

Thủ tướng ban hành Chỉ thị số 124/TTg về quản cung ứng vật kỹ thuật cho các nghiệp công nghiệp quốc doanh.

Ngày 03/8

Bộ Nội thương đã ban hành Quyết định số 42/NT-QĐ1 về tổ chức bộ máy của Cục Quản dự trữ Bộ Nội thương, các địa phương thành lập 7 tổng kho liên tỉnh, dưới các tổng kho các cụm kho trực tiếp quản các kho hàng.

NĂM 1973

Ngày 01/5

Khôi phục xong Nhà máy Điện Việt Trì.

Tháng 6

Khôi phục xong Nhà máy Điện Hàm Rồng, Uông Bí.

Ngày 11/11

cao số 2 Khu Gang thép Thái Nguyên bắt đầu hoạt động trở lại.

NĂM 1974

Tháng 3

Khánh thành Nhà máy Đóng tàu Sông (Việt Trì) do Triều Tiên viện trợ.

Ngày 19/5

Tổ máy số 1, Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình bắt đầu hoạt động.

Ngày 02/9

Khánh thành Nhà máy Chè Yên Bái.

Ngày 16/12

Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định phê chuẩn việc thành lập Ban quản xây dựng Công trình Thủy điện Hòa Bình trên sông Đà - một quan ngang Bộ, do Bộ trưởng đặc trách việc xây dựng công trình sông Đà làm Trưởng ban.

NĂM 1975

Ngày 18/3

Đánh dấu sự kiện nổi bật về tìm kiếm thăm dầu khí miền Bắc Việt Nam khi chúng ta phát hiện mỏ khí Tiền Hải với trữ lượng xác minh đến 1,3 tỉ m3.

Ngày 01/5

Nhà máy Luyện cán thép Gia Sàng ra mẻ thép luyện đầu tiên chào mừng Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.

Ngày 20/5

Nhà máy Luyện cán thép Gia Sàng chính thức được thành lập.

Ngày 03/9

Thành lập Tổng cục Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam

NĂM 1976

Ngày 03/02

Khởi công xây dựng Nhà máy Ximăng Bỉm Sơn với 2 dây chuyền sản xuất theo phương pháp ướt, công suất mỗi dây chuyền 600.000 tấn sản phẩm/năm.

Tháng 7

Quốc hội đã phê chuẩn danh sách các bộ quan ngang bộ trực thuộc Hội đồng Chính phủ. 7 bộ tham gia quản ngành Công Thương, gồm: Bộ khí Luyện kim, Bộ Điện Than, Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Lương thực Thực phẩm, Bộ Nội thương, Bộ Ngoại thương Bộ Vật tư.

Ngày 25/9

Ban hành chính sách cải tạo công thương nghiệp bản doanh miền Nam.

Tháng 11

Bộ trưởng Bộ khí Luyện kim Nguyễn Côn đi nhận nhiệm vụ khác, ông Nguyễn Văn Kha được bổ nhiệm làm Bộ trưởng.

Ngày 14 - 20/12

Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng xác định nội dung công nghiệp hóa: “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp trên sở phát triển nông nghiệp công nghiệp nhẹ”12.

NĂM 1977

Tháng 02

Ông Tuân thôi chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ để làm Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, ông Trần Hữu được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ.

Ngày 18/4

Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 115/CP ban hành Điều lệ về đầu của nước ngoài nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam các bên cùng lợi.

Ngày 19/5

Khởi công xây dựng Nhà máy Ximăng Hoàng Thạch. Đây Nhà máy sản xuất ximăng hiện đại nhất cả nước lúc bấy giờ. Dây chuyền của Nhà máy theo tiêu chuẩn châu Âu, công nghệ sản xuất khô, chu trình khép kín, quay, công suất thiết kế 1,1 triệu tấn clinker/năm.

Ngày 09/9

Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 251/CP thành lập Công ty Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam, gọi tắt Pétro Việt Nam, trực thuộc Tổng cục Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam (Tổng cục Dầu khí).

Ngày 29/10

Hoàn thành việc xây dựng lại Nhà máy Phân đạm Bắc - thời điểm đó nhà máy phân đạm lớn nhất Việt Nam. Hằng năm, sản xuất 10 nghìn tấn urê phục vụ sản xuất nông nghiệp sản xuất nhiều mặt hàng khác.

Ngày 22/ 11

Ông Trần Văn Hiển được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Nội thương thay ông Hoàng Quốc Thịnh nhận nhiệm vụ khác.

NĂM 1978

Ngày 23/3

Thành phố Hồ Chí Minh các tỉnh phía Nam bắt đầu chiến dịch cải tạo kinh doanh thương nghiệp của các nhà sản chuyển họ sang sản xuất.

Ngày 29/6

Tại khóa họp thứ 32 của Hội đồng Tương trợ kinh tế, nước ta chính thức gia nhập tổ chức quốc tế này với cách thành viên chính thức. Hội đồng Tương trợ kinh tế đã dành cho Việt Nam những điều kiện thuận lợi sự ưu đãi để xây dựng phát triển kinh tế.

NĂM 1979

Tháng 02

Khởi công xây dựng Nhà máy Sợi Nội.

Tháng 4

Bộ trưởng Bộ Lương thực Thực phẩm Ngô Minh Loan thôi chức, ông Hồ Viết Thắng được bổ nhiệm làm Bộ trưởng.

Ngày 27/4

Thành lập Nhà máy Sợi Nha Trang. Nhà máy dây chuyền kéo sợi đồng bộ hiện đại của Hãng TOYODA (Nhật Bản) gồm 99.864 cọc sợi 800 rotor.

Ngày 21/6

Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 227/CP về việc ban hành bản quy định về chính sách biện pháp nhằm khuyến khích phát triển sản xuất hàng xuất khẩu.

Ngày 02/8

Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết số 279/CP về chính sách khuyến khích sản xuất lưu thông những mặt hàng không do Nhà nước quản cung ứng vật tư; những mặt hàng sản xuất bằng nguyên liệu địa phương phế liệu, phế phẩm.

Ngày 20/9

Nghị quyết số 20-NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV giải quyết những nhiệm vụ cấp bách về kinh tế đời sống nhằm “làm cho sản xuất bung ra”.

Ngày 06/11

Khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình - công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á thời kỳ đó, công suất 1.920 MW với 8 tổ máy.

NĂM 1980

Ngày 07/02

- Bộ trưởng Bộ Ngoại thương Đặng Việt Châu thôi chức, ông Khắc được bổ nhiệm làm Bộ trưởng.

- Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 40/CP thay thế cho bản quy định ban hành kèm theo Nghị định số 227/CP ngày 21/6/1979, nhằm khuyến khích phát triển sản xuất hàng xuất khẩu.

Ngày 17/5

Khởi công xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại với công suất 440 MW, gồm 4 tổ tua bin máy phát 8 hơi theo khối hai - một máy, mỗi máy 110 MW.

Ngày 23/6

Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 26-NQ/TW về cải tiến công tác phân phối, lưu thông (tài chính, tiền tệ, giá cả, tiền lương, thương nghiệp quản thị trường).

Ngày 03/7

kết Hiệp định Việt - về hợp tác, thăm địa chất khai thác dầu, khí thềm lục địa phía Nam Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ngày 01/10

Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 312/CP về tăng cường quản thị trường.

NĂM 1981

Ngày 21/01

- Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 25/CP về một số chủ trương biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất - kinh doanh quyền tự chủ về tài chính cho các nghiệp quốc doanh.

- Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm vận dụng các hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh nhà nước.

Ngày 22/01

- Ông Trần Phương được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Nội thương thay ông Trần Văn Hiển.

- Tách Bộ Điện Than thành Bộ Điện lực (Bộ trưởng: Phạm Khai) Bộ Mỏ Than (Bộ trưởng: Nguyễn Chấn).

- Tách Bộ Lương thực Thực phẩm thành: Bộ Công nghiệp thực phẩm, thuộc ngành Công Thương (Bộ trưởng: Tuân) Bộ Lương thực, thuộc ngành Nông nghiệp (Bộ trưởng: La Lâm Gia).

Ngày 23/02

Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 64/CP về việc giao nộp sản phẩm của các nghiệp quốc doanh tập trung các nguồn thu tiền mặt vào Nhà nước.

Ngày 19/4

Dòng khí công nghiệp đầu tiên tại Giếng khoan 61 mỏ Tiền Hải C (trầm tích Mioxen, hệ tầng Tiên Hưng, chiều sâu 1.146 - 1.156m) với lưu lượng 100.000 m3/ngày đêm đã được đưa vào buồng đốt tuabin nhiệt điện tại Tiền Hải phát ra dòng điện công suất 10 MW hòa lưới điện quốc gia.

Ngày 12 - 14/5

Hội đồng Tương trợ kinh tế thông qua các biện pháp đặc biệt giúp Việt Nam khôi phục kinh tế.

Ngày 19/6

kết Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam Liên về thành lập nghiệp Liên doanh Vietsovpetro.

NĂM 1982

Ngày 27 - 31/3

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng xác định nội dung công nghiệp hóa: “đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng công nghiệp nặng trong một cấu công - nông nghiệp hợp lý”13.

Ngày 23/4

Hội đồng Nhà nước thông qua Nghị quyết số 166/NQ-HĐNN7, bổ nhiệm ông Đức Thịnh giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội thương.

Ngày 30/6

Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép.

Ngày 16/7

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 190/CT về việc thành lập Ban Chỉ đạo Quản thị trường Trung ương.

Ngày 25/8

Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 146/HĐBT sửa đổi bổ sung Quyết định số 25-CP theo hướng phát huy đầy đủ tính chủ động, sáng tạo uốn nắn những lệch lạc phát sinh của các nghiệp quốc doanh.

Ngày 23/11

Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị quyết số 188/HĐBT về tăng cường thương nghiệp hội chủ nghĩa quản thị trường.

Ngày 26/11

Khánh thành đi vào sản xuất Nhà máy Giấy Bãi Bằng - công trình viện trợ nước ngoài lớn nhất Chính phủ nhân dân Thụy Điển dành cho Việt Nam.

Ngày 03 - 10/12

Hội nghị Trung ương 3 khóa V bàn về những vấn đề kinh tế quan trọng, trong đó công tác phân phối, lưu thông.

NĂM 1983

Năm 1983

Nhà máy Supe Phốtphát Lâm Thao xây dựng thêm dây chuyền sản xuất axít số 2 supe lân số 2, đổi mới công nghệ, thiết bị, nâng công suất các dây chuyền sản xuất axít lên 180.000 tấn/năm supe lân lên 370.000 tấn/năm.

Ngày 12/01

Hoàn thành việc ngăn sông Đà đợt 1.

Ngày 21/6

Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 62/HĐBT về việc thành lập Ban khí của Chính phủ.

NĂM 1984

Ngày 22/3

Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 51/HĐBT về sắp xếp lại sản xuất, cải tạo xây dựng một số ngành công nghiệp thực phẩm.

Tháng 5

Tàu Mikhain Mirchin khoan giếng thăm BH-5 đầu tiên tại Mỏ Bạch Hổ đã phát hiện ra dòng dầu công nghiệp đầu tiên.

Ngày 16/6

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra Chỉ thị số 231/CT về tiếp tục đẩy mạnh công tác cải tạo tăng cường củng cố quan hệ sản xuất hội chủ nghĩa đối với tiểu công nghiệp thủ công nghiệp.

Ngày 02 - 10/7

Hội nghị Trung ương 6 khóa V bàn về những nhiệm vụ cấp bách trong công tác cải tiến quản kinh tế.

Ngày 25/8

Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 111/HĐBT về danh mục những hàng hóa Nhà nước độc quyền kinh doanh, cấm nhân buôn bán.

Ngày 30/11

Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị quyết số 156/HĐBT về một số vấn đề cải tiến quản công nghiệp quốc doanh.

NĂM 1985

Ngày 08/01

Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 04/HĐBT bãi bỏ việc giao mức nghĩa vụ bán thịt lợn cho Nhà nước theo giá nghĩa vụ quy định tại Quyết định số 311/CP ngày 01/10/1980 của Hội đồng Chính phủ Quyết định số 60/TTg ngày 13/3/1981 của Thủ tướng Chính phủ.

Ngày 17/6

Ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V về giá - lương - tiền.

Ngày 21/6

Phát hiện dòng dầu công nghiệp mỏ Rồng.

Ngày 26/10

Việt Nam Liên các văn kiện hợp tác dầu khí giai đoạn 1986 - 1990.

Ngày 04/11

Bàn giao Nhà máy Diesel Sông Công đợt 1 do Liên giúp Việt Nam xây dựng; trung tâm chế tạo động lớn nhất Việt Nam bấy giờ, mỗi năm sản xuất 2.000 động 55 lực 255 tấn phụ tùng.

Ngày 18 - 21/11

Hội nghị cấu kinh tế công - nông nghiệp trên địa bàn huyện được tổ chức tại huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.

NĂM 1986

Ngày 21/6

Ông Hoàng Minh Thắng giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội thương thay ông Đức Thịnh.

Ngày 26/6

- Đánh dấu bước đột phá hợp tác toàn diện với Liên về dầu khí với tấn dầu thô đầu tiên được nghiệp Liên doanh Vietsovpetro khai thác từ mỏ Bạch Hổ.

- Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 76/HĐBT về việc ban hành các bản quy định tạm thời về bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế sở.

Ngày 15 - 18/12

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới, trước hết đổi mới duy kinh tế, thực hiện ba chương trình kinh tế lớn bao gồm lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng; hàng xuất khẩu.

NĂM 1987

Ngày 16/02

Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ra Nghị quyết 782/NQ-HĐNN7 kiện toàn các quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng. Theo đó, thành lập Bộ Năng lượng trên sở hợp nhất 2 bộ: Bộ Điện lực, Bộ Mỏ Than; ông Tuân được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ.

Ngày 05/7

Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị quyết số 113/HĐBT về việc chuyển hoạt động nội thương sang hạch toán, kinh doanh hội chủ nghĩa.

Ngày 15/9

Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 140/HĐBT về triệt để tiết kiệm.

Ngày 14/11

Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 217/HĐBT ban hành các chính sách đổi mới kế hoạch hóa hạch toán kinh doanh hội chủ nghĩa đối với nghiệp quốc doanh.

Ngày 31/12

Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 231/HĐBT về việc chuyển ngành Vật sang hạch toán kinh doanh hội chủ nghĩa sắp xếp lại tổ chức kinh doanh vật tư.

NĂM 1988

Ngày 26/02

Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 41-QĐ/TW, giải thể Tổng cục Điện tử Kỹ thuật tin học, chuyển giao nhiệm vụ của Tổng cục này cho Bộ khí Luyện kim phụ trách.

Ngày 15/3

Ban thư ra Thông báo số 76-TB/TW, lập thêm Ban Giám sát điện năng tại Bộ Năng lượng.

Ngày 28/6

Bộ Ngoại thương Ủy ban Kinh tế đối ngoại hợp nhất thành Bộ Kinh tế đối ngoại (Bộ trưởng: Đoàn Duy Thành).

Ngày 15/7

Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 16-NQ/TW về đổi mới chính sách chế quản đối với các sở sản xuất thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.

Ngày 18/7

Phát hiện dòng dầu công nghiệp mỏ Đại Hùng.

Ngày 23/12

Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 193/HĐBT về kinh doanh thương mại dịch vụ thị trường trong nước. Trong đó, Nhà nước bảo hộ các hoạt động kinh doanh hợp pháp của các tổ chức, nhân; mọi hàng hóa đều được tự do lưu thông, trừ những mặt hàng cấm những mặt hàng kinh doanh điều kiện.

NĂM 1989

Ngày 06/02

Mở cửa biên giới Việt - Trung cho dân biên giới hai bên đi lại buôn bán.

Ngày 10/6

Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 64/HĐBT ban hành quy định về chế độ tổ chức quản hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu.

Ngày 28/7

Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh về tài nguyên khoáng sản.

NĂM 1990

Tháng 3

- Hợp nhất 3 bộ: Bộ Kinh tế đối ngoại, Bộ Nội thương, Bộ Vật thành Bộ Thương nghiệp (Bộ trưởng: Hoàng Minh Thắng).

- Đổi tên Bộ khí Luyện kim thành Bộ Công nghiệp nặng để thống nhất quản nhà nước đối với các ngành khí luyện kim, điện tử, mỏ, địa chất, dầu khí hóa chất. Giải thể Tổng cục Mỏ Địa chất, Tổng cục Hóa chất Tổng cục Dầu khí (Bộ trưởng: Trần Lum).

Ngày 06/7

Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 250/HĐBT thành lập Tổng Công ty Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam.

NĂM 1991

Ngày 24 - 27/6

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng lần đầu tiên xác định: “công nghiệp hóa theo hướng hiện đại”14 - quan điểm rất mới vào thời điểm đó, bao hàm việc gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa.

Ngày 12/8

Bộ Thương nghiệp đổi tên thành Bộ Thương mại Du lịch (Bộ trưởng: Văn Triết).

Ngày 06/11

Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc trên vùng biên giới hai nước giữa Chính phủ nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được kết.

Ngày 07/11

Hiệp định Thương mại giữa Chính phủ Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được kết.

NĂM 1992

Từ ngày 19/9 - 08/10

Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX đã đổi tên Bộ Thương mại Du lịch thành Bộ Thương mại (Bộ trưởng: Văn Triết).

Ngày 05/4

Khởi công Công trình Đường dây 500 kV mạch 1 Bắc - Nam tại các vị trí móng số 54, 852, 2702.

Ngày 07/4

Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 114/HĐBT về quản nhà nước đối với xuất, nhập khẩu, cho phép mọi hàng hóa, trừ một số hàng hóa còn chịu sự quản của Nhà nước được tự do xuất, nhập khẩu.

NĂM 1993

Ngày 25/4

Công ty vấn Vatico, công ty Mỹ đầu tiên mở văn phòng tại Việt Nam.

Ngày 02/7

Tổng thống Mỹ Bill Clinton ủy quyền cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế tái tài trợ cho Việt Nam số tiền 140 triệu USD, mở đường cho việc các tổ chức quốc tế hỗ trợ tài chính cho Việt Nam.

Ngày 16/6 - 14/7

Kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa IX thông qua: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Luật dầu khí.

Ngày 14/9

Tổng thống Mỹ Bill Clinton cho phép các công ty Mỹ tham dự vào một số dự án phát triển được quốc tế tài trợ tại Việt Nam.

Ngày 04/11

Khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Ialy.

NĂM 1994

Ngày 03/02

Tổng thống Mỹ Bill Clinton công bố quyết định bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận thương mại kéo dài 19 năm của Mỹ đối với Việt Nam.

Ngày 07/3

- Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 90/TTg về việc tiếp tục sắp xếp doanh nghiệp nhà nước.

- Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 91/TTg về việc thí

điểm thành lập tập đoàn kinh doanh.

Ngày 19/4

Nghị định số 33/CP của Chính phủ về quản nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đã điều chỉnh mức vốn lưu động tối thiểu tính bằng tiền Việt Nam tương đương 200 nghìn USD tại thời điểm đăng kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu. Riêng đối với doanh nghiệp thuộc các tỉnh miền núi các tỉnh khó khăn về kinh tế, các doanh nghiệp kinh doanh những mặt hàng cần khuyến khích xuất khẩu không cần đòi hỏi nhiều vốn, mức vốn lưu động nêu trên được quy định tương đương 100.000 USD.

Ngày 25 - 30/7

Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới.

Ngày 10/10

- Thành lập Tổng Công ty Điện lực Việt Nam theo Quyết định số 562/TTg.

- Thành lập Tổng Công ty Than Việt Nam theo Quyết định số 563/TTg.

Ngày 20/12

Khánh thành Nhà máy Thủy điện Hòa Bình - công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á từ năm 1994 đến năm 2012 (bị phá vỡ kỷ lục vào năm 2012 bởi Nhà máy Thủy điện Sơn La).

NĂM 1995

Ngày 05/01

Chính phủ ra Nghị định số 02/CP quy định về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh thương mại hàng hóa, dịch vụ kinh doanh thương mại điều kiện thị trường trong nước.

Ngày 23/01

Chính phủ ban hành Nghị định số 10/CP về tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của Quản thị trường.

Ngày 17/4

Khí đồng hành thu gom từ mỏ Bạch Hổ đã được vận chuyển vào bờ, đưa đến trạm phân phối khí Rịa cung cấp khí cho Nhà máy Điện Rịa. Đây công trình đầu tiên Việt Nam được thực hiện theo thông lệ quốc tế.

Ngày 29/4

Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 253/TTg thành lập Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam.

Ngày 29/5

Thành lập Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, trên sở tổ chức, sắp xếp lại Tổng Công ty Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam.

Ngày 11/7

Tổng thống Mỹ Bill Clinton Thủ tướng Việt Nam Văn Kiệt thông báo quyết định bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước.

Ngày 17/7

Việt Nam Hiệp định khung về hợp tác với Liên minh châu Âu (EU).

Ngày 21/10

Thành lập Bộ Công nghiệp trên sở hợp nhất 3 bộ: Công nghiệp nặng, Năng lượng, Công nghiệp nhẹ (Bộ trưởng: Đặng Chư).

NĂM 1996

Năm 1996

Việt Nam thực hiện CEPT/AFTA (sau này ATIGA).

Ngày 09/02

Khai trương Saigon Co.op Cống Quỳnh, siêu thị đầu tiên của doanh nghiệp trong nước thời kỳ đổi mới.

Ngày 20/3

Quốc hội ban hành Luật khoáng sản.

Tháng 4

Phát lệnh khởi công xây dựng nhà máy đầu tiên của Trung tâm Điện lực Phú Mỹ. Đây trung tâm nhiệt điện khí lớn nhất khu vực phía Nam tổng công suất lên đến 3.859 MW.

Ngày 06/5

Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 27/CP phê chuẩn Điều lệ tổ chức hoạt động của Tổng Công ty Than Việt Nam.

Ngày 28/6 - 01/7

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng xác định: “Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa biến đổi nước ta thành một nước công nghiệp sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất”15.

Ngày 18/11

Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 01-NQ/TW về mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 5 năm 1996 - 2000.

NĂM 1997

Tháng 5

- Kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa IX (từ ngày 02/4 đến ngày 10/5) thông qua Luật thương mại.

- Việt - Mỹ trao đổi Đại sứ: ông Văn Bàng trở thành Đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Mỹ ông Douglas Peterson trở thành Đại sứ Mỹ đầu tiên tại Việt Nam.

Ngày 04/10

Nhà máy Sản xuất khí hóa lỏng (LPG) Dinh Cố đầu tiên của Việt Nam được khởi công xây dựng.

NĂM 1998

Ngày 10/02

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 31/1998/QĐ-TTg về việc thành lập Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế giúp Thủ tướng trong việc chỉ đạo điều phối hoạt động của các bộ, ngành địa phương tham gia các hoạt động kinh tế - thương mại trong ASEAN, gia nhập tham gia APEC, Diễn đàn Hợp tác Á - Âu, chỉ đạo đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Ngày 11/3

Tổng thống Mỹ Bill Clinton quyết định bãi bỏ áp dụng điều khoản Jackson-Vanik đối với Việt Nam.

Ngày 12/3

Chính phủ ra Nghị định số 15/1998/NĐ-CP, ban hành Danh mục hàng hóa của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN cho năm 1998.

Ngày 31/3

Chính phủ ban hành Nghị định số 20/1998/NĐ-CP về phát triển thương mại miền núi, hải đảo vùng đồng bào dân tộc.

Ngày 21/4 - 20/5

Kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa X đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

Ngày 08/7

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 116/1998/QĐ-TTg về việc thành lập Đoàn đàm phán Chính phủ về kinh tế - thương mại quốc tế, do Thứ trưởng Bộ Thương mại làm Trưởng đoàn.

Ngày 31/7

Chính phủ ban hành Nghị định số 57/1998/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công đại mua bán hàng hóa với nước ngoài.

Ngày 14/11

Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC).

NĂM 1999

Ngày 03/3

Chính phủ ban hành Nghị định số 11/1999/NĐ-CP về hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện; hàng hóa, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh, kinh doanh điều kiện.

Ngày 12/4

Chính phủ ban hành Nghị định số 20/1999/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ giám định hàng hóa.

Ngày 05/5

Chính phủ ban hành Nghị định số 32/1999/NĐ-CP về khuyến mại, quảng cáo thương mại hội chợ, triển lãm thương mại.

Ngày 08/7

Chính phủ ban hành Nghị định số 48/1999/NĐ-CP quy định về văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân của doanh nghiệp du lịch Việt Nam trong nước, nước ngoài.

Ngày 09/7

Nhà máy Xử khí Dinh Cố chính thức vận hành. Đây nhà máy xử khí đầu tiên của Việt Nam ứng dụng, chuyển giao các công nghệ hiện đại trong đầu xây dựng công trình khí.

NĂM 2000

Ngày 09/6

Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dầu khí.

Ngày 06/9

Chính phủ ban hành Nghị định số 45/2000/NĐ-CP quy định về văn phòng đại diện chi nhánh của thương nhân nước ngoài của doanh nghiệp du lịch nước ngoài tại Việt Nam.

Ngày 13/7

kết Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (BTA).

Ngày 27/10

Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg về Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu hàng hóa dịch vụ thời kỳ 2001 - 2010.

NĂM 2001

Ngày 27/3

Khởi công dự án Nhà máy Đạm Phú Mỹ.

Ngày 04/4

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg quản xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2001 - 2005.

Ngày 19 - 22/4

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đưa ra quyết định quan trọng “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”16.

Tháng 6

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa X thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu Dự án Nhà máy Thủy điện Sơn La.

Ngày 02/8

Chính phủ ban hành Nghị định số 44/2001/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/1998/NĐ-CP.

Ngày 27/11

Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế.

NĂM 2002

Ngày 14/3

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 37/2002/QĐ-TTg về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế.

Ngày 27/4

Khánh thành Nhà máy Thủy điện Ialy, công trình thủy điện lớn nhất khu vực miền Trung Tây Nguyên công suất 720 MW.

Ngày 25/5

Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam.

Tháng 12

Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa XI thông qua Nghị quyết về phương án xây dựng Công trình Thủy điện Sơn La.

NĂM 2003

Ngày 10/02

Chính phủ ban hành Nghị định số 08/2003/NĐ-CP về hoạt động của quan đại diện nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam nước ngoài phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế.

Ngày 09/6

Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 112/2003/QĐ-TTg thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình sản phẩm khí trọng điểm, do Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Tấn Dũng làm Trưởng ban.

Ngày 01/10

Bộ Công nghiệp ra Quyết định số 155/2003/QĐ-BCN về việc chuyển Công ty Sữa Việt Nam thành Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (doanh nghiệp trực thuộc Bộ Công nghiệp).

NĂM 2004

Ngày 15/01

Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 92/2004/QĐ-TTg phê duyệt đầu Dự án Thủy điện Sơn La.

Ngày 29/4

Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về việc chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.

Ngày 20/8

Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.

Ngày 15/11

Bộ trưởng Bộ Thương mại ban hành Quyết định số 1681/QĐ-BTM quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cấu tổ chức của Cục Quản thị trường.

Ngày 03/12

- Quốc hội thông qua Luật cạnh tranh.

- Quốc hội thông qua Luật điện lực.

Ngày 15/12

Khánh thành dự án Nhà máy Đạm Phú Mỹ. Lần đầu tiên một công trình trọng điểm nằm trong chương trình khí - điện - đạm của Nhà nước đạt được cả ba mục tiêu: chất lượng, tiến độ hiệu quả.

NĂM 2005

Ngày 10/4

Trung tâm Điện lực Phú Mỹ được khánh thành với 6 nhà máy điện tổng công suất 3.859 MW, lớn gấp 2 lần Thủy điện Hòa Bình.

Ngày 14/6

Quốc hội thông qua Luật thương mại.

Tháng 7

Hiệp định về thương mại hàng hóa ASEAN - Trung Quốc chính thức hiệu lực.

Ngày 17/8

Chính phủ ban hành Nghị định số 105/2005/NĐ-CP quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Điện lực.

Ngày 19/10

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 258/2005/QĐ-TTg thành lập Cục Điều tiết điện lực (ERAV) thuộc Bộ Công nghiệp (nay Bộ Công Thương).

Ngày 03/11

Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế xây dựng thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006 - 2010.

Ngày 02/12

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 314/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án thí điểm thành lập Tập đoàn Dệt May Việt Nam.

Ngày 26/12

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 345/2005/QĐ-TTg về việc thành lập Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam.

Ngày 02/12

Thủy điện Sơn La - công trình thủy điện lớn nhất Việt Nam Đông Nam Á được khởi công xây dựng, với tổng công suất thiết kế 2.400 MW, sản lượng điện trung bình hằng năm 10,2 tỉ kWh.

NĂM 2006

Ngày 26/01

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 26/2006/QĐ-TTg phê duyệt lộ trình, các điều kiện hình thành phát triển các cấp độ thị trường điện lực tại Việt Nam.

Ngày 04/4

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 73/2006/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam theo các vùng lãnh thổ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020.

Ngày 14/4

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 79/2006/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả giai đoạn 2006 - 2015.

Ngày 18 - 25/4

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định: “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức”17; “phải coi kinh tế tri thức yếu tố quan trọng của nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa”18.

Ngày 22/6

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 147/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn Điện lực Việt Nam.

Ngày 29/8

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 199/2006/QĐ-TTg thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.

Ngày 29/11

Quốc hội ra Nghị quyết số 71/2006/NQ-QH11 phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam.

NĂM 2007

Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Hàn Quốc chính thức hiệu lực.

Tháng 01

Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Ngày 05/02

Hội nghị lần thứ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh bền vững khi Việt Nam thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới.

Ngày 27/02

Chính phủ ra Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh bền vững khi Việt Nam thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới.

Ngày 04/4

Từ rừng U Minh hạ, tuốc bin 1 Nhà máy Điện Mau 1 đã hòa lưới điện quốc gia. Nhà máy công suất 230 MW (chạy bằng dầu DO) 250 MW (chạy bằng khí).

Ngày 31/7

Hợp nhất Bộ Công nghiệp Bộ Thương mại thành Bộ Công Thương.

Ngày 20/8

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 136/2007/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình khuyến công quốc gia đến năm 2012.

Ngày 21/11

Quốc hội ban hành Luật hóa chất (Luật số 06/2007/QH12).

Ngày 27/12

Chính phủ ban hành Nghị định số 189/2007/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cấu tổ chức của Bộ Công Thương.

NĂM 2008

kết Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP).

Ngày 13/3

Chính phủ ban hành Nghị định số 27/2008/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 10/CP của Chính phủ về tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của quản thị trường.

Ngày 20/4

Được công nhận “Ngày thương hiệu Việt Nam”.

Ngày 03/6

Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dầu khí.

Ngày 18/7

Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành quy định về biểu giá chi phí tránh được hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho các nhà máy điện nhỏ sử dụng năng lượng tái tạo.

Ngày 26/7

Khởi công Nhà máy Đạm Mau - nằm trong tổ hợp dự án cụm khí - điện - đạm Mau. Nhà máy công suất thiết kế 800.000 tấn urê/năm.

Ngày 02/10

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 1418/QĐ-TTg lấy ngày 14/5 hằng năm “Ngày truyền thống của ngành Công Thương Việt Nam”.

NĂM 2009

Ngày 22/02

Nhà máy Lọc dầu Dung Quất xuất xưởng mẻ dầu đầu tiên “made in Vietnam”.

Ngày 14/5

Khánh thành Di tích lịch sử Bộ Công Thương tại ATK thuộc thôn Đồng Đon, Minh Thanh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

Ngày 31/7

Bộ Chính trị ra Thông báo Kết luận số 264-TB/TW về tổ chức Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.

Tháng 10

Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) chính thức hiệu lực.

Ngày 12/10

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng Quyết định số 1594/QĐ-TTg lấy ngày 21/12 hằng năm “Ngày truyền thống ngành Điện lực Việt Nam”.

Ngày 15/10

Chính phủ ban hành Nghị định số 84/2009/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu.

Ngày 14/12

Bộ Công Thương ra Thông số 36/2009/TT-BCT ban hành Quy chế đại kinh doanh xăng dầu.

Ngày 23/12

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2180/QĐ-TTg thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (VINACHEM).

Ngày 28/12

Bộ Công Thương ban hành Thông số 39/2009/TT-BCT quy định thực hiện một số nội dung của Quy chế quản cụm công nghiệp.

NĂM 2010

- Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Ấn Độ chính thức hiệu lực.

- Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Ôxtrâylia - Niu Dilân chính thức hiệu lực.

- Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) hiệu lực.

Ngày 25/6

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 975/QĐ-TTg chuyển Công ty mẹ - Tập đoàn Điện lực Việt Nam thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu. Tên gọi sau khi chuyển đổi là: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).

Ngày 17/6

- Quốc hội thông qua Luật an toàn thực phẩm.

- Quốc hội thông qua Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả.

Ngày 07/7

Bộ Công Thương vinh dự đón nhận Giấy Chứng nhận Hệ thống Quản chất lượng TCVN ISO 9001:2008, quan cấp Bộ đầu tiên được cấp chứng chỉ này.

Ngày 17/11

- Quốc hội thông qua Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

- Quốc hội thông qua Luật khoáng sản.

Ngày 17/12

- Nhà máy Thủy điện Sơn La đưa tổ máy số 1 vào hoạt động, phát điện hòa lưới điện quốc gia.

- Chính phủ ban hành Nghị quyết số 59/NQ-CP về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản của Bộ Công Thương.


1. Xem Việt Nam Dân quốc công báo, số 3, ngày 13/10/1945, tr.36.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.27-28.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.564.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.36.

5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.206, 295.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.724

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.23, tr.238.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.299.

10. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.29, tr.575.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.31, tr.14

12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr.147.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.43, tr.71.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.138.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.54, tr.599.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.59, tr.150.

17, 18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.65, tr.145, 147.

MỘT SỐ SỰ KIỆN LỊCH SỬ TIÊU BIỂU CỦA NGÀNH CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM (1945 - 2010)

NĂM 1945

Ngày 28/8

Thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó Bộ Kinh tế quốc gia (tiền thân của Bộ Công Thương ngày nay). Bộ trưởng: Nguyễn Mạnh Hà.

Ngày 05/9

Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 07/SL cho phép tự do buôn bán chuyên chở thóc gạo trong toàn hạt Bắc Bộ Việt Nam.

Ngày 17 - 24/9

Diễn ra “Tuần lễ Vàng” theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khuyến khích người dân đóng góp ngân sách quốc gia nhằm tháo gỡ sự khó khăn về mặt tài chính của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ.

Ngày 18/9

Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp gỡ giới Công Thương Việt Nam.

Ngày 22/9

Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 36/SL về việc bãi bỏ các nghiệp đoàn Nông sản Lâm sản, Kỹ nghệ, Khoáng sản, Thương mại, Nội thương, Ngoại thương, Vận tải Ngân hàng…

Ngày 02/10

- Bộ Kinh tế quốc gia ra Nghị định (không số) cho phép các nhà kinh doanh quyền tự do khai trương, mở rộng, nhượng lại hay di chuyển sở kinh doanh.

- Nội dung của Sắc lệnh số 07/SL về tự do buôn bán chuyên chở thóc gạo được mở rộng áp dụng cho cả Trung Bộ.

Ngày 02/10

Thành lập Nha Thương vụ Nha Kinh tế tín dụng trực thuộc Bộ Kinh tế quốc gia1.

Ngày 09/10

Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 50/SL về việc cấm xuất cảng thóc, gạo, ngô, đỗ, các chế phẩm thuộc về ngũ cốc.

Ngày 13/10

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các giới Công Thương Việt Nam.

Ngày 15/11

Bộ Kinh tế quốc gia ban hành Nghị định số 41/BKT khuyến khích tận dụng đất đai, trồng màu cứu đói; tổ chức sản xuất nông cụ cho phát triển nông nghiệp.

Ngày 25/11

Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc, xác định: “mở lại các nhà máy do Nhật bỏ, khai thác các mỏ, cho nhân góp vốn vào việc kinh doanh các nhà máy mỏ ấy, khuyến khích các giới công thương mở hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham gia kiến thiết lại nước nhà”2.

NĂM 1946

Ngày 01/01

Thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bộ Kinh tế quốc gia đổi tên thành Bộ Quốc dân kinh tế (tiền thân của Bộ Công Thương ngày nay). Bộ trưởng: Nguyễn Tường Long.

Ngày 24/01

Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 12/SL “quy định quyền hạn của ông Bộ trưởng Bộ Kinh tế”3.

Ngày 02/3

Thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bộ Quốc dân kinh tế được đổi tên thành Bộ Kinh tế (tiền thân của Bộ Công Thương ngày nay). Bộ trưởng: Chu Phượng.

Tháng 3

- mật di chuyển máy móc, thiết bị, vật nguyên liệu sản xuất từ các đô thị, vùng công nghiệp quan trọng về các khu vực an toàn nhằm chuẩn bị di chuyển lên Chiến khu Việt Bắc.

- Nha Tiếp tế thực hiện thu mua, vận chuyển dự trữ hàng vạn tấn thóc gạo về các khu an toàn.

Ngày 30/5

- Ban hành Sắc lệnh số 89/SL về việc Chính phủ Việt Nam tạm thời giành quyền tìm kiếm mỏ.

- Ban hành Sắc lệnh số 90/SL ấn định những khu mỏ thuộc quyền sở hữu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Pháp dự Hội nghị Phôngtennơbờlô, trong đó các ông Phan Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Chu Phượng, Bộ trưởng Bộ Kinh tế; Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Bộ trưởng Bộ Kinh tế quốc gia, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc dân kinh tế.

Tháng 6

Di chuyển máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu sản xuất lên Chiến khu Việt Bắc.

Ngày 05/6

- Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 61/SL quy định về tổ

chức của Bộ Quốc dân kinh tế.

- Thành lập mới Nha Tiếp tế (Bộ Kinh tế) dựa trên việc tổ chức lại các

quan tiếp tế trước đây. Nha Tiếp tế phụ trách phân phối nguyên vật

liệu, hàng hóa cho hoạt động sản xuất, tiểu thủ công nghiệp cũng như

cho tiêu dùng của người dân.

- Thành lập mới Ban Thanh tra nhằm kiểm tra các đơn vị trong việc

tuân thủ, thi hành chủ trương, chính sách của Bộ Quốc dân kinh tế.

Ngày 03/11

Bộ Kinh tế nằm trong Chính phủ mới (thay cho Chính phủ liên hiệp kháng chiến).

Ngày 05/11

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ, nhấn mạnh việc phát triển “thủ công nghệ (vải, giấy, v.v.)” một trong những nhiệm vụ phát triển kinh tế trọng tâm.

Ngày 13/11

Toàn bộ công nhân Nhà máy Sợi Nam Định đã tổ chức đình công chống lại sự áp bức của thực dân Pháp. Công nhân nhân dân các tỉnh Nam Định, Hồng Gai, Đông, Phú Thọ, Sơn Tây, Quảng Ngãi, Nội đã gửi thư cổ vũ, quyên tiền ủng hộ công nhân Nhà máy Sợi Nam Định. Cuộc bãi công kéo dài đến ngày Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Ngày 26/11

Theo Sắc lệnh số 220/SL, Nha Kỹ nghệ đổi tên thành Nha Khoáng chất Kỹ nghệ (Bộ Kinh tế) để đảm nhiệm thêm việc lập bản đồ địa chất, quản hoạt động thăm dò, khai thác, nhượng quyền khai thác các mỏ khoáng sản.

NĂM 1947

Năm 1947

Luật Phan Anh được Chính phủ cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Kinh tế.

Ngày 03/02

Thành lập Nha Tín dụng sản xuất để thay thế Nha Nông nghiệp tín dụng Nha Kinh tế tín dụng.

Ngày 16/02

Thành lập Hội đồng Sản xuất kỹ nghệ (Bộ Kinh tế).

Ngày 16/3

Thành lập Ngoại thương Cục theo Sắc lệnh số 29B/SL. Sắc lệnh chia hàng hóa xuất, nhập khẩu thành hai danh mục: (1) Hàng hóa cấm xuất nhập cảng hàng hóa do Chính phủ trực tiếp xuất, nhập khẩu; (2) Hàng hóa nhân được xuất, nhập cảng dưới sự kiểm soát của Chính phủ.

Tháng 4

Hoàn thành việc di chuyển máy móc, thiết bị, vật nguyên liệu sản xuất lên Chiến khu Việt Bắc.

Ngày 19/4

Thành lập Nhà máy khí Trần Hưng Đạo tại Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa (Tuyên Quang), được xem cái nôi của ngành khí Việt Nam.

Ngày 01/6

Chủ tịch Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 54/SL bãi bỏ Hội đồng Quản trị Ngoại thương Cục (gồm đại biểu của 4 bộ: Kinh tế, Tài chính, Quốc phòng, Nội vụ) để đặt Cục này về Bộ Kinh tế quản trực tiếp.

Ngày 17/7

Bộ Kinh tế ban hành Nghị định số 112/BKT tạm ấn định những “đồn biên giới hay hải khẩu” hoạt động ngoại thương tại Lào Cai, Giang, Cao Bằng, Thất Khê (Lạng Sơn), Thanh Hóa, Nghệ An.

NĂM 1948

Năm 1948

Theo đề xuất của Bộ trưởng Bộ Kinh tế Phan Anh, năm 1948 đã mở 2 khóa đào tạo cán bộ quản kinh tế.

Cũng trong năm 1948, mở Trường Cán bộ kỹ thuật Trung Bộ đặt tại Đồng Thanh, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Đây trường cao đẳng kỹ thuật đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhiệm vụ của Trường đào tạo cán bộ kỹ thuật cho ngành khí, Đúc - Luyện kim.

Tháng 01

Nhà máy Giấy Hoàng Văn Thụ, tiền thân Nhà máy Giấy Đáp Cầu, đã tạo ra loại giấy dai đặc biệt từ cây rừng, chuyên phục vụ cho việc in tiền.

Ngày 01/01

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 104/SL ấn định các nguyên tắc căn bản của các “doanh nghiệp quốc gia”.

Ngày 29/02

Thành lập Cục Tiếp tế vận tải thay cho Nha Tiếp tế, để chuyển chế độ hoạt động của quan này từ đơn vị hành chính sang “doanh nghiệp quốc gia” (nay gọi doanh nghiệp nhà nước).

Ngày 14/4

Ban hành Nghị định Liên bộ Kinh tế - Tài chính - Nội vụ - pháp số 101/BKT-BT về thể lệ mậu dịch giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm.

Ngày 27/4

Bộ Kinh tế ra Thông số 09/KT-TT-NT ấn định các loại hàng hóa được phép lưu thông giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm.

Ngày 28/5

Tái lập Nha Thống kê, Bộ Kinh tế theo Sắc lệnh số 190/SL. Nha Thống nhiệm vụ lưu trữ số liệu về tất cả các lĩnh vực do Bộ Kinh tế quản lý.

Ngày 12/10

Thành lập Ban Trung ương bao vây kinh tế địch theo Sắc lệnh số 241/SL. Bộ trưởng Bộ Kinh tế Chủ tịch Ban, đại diện Bộ Tài chính đại diện Ngân hàng Nhà nước Ủy viên thường trực, đại diện Bộ Quốc phòng đại diện Bộ Công an Ủy viên.

Ngày 15/11

cao thí nghiệm tại huyện Con Cuông, Nghệ An cho ra mẻ gang đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 19/11

Chủ tịch Hồ Chí Minh Sắc lệnh số 257/SL “cấm chỉ mọi sự tích trữ tính chất đầu những hàng hóa cần thiết cho đời sống nhân dân”.

NĂM 1949

Đầu năm 1949

Bốn mỏ than: Phấn Mễ, Minh Khai, Đầm Đùn Khe Bố được tổ chức lại, trở thành những đơn vị công nghiệp nhà nước đầu tiên trong chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 25/02

Ban hành Sắc lệnh số 8/SL quy định “cấm không được bán những loại hàng hóa cần thiết cho đời sống nhân dân công cuộc kháng chiến quá giá tối đa do Chính phủ ấn định”.

Ngày 25/4

Nha Thống chuyển sang Văn phòng Chủ tịch Chính phủ theo Sắc lệnh số 33/SL.

Ngày 18/6

Nhiệm vụ của Ban Trung ương bao vây kinh tế địch được giao cho Bộ Kinh tế theo Sắc lệnh số 58/SL.

NĂM 1950

Đầu năm 1950

Bộ Kinh tế tổ chức lớp bồi dưỡng về kinh tế cho hơn 40 học viên.

Ngày 17/11

Thành lập Sở Nội thương thuộc Bộ Kinh tế thay cho Cục Tiếp tế vận tải.

NĂM 1951

Ngày 11 - 19/02

Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng nêu: “bảo vệ phát triển nền tảng kinh tế của ta, đấu tranh kinh tế với địch”4.

Ngày 03/5

Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Thứ trưởng Bộ Kinh tế Đặng Việt Châu cuộc gặp với đoàn đại biểu Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để thảo luận, đàm phán về việc giao thương hàng hóa giữa hai nước.

Ngày 14/5

- Bộ Kinh tế được đổi tên thành Bộ Công Thương theo Sắc lệnh số 21/SL của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông Phan Anh tiếp tục đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng.

- Thành lập Sở Mậu dịch, nằm trong Bộ Công Thương theo Sắc lệnh số 22/SL.

Ngày 15/8

Giải thể Ban Trung ương bao vây kinh tế địch thành lập Ban Trung ương quản xuất, nhập khẩu theo Nghị định số 118/TTg với nhiệm vụ kiểm soát xuất, nhập khẩu, kết hối ngoại tệ, quản thuế xuất, nhập khẩu.

Ngày 20/9

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị Mậu dịch.

NĂM 1952

Tháng 3

Bộ Công Thương triệu tập Hội nghị toàn quốc phổ biến chủ trương mới về đấu tranh kinh tế với địch tại Tuyên Quang. Hội nghị nhấn mạnh phải chủ động tăng cường xuất khẩu, quản chặt chẽ nhập khẩu, tích lũy ngoại tệ.

Tháng 7

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hiệp định Thương mại với Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Ngày 04/11

Ban hành Sắc lệnh số 182/SL xác định xây dựng các doanh nghiệp quốc gia nhằm phát triển kinh tế nhà nước, lãnh đạo giúp đỡ kinh tế hợp tác kinh tế nhân phát triển theo những phương châm, chính sách kế hoạch kinh tế của Chính phủ.

NĂM 1953

Tháng 01

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nghị định thư về mậu dịch tiểu ngạch với Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Tháng 11

cao NX3 dung tích tới 8,3 m3, cao 13 m được xây dựng mới trong lòng hang đá Như Xuân (Thanh Hóa) chính thức hoạt động, cung cấp cho việc sản xuất khí các chiến trường.

NĂM 1954

Chuẩn bị cho tiếp quản Thủ đô

- Bộ Công Thương đề xuất gom mua tối đa hàng hóa nhằm vừa giữ giá vùng tự do để duy trì nền kinh tế tại đây vận hành bình thường, vừa tăng cường nguồn hàng hóa, vật dự trữ cần thiết cho hệ thống mậu dịch chuẩn bị tiếp quản Thủ đô cũng như các vùng mới được giải phóng.

- Bộ Công Thương tổ chức các đoàn cán bộ mật vào Nội để đàm phán mua lại hàng tồn kho của các hãng buôn đang cần bán thu hồi vốn trước khi di tản vào miền Nam, lên kế hoạch bố trí các điểm bán hàng thuận lợi, cũng như chuẩn bị cho công tác quản các hoạt động kinh tế tại Thủ đô sau này.

- Sở Mậu dịch khẩn trương tổ chức hàng loạt trạm thu mua dọc các đường ranh giới giữa vùng tự do vùng tạm bị địch chiếm trước đây với nhiệm vụ gom mua càng nhiều càng tốt các loại hàng hóa thiết yếu như lương thực, chất đốt… được chuyển từ vùng mới được giải phóng vào vùng tự do.

- Đối với mặt hàng than, Bộ Công Thương chỉ đạo các mỏ khai thác tại vùng tự do nỗ lực tăng sản lượng nhằm đáp ứng thêm một phần nhu cầu tại vùng mới được giải phóng.

- Nhiều cán bộ mậu dịch được cử tìm kiếm, liên hệ với các hãng kinh doanh than tại Nội để hợp đồng mua. Sau ngày 10/10/1954, các hãng buôn đều chuyển giao đầy đủ than chất lượng tốt theo hợp đồng.

- Một lượng lớn hàng hóa tiêu dùng, vật sản xuất cần thiết như vải các loại, dầu hỏa, sợi dệt… nằm sẵn tại các kho Nội được Sở Mậu dịch thu mua, giúp tổ chức bán hàng ra cho nhân dân ngay khi tiếp quản.

Tháng 7

Hội nghị Trung ương 6 khóa II xác định nhiệm vụ cách mạng “phục hồi phát triển công thương nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng nền tài chính vững chắc để đạt tới ổn định vật giá, ổn định tiền tệ, tạo điều kiện tiến tới thăng bằng thu chi”5.

Tháng 9

Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới chính sách mới của Đảng. Trong đó, nhấn mạnh: “Cần hết sức coi trọng phục hồi công thương nghiệp làm cho các nghiệp công hiện được tiếp tục kinh doanh, làm cho thị trường hoạt động, vật giá ổn định, phục hồi phát triển mậu dịch đối ngoại”6.

Tháng 10

Hoạt động xuất, nhập khẩu thông qua tuyến đường sắt giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc được triển khai.

Ngày 04/12

Phủ Thủ tướng ban hành Nghị định số 419/TTg về thành lập các tổng công ty chuyên nghiệp mậu dịch quốc doanh.

Ngày 09/12

Bộ Chính trị họp bàn về khôi phục kinh tế.

Ngày 21/12

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Nhà máy Đèn Bờ Hồ Nhà máy Điện Yên Phụ. Sự kiện này đã trở thành một mốc son lịch sử ngày 12/10/2009, Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 1594/QĐ-TTg lấy ngày 21/12 hằng năm “Ngày truyền thống ngành Điện lực Việt Nam”.

NĂM 1955

Năm 1955

Khôi phục mỏ Apatít Lào Cai với sự giúp đỡ của Liên Xô.

Tháng 3

Báo cáo về đường lối khôi phục kinh tế do Chính phủ trình bày trước kỳ họp thứ Quốc hội khóa I nêu ba nội dung: Một là, chú trọng gây dựng sở cho công nghiệp hóa. Hai là, phát triển sản xuất làm cho kinh tế dồi dào, công đều được quan tâm. Ba là, tăng cường kinh tế quốc doanh, chăm lo kinh tế hợp tác xã, khuyến khích sản xuất - kinh doanh của các tầng lớp tiểu sản sản dân tộc.

Ngày 15/3

- Bộ Công Thương ra Chỉ thị số 454/BCT-KB tổ chức lại ngành mậu dịch quốc doanh, thành lập sắp xếp lại hệ thống công ty chuyên nghiệp mậu dịch quốc doanh.

- Thành lập những hợp tác mua bán đầu tiên.

Ngày 30/3

Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ số 489/TTg về việc ban hành đăng các loại kinh doanh công thương nghiệp.

Ngày 25/4

Bộ đội ta vào tiếp quản vùng Mỏ Quảng Ninh.

Tháng 6

Thương nghiệp quốc doanh tổ chức đấu tranh thắng lợi cuộc bình ổn giá lúa gạo đầu tiên sau khi miền Bắc được giải phóng.

Tháng 7

Việt Nam Hiệp định Viện trợ kinh tế - kỹ thuật với Liên Xô.

Ngày 01/7

Bộ Công Thương ra quyết định thành lập Ban phục hồi Nhà máy Sợi Nam Định, sáp nhập Nhà máy thành một phân xưởng của Nhà máy Sợi đổi tên thành Nhà máy Dệt Nam Định. Ngày 25/12, Nhà máy chính thức đi vào hoạt động.

Ngày 21/7

Thành lập Cục Điện lực, quan quản nhà nước đầu tiên chuyên trách lĩnh vực điện.

Ngày 22/9

Bộ Công Thương tách ra thành Bộ Công nghiệp (Bộ trưởng: Thanh Nghị) Bộ Thương nghiệp (Bộ trưởng: Phan Anh).

Ngày 04/11

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 609/TTg về việc cho phép kinh doanh đăng kinh doanh công thương nghiệp.

Ngày 15/11

Nhà máy Ximăng Hải Phòng bắt đầu sản xuất sau thời gian khôi phục.

Ngày 24/11

Ban thư ra Chỉ thị số 47-CT/TW về việc tổ chức hợp tác mua bán nông thôn hợp tác tiêu thụ thành thị.

Tháng 12

Việt Nam Hiệp định Viện trợ kinh tế - kỹ thuật với Hunggari.

Ngày 26/12

Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 641/TTg thành lập các quan quản hợp tác các cấp: Trung ương, khu, tỉnh thành phố.

Ngày 27/12

Ban hành Điều lệ tạm thời số 646/TTg quy định việc điều chỉnh quan hệ giữa người làm công chủ nghiệp trong các nghiệp doanh.

NĂM 1956

Tháng 01

- Việt Nam Hiệp định Thương mại với Bungari, Tiệp Khắc.

- Việt Nam Hiệp định Viện trợ hàng hóa với Cộng hòa Dân chủ Đức.

Ngày 29/01

Nhà máy Dệt Nam Định làm lễ khai trương, đi vào sản xuất sau thời gian khôi phục.

Ngày 20/3

Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 708/TTg ban hành bản Điều lệ tạm thời về các nghiệp nhân.

Tháng 4

- Hiệp định Viện trợ kinh tế mậu dịch Việt Nam - Rumani.

- Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ số 735/TTg ngày 10/4/1956 tạm thời về hợp đồng kinh doanh, nhằm tăng cường liên kết kinh tế trách nhiệm vật chất đối với việc thực hiện cam kết hợp đồng giữa các nghiệp quốc doanh với nhau giữa quốc doanh với doanh.

Ngày 16/6

Khánh thành Nhà máy Diêm Thống Nhất.

Ngày 27/9

Khánh thành Công trình cải tạo Nhà máy Rượu Nội.

Ngày 06/10

Mỏ thiếc Tĩnh Túc, được coi “đứa con đầu lòng” của ngành Kim loại màu Việt Nam, do Liên viện trợ, khánh thành đi vào hoạt động.

Ngày 21/11

Liên bộ Công nghiệp Tài chính ra Thông liên tịch số 05/TT-LB về thể lệ quản tiền mặt của các nghiệp quốc doanh thuộc Bộ Công nghiệp.

Ngày 13 - 17/12

Hội nghị lần thứ 11 mở rộng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam kết luận: “Những thành tích về việc khôi phục công nghiệp thủ công nghiệp trên đây đã góp phần duy trì sinh hoạt của những thành thị mới giải phóng, giải quyết một phần nạn thất nghiệp, cung cấp một số hàng cho nhân dân cho xuất khẩu, tập hợp đào tạo được một số cán bộ công nhân”7.

NĂM 1957

Tháng 02

Hiệp định trao đổi hàng hóa Việt Nam - Rumani.

Tháng 3

Hiệp định trao đổi hàng hóa thanh toán Việt Nam - Tiệp Khắc.

Ngày 13/3

Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 05-NQ/TW về vấn đề bình ổn vật giá, quản thị trường.

Ngày 04/4

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 130/TTg về việc thi hành từng bước chế độ hạch toán kinh tế để tăng cường việc quản kinh doanh của nghiệp quốc doanh.

Ngày 19/4

Chủ tịch Hồ Chí Minh Sắc luật số 011/SLT cấm chỉ mọi hành động đầu về kinh tế.

Tháng 6

Bộ Thương nghiệp chỉ đạo Tổng Công ty Lương thực phải mua hết lúa gạo của nông dân. Cuộc đấu tranh này kéo dài sang cả các năm 1958 - 1959, không những đối với lúa gạo, cả đối với một số nông sản khác như mía, đường mật... Kết quả đã giữ được giá thị trường mức giá chỉ đạo lợi cho sản xuất, thúc đẩy nhanh chóng phục hồi phát triển nông nghiệp.

Ngày 03/7

Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 290/TTg về việc thành lập Ban Quản thị trường Trung ương các ban quản thị trường các tỉnh, thành phố, khu tự trị.

Ngày 07/7

Sở Địa chất đổi tên thành Cục Địa chất trực thuộc Bộ Công nghiệp theo Quyết định số 1225-BCN/QĐ của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp.

Ngày 17/7

Thứ trưởng Bộ Thương nghiệp Đỗ Mười trình bày tại Hội nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (mở rộng) dự thảo chính sách của Nhà nước đối với công thương nghiệp bản doanh.

Ngày 23/9

Khánh thành Nhà máy Chè Phú Thọ do Liên giúp đỡ.

Ngày 20/11

Khánh thành hai Nhà máy Thủy điện Sa Ngàn.

NĂM 1958

Tháng 01

Xây dựng đường dây trung áp 35 kV đầu tiên (Hà Nội - Phố Nối).

Tháng 4

Bộ Thương nghiệp tách ra thành Bộ Nội thương (Bộ trưởng: Đỗ Mười) Bộ Ngoại thương (Bộ trưởng: Phan Anh).

Ngày 12/4

Nhà máy khí Nội, do Liên giúp đỡ, chính thức đi vào hoạt động với nhiệm vụ sản xuất các loại máy công cụ độ chính xác cấp 2 để trang bị cho ngành khí non trẻ của nước ta.

Ngày 13/6

Thủ tướng Chính phủ ra Thông số 297/TTg ban hành bản Quy tắc tổ chức tạm thời hợp tác thủ công nghiệp.

Ngày 15/8

Hoàn thành việc khôi phục Nhà máy Bia Nội.

Tháng 10

Bộ Chính trị chủ trương mở rộng cuộc vận động cải tiến quản lý, nhằm áp dụng đầy đủ chế độ quản này trong nghiệp quốc doanh.

Ngày 04/11

Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 486/TTg ban hành bản Điều lệ quản mậu dịch tiểu ngạch nhân dân trong khu vực biên giới Việt - Trung.

Ngày 28/11

Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Thanh Nghị phát lệnh khởi công xây dựng Khu Công nghiệp Việt Trì.

Tháng 12

Bộ Công nghiệp quyết định xây dựng Nhà máy Nhựa tại Hải Phòng. Đây sở đầu tiên của ngành Gia công chất dẻo của miền Bắc hội chủ nghĩa.

Ngày 01/12

nghiệp Da Thụy Khuê được công nhận nghiệp công hợp doanh (thí điểm).

Ngày 09 - 14/12

Kỳ họp thứ chín Quốc hội khóa I ra Nghị quyết thông qua toàn bộ kế hoạch 3 năm (1958 - 1960) - Kế hoạch cải tạo hội chủ nghĩa, trong đó cải tạo công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp.

Ngày 22/12

Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Thanh Nghị phát lệnh khởi công Khu công nghiệp Thượng Đình.

NĂM 1959

Ngày 18/02

Việt Nam - Trung Quốc 7 văn kiện, gồm các hiệp định, nghị định thư, công hàm về việc Trung Quốc giúp Việt Nam về kinh tế - kỹ thuật, viện trợ không hoàn lại, trao đổi mậu dịch hai bên.

Ngày 07/3

Hiệp định Hợp tác khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Liên Xô. Theo đó, Liên cho Việt Nam vay 100 triệu rúp giúp Việt Nam xây dựng Nhà máy Điện Uông Bí, Nhà máy Điện Bàn Thạch.

Ngày 13/4

Khánh thành Nhà máy Dệt kim Đông Xuân.

Ngày 14/5

Khánh thành Nhà máy Điện Vinh.

Ngày 11/7

Khánh thành Nhà máy Gỗ Cầu Đuống.

Ngày 14/7

nghị định thư về việc Mông Cổ giúp Việt Nam 1,3 triệu rúp 2.000 tấn da.

Ngày 07/11

Khánh thành Nhà máy Điện Lào Cai.

Ngày 09/11

Hội nghị tổng kết thí điểm cải tiến quản nghiệp 6 đơn vị: khí Nội, Điện Nội, Xe lửa Gia Lâm, Điện Hải Phòng, Than Vàng Danh Nông trường Tây Hiếu.

NĂM 1960

Ngày 04/01

Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 004/TTg ban hành Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế giữa các nghiệp quốc doanh quan nhà nước.

Ngày 07/3

kết Hiệp định, Nghị định thư về Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam, mậu dịch tiểu ngạch biên giới Việt - Trung.

Ngày 17/3

Hội nghị tổng kết cuộc vận động cải tiến quản nghiệp tại nghiệp quốc doanh theo chế độ “Thủ trưởng phụ trách dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, công nhân tham gia quản lý”.

Ngày 18 - 21/3

Đại hội các chủ nhiệm hợp tác chiến thi đua các ngành thủ công nghiệp toàn miền Bắc lần thứ nhất.

Ngày 17/5

Khánh thành Nhà máy Sắt tráng men - Nhôm Hải Phòng Nhà máy Nhựa Thiếu niên tiền phong.

Ngày 18/5

Khánh thành Nhà máy Cao su Sao Vàng, Thuốc Thăng Long phòng Nội.

Ngày 26/7

- Tách Bộ Công nghiệp thành Bộ Công nghiệp nặng (Bộ trưởng:

Nguyễn Văn Trân), Bộ Công nghiệp nhẹ (Bộ trưởng: Kha Vạng Cân).

- Thành lập Tổng cục Địa chất Tổng cục Vật tư.

Ngày 02/9

Khu công nghiệp Gang thép Thái Nguyên làm lễ khởi công bằng việc đổ bêtông móng cao số 1, mở đầu một giai đoạn lịch sử của ngành Luyện kim hiện đại Việt Nam.

Ngày 05 - 10/9

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, lần đầu tiên xác định đường lối công nghiệp hóa: “nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ miền Bắc nước ta công nghiệp hóa hội chủ nghĩa, mấu chốt ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”8.

Ngày 28/11

Hiệp định Hợp tác khoa học - kỹ thuật Việt - Trung.

Tháng 12

Công cuộc cải tạo công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp căn bản hoàn thành trên miền Bắc. Kết quả, đã chuyển 729 nghiệp bản doanh thành 661 nghiệp công hợp doanh 68 nghiệp hợp tác.

Ngày 23/12

Hiệp định Kinh tế Thương mại Việt - 1961 - 1965 được kết. Liên giúp xây dựng 43 nghiệp, cho vay dài hạn 430 triệu rúp.

Tháng 12

Công cuộc cải tạo công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp căn bản hoàn thành trên miền Bắc. Kết quả, đã chuyển 729 nghiệp bản doanh thành 661 nghiệp công hợp doanh 68 nghiệp hợp tác.

Ngày 23/12

Hiệp định Kinh tế Thương mại Việt - 1961 - 1965 được kết. Liên giúp xây dựng 43 nghiệp, cho vay dài hạn 430 triệu rúp.

NĂM 1961

Ngày 31/01

Trung Quốc Hiệp định Thương mại cho Việt Nam vay dài hạn 141,75 triệu rúp; giúp xây dựng, mở rộng 28 nghiệp công nghiệp giao thông, gồm các nghiệp luyện kim, công nghiệp nhẹ đường sắt.

Ngày 08/02

Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 11-NQ/TW về chế độ lãnh đạo, quản nghiệp hội chủ nghĩa.

Tháng 4

- Phát động phong trào “thi đua với Duyên Hải” trong các nghiệp

miền Bắc.

- Khởi công xây dựng Nhà máy Ximăng Tiên.

- Khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Đa Nhim.

Ngày 12/4

Báo cáo của Ủy ban Kế hoạch nhà nước, do Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh trình bày tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa II, nhận định: “Công tác thương nghiệp được mở rộng tăng cường, trong 3 năm, mức bán ra của mậu dịch quốc doanh tăng 142%. Khối lượng thu mua năm 1960 đã tăng 170% so với năm 1957”.

Ngày 19/5

Khởi công xây dựng Nhà máy Điện Uông với sự giúp đỡ của Liên Xô.

Ngày 05/7

Ban thư ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về nhiệm vụ, phương hướng phát triển sản xuất củng cố hợp tác thủ công nghiệp.

Ngày 30/8

Thủ tướng Chính phủ ra Thông số 348/TTg quy định chế độ nông trường quốc doanh giao nộp sản phẩm cho Nhà nước.

Ngày 23/11

Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 203/CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy của Bộ Ngoại thương.

Ngày 27/11

Tổng cục Địa chất ra Quyết định số 271/ĐC thành lập Đoàn Thăm Dầu lửa, số hiệu của Đoàn Đoàn 36 dầu lửa, nhiệm vụ tiến hành tìm kiếm, thăm dầu mỏ khí đốt trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 28/11

Khánh thành Nhà máy Đường Nghệ An.

Ngày 14/12

Khánh thành đường dây 110 kV đầu tiên miền Bắc từ Việt Trì đi Đông Anh.

Ngày 31/12

Thành lập Xưởng Luyện Gang (nay Nhà máy Luyện Gang), thuộc Khu Gang Thép Thái Nguyên

NĂM 1962

Ngày 22/01

Khánh thành Nhà máy Đường Vạn Điểm.

Ngày 12/02

Phát động thi đua “ba tốt” trong ngành Nội thương: tổ chức nguồn hàng tốt, lãnh đạo thị trường phân phối hàng hóa tốt, quản kinh doanh tốt.

Ngày 05/3

Hoàn thành việc đặt đường dây 110 kV Đông Anh - Thái Nguyên.

Tháng 4

Hội nghị Trung ương 7 khóa III bàn về nhiệm vụ phương hướng xây dựng phát triển công nghiệp.

Ngày 24/6

Khánh thành Nhà máy Supe Phốtphát Lâm Thao.

Ngày 15/11

Hội nghị kiểm điểm công tác cải tạo những người buôn bán nhỏ toàn miền Bắc.

NĂM 1963

Ngày 08/01

Khánh thành Nhà máy Bóng đèn, Phích nước Rạng Đông.

Ngày 08/5

Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) kế hoạch nhà nước năm 1963, xác định nội dung công nghiệp hóa xây dựng sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội.

Ngày 06/9

Thành lập Xưởng Luyện Cốc (nay Nhà máy Cốc Hóa), thuộc Khu Gang thép Thái Nguyên.

Ngày 28/9

Khánh thành Nhà máy Phân lân Văn Điển.

Ngày 25/11

Thành lập Xưởng Động lực (nay nghiệp Năng lượng), thuộc Khu Gang thép Thái Nguyên.

Ngày 26/11

Dòng điện từ Nhà máy Điện Uông đã hòa vào lưới điện miền Bắc.

Ngày 29/11

Mẻ gang đầu tiên của cao số 1 đã ra lò, đánh dấu quá trình khắc phục khó khăn, dám nghĩ, dám làm với tinh thần tự lực cánh sinh rất cao của hơn 2,2 vạn cán bộ, công nhân Gang thép Thái Nguyên.

Ngày 20/12

Khánh thành cao số 1 Khu Gang thép Thái Nguyên.

NĂM 1964

Ngày 18/01

Khánh thành Nhà máy Điện Uông Bí.

Ngày 05/8

Kho xăng dầu Bến Thủy điểm đầu tiên trên miền Bắc hội chủ nghĩa bị bắn phá.

Ngày 19/8

Khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Thác - “đứa con đầu lòng” của ngành Thủy điện miền Bắc hội chủ nghĩa.

Ngày 17/9

Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 105-NQ/TW về tình hình, nhiệm vụ, phương hướng, chính sách phát triển công nghiệp địa phương.

Ngày 21/11

Thành lập phân xưởng Luyện thép (nay Nhà máy Luyện thép Lưu Xá), luyện thép theo phương pháp Máctanh (tức bằng), mỗi 150 tấn thép/mẻ.

Ngày 22/12

Hoàn thành việc đóng mới đầu máy xe lửa kiểu Tự Lực, mang tên Nguyễn Văn Trỗi.

Tháng 12

Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III họp bàn về vấn đề thương nghiệp giá cả.

NĂM 1965

Ngày 16/01

Chủ tịch Hồ Chí Minh tới dự nói chuyện tại Hội nghị ngành Công nghiệp nhẹ. Chủ tịch biểu dương những nỗ lực của ngành trong các chỉ tiêu về công nghiệp, thủ công nghiệp, năng suất lao động; thi đua sản xuất làm ra được những sản phẩm “nhiều, nhanh, tốt, rẻ” cho người dân.

Ngày 08/3

Khánh thành Nhà máy Dệt 8/3 sau 5 năm xây dựng.

Ngày 25 - 27/3

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III họp Hội nghị lần thứ 11 (đặc biệt) về tình hình nhiệm vụ cấp bách; quyết định chuyển hướng kinh tế miền Bắc từ thời bình sang thời chiến.

Ngày 07/7

Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 123-NQ/TW về việc chuyển hướng công tác tổ chức trong tình hình nhiệm vụ mới, yêu cầu các ngành kinh tế “căn cứ vào nhiệm vụ kế hoạch cụ thể của ngành mình việc phân cấp quản giữa trung ương địa phương, giữa cấp trên cấp dưới để xác định cụ thể việc kiện toàn những bộ phận, những cấp cần thiết”9.

NĂM 1966

Ngày 18/01

Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 200-NQ/TVQH ấn định thuế công thương nghiệp đối với các hợp tác xã, tổ chức hợp tác hộ riêng lẻ kinh doanh công thương nghiệp (kèm theo Điều lệ về thuế công thương nghiệp đối với các hợp tác xã, tổ chức hợp tác hộ riêng lẻ kinh doanh công thương nghiệp).

Ngày 22/3

Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ ra Quyết định số 184-BCNNh/TCCB ban hành bản Quy định về hệ thống tổ chức các quan thi đua từ Bộ đến các đơn vị sở với tinh thần “thi đua chống Mỹ, cứu nước” thi đua giành ba điểm cao toàn ngành.

Ngày 16/4

Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước Nguyễn Côn trình bày Báo cáo của Hội đồng Chính phủ tại phiên họp Quốc hội về kế hoạch xây dựng phát triển kinh tế hai năm 1966 - 1967, trong đó nêu nhiệm vụ trọng tâm: Tăng cường năng lực sản xuất công nghiệp, tận dụng công suất của các nghiệp, đẩy mạnh sản xuất để giải quyết nhu cầu thiết bị, nguyên liệu, vật liệu hàng tiêu dùng Trung ương phải phụ trách, tập trung sức giúp đỡ cho việc xây dựng, phát triển kinh tế địa phương.

Ngày 27/4

Ban thư ban hành Chỉ thị số 124-CT/TW về việc tăng cường lãnh đạo công tác tài chính, thương nghiệp giá cả năm 1966 - 1967.

Ngày 07/5

Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông số 76/TTg-CN, giao cho Tổng cục Thống nghiên cứu ban hành “Quy định việc phân ngành cụ thể trong công nghiệp” nhằm phục vụ công tác lãnh đạo của Đảng Nhà nước trong tổ chức quản công nghiệp của các bộ, tổng cục, các ngành Trung ương địa phương.

Ngày 29/6

Không quân Mỹ đồng loạt ném bom vào Kho Xăng dầu Đức Giang (Hà Nội).

NĂM 1967

Ngày 23/01

Ban thư ra Thông tri số 191-TT/TW về tăng cường hơn nữa việc lãnh đạo củng cố phong trào hợp tác mua bán xã.

Ngày 10/5

Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 59/CP về tăng cường bảo vệ tài sản thực hành tiết kiệm.

Ngày 30/7

Binh đoàn Than với gần 2.000 thợ mỏ một số đơn vị khác làm lễ xuất quân lên đường chi viện cho chiến trường miền Nam.

NĂM 1968

Tháng 01

Báo cáo của Ủy ban Kế hoạch nhà nước tại Hội nghị Trung ương 14 khóa III kiến nghị tập trung sức bảo đảm nhu cầu điện, than cho các ngành sản xuất, đẩy mạnh chế tạo khí sửa chữa nhằm phục vụ cho giao thông vận tải, nông nghiệp công nghiệp địa phương.

Ngày 25/5

Ban thư ra Thông báo số 11-TB/TW về việc chuẩn bị tiến hành cuộc vận động phát huy vai trò làm chủ tập thể của cán bộ, công nhân, viên chức, cải tiến quản kinh tế trong các nghiệp các ngành thuộc khối công nghiệp.

Ngày 07/9

Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết số 98/CP về quản thị trường, chống đầu cơ, ăn cắp vật tư, hàng hóa của Nhà nước.

Ngày 26/12

Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 185-NQ/TW về nhận định tình hình kinh tế hiện nay nhiệm vụ kinh tế năm 1969, đặt ra yêu cầu đối với công tác lưu thông - phân phối: Kiểm tra để nắm chắc thiết bị, vật tư, hàng hóa hiện có. Cải tiến tổ chức phân phối vật nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trung ương kinh tế địa phương10.

NĂM 1969

Ngày 19/3

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 28/TTg-TN về cấp phát cho vay vốn xây dựng bản vốn lưu động đối với nghiệp công nghiệp quốc doanh địa phương.

Ngày 09/5

Ban thư ra Thông báo số 07-TB/TW về công tác nội thương năm 1969, trong đó chỉ đạo ngành Nội thương xuất phát từ nhu cầu trong nước tham gia vào việc cân đối xuất, nhập khẩu hàng tiêu dùng mở rộng trao đổi quan hệ nội thương (bao gồm cả hợp tác mua bán) với các nước để phục vụ tốt đời sống.

Ngày 11/8

- Tách Bộ Công nghiệp nặng thành: Bộ Điện Than (Bộ trưởng: Nguyễn

Hữu Mai), Bộ khí Luyện kim (Bộ trưởng: Đinh Đức Thiện)

Tổng cục Hóa chất trực thuộc Hội đồng Chính phủ.

- Thành lập Bộ Lương thực Thực phẩm (Bộ trưởng: Ngô Minh

Loan), Bộ Vật (Bộ trưởng: Trần Danh Tuyên).

Ngày 19/8

Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 146/CP quy định chức năng bộ máy của Bộ Điện Than.

Ngày 05/10

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ban hành Nghị quyết số 12/NQNT về tổ chức bộ máy Chính phủ Cách mạng lâm thời (miền Nam Việt Nam), trong đó Bộ Kinh tế - Tài chính với nhiệm vụ nghiên cứu tình hình sản xuất công thương nghiệp.

Ngày 09/10

Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 203-CP thành lập Liên đoàn Địa chất 36 nhằm đẩy mạnh công tác tìm kiếm, thăm dầu khí miền Bắc Việt Nam.

NĂM 1970

Ngày 17/01

Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 194-NQ/TW về phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch nhà nước năm 1970, xác định: Ra sức khôi phục đẩy mạnh sản xuất một số ngành công nghiệp nặng quan trọng nhất như: điện, than, khí, phân bón, vật liệu xây dựng,...; đồng thời khôi phục phát triển thêm một bước sản xuất công nghiệp nhẹ công nghiệp chế biến thực phẩm, tiểu công nghiệp thủ công nghiệp1.

Ngày 12/3

Hội đồng Chính phủ Quyết định số 48/CP ban hành bản Danh mục sản phẩm, hàng hóa do Chính phủ Trung ương quy định giá.

Ngày 19/8

Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 978/NQ-TVQH phê chuẩn Hiệp định thương mại hiệp định thanh toán đã được kết ngày 31/12/1969 giữa Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Chính phủ nước Cộng hòa Rập Xyri.

Ngày 22/10

Việt Nam - Liên thỏa thuận liên Chính phủ về công tác thiết kế chung cho Công trình Thủy điện Hòa Bình.

Ngày 12/9 - 25/11

Đoàn đại biểu kinh tế Chính phủ Việt Nam đi Trung Quốc, Tiệp Khắc, Triều Tiên kết các hiệp định viện trợ kinh tế.

NĂM 1971

Ngày 09/01

Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 11/TTg về ổn định tình hình sản xuất cải tiến một bước công tác quản nghiệp công nghiệp quốc doanh.

Ngày 12/5

Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 91/CP về tăng cường cải tiến quản bảo vệ tài sản hội chủ nghĩa.

Ngày 29/5

Bộ Chính trị ra Nghị quyết về xây dựng Công trình Thủy điện Hòa Bình trên sông Đà.

Ngày 05/10

Tổ máy đầu tiên của Thủy điện Thác bắt đầu phát điện.

NĂM 1972

Năm 1972

Mỹ cài mìn, thủy lôi các cảng miền Bắc, cho tàu chiến bao vây vùng biển miền Bắc.

Ngày 03/5

Thủ tướng ban hành Chỉ thị số 124/TTg về quản cung ứng vật kỹ thuật cho các nghiệp công nghiệp quốc doanh.

Ngày 03/8

Bộ Nội thương đã ban hành Quyết định số 42/NT-QĐ1 về tổ chức bộ máy của Cục Quản dự trữ Bộ Nội thương, các địa phương thành lập 7 tổng kho liên tỉnh, dưới các tổng kho các cụm kho trực tiếp quản các kho hàng.

NĂM 1973

Ngày 01/5

Khôi phục xong Nhà máy Điện Việt Trì.

Tháng 6

Khôi phục xong Nhà máy Điện Hàm Rồng, Uông Bí.

Ngày 11/11

cao số 2 Khu Gang thép Thái Nguyên bắt đầu hoạt động trở lại.

NĂM 1974

Tháng 3

Khánh thành Nhà máy Đóng tàu Sông (Việt Trì) do Triều Tiên viện trợ.

Ngày 19/5

Tổ máy số 1, Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình bắt đầu hoạt động.

Ngày 02/9

Khánh thành Nhà máy Chè Yên Bái.

Ngày 16/12

Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định phê chuẩn việc thành lập Ban quản xây dựng Công trình Thủy điện Hòa Bình trên sông Đà - một quan ngang Bộ, do Bộ trưởng đặc trách việc xây dựng công trình sông Đà làm Trưởng ban.

NĂM 1975

Ngày 18/3

Đánh dấu sự kiện nổi bật về tìm kiếm thăm dầu khí miền Bắc Việt Nam khi chúng ta phát hiện mỏ khí Tiền Hải với trữ lượng xác minh đến 1,3 tỉ m3.

Ngày 01/5

Nhà máy Luyện cán thép Gia Sàng ra mẻ thép luyện đầu tiên chào mừng Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.

Ngày 20/5

Nhà máy Luyện cán thép Gia Sàng chính thức được thành lập.

Ngày 03/9

Thành lập Tổng cục Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam

NĂM 1976

Ngày 03/02

Khởi công xây dựng Nhà máy Ximăng Bỉm Sơn với 2 dây chuyền sản xuất theo phương pháp ướt, công suất mỗi dây chuyền 600.000 tấn sản phẩm/năm.

Tháng 7

Quốc hội đã phê chuẩn danh sách các bộ quan ngang bộ trực thuộc Hội đồng Chính phủ. 7 bộ tham gia quản ngành Công Thương, gồm: Bộ khí Luyện kim, Bộ Điện Than, Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Lương thực Thực phẩm, Bộ Nội thương, Bộ Ngoại thương Bộ Vật tư.

Ngày 25/9

Ban hành chính sách cải tạo công thương nghiệp bản doanh miền Nam.

Tháng 11

Bộ trưởng Bộ khí Luyện kim Nguyễn Côn đi nhận nhiệm vụ khác, ông Nguyễn Văn Kha được bổ nhiệm làm Bộ trưởng.

Ngày 14 - 20/12

Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng xác định nội dung công nghiệp hóa: “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp trên sở phát triển nông nghiệp công nghiệp nhẹ”12.

NĂM 1977

Tháng 02

Ông Tuân thôi chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ để làm Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, ông Trần Hữu được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ.

Ngày 18/4

Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 115/CP ban hành Điều lệ về đầu của nước ngoài nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam các bên cùng lợi.

Ngày 19/5

Khởi công xây dựng Nhà máy Ximăng Hoàng Thạch. Đây Nhà máy sản xuất ximăng hiện đại nhất cả nước lúc bấy giờ. Dây chuyền của Nhà máy theo tiêu chuẩn châu Âu, công nghệ sản xuất khô, chu trình khép kín, quay, công suất thiết kế 1,1 triệu tấn clinker/năm.

Ngày 09/9

Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 251/CP thành lập Công ty Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam, gọi tắt Pétro Việt Nam, trực thuộc Tổng cục Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam (Tổng cục Dầu khí).

Ngày 29/10

Hoàn thành việc xây dựng lại Nhà máy Phân đạm Bắc - thời điểm đó nhà máy phân đạm lớn nhất Việt Nam. Hằng năm, sản xuất 10 nghìn tấn urê phục vụ sản xuất nông nghiệp sản xuất nhiều mặt hàng khác.

Ngày 22/ 11

Ông Trần Văn Hiển được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Nội thương thay ông Hoàng Quốc Thịnh nhận nhiệm vụ khác.

NĂM 1978

Ngày 23/3

Thành phố Hồ Chí Minh các tỉnh phía Nam bắt đầu chiến dịch cải tạo kinh doanh thương nghiệp của các nhà sản chuyển họ sang sản xuất.

Ngày 29/6

Tại khóa họp thứ 32 của Hội đồng Tương trợ kinh tế, nước ta chính thức gia nhập tổ chức quốc tế này với cách thành viên chính thức. Hội đồng Tương trợ kinh tế đã dành cho Việt Nam những điều kiện thuận lợi sự ưu đãi để xây dựng phát triển kinh tế.

NĂM 1979

Tháng 02

Khởi công xây dựng Nhà máy Sợi Nội.

Tháng 4

Bộ trưởng Bộ Lương thực Thực phẩm Ngô Minh Loan thôi chức, ông Hồ Viết Thắng được bổ nhiệm làm Bộ trưởng.

Ngày 27/4

Thành lập Nhà máy Sợi Nha Trang. Nhà máy dây chuyền kéo sợi đồng bộ hiện đại của Hãng TOYODA (Nhật Bản) gồm 99.864 cọc sợi 800 rotor.

Ngày 21/6

Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 227/CP về việc ban hành bản quy định về chính sách biện pháp nhằm khuyến khích phát triển sản xuất hàng xuất khẩu.

Ngày 02/8

Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết số 279/CP về chính sách khuyến khích sản xuất lưu thông những mặt hàng không do Nhà nước quản cung ứng vật tư; những mặt hàng sản xuất bằng nguyên liệu địa phương phế liệu, phế phẩm.

Ngày 20/9

Nghị quyết số 20-NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV giải quyết những nhiệm vụ cấp bách về kinh tế đời sống nhằm “làm cho sản xuất bung ra”.

Ngày 06/11

Khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình - công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á thời kỳ đó, công suất 1.920 MW với 8 tổ máy.

NĂM 1980

Ngày 07/02

- Bộ trưởng Bộ Ngoại thương Đặng Việt Châu thôi chức, ông Khắc được bổ nhiệm làm Bộ trưởng.

- Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 40/CP thay thế cho bản quy định ban hành kèm theo Nghị định số 227/CP ngày 21/6/1979, nhằm khuyến khích phát triển sản xuất hàng xuất khẩu.

Ngày 17/5

Khởi công xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại với công suất 440 MW, gồm 4 tổ tua bin máy phát 8 hơi theo khối hai - một máy, mỗi máy 110 MW.

Ngày 23/6

Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 26-NQ/TW về cải tiến công tác phân phối, lưu thông (tài chính, tiền tệ, giá cả, tiền lương, thương nghiệp quản thị trường).

Ngày 03/7

kết Hiệp định Việt - về hợp tác, thăm địa chất khai thác dầu, khí thềm lục địa phía Nam Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ngày 01/10

Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 312/CP về tăng cường quản thị trường.

NĂM 1981

Ngày 21/01

- Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 25/CP về một số chủ trương biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất - kinh doanh quyền tự chủ về tài chính cho các nghiệp quốc doanh.

- Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm vận dụng các hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh nhà nước.

Ngày 22/01

- Ông Trần Phương được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Nội thương thay ông Trần Văn Hiển.

- Tách Bộ Điện Than thành Bộ Điện lực (Bộ trưởng: Phạm Khai) Bộ Mỏ Than (Bộ trưởng: Nguyễn Chấn).

- Tách Bộ Lương thực Thực phẩm thành: Bộ Công nghiệp thực phẩm, thuộc ngành Công Thương (Bộ trưởng: Tuân) Bộ Lương thực, thuộc ngành Nông nghiệp (Bộ trưởng: La Lâm Gia).

Ngày 23/02

Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 64/CP về việc giao nộp sản phẩm của các nghiệp quốc doanh tập trung các nguồn thu tiền mặt vào Nhà nước.

Ngày 19/4

Dòng khí công nghiệp đầu tiên tại Giếng khoan 61 mỏ Tiền Hải C (trầm tích Mioxen, hệ tầng Tiên Hưng, chiều sâu 1.146 - 1.156m) với lưu lượng 100.000 m3/ngày đêm đã được đưa vào buồng đốt tuabin nhiệt điện tại Tiền Hải phát ra dòng điện công suất 10 MW hòa lưới điện quốc gia.

Ngày 12 - 14/5

Hội đồng Tương trợ kinh tế thông qua các biện pháp đặc biệt giúp Việt Nam khôi phục kinh tế.

Ngày 19/6

kết Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam Liên về thành lập nghiệp Liên doanh Vietsovpetro.

NĂM 1982

Ngày 27 - 31/3

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng xác định nội dung công nghiệp hóa: “đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng công nghiệp nặng trong một cấu công - nông nghiệp hợp lý”13.

Ngày 23/4

Hội đồng Nhà nước thông qua Nghị quyết số 166/NQ-HĐNN7, bổ nhiệm ông Đức Thịnh giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội thương.

Ngày 30/6

Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép.

Ngày 16/7

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 190/CT về việc thành lập Ban Chỉ đạo Quản thị trường Trung ương.

Ngày 25/8

Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 146/HĐBT sửa đổi bổ sung Quyết định số 25-CP theo hướng phát huy đầy đủ tính chủ động, sáng tạo uốn nắn những lệch lạc phát sinh của các nghiệp quốc doanh.

Ngày 23/11

Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị quyết số 188/HĐBT về tăng cường thương nghiệp hội chủ nghĩa quản thị trường.

Ngày 26/11

Khánh thành đi vào sản xuất Nhà máy Giấy Bãi Bằng - công trình viện trợ nước ngoài lớn nhất Chính phủ nhân dân Thụy Điển dành cho Việt Nam.

Ngày 03 - 10/12

Hội nghị Trung ương 3 khóa V bàn về những vấn đề kinh tế quan trọng, trong đó công tác phân phối, lưu thông.

NĂM 1983

Năm 1983

Nhà máy Supe Phốtphát Lâm Thao xây dựng thêm dây chuyền sản xuất axít số 2 supe lân số 2, đổi mới công nghệ, thiết bị, nâng công suất các dây chuyền sản xuất axít lên 180.000 tấn/năm supe lân lên 370.000 tấn/năm.

Ngày 12/01

Hoàn thành việc ngăn sông Đà đợt 1.

Ngày 21/6

Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 62/HĐBT về việc thành lập Ban khí của Chính phủ.

NĂM 1984

Ngày 22/3

Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 51/HĐBT về sắp xếp lại sản xuất, cải tạo xây dựng một số ngành công nghiệp thực phẩm.

Tháng 5

Tàu Mikhain Mirchin khoan giếng thăm BH-5 đầu tiên tại Mỏ Bạch Hổ đã phát hiện ra dòng dầu công nghiệp đầu tiên.

Ngày 16/6

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra Chỉ thị số 231/CT về tiếp tục đẩy mạnh công tác cải tạo tăng cường củng cố quan hệ sản xuất hội chủ nghĩa đối với tiểu công nghiệp thủ công nghiệp.

Ngày 02 - 10/7

Hội nghị Trung ương 6 khóa V bàn về những nhiệm vụ cấp bách trong công tác cải tiến quản kinh tế.

Ngày 25/8

Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 111/HĐBT về danh mục những hàng hóa Nhà nước độc quyền kinh doanh, cấm nhân buôn bán.

Ngày 30/11

Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị quyết số 156/HĐBT về một số vấn đề cải tiến quản công nghiệp quốc doanh.

NĂM 1985

Ngày 08/01

Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 04/HĐBT bãi bỏ việc giao mức nghĩa vụ bán thịt lợn cho Nhà nước theo giá nghĩa vụ quy định tại Quyết định số 311/CP ngày 01/10/1980 của Hội đồng Chính phủ Quyết định số 60/TTg ngày 13/3/1981 của Thủ tướng Chính phủ.

Ngày 17/6

Ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V về giá - lương - tiền.

Ngày 21/6

Phát hiện dòng dầu công nghiệp mỏ Rồng.

Ngày 26/10

Việt Nam Liên các văn kiện hợp tác dầu khí giai đoạn 1986 - 1990.

Ngày 04/11

Bàn giao Nhà máy Diesel Sông Công đợt 1 do Liên giúp Việt Nam xây dựng; trung tâm chế tạo động lớn nhất Việt Nam bấy giờ, mỗi năm sản xuất 2.000 động 55 lực 255 tấn phụ tùng.

Ngày 18 - 21/11

Hội nghị cấu kinh tế công - nông nghiệp trên địa bàn huyện được tổ chức tại huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.

NĂM 1986

Ngày 21/6

Ông Hoàng Minh Thắng giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội thương thay ông Đức Thịnh.

Ngày 26/6

- Đánh dấu bước đột phá hợp tác toàn diện với Liên về dầu khí với tấn dầu thô đầu tiên được nghiệp Liên doanh Vietsovpetro khai thác từ mỏ Bạch Hổ.

- Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 76/HĐBT về việc ban hành các bản quy định tạm thời về bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế sở.

Ngày 15 - 18/12

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới, trước hết đổi mới duy kinh tế, thực hiện ba chương trình kinh tế lớn bao gồm lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng; hàng xuất khẩu.

NĂM 1987

Ngày 16/02

Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ra Nghị quyết 782/NQ-HĐNN7 kiện toàn các quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng. Theo đó, thành lập Bộ Năng lượng trên sở hợp nhất 2 bộ: Bộ Điện lực, Bộ Mỏ Than; ông Tuân được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ.

Ngày 05/7

Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị quyết số 113/HĐBT về việc chuyển hoạt động nội thương sang hạch toán, kinh doanh hội chủ nghĩa.

Ngày 15/9

Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 140/HĐBT về triệt để tiết kiệm.

Ngày 14/11

Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 217/HĐBT ban hành các chính sách đổi mới kế hoạch hóa hạch toán kinh doanh hội chủ nghĩa đối với nghiệp quốc doanh.

Ngày 31/12

Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 231/HĐBT về việc chuyển ngành Vật sang hạch toán kinh doanh hội chủ nghĩa sắp xếp lại tổ chức kinh doanh vật tư.

NĂM 1988

Ngày 26/02

Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 41-QĐ/TW, giải thể Tổng cục Điện tử Kỹ thuật tin học, chuyển giao nhiệm vụ của Tổng cục này cho Bộ khí Luyện kim phụ trách.

Ngày 15/3

Ban thư ra Thông báo số 76-TB/TW, lập thêm Ban Giám sát điện năng tại Bộ Năng lượng.

Ngày 28/6

Bộ Ngoại thương Ủy ban Kinh tế đối ngoại hợp nhất thành Bộ Kinh tế đối ngoại (Bộ trưởng: Đoàn Duy Thành).

Ngày 15/7

Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 16-NQ/TW về đổi mới chính sách chế quản đối với các sở sản xuất thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.

Ngày 18/7

Phát hiện dòng dầu công nghiệp mỏ Đại Hùng.

Ngày 23/12

Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 193/HĐBT về kinh doanh thương mại dịch vụ thị trường trong nước. Trong đó, Nhà nước bảo hộ các hoạt động kinh doanh hợp pháp của các tổ chức, nhân; mọi hàng hóa đều được tự do lưu thông, trừ những mặt hàng cấm những mặt hàng kinh doanh điều kiện.

NĂM 1989

Ngày 06/02

Mở cửa biên giới Việt - Trung cho dân biên giới hai bên đi lại buôn bán.

Ngày 10/6

Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 64/HĐBT ban hành quy định về chế độ tổ chức quản hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu.

Ngày 28/7

Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh về tài nguyên khoáng sản.

NĂM 1990

Tháng 3

- Hợp nhất 3 bộ: Bộ Kinh tế đối ngoại, Bộ Nội thương, Bộ Vật thành Bộ Thương nghiệp (Bộ trưởng: Hoàng Minh Thắng).

- Đổi tên Bộ khí Luyện kim thành Bộ Công nghiệp nặng để thống nhất quản nhà nước đối với các ngành khí luyện kim, điện tử, mỏ, địa chất, dầu khí hóa chất. Giải thể Tổng cục Mỏ Địa chất, Tổng cục Hóa chất Tổng cục Dầu khí (Bộ trưởng: Trần Lum).

Ngày 06/7

Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 250/HĐBT thành lập Tổng Công ty Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam.

NĂM 1991

Ngày 24 - 27/6

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng lần đầu tiên xác định: “công nghiệp hóa theo hướng hiện đại”14 - quan điểm rất mới vào thời điểm đó, bao hàm việc gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa.

Ngày 12/8

Bộ Thương nghiệp đổi tên thành Bộ Thương mại Du lịch (Bộ trưởng: Văn Triết).

Ngày 06/11

Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc trên vùng biên giới hai nước giữa Chính phủ nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được kết.

Ngày 07/11

Hiệp định Thương mại giữa Chính phủ Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được kết.

NĂM 1992

Từ ngày 19/9 - 08/10

Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX đã đổi tên Bộ Thương mại Du lịch thành Bộ Thương mại (Bộ trưởng: Văn Triết).

Ngày 05/4

Khởi công Công trình Đường dây 500 kV mạch 1 Bắc - Nam tại các vị trí móng số 54, 852, 2702.

Ngày 07/4

Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 114/HĐBT về quản nhà nước đối với xuất, nhập khẩu, cho phép mọi hàng hóa, trừ một số hàng hóa còn chịu sự quản của Nhà nước được tự do xuất, nhập khẩu.

NĂM 1993

Ngày 25/4

Công ty vấn Vatico, công ty Mỹ đầu tiên mở văn phòng tại Việt Nam.

Ngày 02/7

Tổng thống Mỹ Bill Clinton ủy quyền cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế tái tài trợ cho Việt Nam số tiền 140 triệu USD, mở đường cho việc các tổ chức quốc tế hỗ trợ tài chính cho Việt Nam.

Ngày 16/6 - 14/7

Kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa IX thông qua: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Luật dầu khí.

Ngày 14/9

Tổng thống Mỹ Bill Clinton cho phép các công ty Mỹ tham dự vào một số dự án phát triển được quốc tế tài trợ tại Việt Nam.

Ngày 04/11

Khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Ialy.

NĂM 1994

Ngày 03/02

Tổng thống Mỹ Bill Clinton công bố quyết định bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận thương mại kéo dài 19 năm của Mỹ đối với Việt Nam.

Ngày 07/3

- Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 90/TTg về việc tiếp tục sắp xếp doanh nghiệp nhà nước.

- Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 91/TTg về việc thí

điểm thành lập tập đoàn kinh doanh.

Ngày 19/4

Nghị định số 33/CP của Chính phủ về quản nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đã điều chỉnh mức vốn lưu động tối thiểu tính bằng tiền Việt Nam tương đương 200 nghìn USD tại thời điểm đăng kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu. Riêng đối với doanh nghiệp thuộc các tỉnh miền núi các tỉnh khó khăn về kinh tế, các doanh nghiệp kinh doanh những mặt hàng cần khuyến khích xuất khẩu không cần đòi hỏi nhiều vốn, mức vốn lưu động nêu trên được quy định tương đương 100.000 USD.

Ngày 25 - 30/7

Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới.

Ngày 10/10

- Thành lập Tổng Công ty Điện lực Việt Nam theo Quyết định số 562/TTg.

- Thành lập Tổng Công ty Than Việt Nam theo Quyết định số 563/TTg.

Ngày 20/12

Khánh thành Nhà máy Thủy điện Hòa Bình - công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á từ năm 1994 đến năm 2012 (bị phá vỡ kỷ lục vào năm 2012 bởi Nhà máy Thủy điện Sơn La).

NĂM 1995

Ngày 05/01

Chính phủ ra Nghị định số 02/CP quy định về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh thương mại hàng hóa, dịch vụ kinh doanh thương mại điều kiện thị trường trong nước.

Ngày 23/01

Chính phủ ban hành Nghị định số 10/CP về tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của Quản thị trường.

Ngày 17/4

Khí đồng hành thu gom từ mỏ Bạch Hổ đã được vận chuyển vào bờ, đưa đến trạm phân phối khí Rịa cung cấp khí cho Nhà máy Điện Rịa. Đây công trình đầu tiên Việt Nam được thực hiện theo thông lệ quốc tế.

Ngày 29/4

Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 253/TTg thành lập Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam.

Ngày 29/5

Thành lập Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, trên sở tổ chức, sắp xếp lại Tổng Công ty Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam.

Ngày 11/7

Tổng thống Mỹ Bill Clinton Thủ tướng Việt Nam Văn Kiệt thông báo quyết định bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước.

Ngày 17/7

Việt Nam Hiệp định khung về hợp tác với Liên minh châu Âu (EU).

Ngày 21/10

Thành lập Bộ Công nghiệp trên sở hợp nhất 3 bộ: Công nghiệp nặng, Năng lượng, Công nghiệp nhẹ (Bộ trưởng: Đặng Chư).

NĂM 1996

Năm 1996

Việt Nam thực hiện CEPT/AFTA (sau này ATIGA).

Ngày 09/02

Khai trương Saigon Co.op Cống Quỳnh, siêu thị đầu tiên của doanh nghiệp trong nước thời kỳ đổi mới.

Ngày 20/3

Quốc hội ban hành Luật khoáng sản.

Tháng 4

Phát lệnh khởi công xây dựng nhà máy đầu tiên của Trung tâm Điện lực Phú Mỹ. Đây trung tâm nhiệt điện khí lớn nhất khu vực phía Nam tổng công suất lên đến 3.859 MW.

Ngày 06/5

Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 27/CP phê chuẩn Điều lệ tổ chức hoạt động của Tổng Công ty Than Việt Nam.

Ngày 28/6 - 01/7

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng xác định: “Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa biến đổi nước ta thành một nước công nghiệp sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất”15.

Ngày 18/11

Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 01-NQ/TW về mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 5 năm 1996 - 2000.

NĂM 1997

Tháng 5

- Kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa IX (từ ngày 02/4 đến ngày 10/5) thông qua Luật thương mại.

- Việt - Mỹ trao đổi Đại sứ: ông Văn Bàng trở thành Đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Mỹ ông Douglas Peterson trở thành Đại sứ Mỹ đầu tiên tại Việt Nam.

Ngày 04/10

Nhà máy Sản xuất khí hóa lỏng (LPG) Dinh Cố đầu tiên của Việt Nam được khởi công xây dựng.

NĂM 1998

Ngày 10/02

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 31/1998/QĐ-TTg về việc thành lập Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế giúp Thủ tướng trong việc chỉ đạo điều phối hoạt động của các bộ, ngành địa phương tham gia các hoạt động kinh tế - thương mại trong ASEAN, gia nhập tham gia APEC, Diễn đàn Hợp tác Á - Âu, chỉ đạo đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Ngày 11/3

Tổng thống Mỹ Bill Clinton quyết định bãi bỏ áp dụng điều khoản Jackson-Vanik đối với Việt Nam.

Ngày 12/3

Chính phủ ra Nghị định số 15/1998/NĐ-CP, ban hành Danh mục hàng hóa của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN cho năm 1998.

Ngày 31/3

Chính phủ ban hành Nghị định số 20/1998/NĐ-CP về phát triển thương mại miền núi, hải đảo vùng đồng bào dân tộc.

Ngày 21/4 - 20/5

Kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa X đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

Ngày 08/7

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 116/1998/QĐ-TTg về việc thành lập Đoàn đàm phán Chính phủ về kinh tế - thương mại quốc tế, do Thứ trưởng Bộ Thương mại làm Trưởng đoàn.

Ngày 31/7

Chính phủ ban hành Nghị định số 57/1998/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công đại mua bán hàng hóa với nước ngoài.

Ngày 14/11

Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC).

NĂM 1999

Ngày 03/3

Chính phủ ban hành Nghị định số 11/1999/NĐ-CP về hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện; hàng hóa, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh, kinh doanh điều kiện.

Ngày 12/4

Chính phủ ban hành Nghị định số 20/1999/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ giám định hàng hóa.

Ngày 05/5

Chính phủ ban hành Nghị định số 32/1999/NĐ-CP về khuyến mại, quảng cáo thương mại hội chợ, triển lãm thương mại.

Ngày 08/7

Chính phủ ban hành Nghị định số 48/1999/NĐ-CP quy định về văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân của doanh nghiệp du lịch Việt Nam trong nước, nước ngoài.

Ngày 09/7

Nhà máy Xử khí Dinh Cố chính thức vận hành. Đây nhà máy xử khí đầu tiên của Việt Nam ứng dụng, chuyển giao các công nghệ hiện đại trong đầu xây dựng công trình khí.

NĂM 2000

Ngày 09/6

Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dầu khí.

Ngày 06/9

Chính phủ ban hành Nghị định số 45/2000/NĐ-CP quy định về văn phòng đại diện chi nhánh của thương nhân nước ngoài của doanh nghiệp du lịch nước ngoài tại Việt Nam.

Ngày 13/7

kết Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (BTA).

Ngày 27/10

Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg về Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu hàng hóa dịch vụ thời kỳ 2001 - 2010.

NĂM 2001

Ngày 27/3

Khởi công dự án Nhà máy Đạm Phú Mỹ.

Ngày 04/4

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg quản xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2001 - 2005.

Ngày 19 - 22/4

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đưa ra quyết định quan trọng “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”16.

Tháng 6

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa X thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu Dự án Nhà máy Thủy điện Sơn La.

Ngày 02/8

Chính phủ ban hành Nghị định số 44/2001/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/1998/NĐ-CP.

Ngày 27/11

Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế.

NĂM 2002

Ngày 14/3

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 37/2002/QĐ-TTg về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế.

Ngày 27/4

Khánh thành Nhà máy Thủy điện Ialy, công trình thủy điện lớn nhất khu vực miền Trung Tây Nguyên công suất 720 MW.

Ngày 25/5

Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam.

Tháng 12

Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa XI thông qua Nghị quyết về phương án xây dựng Công trình Thủy điện Sơn La.

NĂM 2003

Ngày 10/02

Chính phủ ban hành Nghị định số 08/2003/NĐ-CP về hoạt động của quan đại diện nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam nước ngoài phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế.

Ngày 09/6

Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 112/2003/QĐ-TTg thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình sản phẩm khí trọng điểm, do Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Tấn Dũng làm Trưởng ban.

Ngày 01/10

Bộ Công nghiệp ra Quyết định số 155/2003/QĐ-BCN về việc chuyển Công ty Sữa Việt Nam thành Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (doanh nghiệp trực thuộc Bộ Công nghiệp).

NĂM 2004

Ngày 15/01

Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 92/2004/QĐ-TTg phê duyệt đầu Dự án Thủy điện Sơn La.

Ngày 29/4

Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về việc chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.

Ngày 20/8

Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.

Ngày 15/11

Bộ trưởng Bộ Thương mại ban hành Quyết định số 1681/QĐ-BTM quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cấu tổ chức của Cục Quản thị trường.

Ngày 03/12

- Quốc hội thông qua Luật cạnh tranh.

- Quốc hội thông qua Luật điện lực.

Ngày 15/12

Khánh thành dự án Nhà máy Đạm Phú Mỹ. Lần đầu tiên một công trình trọng điểm nằm trong chương trình khí - điện - đạm của Nhà nước đạt được cả ba mục tiêu: chất lượng, tiến độ hiệu quả.

NĂM 2005

Ngày 10/4

Trung tâm Điện lực Phú Mỹ được khánh thành với 6 nhà máy điện tổng công suất 3.859 MW, lớn gấp 2 lần Thủy điện Hòa Bình.

Ngày 14/6

Quốc hội thông qua Luật thương mại.

Tháng 7

Hiệp định về thương mại hàng hóa ASEAN - Trung Quốc chính thức hiệu lực.

Ngày 17/8

Chính phủ ban hành Nghị định số 105/2005/NĐ-CP quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Điện lực.

Ngày 19/10

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 258/2005/QĐ-TTg thành lập Cục Điều tiết điện lực (ERAV) thuộc Bộ Công nghiệp (nay Bộ Công Thương).

Ngày 03/11

Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế xây dựng thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006 - 2010.

Ngày 02/12

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 314/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án thí điểm thành lập Tập đoàn Dệt May Việt Nam.

Ngày 26/12

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 345/2005/QĐ-TTg về việc thành lập Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam.

Ngày 02/12

Thủy điện Sơn La - công trình thủy điện lớn nhất Việt Nam Đông Nam Á được khởi công xây dựng, với tổng công suất thiết kế 2.400 MW, sản lượng điện trung bình hằng năm 10,2 tỉ kWh.

NĂM 2006

Ngày 26/01

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 26/2006/QĐ-TTg phê duyệt lộ trình, các điều kiện hình thành phát triển các cấp độ thị trường điện lực tại Việt Nam.

Ngày 04/4

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 73/2006/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam theo các vùng lãnh thổ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020.

Ngày 14/4

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 79/2006/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả giai đoạn 2006 - 2015.

Ngày 18 - 25/4

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định: “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức”17; “phải coi kinh tế tri thức yếu tố quan trọng của nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa”18.

Ngày 22/6

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 147/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn Điện lực Việt Nam.

Ngày 29/8

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 199/2006/QĐ-TTg thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.

Ngày 29/11

Quốc hội ra Nghị quyết số 71/2006/NQ-QH11 phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam.

NĂM 2007

Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Hàn Quốc chính thức hiệu lực.

Tháng 01

Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Ngày 05/02

Hội nghị lần thứ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh bền vững khi Việt Nam thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới.

Ngày 27/02

Chính phủ ra Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh bền vững khi Việt Nam thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới.

Ngày 04/4

Từ rừng U Minh hạ, tuốc bin 1 Nhà máy Điện Mau 1 đã hòa lưới điện quốc gia. Nhà máy công suất 230 MW (chạy bằng dầu DO) 250 MW (chạy bằng khí).

Ngày 31/7

Hợp nhất Bộ Công nghiệp Bộ Thương mại thành Bộ Công Thương.

Ngày 20/8

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 136/2007/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình khuyến công quốc gia đến năm 2012.

Ngày 21/11

Quốc hội ban hành Luật hóa chất (Luật số 06/2007/QH12).

Ngày 27/12

Chính phủ ban hành Nghị định số 189/2007/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cấu tổ chức của Bộ Công Thương.

NĂM 2008

kết Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP).

Ngày 13/3

Chính phủ ban hành Nghị định số 27/2008/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 10/CP của Chính phủ về tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của quản thị trường.

Ngày 20/4

Được công nhận “Ngày thương hiệu Việt Nam”.

Ngày 03/6

Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dầu khí.

Ngày 18/7

Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành quy định về biểu giá chi phí tránh được hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho các nhà máy điện nhỏ sử dụng năng lượng tái tạo.

Ngày 26/7

Khởi công Nhà máy Đạm Mau - nằm trong tổ hợp dự án cụm khí - điện - đạm Mau. Nhà máy công suất thiết kế 800.000 tấn urê/năm.

Ngày 02/10

Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 1418/QĐ-TTg lấy ngày 14/5 hằng năm “Ngày truyền thống của ngành Công Thương Việt Nam”.

NĂM 2009

Ngày 22/02

Nhà máy Lọc dầu Dung Quất xuất xưởng mẻ dầu đầu tiên “made in Vietnam”.

Ngày 14/5

Khánh thành Di tích lịch sử Bộ Công Thương tại ATK thuộc thôn Đồng Đon, Minh Thanh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

Ngày 31/7

Bộ Chính trị ra Thông báo Kết luận số 264-TB/TW về tổ chức Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.

Tháng 10

Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) chính thức hiệu lực.

Ngày 12/10

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng Quyết định số 1594/QĐ-TTg lấy ngày 21/12 hằng năm “Ngày truyền thống ngành Điện lực Việt Nam”.

Ngày 15/10

Chính phủ ban hành Nghị định số 84/2009/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu.

Ngày 14/12

Bộ Công Thương ra Thông số 36/2009/TT-BCT ban hành Quy chế đại kinh doanh xăng dầu.

Ngày 23/12

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2180/QĐ-TTg thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (VINACHEM).

Ngày 28/12

Bộ Công Thương ban hành Thông số 39/2009/TT-BCT quy định thực hiện một số nội dung của Quy chế quản cụm công nghiệp.

NĂM 2010

- Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Ấn Độ chính thức hiệu lực.

- Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Ôxtrâylia - Niu Dilân chính thức hiệu lực.

- Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) hiệu lực.

Ngày 25/6

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 975/QĐ-TTg chuyển Công ty mẹ - Tập đoàn Điện lực Việt Nam thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu. Tên gọi sau khi chuyển đổi là: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).

Ngày 17/6

- Quốc hội thông qua Luật an toàn thực phẩm.

- Quốc hội thông qua Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả.

Ngày 07/7

Bộ Công Thương vinh dự đón nhận Giấy Chứng nhận Hệ thống Quản chất lượng TCVN ISO 9001:2008, quan cấp Bộ đầu tiên được cấp chứng chỉ này.

Ngày 17/11

- Quốc hội thông qua Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

- Quốc hội thông qua Luật khoáng sản.

Ngày 17/12

- Nhà máy Thủy điện Sơn La đưa tổ máy số 1 vào hoạt động, phát điện hòa lưới điện quốc gia.

- Chính phủ ban hành Nghị quyết số 59/NQ-CP về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản của Bộ Công Thương.


1. Xem Việt Nam Dân quốc công báo, số 3, ngày 13/10/1945, tr.36.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.27-28.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.564.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.36.

5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.206, 295.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.724

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.23, tr.238.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.299.

10. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.29, tr.575.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.31, tr.14

12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr.147.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.43, tr.71.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.138.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.54, tr.599.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.59, tr.150.

17, 18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.65, tr.145, 147.

KẾT LUẬN

Trong hành trình 65 năm (1945 - 2010), ngành Công Thương đã từng bước xây dựng hai trụ cột cơ bản là công nghiệp và thương mại, tạo ra nền tảng hạ tầng kinh tế - kỹ thuật căn bản cho công cuộc kiến thiết nền kinh tế.

Từ buổi đầu thành lập, ngay trong lòng các cuộc kháng chiến, qua mưa bom bão đạn, các hoạt động công nghiệp, thương mại đã gây dựng nên những cơ sở ban đầu cho công nghiệp hóa, thúc đẩy các ngành kinh tế quốc dân phát triển, đáp ứng nhu cầu đời sống nhân dân, góp phần giải quyết hậu cần tại chỗ, tạo điều kiện cho cuộc kháng chiến đi tới thắng lợi cuối cùng.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chính phủ đã xây dựng Nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo tại Chiêm Hóa (Tuyên Quang) - cái nôi của ngành Cơ khí Việt Nam; bắt tay hình thành ngành Công nghiệp khai khoáng với các hoạt động ở các mỏ than Làng Cẩm, Quán Triều, Khe Bố, Phấn Mễ, Minh Khai, Đầm Đùn; các mỏ thiếc, mỏ chì - kẽm, mỏ apatít; sản xuất thành công nhiều loại hóa chất cơ bản, thiết yếu...

Với chính sách thương mại mềm dẻo, linh hoạt “nắm hàng chính, nắm thị trường chính, nắm bán buôn là chính”, thương nghiệp quốc doanh đã tận dụng mạng lưới thương nhân để điều hòa giá cả trên thị trường. Cán bộ mậu dịch sinh hoạt thường kỳ để cung cấp các thông tin quân sự, kinh tế, chính trị mới, nhằm định hướng, hỗ trợ hoạt động kinh doanh của thương nhân, nên đã thúc đẩy sản xuất, đảm bảo cung cấp hàng hóa cần thiết cho công cuộc kháng chiến, đời sống nhân dân, cũng như bình ổn giá cả, chống đầu cơ, lũng đoạn thị trường.

Bên cạnh đó, Bộ Kinh tế đã mở lớp đào tạo, đặt nền móng cho xây dựng một đội ngũ quản lý ngành. Năm 1948, đã mở hai khóa đào tạo cán bộ quản lý kinh tế. Các học viên tốt nghiệp được bổ sung về Bộ Kinh tế hoặc về các địa phương. Có thể xem hai khóa học này là nơi tạo nguồn cán bộ khung quý báu cho hoạt động quản lý kinh tế của Chính phủ. Nhiều học viên sau này đã có những đóng góp lớn, giữ chức vụ quan trọng trong các cơ quan quản lý kinh tế của Nhà nước tại Trung ương và địa phương.

Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, hoạt động công nghiệp, thương mại tuy gặp nhiều khó khăn do bị đánh phá ác liệt, nhưng ở miền Bắc đã hình thành hàng loạt cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại như cơ khí, chế biến nông sản, dệt may, chế biến gỗ, sản xuất giấy, hệ thống hợp tác xã mua bán... nhờ đó đã tự túc được một phần đáng kể các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, cung cấp lượng lớn nông cụ, các loại vũ khí thô sơ cho quân đội.

Không chỉ xây dựng hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, hàng vạn công nhân viên ngành Công Thương còn trực tiếp tham gia vào công cuộc giải phóng đất nước.

Trong những năm tháng leo thang ác liệt nhất trên bầu trời miền Bắc, không quân Mỹ ném bom vào các thành phố lớn, các trung tâm công nghiệp và thương mại thì cán bộ, công nhân viên ngành Công Thương phân tán về các địa phương, lấy đơn vị tỉnh làm địa bàn xây dựng công nghiệp, thương mại. Địch nhằm vào các ngành công nghiệp nền tảng làm mục tiêu đánh phá ác liệt, thì cán bộ, công nhân ngành Điện, ngành Than, Xăng dầu, Luyện kim... nêu cao khẩu hiệu “giữ vững dòng điện như mạch máu”, “quý xăng như máu”, “chắc tay búa, vững tay súng”... Khắp các địa phương, xí nghiệp, nhà máy công trường dấy lên phong trào “tay búa, tay súng”, “toàn dân chi viện chiến trường”, “vì miền Nam ruột thịt”, “tất cả vì sự sống của con đường”, “một cân hàng Chính phủ là một cân vàng vào Nam”, “đầu đội tọa độ, chân đạp thủy lôi, không phút nghỉ ngơi, đưa hàng ra phía trước”... Hàng vạn cán bộ, công nhân viên ngành trực tiếp tham gia vào chiến trường miền Nam; riêng ngành Than có gần 2.000 thợ mỏ tập hợp thành Binh đoàn Than. Trong những năm tháng chiến tranh, nhiều cán bộ, công nhân, người lao động ngành Công Thương đã anh dũng hy sinh. Tiêu biểu là Đội trưởng Đội bảo vệ Trương Xuân Lợi, Đội phó Đội bảo vệ Lê Xuân Ba của Tổng kho Xăng dầu Đức Giang; liệt sĩ Mạc Văn Cầu, liệt sĩ Nguyễn Văn Mậu của Tổng kho Xăng dầu Thượng Lý; Đại đội trưởng tự vệ, Anh hùng Lực lượng vũ trang, liệt sĩ Đặng Bá Hát của Than Hòn Gai; Chi cục Vận tải khu IV có 26 cán bộ, công nhân viên hy sinh trong khi chuyển hàng nội thương vào Nam...

Công Thương cũng là ngành đi đầu trong khôi phục hoạt động sản xuất - kinh doanh sau chiến tranh. Năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”, với phương châm tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, dựa vào sức mình là chính, ngành Công Thương đã di chuyển nhiều cơ sở công nghiệp kháng chiến về địa điểm mới; tiếp quản, khôi phục và mở rộng một số cơ sở công nghiệp cũ; xây dựng nhiều nhà máy mới, mà những cái tên còn vang vọng đến giờ: Khu Công nghiệp Thượng Đình, Nhà máy Cơ khí Hà Nội, Nhà máy Dệt Nam Định, Mỏ than Hòn Gai, Mỏ thiếc Tĩnh Túc, Nhà máy Ximăng Hải Phòng, Xí nghiệp Sửa chữa xe lửa Gia Lâm, Nhà máy Diêm Thống nhất... Từ đó, bước đầu hình thành nền công nghiệp hiện đại với cơ cấu khá hoàn chỉnh, bao gồm các ngành công nghiệp chế tạo tư liệu và sản xuất hàng tiêu dùng.

Năm 1973, khi đế quốc Mỹ chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, các cơ sở sản xuất điện, than, gang thép, chế tạo máy công cụ, phân bón, hóa chất, cao su, công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm... nhanh chóng được khôi phục và mở rộng, tiếp tục duy trì và phát triển nguồn lực của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa cho công cuộc thống nhất đất nước. Sau năm 1975, nhiệm vụ quan trọng nhất là hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục sản xuất, xây dựng đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngành Công Thương đã tham mưu cho Đảng và Nhà nước xác định những công trình trọng điểm nhằm hình thành một nền công nghiệp tự chủ, với cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường, cơ cấu công nghiệp hoàn chỉnh hơn. Điển hình là xúc tiến việc tìm kiếm và khai thác dầu mỏ trên lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam, tiến tới hình thành một nền công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh, bao gồm cả thăm dò, khai thác, vận chuyển, lọc dầu, hóa dầu, cơ khí phục vụ ngành Dầu khí; xây hệ thống điện 110 kV đầu tiên ở miền Bắc, xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại, xây dựng Tổng sơ đồ phát triển điện năng giai đoạn 1; khôi phục và mở rộng Nhà máy Cơ khí Hà Nội, Nhà máy Phân Đạm Hà Bắc, Supe Phốtphát Lâm Thao, thành lập Nhà máy Luyện cán thép Gia Sàng, Nhà máy Cán thép Lưu Xá; khôi phục và mở rộng các nhà máy điện, ximăng, dệt may, da giày, hóa chất, chất tẩy rửa, chế biến thực phẩm... ở các tỉnh phía Nam.

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, ngành Công Thương kịp thời điều chỉnh cơ cấu, hướng tới xây dựng một nền công nghiệp, thương mại, kinh tế đối ngoại độc lập, tự chủ; tập trung thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách Nhà nước về quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào thị trường trong nước và quốc tế; tham mưu và tổ chức xây dựng nhiều văn bản pháp luật, các chương trình, kế hoạch phát triển công nghiệp, thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế. Các quy hoạch, chiến lược không chỉ tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng dài hạn, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mà còn làm thay đổi căn bản công tác quản lý nhà nước về công nghiệp, thương mại theo hướng chuyển mạnh sang chức năng thúc đẩy, phục vụ phát triển là chính, hạn chế tối đa sử dụng các biện pháp hành chính vào sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, giảm dần các đầu mối quản lý ngành.

Trên chặng đường dài từ một nước xuất phát điểm thấp, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia có nền công nghiệp thuộc vào nhóm các quốc gia có năng lực cạnh tranh toàn cầu ở mức trung bình cao, có nền thương mại phát triển, đủ sức hỗ trợ nền sản xuất trong nước từng bước tham gia ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Trong hành trình bền bỉ ấy, bên cạnh những dấu ấn, thành tựu nổi bật, cũng có những sai lầm, vấp váp, nhưng thành công hay thất bại, cũng để lại cho ngành Công Thương và nền kinh tế những bài học kinh nghiệm quý báu.

Thứ nhất, nắm vững chủ trương, vận dụng sáng tạo đường lối cách mạng của Đảng qua từng thời kỳ vào phát triển của ngành và nền kinh tế.

Một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 03/9/1945, tại Bắc Bộ phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ. Người nêu ra 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó nhiệm vụ đầu tiên là “... nhân dân đang đói... Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống”1. Từ chủ trương “phải làm thế nào cho họ sống”, chỉ 2 ngày sau, ngành Công Thương đã cụ thể hóa thành “Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời số 7, ngày 05/9/1945”. Sắc lệnh số 7 cho phép việc buôn bán và chuyên chở thóc gạo trong toàn hạt Bắc Bộ Việt Nam được hoàn toàn tự do. Những ai tích trữ thóc gạo, mưu sự đầu cơ, nếu phương hại đến nền kinh tế, sẽ bị nghiêm phạt theo quân luật. Hơn 1 tháng sau, cũng theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc dân Kinh tế, ngày 09/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh cấm xuất khẩu thóc, gạo, ngô, đỗ, các chế phẩm thuộc về ngũ cốc. Tiếp đó, ngày 15/11/1945, Bộ Quốc dân Kinh tế ban hành Nghị định số 41-BKT khuyến khích tận dụng đất đai, trồng màu cứu đói; tổ chức sản xuất nông cụ cho phát triển nông nghiệp; phối hợp với Bộ Canh nông dùng nguồn đất công cộng tăng gia sản xuất.

Từ năm 1945, đất nước trải qua nhiều biến động; quá trình phát triển của ngành Công Thương cũng biến động theo chu kỳ, có thể thấy nhiều điểm tương đồng của các chu kỳ này - tất nhiên có sự thay đổi về cấp độ theo tính chất, yêu cầu của từng giai đoạn cụ thể.

Đó là cách tổ chức kinh tế thời chiến 1946 - 1954 và 1965 - 1975, là cuộc cải tạo công thương nghiệp 1958 - 1960 và 1975 - 1980, hay các thời kỳ khôi phục kinh tế 1955 - 1957, 1973 - 1975 và 1975 - 1985. Cùng điều kiện chiến tranh, cùng thực hiện chủ trương đảm bảo cho nhu cầu kháng chiến, giai đoạn 1946 - 1954 thương nghiệp quốc doanh hợp tác với thương nhân như cánh tay nối dài của mình, mở các tuyến đi vào vùng địch, cấp giấy phép cho họ ra vào vùng tạm chiếm để bán nông lâm sản, mua những mặt hàng dùng cho quân đội như thuốc tây, các hóa chất, thuốc nổ, nguyên liệu quốc phòng...; giai đoạn 1965 - 1975, mậu dịch quốc doanh sử dụng hợp tác xã như cánh tay nối dài, chuyển các hoạt động ở những điểm cố định sang hoạt động lưu động, bám sát các tuyến đường giao thông mới mở phục vụ quân đội, các cơ sở sản xuất từ thành thị về di tản, các nơi có dân cư sơ tán để phục vụ. Xã viên hợp tác xã mua bán là những chiến sĩ vận chuyển, áp tải hàng hóa đi qua các trọng điểm đánh phá ác liệt, và cũng là người đưa hàng hóa tới tận các chiến hào, mâm pháo cho bộ đội, dân quân. Nhiều xã viên đã anh dũng hy sinh khi đang trên đường làm nhiệm vụ.

Tương tự, cùng chủ trương khuyến khích tiểu thủ công nghiệp phục vụ kháng chiến, giai đoạn 1946 - 1954, các hoạt động thường là hỗ trợ về vốn, cử cán bộ đi trực tiếp gặp các cơ sở sản xuất để phổ biến các kỹ thuật sản xuất mới; giai đoạn 1965 - 1975 tiểu thủ công nghiệp nhận được sự hỗ trợ ở mức cao hơn, bài bản hơn: hỗ trợ vốn lưu động dưới dạng cung cấp nguyên vật liệu, mậu dịch quốc doanh đặt hàng, cung cấp nguyên vật liệu, bao tiêu sản phẩm; bảo đảm nguồn điện, nâng cao năng lực chế tạo, sửa chữa sản xuất cơ khí, xây các trạm thủy điện nhỏ, trang bị máy hơi nước, hướng dẫn kỹ thuật, đào tạo, cung cấp cán bộ, hướng dẫn làm kế hoạch, giúp đỡ kinh nghiệm quản lý...

Thời kỳ đổi mới đòi hỏi các cấp, các ngành phải nhanh chóng thể chế hóa chủ trương chuyển từ sản xuất theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa sang mô hình kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, phát triển kinh tế nhiều thành phần. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991), lần đầu tiên xuất hiện cụm từ “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”2; vận dụng sáng tạo chủ trương được xác định tại Đại hội VI, coi “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”3, trong những năm cuối thập kỷ 1980 các bộ quản lý ngành Công Thương đã tham mưu, biên soạn trình Chính phủ nhiều văn bản pháp quy hiện thực hóa chủ trương này. Cụ thể:

- Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng giao quyền tự chủ cho các xí nghiệp quốc doanh, xóa bỏ hệ thống chỉ tiêu hướng dẫn. Xí nghiệp quốc doanh chỉ thực hiện nhiệm vụ sản xuất những sản phẩm với số lượng tương ứng với phần vật tư mà Nhà nước cung ứng, ngoài ra, sản xuất cái gì, bán cho các thành phần kinh tế khác hoàn toàn thuộc quyền quyết định của xí nghiệp.

- Quyết định số 231/HĐBT ngày 31/12/1987 của Hội đồng Bộ trưởng cho phép tổ chức kinh doanh vật tư bán vật tư theo giá thỏa thuận đối với những loại vật tư ngoài danh mục Nhà nước định giá. Đặc biệt, các tổ chức kinh doanh vật tư được trực tiếp quan hệ với các tổ chức và tư nhân trong và ngoài nước trong phạm vi nhiệm vụ được Nhà nước giao để liên doanh, liên kết chủ động tạo thêm nguồn vật tư, vay và sử dụng ngoại tệ, ký hợp đồng mua, bán vật tư, đại lý mua, bán vật tư.

- Quyết định số 193/HĐBT ngày 23/12/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về kinh doanh thương mại và dịch vụ ở thị trường trong nước; trong đó, Nhà nước bảo hộ các hoạt động kinh doanh hợp pháp của các tổ chức, cá nhân; mọi hàng hóa đều được tự do lưu thông, trừ những mặt hàng cấm và những mặt hàng đòi hỏi phải tuân thủ những điều kiện nhất định mới được phép kinh doanh.

- Nghị định số 64/HĐBT ngày 10/6/1989 khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất hàng xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu. Bên cạnh các tổ chức kinh doanh xuất, nhập khẩu chuyên nghiệp của Nhà nước, các cơ sở sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu thuộc thành phần kinh tế tập thể, công tư hợp doanh, tư doanh và cá thể được tùy ý lựa chọn tổ chức xuất, nhập khẩu quốc doanh để ủy thác bán hàng xuất khẩu theo giá cả thỏa thuận.

Mặc dù ra đời trong bối cảnh vẫn còn những băn khoăn, e ngại nền kinh tế nhiều thành phần có dẫn đến hạn chế vai trò của xí nghiệp quốc doanh, mâu thuẫn với mô hình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, song các văn bản nói trên được triển khai trong thực tiễn đã tạo hành lang pháp lý cho các tổ chức kinh tế quốc doanh chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, hoạt động ổn định, giữ vững vai trò chủ đạo trên thị trường có sự tham gia của các thành phần kinh tế.

Thực tiễn triển khai các văn bản nói trên cũng góp phần vào kho tàng lý luận về kinh tế tư nhân, quyền sở hữu tư liệu trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, và là một trong những nhân tố thúc đẩy hai đạo luật: Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Từ đó, xác định lại phạm vi hoạt động của doanh nghiệp nhà nước với Quyết định số 90/TTg, 91/TTg trong cùng ngày 07/3/1994. Quyết định số 90/TTg quy định rõ ba điều kiện thành lập mới doanh nghiệp nhà nước. Thứ nhất, chỉ thành lập mới những doanh nghiệp nhà nước trong những ngành then chốt, những lĩnh vực mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, những lĩnh vực có nhu cầu của thị trường nhưng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa có điều kiện đầu tư phát triển. Thứ hai, không thành lập thêm những doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều năng lực kinh doanh cùng ngành đang hoạt động cùng một địa bàn (kể cả năng lực ngoài quốc doanh). Thứ ba, kể từ tháng 3/1994, tất cả các doanh nghiệp nhà nước thành lập mới phải có mức vốn pháp định ít nhất bằng 5 lần mức vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn cùng ngành nghề.

Với cách tiếp cận cởi mở của Quyết định số 217/HĐBT, Quyết định số 231/HĐBT, Quyết định số 193/HĐBT, Nghị định số 64/HĐBT ta có thể thấy, tình hình công nghiệp và thương mại có chu kỳ vận động mới với hình thức cao hơn. Trong những năm đầu đổi mới, ngành Công Thương có những tham mưu, đề xuất táo bạo, quyết đoán, một phần do tích lũy được những kinh nghiệm quý báu trong suốt chặng đường phát triển của mình. Trước đó 3 - 4 thập kỷ, theo đề nghị của các bộ quản lý ngành Công Thương, năm 1947, đã có Sắc lệnh số 29B/SL cho phép tư nhân được xuất, nhập khẩu mọi hàng hóa, trừ những mặt hàng cấm và mặt hàng do Chính phủ trực tiếp đảm nhận xuất, nhập khẩu; năm 1948 có Sắc lệnh số 104/SL quy định hoạt động của doanh nghiệp quốc gia (nay gọi là doanh nghiệp nhà nước) theo nguyên tắc tự lập, không sử dụng ngân sách nhà nước; năm 1950 có Sắc lệnh số 06/SL cho phép thành lập các công ty công tư hợp doanh, trong đó Chính phủ hợp vốn với tư nhân để kinh doanh; năm 1951 có Sắc lệnh số 49/SL quy định nguyên tắc “nội thương được tự do”; năm 1956 có Nghị định số 708/TTg ban hành Điều lệ tạm thời về các xí nghiệp tư nhân, trong đó nêu nguyên tắc: Tài sản của xí nghiệp được pháp luật bảo hộ. Quyền quản lý kinh doanh thuộc người bỏ vốn. Về các vấn đề có quan hệ đến quyền lợi giữa chủ xí nghiệp và người làm công, hai bên thương lượng mà giải quyết theo luật...

Đất nước mở cửa hội nhập, kinh tế nhiều thành phần phát triển, thị trường tiêu thụ ngày càng phong phú với những quan hệ cung - cầu trong nước, song phương, đa phương phức tạp, nhu cầu bảo vệ các chủ thể trong nền kinh tế thị trường được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Nhà nước có chính sách bảo hộ quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng”. Đảng cũng nhấn mạnh: “Hạn chế độc quyền kinh doanh, không để lợi dụng địa vị độc quyền để duy trì đặc quyền, đặc lợi, lũng đoạn thị trường”4; “Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh”5; “Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường dịch vụ”6.

Thể chế hóa các chủ trương, đường lối này, Luật cạnh tranh năm 2004 được ban hành kịp thời điều chỉnh những hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Luật cạnh tranh năm 2004 là một công cụ bảo đảm nhu cầu kiểm soát độc quyền, đặc biệt là khi mở cửa thị trường để hội nhập kinh tế quốc tế; trong đó, các công cụ chính yếu là ngăn chặn các thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; thỏa thuận hạn chế, kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hóa, dịch vụ; hoặc các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, tập trung kinh tế. Thông qua đó, bảo vệ quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. Đồng thời, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 và Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 - bước ngoặt lớn đối với hệ thống pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam với những ràng buộc về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong việc thực hiện hợp đồng theo mẫu, bảo hành hàng hóa, linh kiện, phụ kiện, thu hồi hàng hóa khuyết tật, bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra, và nhất là trách nhiệm bảo mật thông tin của người tiêu dùng.

Sự vận dụng sáng tạo đường lối cách mạng của Đảng qua từng thời kỳ vào phát triển của ngành và nền kinh tế còn được ngành Công Thương thể hiện ở việc tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành các chính sách trong đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh lương thực quốc gia; thành lập các tập đoàn, tổng công ty trong lĩnh vực phụ trách nhằm thúc đẩy tích tụ và tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh, cũng như thực hiện chủ trương xóa bỏ dần chế độ bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản...

Thứ hai, nắm chắc và quyết tâm thực hiện nhiệm vụ chính của ngành là xây dựng hạ tầng cơ sở vật chất - kỹ thuật đồng bộ cho nền kinh tế, làm nền tảng cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong buổi đầu xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, ngành Công Thương được Chủ tịch Hồ Chí Minh tín nhiệm trao cho: “Bộ Kinh tế phải có quyền hạn rộng rãi, thống nhất mạnh mẽ mới có thể điều khiển được một cách có hiệu quả việc chấn hưng kinh tế của quốc gia”7.

Trong bối cảnh Chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp lan vào toàn cõi Đông Dương, hoạt động công nghiệp và thương mại nước ta sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 gần như tê liệt; hàng loạt cơ sở công nghiệp vốn do quân đội Nhật chiếm đóng trước đó đã bị lực lượng Đồng minh không kích; lưu thông hàng hóa nội địa ách tắc, xuất khẩu và nhập khẩu đình đốn khi các tuyến đường sắt, đường bộ, các cảng Hải Phòng, Sài Gòn bị phá hủy nghiêm trọng, ngành Công Thương bắt tay vào kiến thiết hạ tầng kinh tế từ đống tro tàn. Theo đề nghị của Bộ Quốc dân Kinh tế, Chính phủ ban hành các sắc lệnh hủy bỏ những đạo luật và nghị định của Toàn quyền Pháp giữ độc quyền tìm kiếm và khai thác mỏ ở các khu vực trên đất Việt Nam, giành lại quyền tìm mỏ cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; mở lại hàng loạt mỏ than và mỏ kim loại, khuyến khích các doanh nghiệp người Việt Nam tham gia hoạt động khai khoáng; đốc thúc sửa chữa, khôi phục hoạt động một số nhà máy lớn như Nhà máy Cơ khí Trường Thi (thành phố Vinh), Nhà máy Giấy Đáp Cầu (Bắc Ninh).

Những cơ sở công nghiệp đầu tiên này sau một năm hoạt động đã tạo nên cuộc di chuyển hào hùng cuối năm 1946 lên chiến khu Việt Bắc với hàng vạn tấn máy móc, nguyên vật liệu, cùng hàng vạn cán bộ, công nhân. Trong khói lửa 9 năm trường kỳ kháng chiến, Việt Bắc trở thành cái nôi của nhiều ngành công nghiệp. Thời gian này có khá nhiều điều thú vị, như Nha Khoáng chất và Kỹ nghệ Việt Nam thuộc Bộ Kinh tế quốc gia được giao phụ trách cả lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, chịu trách nhiệm tổ chức sản xuất vũ khí. Đến năm 1949, cả nước có khoảng 130 xưởng sản xuất vũ khí, 21 cơ sở quân dược, 20 cơ sở sản xuất quân nhu và hàng chục xí nghiệp sản xuất xà phòng, giấy, vải sợi,... Sản xuất được một số loại vũ khí lớn như SKZ, ống phun bom, súng cối 60 mm và 120 mm,... Các ngành tiểu thủ công nghiệp cũng phát triển mạnh, đã tự túc được một phần thuốc men, vải mặc và dụng cụ sản xuất cho nhân dân.

Một điều thú vị khác, với sự vận động của Bộ Kinh tế quốc gia, những người dân làng Bưởi (Hà Nội) di cư ra các vùng kháng chiến được tập hợp lại trong các xưởng sản xuất giấy, họ cũng là lứa công nhân nòng cốt ngành Giấy - một nhu cầu thiết yếu trong sản xuất, đời sống và kháng chiến, phục vụ cho học sinh, các cơ quan Chính phủ và dùng trong in tiền.

Từ những cơ sở công nghiệp nhỏ bé, từ những chi điếm mậu dịch, chi điếm ngoại thương trên chiến khu Việt Bắc, từ những xưởng cơ khí, dệt may ở bưng biền Đồng Tháp, Chiến khu R huyền thoại Tây Ninh, nền kinh tế đã từng bước hình thành nhiều ngành công nghiệp chủ lực: Điện lực, khai khoáng, chế biến dầu khí, luyện kim, hóa chất, cơ khí chế tạo, ôtô, xe máy, dệt may, da giày, chế biến nông sản... với những công trình trọng điểm có ý nghĩa chiến lược cho phát triển nền kinh tế nhiều năm sau đó, như: Đường dây 500 kV mạch 1, Nhà máy Thủy điện Sơn La, Supe Phốtphát Lâm Thao, Giấy Bãi Bằng, Ximăng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, Hà Tiên, Apatít Lào Cai, Khí - Điện - Đạm Cà Mau, Lọc dầu Dung Quất... Cơ cấu công nghiệp phát triển hoàn chỉnh hơn, những cơ sở của các ngành công nghiệp nặng quan trọng liên tục mở rộng về số lượng và phát triển về quy mô, đồng thời năng lực một số ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm được phát huy mạnh mẽ.

Sự vững mạnh của hạ tầng kinh tế - kỹ thuật đồng bộ không chỉ giúp nền kinh tế từng bước hướng đến một nền sản xuất lớn, hiện đại, tương đối độc lập, tự chủ trong bối cảnh chiến tranh và hòa bình đan xen nhau trong suốt những năm 1946 - 1975, xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn, chi viện đắc lực cho chiến trường miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước, mà còn là điều kiện thuận lợi trong chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với sự tham gia của các thành phần kinh tế; cũng như đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu công nghiệp gắn với đổi mới căn bản công nghệ; và hấp dẫn, thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, theo các nghị quyết Đại hội Đảng, ngành Công Thương nhanh chóng xây dựng các chính sách nhằm tăng cường tiềm lực cơ sở vật chất - kỹ thuật đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bao gồm: kết cấu hạ tầng kinh tế, công nghiệp sản xuất, công nghiệp công nghệ cao, nền nông nghiệp hàng hóa lớn. Trải dài trên mảnh đất hình chữ S, hàng vạn công trình của các khu công nghiệp, khu công nghệ cao được xây dựng lên. Ánh sáng và tiếng máy giòn giã suốt ngày đêm không ngừng nghỉ của Thủy điện Hòa Bình, Thủy điện Sơn La, Đường ống khí Nam Côn Sơn, Liên doanh Việt - Nga Vietsovpetro, Nhà máy Cơ khí Hà Nội, Cao su Đà Nẵng, Hóa chất cơ bản miền Nam, Supe Phốtphát Lâm Thao... đang dần dần hiện thực hóa ước nguyện xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cũng là giấc mơ, khát vọng của các thế hệ người Việt Nam.

Sức vươn lên nhanh chóng của hạ tầng thương mại đã mở ra cho dòng chảy lưu thông hàng hóa. Ngay cả trong thời kỳ chiến tranh phá hoại trên bầu trời miền Bắc vẫn không ngăn chặn nổi nguồn chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam, nhờ thương nghiệp quốc doanh khéo léo chuyển các hoạt động giao dịch thương mại từ những điểm cố định sang hoạt động lưu động, bám sát những nơi có nhu cầu mới phát sinh để phục vụ, các điểm bán lẻ mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán không ngừng mở rộng. Hay trong những năm khôi phục đất nước sau chiến tranh (1975 - 1985), những khó khăn dồn dập cùng lúc làm cho nền kinh tế mất cân đối cung cầu nghiêm trọng, ngân sách nhà nước bội chi tiền mặt, lạm phát tăng cao, nhưng các ngành Nội thương, Ngoại thương, Vật tư vẫn nỗ lực tập trung cao độ nguồn hàng phục vụ cho sản xuất và đời sống. Ngành đã tham mưu cho Đảng, Chính phủ ban hành nhiều chính sách hay, cách làm tốt nhằm tăng tỷ trọng thu mua trong tổng sản lượng hàng hóa, kích thích sản xuất và xuất khẩu, thu hẹp cán cân thương mại. Kinh nghiệm phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh qua hai cuộc kháng chiến đã giúp ngành nhanh chóng bắt nhịp cùng sự nghiệp đổi mới, hệ thống bán buôn, bán lẻ với nhiều hình thức đa dạng bao phủ rộng khắp, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến biên giới, hải đảo; đến 224 quốc gia và vùng lãnh thổ mà Việt Nam có quan hệ kinh tế - thương mại. Tăng trưởng bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ liên tục trên dưới 10% mỗi năm. Mặc dù từ năm 1996 có sự chuyển dịch hạ tầng thương mại từ truyền thống sang hiện đại, các siêu thị và trung tâm thương mại có mặt ở khắp 6 vùng kinh tế trong cả nước, nhưng tỷ trọng hàng Việt Nam chi phối trên tất cả các kênh phân phối. Đồng thời, phát triển được các thương hiệu phân phối trong nước đủ khả năng để cạnh tranh với các thương hiệu nước ngoài.

Hoạt động ngoại thương có sự phát triển vượt bậc. Trong 25 năm đổi mới, tăng trưởng xuất khẩu bình quân năm đạt mức 2 con số: 5 năm 1986 - 1990 tăng bình quân 28%/năm; 5 năm 1991 - 1995 tăng bình quân 17,8%/năm; 5 năm 1996 - 2000 tăng bình quân 22,4%/năm; 5 năm 2001 - 2005 tăng bình quân 17,9%/năm và 5 năm 2006 – 2010 tăng bình quân 18,2%/năm. Xuất khẩu bình quân đầu người năm 2010 đạt trên 830 USD, gấp 65,3 lần năm 1986 (12,6 USD).

Thứ ba, bảo đảm hiệu quả, hiệu lực của quản lý nhà nước.

Trong từng giai đoạn lịch sử, các bộ quản lý ngành Công Thương luôn bám sát nhiệm vụ được giao, chủ động đề xuất với Chính phủ về cơ cấu tổ chức, bộ máy, chức năng của mình để đảm bảo thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước một cách hữu hiệu nhất. Những năm đầu thành lập có hàng loạt sắc lệnh của Chính phủ về thành lập mới, điều chỉnh nhiệm vụ của các đơn vị thuộc ngành Công Thương. Những sắc lệnh thành lập mới, bổ sung nhiệm vụ đã giúp ngành Công Thương quản lý tốt hơn hoạt động kinh tế theo hướng xây dựng nền kinh tế tự cung, tự cấp của ta, phá hoại kinh tế của địch, đánh bại chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của thực dân Pháp. Điển hình là việc chuyển chế độ hoạt động hành chính của Nha Tiếp tế sang chế độ “doanh nghiệp quốc gia” của Cục Tiếp tế vận tải giúp Cục chủ động, linh hoạt hơn trong thu mua theo giá thị trường 3 mặt hàng gạo, muối và vải cho bộ đội và cơ quan Chính phủ. Cục cũng được chủ động hơn trong phối hợp với tư thương mua hàng từ vùng bị tạm chiếm của Pháp; thậm chí tư thương còn móc nối mua hàng từ Thái Lan, Hồng Kông (Trung Quốc) những mặt hàng phục vụ kháng chiến cho Cục như các loại hóa chất phục vụ công nghiệp quốc phòng, in ấn, y tế, máy móc cho thông tin liên lạc...

Trong những năm thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch hóa, các bộ quản lý ngành vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước vừa thực hiện nhiệm vụ bộ chủ quản thì hoạt động quản lý nhà nước không thực sự hoàn toàn chủ động, mà chủ yếu tham gia với tư cách là một hợp phần trong tổng thể kế hoạch hằng năm và kế hoạch 5 năm của toàn nền kinh tế do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước chịu trách nhiệm chính. Hoạt động quản lý nhà nước mang dấu ấn nhất của ngành là xác định những công trình trọng điểm thuộc lĩnh vực phụ trách, xây dựng và kiện toàn các chỉ tiêu định mức kinh tế - kỹ thuật; phân bổ kế hoạch và doanh số bán lẻ cho các hệ thống thương nghiệp; nghiên cứu tình hình thị trường ngoài nước, các chính sách kinh tế, chính sách mậu dịch, biện pháp ngoại thương; thực hiện các kế hoạch dự trữ vật tư...

Trong thời kỳ đổi mới, sau khi bỏ chế độ bộ chủ quản, ngành Công Thương có điều kiện tập trung vào các chức năng chính của quản lý nhà nước, gồm trình Chính phủ các dự án văn bản quy phạm pháp luật; trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển tổng thể; chiến lược, quy hoạch ngành và lĩnh vực; quy hoạch vùng, lãnh thổ, các chương trình phát triển, chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình kinh tế - kỹ thuật, các dự án quan trọng; phê duyệt chiến lược, quy hoạch, các chương trình phát triển các ngành và lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý; xây dựng tiêu chuẩn, ban hành quy trình, quy chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý; quản lý hoạt động của các văn phòng, chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam, tổng hợp tình hình, kế hoạch xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông hàng hóa và dịch vụ - thương mại trong phạm vi cả nước...

Thực tiễn quản lý nhà nước ngành Công Thương qua hai cuộc kháng chiến cho tới thời kỳ đổi mới cho thấy, công tác quản lý nhà nước là nghệ thuật “cân bằng động” giữa hai thực thể luôn song hành cùng nhau là Nhà nước và thị trường; trong đó, có việc xác định rõ vai trò của Nhà nước - vai trò của thị trường; thể chế hóa vai trò của Nhà nước - vai trò của thị trường; và điều hành mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong thực tiễn. Trong thời kỳ kế hoạch hóa nền kinh tế, việc nhấn mạnh vai trò của Nhà nước đã làm “lu mờ” vai trò của thị trường khiến cho việc quản lý “cồng kềnh”, “chồng chéo”, đôi khi các chính sách bị “biến dạng” khi đi vào thực tiễn; công tác quản lý thường “vật lộn” với công tác điều hành, hết sức căng thẳng, mà hiệu quả quản lý nhà nước không cao.

Từ Đại hội VI của Đảng, thị trường từng bước được thừa nhận là một trong những nhân tố “điều hành” nền kinh tế, bên cạnh vai trò “cầm cân nảy mực” của Nhà nước. Từ đây, ngành Công Thương chủ động tham mưu, xây dựng các khung khổ pháp luật theo hướng tạo môi trường thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế phát triển, cạnh tranh lành mạnh; sử dụng các công cụ quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển theo ngành và lãnh thổ, cung ứng dịch vụ công một cách minh bạch, nhằm điều tiết và khơi dậy các nguồn lực xã hội. Nhờ vậy, công tác quản lý và điều hành của ngành thuận lợi, có nhiều đóng góp quan trọng trong đảm bảo các cân đối vĩ mô, đảm bảo tổng cung, kích thích tổng cầu, góp phần kiềm chế sau những năm bùng nổ siêu lạm phát 1986 - 1989; hình thành tầng lớp thương nhân mới, tích lũy đủ kinh nghiệm, bản lĩnh và trí tuệ để hội nhập thành công trong dòng chảy thương mại quốc tế.

Thứ tư, công nghiệp hóa phải hướng đến giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp.

Từ Đại hội III, Đảng ta luôn xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ trung tâm này được Đảng, Nhà nước giao trọng trách cho ngành Công Thương.

Qua mỗi kỳ Đại hội Đảng, nội dung công nghiệp hóa dần được hoàn thiện. Từ Đại hội III đến Đại hội X, vấn đề công nghiệp hóa nông nghiệp luôn được nhắc đến, được lồng trong nội dung chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; trong đó, từ Đại hội V đến Đại hội X, vấn đề công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn luôn trở thành vấn đề nóng bỏng. Sở dĩ công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn nhận được sự quan tâm đặc biệt bởi thực chất của quá trình công nghiệp hóa chính là việc thực hiện đồng bộ 3 nội dung: (1) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế; (2) Giải phóng lực lượng sản xuất; (3) Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật. Với một nước đi lên từ nền sản xuất nông nghiệp, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cực kỳ quan trọng. Công nghiệp hóa nông nghiệp tạo ra năng suất lao động cao, tăng nhanh sản lượng lương thực, thực phẩm. Đây là mấu chốt làm cho cung về nông sản và cầu về tư liệu sản xuất nông nghiệp tăng lên. Từ đó, giải phóng một lượng lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, dẫn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Bộ ba: chuyển dịch cơ cấu kinh tế - giải phóng lực lượng sản xuất - xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật đòi hỏi phải thực hiện đồng thời mới thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp hóa. Trong những năm 60 - 80 của thế kỷ XX, ta mới thực hiện được nội dung xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật. Đây là thời kỳ triển khai mô hình công nghiệp hóa theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Tất cả nguồn lực tiến hành công nghiệp dựa vào ngân sách nhà nước và viện trợ từ bên ngoài, không phát huy được nguồn lực xã hội, tức là lực lượng sản xuất tiềm năng từ người dân gần như chưa được giải phóng. Cũng do dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu, nên công nghiệp hóa theo mô hình này không căn cứ vào các mối quan hệ kinh tế tiền - hàng, giá cả - giá trị, không lấy hiệu quả kinh tế - xã hội để xây dựng phương án đầu tư, lựa chọn công nghệ. Rốt cuộc, đồng vốn bỏ ra nhiều, hiệu quả không cao, chưa kể những thất thoát, lãng phí.

Trong kế hoạch 5 năm 1981 - 1985 có sự điều chỉnh cơ cấu ngành công nghiệp. Từ “ưu tiên công nghiệp nặng” trong những năm 1960 - 1970, đến năm 1979, với sự cải cách quản lý kinh tế, khởi đầu từ Hội nghị Trung ương 6 khóa IV, đã chuyển sang chú ý hơn đến công nghiệp hàng tiêu dùng, nên đến năm 1985 đã khắc phục được phần nào sự mất cân đối trước đó. Năm 1980, cơ cấu công nghiệp nhóm A/nhóm B là 37,8%/62,2%, đến năm 1985 đã chuyển thành 31,4%/68,6%. Nhưng đây là sự chuyển dịch “từ trên xuống” chưa phải sự “bùng nổ” từ dưới lên do sự tham gia của các thành phần kinh tế, nên sự chuyển dịch ấy chưa được coi là bền vững.

Cuối những năm 1980, bộ ba: chuyển dịch cơ cấu kinh tế - giải phóng lực lượng sản xuất - xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật bắt đầu phát huy tác dụng nhờ tính đồng thời. Các quy hoạch, kế hoạch, chương trình của ngành Công Thương đều tính đến sự phát triển theo ngành và vùng lãnh thổ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp và sự tham gia của các thành phần kinh tế. Xét về số lượng, ngành Công Thương dẫn đầu về quy hoạch. Từ năm 2001 đến năm 2010, ngành đã xây dựng 51 quy hoạch công nghiệp, trong đó có 31 quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm công nghiệp và 20 quy hoạch theo vùng lãnh thổ. Về thương mại, xây dựng 16 quy hoạch, trong đó có 4 quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm, 12 quy hoạch theo vùng lãnh thổ8.

Điều quan trọng hơn, các quy hoạch đã chú ý đến yêu cầu phát triển đồng bộ và sự liên kết, phối hợp với các ngành có liên quan như Kế hoạch - Đầu tư, Tài chính, Giao thông vận tải, Khoa học và Công nghệ, Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Lao động - Thương binh và Xã hội,... Đồng thời, chuyển dần việc điều hành kế hoạch từ can thiệp vi mô sang duy trì các cân đối vĩ mô. Do vậy, quy hoạch phát triển công nghiệp, thương mại thực sự trở thành một trong những công cụ quản lý nhà nước, tập hợp trong mình bộ ba: chuyển dịch cơ cấu kinh tế - giải phóng lực lượng sản xuất - xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ năm, phát triển thương mại cần tập trung vào bảo đảm các cân đối lớn, cán cân thương mại.

Phát triển thương mại không chỉ để trở thành trụ cột phát triển trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà còn là phương thức bảo đảm an ninh kinh tế, chủ động ứng phó với các tình huống biến động lớn, đột xuất có thể xảy ra từ bên ngoài.

Bảo đảm các cân đối lớn cho sản xuất, tiêu dùng là nhu cầu của mọi nhà nước. Thương mại - khâu kết nối thiết yếu giữa sản xuất và tiêu dùng, vừa là khâu để thực hiện giá trị hàng hóa, vừa là khâu tạo ra giá trị gia tăng cho hàng hóa thông qua lưu thông, phân phối. Do đó, thương mại đóng vai trò quan trọng trong định hướng, dẫn dắt và kích thích sản xuất.

Trong thời kỳ thực hiện theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa, thương mại chủ yếu thực hiện chức năng phục vụ và (gián tiếp) chỉ huy. Để phục vụ, thương mại tính toán các thông số về dân số ở khu vực thành thị và nông thôn, số cán bộ, công nhân viên, nhu cầu bình quân của mỗi người để lên kế hoạch mỗi năm phải thu mua bao nhiêu tấn thóc, bao nhiêu tấn thịt lợn, bao nhiêu mét vải, bao nhiêu bát ăn cơm, bao nhiêu xe đạp... Để (gián tiếp) chỉ huy, thương mại sẽ lên kế hoạch phân bổ bao nhiêu tấn sắt thép, bao nhiêu tấn phân bón, bao nhiêu lít xăng dầu... cho các xí nghiệp quốc doanh tương ứng với số lượng, chủng loại sản phẩm làm ra; tính toán số lượng vật tư sản xuất ở trong nước đáp ứng bao nhiêu phần trăm và số lượng, mặt hàng phải nhập khẩu, từ những thị trường nào.

Tuy nhiên, do giá bán ra và mua vào thấp, nên cung luôn không đủ đáp ứng cầu. Giá thu mua thấp nên không kích thích sản xuất, giá bán ra thấp nên tạo ra cầu giả (những mặt hàng bán bằng tem phiếu không có nhu cầu cũng mua, không mua thì hết hạn). Vì cung không đủ cầu nên thông số “nhu cầu thông thường của mỗi người” cũng không thể tính toán theo thông thường được nữa, buộc phải hạn chế.

Với cách mua vào và bán ra như trên, nhìn chung không có “người tiêu dùng” đúng nghĩa. Xí nghiệp quốc doanh được giao (đầu vào) máy móc, thiết bị, nguyên liệu, năng lượng để sản xuất ra sản phẩm và giao nộp (đầu ra) cho thương mại. Thương mại lại phân phối những sản phẩm này theo kế hoạch cho những địa chỉ quy định. Như vậy, cả đầu vào, đầu ra của sản xuất đều thụ động, nên nằm ở khâu trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng, nhưng thương mại không nắm giữ đầy đủ chức năng định hướng, dẫn dắt và kích thích sản xuất, chỉ cố gắng bảo đảm cung - cầu ở mức có giới hạn. Các cân đối lớn về năng lượng, sắt thép, hóa chất... mặc dù nhận được sự viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, cũng thường xuyên thiếu hụt. Cảnh tượng xí nghiệp quốc doanh xếp hàng chờ được cung ứng vật tư cho sản xuất khá phổ biến, nhất là giai đoạn đất nước căng mình khắc phục hậu quả chiến tranh 1975 - 1985.

Bước vào thời kỳ đổi mới, thương mại khởi động thực hiện vai trò vốn có của nó. Điều thuận lợi là, với sự tham gia vào sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế, bao gồm cả thương nhân có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), sản lượng hàng hóa, dịch vụ tăng lên, cơ bản đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Thị trường trong nước được tổ chức thành một thể thống nhất, thông suốt; thị trường trong nước và nước ngoài thông nhau ở mức độ nhất định, các chỉ số thương mại như tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ, xuất nhập khẩu có mức tăng 1,5 - 2,0 lần so với mức tăng GDP. Tuy nhiên, thị trường không tự điều chỉnh, không tự đảm bảo các cân đối lớn, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ, điều tiết của Nhà nước. Mặt khác, chúng ta đã bắt đầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới với việc gia nhập ASEAN và thực hiện CEPT/AFTA từ năm 1996 (sau này là ATIGA); các FTA song phương, đa phương tạo ra các “sân chơi” mở cho Việt Nam, cho các đối tác, các tập đoàn đa quốc gia, nhưng sức ép, mức độ cạnh tranh khốc liệt hơn, dẫn đến yêu cầu đất nước phải có chiến lược phát triển thị trường trong nước, nước ngoài để khai thác tốt cơ hội, giảm thiểu rủi ro và tổn thương.

Trong 10 năm 1986 - 1995, thị trường thương mại phát triển không đồng đều. Ở trong nước, khu vực nông thôn tập trung 70% dân số, nhưng sức mua kém, đặc biệt là các vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. Hạ tầng thương mại truyền thống phát triển tự phát, hạ tầng thương mại hiện đại còn sơ khai, chưa hình thành được kênh phân phối hiệu quả. Với thị trường nước ngoài, chủ yếu là thị trường Đông Âu, các nước Đông Nam Á và mới bắt đầu thâm nhập thị trường EU, tỷ trọng nhập siêu còn lớn.

Trong bối cảnh đó, ngành Công Thương tập trung vào thể chế hóa chủ trương các kỳ Đại hội Đảng, các kỳ Hội nghị Trung ương về thương mại, nhất là Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/01/1996 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là Luật thương mại năm 1997 và năm 2005, Luật cạnh tranh năm 2004, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010; Pháp lệnh về chống bán phá giá, Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam; các nghị định về phát triển mạng lưới chợ, phát triển thương mại miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc, các hoạt động xúc tiến thương mại, hội chợ triển lãm, logistics, mua bán hàng hóa của thương nhân FDI tại Việt Nam... Đồng thời, xây dựng và tổ chức thực hiện các đề án tổ chức thị trường trong nước, phát triển thương mại trong nước; các quy hoạch phát triển mạng lưới chợ, quy hoạch các khu kinh tế cửa khẩu phía Bắc, phía Tây, phía Tây Nam, các vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Trung, miền Nam; chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa...

Các hoạt động trên đã khơi dậy các nguồn lực từ bên trong và bên ngoài, nguồn lực của Nhà nước và nhân dân, tập trung vào kết cấu hạ tầng thương mại, hình thành cấu trúc thị trường trong nước thống nhất trên cơ sở đặc thù và thế mạnh từng vùng, từng địa phương, thúc đẩy hình thành các thương nhân lớn; phát triển mạnh thương mại đầu vào trên cơ sở kích thích các cơ sở sản xuất nguyên liệu, bước đầu hình thành ngành công nghiệp hỗ trợ, hạn chế phụ thuộc vào thị trường thế giới; hỗ trợ các thương nhân vừa và nhỏ để nhanh chóng định hình các kênh phân phối trong nước, đa dạng hóa mặt hàng và thị trường xuất khẩu ở nước ngoài, góp phần bảo đảm các cân đối lớn cho nền kinh tế, nhất là các loại vật tư chiến lược cho sản xuất phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Ra đời khi chính quyền cách mạng non trẻ đang đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, ngành Công Thương đã bám sát tình hình, thực tiễn, vận dụng sáng tạo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền hoàn toàn độc lập của nước nhà, thì giới Công - Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng”9.

Trong 65 năm (1945 - 2010), trải qua các giai đoạn lịch sử với nhiều lần thay đổi cơ cấu, tổ chức và tên gọi, ngành Công Thương luôn có những đóng góp quan trọng vào sự lớn mạnh của đất nước trong công cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ở mỗi giai đoạn phát triển, ngành Công Thương luôn kịp thời tham mưu cho Đảng và Chính phủ nhiều chính sách quan trọng trong sự phát triển của ngành và nền kinh tế; từng bước xây dựng được hạ tầng cơ sở vật chất - kỹ thuật đồng bộ cho nền kinh tế, làm nền tảng thu hút sự đầu tư trong và ngoài nước vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong chuỗi các sự kiện tiêu biểu, những vấn đề cốt lõi của ngành luôn gắn liền với lịch sử cách mạng của đất nước, vận mệnh của dân tộc; đồng thời, làm nổi bật những đặc điểm, truyền thống quý báu của ngành Công Thương, xứng đáng là một trụ cột quan trọng của nền kinh tế, đi đầu trong phát triển sản xuất - kinh doanh, chuyển đổi cơ chế quản lý, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

Những bài học kinh nghiệm quý báu ghi nhận từ lịch sử hình thành, phát triển của ngành có ý nghĩa thiết thực, đóng góp vào kho tàng lý luận về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.6-7.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.139.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.737.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.55, tr.381.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.263.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.65, tr.277.

7. Sắc lệnh số 12/SL của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

8. Xem Bộ Công Thương: “Một số vấn đề kinh tế vĩ mô trong chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn 2011 - 2020”, 2011, tr.78-79.

9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.53.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TIẾNG VIỆT

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, các tập 4, 5, 9, 14.

3. Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, các tập 2, 3.

4. Ban Kinh tế miền Nam: “Mục Tình hình từng ngành - A. Công nghiệp Điện”, trong Tài liệu tham khảo về tình hình kinh tế miền Nam Việt Nam, Viện Kinh tế, Sài Gòn, 1966.

5. Bộ Công nghiệp: 60 năm Công nghiệp Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2005.

6. Bộ Công Thương: Sơ lược Lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Nxb. Công Thương, Hà Nội, 2011.

7. Bộ Công Thương: Ngành Công Thương Việt Nam sau 25 năm đổi mới (Lưu hành nội bộ), Hà Nội, 2012.

8. Bộ Kinh tế Quốc gia (Việt Nam Cộng hòa): Thống kê Niên giám Việt Nam (Quyển thứ nhất 1949 - 1950), Viện Thống kê và Khảo cứu Kinh tế Việt Nam, Sài Gòn, 1951.

9. Bộ Kinh tế Quốc gia (Việt Nam Cộng hòa): Việt Nam Niên giám Thống kê (Quyển thứ tư 1952 - 1953), Viện Thống kê và Khảo cứu Kinh tế Việt Nam, Sài Gòn, 1955.

10. Bộ Thương mại: 60 năm thương mại Việt Nam (1946 - 2006), Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2006.

11. Câu lạc bộ Truyền thống kháng chiến, Ban Kinh - Tài Trung ương Cục miền Nam Việt Nam: Lịch sử Ban Kinh tế - Tài chính Trung ương Cục Miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.

12. Trường Chinh: Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.

13. Phạm Thị Hồng Hà: Kinh tế Việt Nam Cộng hòa dưới tác động của viện trợ Hoa Kỳ (1955 - 1975), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2007.

14. Nguyễn Văn Hùng: “Về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam”, Trang thông tin điện tử Hội đồng lý luận Trung ương, ngày 28/8/2020.

15. Nguyễn Huy: Hiện tình kinh tế Việt Nam (Quyển 1: Hầm mỏ - Công kỹ nghệ), Nxb. Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1972.

16. Gabriel Kolko: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003.

17. Nguyễn Cao Kỳ: Chúng ta đã thua trận ở Việt Nam như thế nào? (Tài liệu tham khảo), Công ty Phát hành Thông tấn xã Việt Nam, Hà Nội, 1985.

18. Vũ Minh Long: “Kinh tế Việt Nam từ 1991 đến nay”, tài liệu điện tử của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), 2014.

19. Phạm Công Luận: Sài Gòn - Chuyện đời của phố, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2015, t.II.

20. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Lịch sử Ngân hàng Việt Nam 1951 - 2021, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2021.

21. Bích Ngọc: “Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn và “Đêm trước đổi mới””, Tạp chí Kinh tế Việt Nam điện tử, ngày 07/4/2007.

22. Đặng Phong: 21 năm viện trợ Mỹ ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu Khoa học thị trường giá cả, Hà Nội, 1991.

23. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Văn kiện Quốc hội toàn tập (tập II), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.

24. Đài Hồ Sơn: “Những ngày đầu tiếp quản”, báo Sài Gòn giải phóng điện tử, ngày 27/4/2015.

25. Văn Tạo và Furuta Motoo: Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.

26. Tổng cục Hải quan: Hải quan Việt Nam - Những sự kiện 1945 - 2015, Nxb. Tài chính, Hà Nội, 2015.

27. Tổng cục Thống kê: Tình hình phát triển kinh tế và văn hóa miền Bắc xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1960 - 1975, Nxb. Thống kê, 1978.

28. Tổng cục Thống kê: Kinh tế văn hóa Việt Nam 1930 - 1980, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 1980.

29. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 1981, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 1982.

30. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 1986, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 1987.

31. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 1991, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 1992.

32. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 1996, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 1997.

33. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 1997, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 1998.

34. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 2000, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2001.

35. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 2016, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2017.

36. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 2020, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2021.

37. Tổng cục Thống kê: Số liệu thống kê (3 năm cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1961.

38. Tổng cục Thống kê: Công nghiệp Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2006.

39. Tổng cục Thống kê: Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam mười năm 2001 - 2010, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2011.

40. Tổng cục Thống kê: Số liệu thống kê Việt Nam 15 năm đầu thế kỷ XXI, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2016.

41. GS.TSKH. Trần Văn Thọ (Chủ biên), TS. Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Văn Chỉnh, TS. Nguyễn Quán: Kinh tế Việt Nam 1955 - 2000: Tính toán mới, phân tích mới, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2000.

42. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Kinh tế học, Đặng Phong: Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, tập I: 1945 - 1954, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002.

43. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000 , tập II: 1955 - 1975, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005.

44. Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam (Tập 1: 1946 - 1960), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.

45. Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam (Tập 2: 1960 - 1976), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.

46. Văn phòng Quốc hội: Văn kiện Quốc hội toàn tập (Tập VI, quyển 2: 1981 - 1984), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.

47. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Đinh Thị Thu Cúc (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 10 (Từ năm 1945 đến năm 1950), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013.

48. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 11 (Từ năm 1951 đến năm 1954), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2017.

49. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Trần Đức Cường (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 12 (Từ năm 1954 đến năm 1965), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2014.

50. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 13 (Từ năm 1965 đến năm 1975), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2017.

51. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Trần Đức Cường (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 14 (Từ năm 1975 đến năm 1986), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2017.

52. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học Nguyễn Ngọc Mão (Chủ Biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 15 (Từ năm 1986 đến năm 2000), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2017.

53. Viện Kinh tế: Tài liệu tham khảo về tình hình kinh tế miền Nam Việt Nam (Tham khảo nội bộ), Hà Nội, 1966.

54. Viện Kinh tế học: Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi (1945 - 1954), Nxb. Khoa học, Hà Nội, 1966.

55. Viện Kinh tế học: 45 năm kinh tế Việt Nam (1945 - 1990), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.

56. Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam (tập 3), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.

57. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam 1954 - 1975, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1977.

58. Viện Quốc gia thống kê (Việt Nam Cộng hòa): Việt Nam Niên giám thống kê 1967 - 1968, Hà Nội, 1968.

59. Viện Quốc gia thống kê (Việt Nam Cộng hòa): Việt Nam Niên giám Thống kê 1970 - 1972, Hà Nội, 1972.

60. Quốc Việt: “20 năm quan hệ Việt - Mỹ, chuyện bây giờ mới kể”, báo Tuổi trẻ điện tử, https://tuoitre.vn/20-nam-quan-he-viet-mychuyen-bay-gio-moi-ke-771960.htm, ngày 04/7/2015.

61. T.V: “Thị trường lúa gạo ở Nam Kỳ trong 30 năm nay (1905 - 1933)”, Phụ nữ Tân văn, số 219 (tháng 10/1933).

62. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 2, ngày 06/10/1945.

63. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 3, ngày 13/10/1945.

64. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 9, ngày 17/11/1945.

65. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 10, ngày 24/11/1945.

66. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 15, ngày 22/12/1945.

67. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 2, ngày 12/01/1946.

68. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 9, ngày 02/3/1946.

69. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 47, ngày 23/11/1946.

II. TIẾNG ANH

1. British Naval Intelligence Division of the Admiralty: Indo-China: Geographical handbook, Taylor and Francis, London, 2013.

2. Brian Crozier: “The Diem Regime in Southern Vietnam”, Far Eastern Survey, Vol. 24, No. 4 (Apr., 1955).

3. Douglas Dacy: Foreign aid, War, and Economic development: South Vietnam, 1955 - 1975, Cambridge University Press, 1988.

4. John P. Glennon et al: “277. Memorandum from the Assistant Secretary of State for Far Eastern Affairs (Robertson) to the Under Secretary of State (Hoover)”, Foreign Relations of the United States, 1955 - 1957, Vietnam (Vol. I), United States Government Printing Office, Washington, 1985.

5. Peter Hansen: “Bắc Di Cư: Catholic Refugees from the North of Vietnam, and their role in the Southern Republic, 1954 - 1959”, Journal of Vietnamese Studies, Vol. 4, No. 3, 2009.

6. Martin J.Murray: The Development of Capitalism in Colonial Indochina (1870 - 1940), University of California Press, Berkeley and Los Angeles, 1980.

7. Spencer C. Tucker: The Encyclopedia of the Vietnam War: A Political, Social, and Military History (2nd edition), ABC-CLIO, California, United States, 2011.

8. Vietnam Annual Statistical Bullentin: United States Agency for International Development, 1965.

9. Vietnam Annual Statistical Bullentin: United States Agency for International Development, 1969.

10. Vietnam Annual Statistical Bullentin: United States Agency for International Development, 1973.

11. William J.C. Logan: “How deep is the Green Revolution in South Vietnam?”, Asian Survey, Vol. 11 (No. 4), 1971.

III. TIẾNG PHÁP

1. Gouvernement général de l’Indochine: Résumé Statistique Relatif Aux Années 1913 à 1940, Imprimerie D’extrême-Orient, Hanoi, 1941.

2. Haut-Commissariat de France pour l’Indochine: Annuaire statistique de l’Indochine (Onzième Volune 1943 - 1946), Saigon, 1948.

3. Jaehyun Jeoung: Exploitation minière et exploitation humaine: les charbonnages dans le Vietnam colonial 1874 - 1945, Université Sorbonne Paris Cité, 2019.

4. Paul Doumer: L’Indo-Chine française (Souvenirs), Vuibert et Nony, Paris, 1905.

5. Robequain: Géographie de l’Indochine, 1939.

6. Tertrais Hugues: “L’électrification de l’Indochine”, In: Outremers, tome 89, n°334-335, 1er semestre 2002. L’électrification outre - mer de la fin du XIXe siècle aux premières décolonisations, 2002.

Danh mục

Tùy chỉnh