4. Cải tiến quản công nghiệp

Cùng với việc bảo vệ sản xuất, khắc phục hậu quả chiến tranh, trong những năm 1965 - 1975 công nghiệp những bước cải tiến quan trọng cấp sở trong thể chế quản nghiệp. Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 20 họp từ ngày 27/01 đến 11/02/1972, đã yêu cầu: “Gắn kế hoạch sản xuất với kế hoạch tiêu thụ, người lãnh đạo sản xuất phải nắm nhu cầu của thị trường, cấu mặt hàng sản xuất phải phù hợp với nhu cầu thị trường, cấu mặt hàng sản xuất phải phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của nhân dân nhu cầu của sản xuất”1.

Giai đoạn 1965 - 1975, với sự tham mưu của các bộ quản ngành Công Thương, Chính phủ đã đưa ra những quy định cải tiến quản sản xuất, quản thị trường thông qua một số nghị quyết như: Nghị quyết số 59/CP ngày 10/5/1967 của Hội đồng Chính phủ về việc tăng cường bảo vệ tài sản, thực hành tiết kiệm; Chỉ thị số 89/TTg ngày 07/9/1968 của Thủ tướng Chính phủ về mở đợt nhằm chống ăn cắp, đầu cơ, buôn lậu vật hàng hóa của Nhà nước tăng cường một bước việc quản thị trường; Chỉ thị số 11/TTg ngày 09/01/1971 của Thủ tướng Chính phủ về ổn định tình hình sản xuất cải tiến một bước công tác quản nghiệp công nghiệp quốc doanh; Nghị quyết số 91/CP ngày 12/5/1971 của Hội đồng Chính phủ về tăng cường công tác quản bảo vệ tài sản hội chủ nghĩa; Chỉ thị số 124/TTg ngày 03/5/1972 của Thủ tướng Chính phủ về việc quản cung ứng vật kỹ thuật cho các nghiệp công nghiệp quốc doanh;... “Cuộc cải tiến quản lần này tập trung vào khâu sở, lấy cải tiến quản nghiệp làm trung tâm, đồng thời gắn với đổi mới quản nhà nước về công nghiệp”2.

mành cọ Sản xuất mành cọ khổ lớn vẽ Lăng Hùng Vương tại Hợp tác Quang Trung, thị Phú Thọ (Vĩnh Phúc), tháng 4/1971 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Mục đích chủ yếu của cải tiến quản nghiệp công nghiệp nhanh chóng chấn chỉnh công tác quản lý, giải quyết hậu quả của chiến tranh phá hoại, đưa sản xuất đi vào thế ổn định phát triển, đưa công tác quản vào nền nếp, tận dụng những năng lực sản xuất hiện của nghiệp, tăng năng suất lao động, sản lượng, phẩm chất hàng hóa, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh tế, mức doanh lợi tích lũy cho Nhà nước.

lò cao Thái Nguyên

Công nhân cao Công ty Gang thép Thái Nguyên thi đua sản xuất, năm 1966 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Nội dung chủ yếu của cải tiến quản nghiệp công nghiệp như sau:

a) Ổn định tình hình sản xuất của nghiệp

- Ổn định địa điểm, từ tán, phân tán trở lại tập trung; ổn định mặt bằng sản xuất.

- Chấn chỉnh kiện toàn các dây chuyền sản xuất cho hợp bao gồm cả việc bổ sung hay giảm bớt một số máy móc, thiết bị thiếu hay thừa, nhằm phát huy tối đa mọi năng lực sản xuất của nghiệp, nhất công suất thiết bị chủ yếu.

- Tiến hành các công việc sửa chữa, khôi phục, dọn dẹp, vệ sinh công nghiệp tại nơi sản xuất, sắp xếp lại kho tàng, rào giậu, cửa khóa, người quản lý, bảo vệ chu đáo.

- Gấp rút chấn chỉnh khâu cung cấp năng lượng vật tư, tiêu thụ sản phẩm... bằng việc cải tiến tổ chức cung ứng vật tư, tổ chức vận tải chế độ hợp đồng.

- Ổn định nguồn cung cấp năng lượng.

- Ổn định chăm sóc tốt đời sống công nhân, viên chức của nghiệp, giải quyết tốt hơn các điều kiện làm việc, sinh hoạt, ăn, ở, đi làm, nhất đối với phụ nữ.

b) Cải tiến các mặt công tác quản

Thứ nhất, cải tiến công tác kế hoạch hóa nghiệp:

- Các quan chủ quản được yêu cầu xác định lại cho thật phương hướng sản xuất những nơi điều kiện, xác định bộ kế hoạch dài hạn cho nghiệp vào khoảng 2 - 3 năm; trước mắt chủ yếu xác định sở vững chắc các mặt hàng chính loại mặt hàng phụ để nghiệp điều kiện chuẩn bị kỹ thuật cho một thời gian dài.

- Về hệ thống các chỉ tiêu kế hoạch: vẫn giữ hệ thống các chỉ tiêu bao gồm cả chỉ tiêu pháp lệnh chỉ tiêu tính toán (hướng dẫn) Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đang cho thi hành.

- Tiến hành xây dựng chỉ đạo thực hiện tốt kế hoạch sản xuất kỹ thuật, tài vụ nghiệp. Phải thống nhất kế hoạch hóa hiện vật tài chính ngay từ sở làm cho kế hoạch hiện vật phải đi đôi với kế hoạch tài chính. Việc xây dựng tất cả các kế hoạch nghiệp phải tổng hợp vào một đầu mối (phòng kế hoạch).

- Lập kế hoạch tiến bộ kỹ thuật cùng một lần với kế hoạch sản xuất để làm sở cho việc xây dựng kế hoạch trang bị bổ sung mở rộng sau này. Chú ý cân đối vật theo yêu cầu sản xuất với chất lượng cao hơn. nghiệp phải kế hoạch tác nghiệp toàn diện để bảo đảm thực hiện kế hoạch từng quý, từng tháng.

- Trong việc cải tiến phương pháp lập kế hoạch, bao gồm việc cân đối từ sở tổng hợp theo ngành, thực hiện chế độ bảo vệ kế hoạch theo trình tự Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã quy định: thực hiện việc kết hợp đồng kinh tế trực tiếp với khách hàng ngay trong khi xây dựng kế hoạch sản xuất.

Thứ hai, cải tiến công tác quản tài sản, vật của nghiệp:

- Kiểm để nắm lại thiết bị, máy móc, nhà xưởng các tài sản cố định về số lượng, chất lượng, đánh giá lại năng lực sản xuất, xác định vốn cố định cần thiết.

- Khôi phục sửa chữa các thiết bị, biện pháp huy động nâng cao công suất sử dụng. Chú trọng tăng ca máy, giảm số giờ ngừng hoạt động của máy. Bảo vệ, bảo quản chu đáo những thiết bị máy móc chưa dùng hoặc đề nghị Bộ điều đi những thứ không dùng.

- Xác định thanh những tài sản thiệt hại do chiến tranh.

- Tính toán việc trích khấu hao một cách chặt chẽ, hợp nhằm huy động sử dụng tốt mọi tài sản cố định (khấu hao bản khấu hao sửa chữa lớn). Xác định quỹ khấu hao hiện có.

- Chấn chỉnh, sắp xếp lại kho tàng trong nghiệp (chế độ kho, kế toán kho, người giữ kho, phương tiện phân phối, vận chuyển, cung cấp vật tư, thu hồi vật trong nội bộ nghiệp).

- Kiểm nắm lại tình hình vật kỹ thuật (số lượng, chất lượng, giá trị) vốn lưu động.

- Tính toán số cần dùng của nghiệp, số cần bổ sung hằng năm để lập kế hoạch vật kế hoạch vốn lưu động.

- Tiến hành quản lý, sử dụng vật theo định mức, kiểm tra chặt chẽ việc tiết kiệm vật tư.

- Xác định thanh toán các khoản nợ dây dưa.

Thứ ba, cải tiến công tác quản lao động quỹ lương:

- Xây dựng các định mức cần thiết một cách căn cứ khoa học (định mức lao động, định mức tiêu hao vật tư, định mức chất lượng sản phẩm).

Điện Yên Phụ

Công nhân Nhà máy Điện Yên Phụ vận hành máy, tháng 9/1970 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

- Đẩy mạnh mở rộng chế độ trả lương theo sản phẩm, lương khoán..., thực hiện các chế độ thưởng - phạt cho công nhân cán bộ quản lý, áp dụng lương giờ.

- Tiến hành quản kiểm soát việc chi tiêu quỹ lương theo mức thực hiện cân đối với các kế hoạch khác.

- Trên sở định mức lao động lập kế hoạch sử dụng lao động quỹ lương, xác định số lao động thừa để biện pháp tổ chức sắp xếp công việc trong ngành, hoặc điều động sang ngành khác.

- Chấn chỉnh tổ chức lao động trong nghiệp, phân xưởng, tổ, đội... làm đủ giờ công theo chế độ với định mức năng suất lao động nhất định.

- Tiến hành bồi dưỡng, bổ túc nghề nghiệp, sát hạch, sắp xếp nâng bậc công nhân theo chế độ, theo định kỳ.

Thứ tư, cải tiến công tác quy định kỹ thuật:

- Xây dựng thực hiện Điều lệ quản kỹ thuật, chú ý thực hiện chế độ chuẩn bị sản xuất toàn diện coi trọng việc giữ gìn, bảo quản tài sản cố định.

- Thực hiện chế độ bảo vệ, bảo quản, vận hành tu sửa thiết bị, nhất đối với các thiết bị quý đắt tiền.

- Xây dựng chế độ bảo quản, sử dụng tốt dụng cụ, đồ nghề, các phương tiện đo lường, kiểm tra, kiểm nghiệm... đối với các thứ sai hỏng thì sửa, thiếu thì sắm thêm.

- Xây dựng định mức tiêu hao vật cho từng loại thành phẩm.

- Xây dựng thực hiện định mức chất lượng thành phẩm, bảo đảm giá trị sử dụng phân loại thành phẩm để áp dụng chế độ thưởng phạt đối với vấn đề này; lập quy chế xuất xưởng.

- Xây dựng tổ chức thực hiện chế độ kiểm tra chất lượng sản phẩm, nghiệm thu sản phẩm.

- Đẩy mạnh công tác thí nghiệm, sản xuất thử thiết kế mặt hàng mới.

- Tăng cường tổ chức phổ biến các phát minh, sáng kiến thông tin kỹ thuật.

Thứ năm, vận dụng các đòn bẩy kinh tế trong quản nghiệp:

- Bộ máy tổ chức kế toán thống giúp cho giám đốc nghiệp tính toán tương đối chính xác chi phí sản xuất, tính lại giá thành hợp cho nghiệp, xác định giá bán buôn nghiệp, giá bán buôn công nghiệp lãi định mức của nghiệp, để căn cứ xác định chế độ nộp phân phối lợi nhuận.

Về mặt tổ chức, thống nhất tổ chức kế toán thống nghiệp, thực hiện đúng đắn các biểu báo thống số liệu ban đầu nhằm nâng cao tính thống nhất, tập trung, chính xác kịp thời của kế toán, thống hạch toán nghiệp vụ kỹ thuật.

- Phát huy tác dụng kiểm tra, giám đốc của kế toán, nâng cao trình độ phân tích hoạt động kinh tế để kịp thời sửa chữa các khuyết điểm, phát hiện khai thác tốt khả năng tiềm tàng của nghiệp.

- Chú trọng thực hiện tốt chế độ lương sản phẩm, chế độ thưởng phạt, chế độ phân phối lợi nhuận dưới hình thức ba quỹ cho một số nghiệp điều kiện.

Đối với chế độ lương theo sản phẩm: đẩy mạnh mở rộng chế độ trả lương theo sản phẩm trên sở định mức chặt chẽ, kiểm soát chặt chẽ để thể trở thành hình thức trả lương chủ yếu. Việc đẩy mạnh mở rộng chế độ trả lương theo sản phẩm dựa trên những điều kiện bản dự thảo điều lệ của Bộ Lao động đã đề ra đã được Thường vụ Hội đồng Chính phủ thông qua để chấp hành. Việc xây dựng định mức lao động phải tiến hành tại đơn vị sở dưới sự chỉ đạo của quan quản cấp trên.

Đối với chế độ thưởng phạt: tinh thần thưởng đối với những người thành tích trong việc thực hiện kế hoạch, vượt tiêu chuẩn phẩm chất, tiết kiệm nguyên vật liệu, giữ gìn thiết bị tốt, sửa chữa thiết bị giỏi; chế độ phạt nhằm vào những người hành vi hại đến các việc trên.

Đối với việc trích lập ba quỹ, thi hành đúng nội dung của bản điều lệ đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành, áp dụng trước tiên đối với các nghiệp làm thí điểm cải tiến quản lý.

c) Cải tiến tổ chức sản xuất, tổ chức quản nghiệp

- Chấn chỉnh lại dây chuyền công nghệ, thực hiện sự tập trung, thống nhất chỉ đạo vào người phụ trách nghiệp. Chú trọng đầy đủ cả về tổ chức sản xuất tổ chức quản lý.

- Soát lại dây chuyền sản xuất từ tổ sản xuất lên phân xưởng, các phòng, ban định lại biên chế của từng bộ phận. Tinh giản bộ máy quản lý, bỏ bớt các phòng ban trùng lắp về nhiệm vụ, bỏ bộ máy quản hành chính phân xưởng, thực hiện sự chỉ đạo tập trung của giám đốc phân công phó giám đốc theo ba lĩnh vực lớn: sản xuất, kỹ thuật, kinh tế. Nơi nào không phó giám đốc kinh tế thì chú trọng phát huy vai trò của kế toán trưởng. Đối với nghiệp lớn thì thể một phó giám đốc về đời sống.

- Xác định rành mạch cụ thể chế độ thủ trưởng, đưa chế độ này đi vào nền nếp, cụ thể là:

+ Giám đốc phải quản nghiệp toàn diện, chịu trách nhiệm về tài sản nghiệp về thực hiện các chi tiêu kế hoạch nhà nước, về hướng phát triển mở rộng nghiệp nộp lợi nhuận cho Nhà nước.

+ Chỉ huy sản xuất theo tiến độ tập trung vào người được phân công chịu trách nhiệm từ khâu chuẩn bị sản xuất đến ra thành phẩm cuối cùng. Xây dựng thi hành đúng đắn chế độ chỉ huy sản xuất của đốc công, quản đốc phân xưởng; bảo đảm hiệu lực của mệnh lệnh chỉ huy trong sản xuất, tập trung tối cao vào người phó giám đốc sản xuất hay phó giám đốc kỹ thuật.

+ Chế độ thủ trưởng được đề cao đi đôi với bảo đảm dân chủ pháp chế hội chủ nghĩa, bảo đảm xây dựng đội ngũ cán bộ, công nhân giỏi về kinh tế, kỹ thuật, vững vàng về chính trị, tưởng phẩm chất đạo đức.

Cùng với công tác cải tiến quản nghiệp, việc cải tiến hệ thống tổ chức quản toàn ngành công nghiệp cũng một nội dung lớn đề ra trong giai đoạn này.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.33, tr.89.

2. Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.259.

4. Cải tiến quản công nghiệp

Cùng với việc bảo vệ sản xuất, khắc phục hậu quả chiến tranh, trong những năm 1965 - 1975 công nghiệp những bước cải tiến quan trọng cấp sở trong thể chế quản nghiệp. Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 20 họp từ ngày 27/01 đến 11/02/1972, đã yêu cầu: “Gắn kế hoạch sản xuất với kế hoạch tiêu thụ, người lãnh đạo sản xuất phải nắm nhu cầu của thị trường, cấu mặt hàng sản xuất phải phù hợp với nhu cầu thị trường, cấu mặt hàng sản xuất phải phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của nhân dân nhu cầu của sản xuất”1.

Giai đoạn 1965 - 1975, với sự tham mưu của các bộ quản ngành Công Thương, Chính phủ đã đưa ra những quy định cải tiến quản sản xuất, quản thị trường thông qua một số nghị quyết như: Nghị quyết số 59/CP ngày 10/5/1967 của Hội đồng Chính phủ về việc tăng cường bảo vệ tài sản, thực hành tiết kiệm; Chỉ thị số 89/TTg ngày 07/9/1968 của Thủ tướng Chính phủ về mở đợt nhằm chống ăn cắp, đầu cơ, buôn lậu vật hàng hóa của Nhà nước tăng cường một bước việc quản thị trường; Chỉ thị số 11/TTg ngày 09/01/1971 của Thủ tướng Chính phủ về ổn định tình hình sản xuất cải tiến một bước công tác quản nghiệp công nghiệp quốc doanh; Nghị quyết số 91/CP ngày 12/5/1971 của Hội đồng Chính phủ về tăng cường công tác quản bảo vệ tài sản hội chủ nghĩa; Chỉ thị số 124/TTg ngày 03/5/1972 của Thủ tướng Chính phủ về việc quản cung ứng vật kỹ thuật cho các nghiệp công nghiệp quốc doanh;... “Cuộc cải tiến quản lần này tập trung vào khâu sở, lấy cải tiến quản nghiệp làm trung tâm, đồng thời gắn với đổi mới quản nhà nước về công nghiệp”2.

mành cọ Sản xuất mành cọ khổ lớn vẽ Lăng Hùng Vương tại Hợp tác Quang Trung, thị Phú Thọ (Vĩnh Phúc), tháng 4/1971 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Mục đích chủ yếu của cải tiến quản nghiệp công nghiệp nhanh chóng chấn chỉnh công tác quản lý, giải quyết hậu quả của chiến tranh phá hoại, đưa sản xuất đi vào thế ổn định phát triển, đưa công tác quản vào nền nếp, tận dụng những năng lực sản xuất hiện của nghiệp, tăng năng suất lao động, sản lượng, phẩm chất hàng hóa, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh tế, mức doanh lợi tích lũy cho Nhà nước.

lò cao Thái Nguyên

Công nhân cao Công ty Gang thép Thái Nguyên thi đua sản xuất, năm 1966 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Nội dung chủ yếu của cải tiến quản nghiệp công nghiệp như sau:

a) Ổn định tình hình sản xuất của nghiệp

- Ổn định địa điểm, từ tán, phân tán trở lại tập trung; ổn định mặt bằng sản xuất.

- Chấn chỉnh kiện toàn các dây chuyền sản xuất cho hợp bao gồm cả việc bổ sung hay giảm bớt một số máy móc, thiết bị thiếu hay thừa, nhằm phát huy tối đa mọi năng lực sản xuất của nghiệp, nhất công suất thiết bị chủ yếu.

- Tiến hành các công việc sửa chữa, khôi phục, dọn dẹp, vệ sinh công nghiệp tại nơi sản xuất, sắp xếp lại kho tàng, rào giậu, cửa khóa, người quản lý, bảo vệ chu đáo.

- Gấp rút chấn chỉnh khâu cung cấp năng lượng vật tư, tiêu thụ sản phẩm... bằng việc cải tiến tổ chức cung ứng vật tư, tổ chức vận tải chế độ hợp đồng.

- Ổn định nguồn cung cấp năng lượng.

- Ổn định chăm sóc tốt đời sống công nhân, viên chức của nghiệp, giải quyết tốt hơn các điều kiện làm việc, sinh hoạt, ăn, ở, đi làm, nhất đối với phụ nữ.

b) Cải tiến các mặt công tác quản

Thứ nhất, cải tiến công tác kế hoạch hóa nghiệp:

- Các quan chủ quản được yêu cầu xác định lại cho thật phương hướng sản xuất những nơi điều kiện, xác định bộ kế hoạch dài hạn cho nghiệp vào khoảng 2 - 3 năm; trước mắt chủ yếu xác định sở vững chắc các mặt hàng chính loại mặt hàng phụ để nghiệp điều kiện chuẩn bị kỹ thuật cho một thời gian dài.

- Về hệ thống các chỉ tiêu kế hoạch: vẫn giữ hệ thống các chỉ tiêu bao gồm cả chỉ tiêu pháp lệnh chỉ tiêu tính toán (hướng dẫn) Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đang cho thi hành.

- Tiến hành xây dựng chỉ đạo thực hiện tốt kế hoạch sản xuất kỹ thuật, tài vụ nghiệp. Phải thống nhất kế hoạch hóa hiện vật tài chính ngay từ sở làm cho kế hoạch hiện vật phải đi đôi với kế hoạch tài chính. Việc xây dựng tất cả các kế hoạch nghiệp phải tổng hợp vào một đầu mối (phòng kế hoạch).

- Lập kế hoạch tiến bộ kỹ thuật cùng một lần với kế hoạch sản xuất để làm sở cho việc xây dựng kế hoạch trang bị bổ sung mở rộng sau này. Chú ý cân đối vật theo yêu cầu sản xuất với chất lượng cao hơn. nghiệp phải kế hoạch tác nghiệp toàn diện để bảo đảm thực hiện kế hoạch từng quý, từng tháng.

- Trong việc cải tiến phương pháp lập kế hoạch, bao gồm việc cân đối từ sở tổng hợp theo ngành, thực hiện chế độ bảo vệ kế hoạch theo trình tự Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã quy định: thực hiện việc kết hợp đồng kinh tế trực tiếp với khách hàng ngay trong khi xây dựng kế hoạch sản xuất.

Thứ hai, cải tiến công tác quản tài sản, vật của nghiệp:

- Kiểm để nắm lại thiết bị, máy móc, nhà xưởng các tài sản cố định về số lượng, chất lượng, đánh giá lại năng lực sản xuất, xác định vốn cố định cần thiết.

- Khôi phục sửa chữa các thiết bị, biện pháp huy động nâng cao công suất sử dụng. Chú trọng tăng ca máy, giảm số giờ ngừng hoạt động của máy. Bảo vệ, bảo quản chu đáo những thiết bị máy móc chưa dùng hoặc đề nghị Bộ điều đi những thứ không dùng.

- Xác định thanh những tài sản thiệt hại do chiến tranh.

- Tính toán việc trích khấu hao một cách chặt chẽ, hợp nhằm huy động sử dụng tốt mọi tài sản cố định (khấu hao bản khấu hao sửa chữa lớn). Xác định quỹ khấu hao hiện có.

- Chấn chỉnh, sắp xếp lại kho tàng trong nghiệp (chế độ kho, kế toán kho, người giữ kho, phương tiện phân phối, vận chuyển, cung cấp vật tư, thu hồi vật trong nội bộ nghiệp).

- Kiểm nắm lại tình hình vật kỹ thuật (số lượng, chất lượng, giá trị) vốn lưu động.

- Tính toán số cần dùng của nghiệp, số cần bổ sung hằng năm để lập kế hoạch vật kế hoạch vốn lưu động.

- Tiến hành quản lý, sử dụng vật theo định mức, kiểm tra chặt chẽ việc tiết kiệm vật tư.

- Xác định thanh toán các khoản nợ dây dưa.

Thứ ba, cải tiến công tác quản lao động quỹ lương:

- Xây dựng các định mức cần thiết một cách căn cứ khoa học (định mức lao động, định mức tiêu hao vật tư, định mức chất lượng sản phẩm).

Điện Yên Phụ

Công nhân Nhà máy Điện Yên Phụ vận hành máy, tháng 9/1970 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

- Đẩy mạnh mở rộng chế độ trả lương theo sản phẩm, lương khoán..., thực hiện các chế độ thưởng - phạt cho công nhân cán bộ quản lý, áp dụng lương giờ.

- Tiến hành quản kiểm soát việc chi tiêu quỹ lương theo mức thực hiện cân đối với các kế hoạch khác.

- Trên sở định mức lao động lập kế hoạch sử dụng lao động quỹ lương, xác định số lao động thừa để biện pháp tổ chức sắp xếp công việc trong ngành, hoặc điều động sang ngành khác.

- Chấn chỉnh tổ chức lao động trong nghiệp, phân xưởng, tổ, đội... làm đủ giờ công theo chế độ với định mức năng suất lao động nhất định.

- Tiến hành bồi dưỡng, bổ túc nghề nghiệp, sát hạch, sắp xếp nâng bậc công nhân theo chế độ, theo định kỳ.

Thứ tư, cải tiến công tác quy định kỹ thuật:

- Xây dựng thực hiện Điều lệ quản kỹ thuật, chú ý thực hiện chế độ chuẩn bị sản xuất toàn diện coi trọng việc giữ gìn, bảo quản tài sản cố định.

- Thực hiện chế độ bảo vệ, bảo quản, vận hành tu sửa thiết bị, nhất đối với các thiết bị quý đắt tiền.

- Xây dựng chế độ bảo quản, sử dụng tốt dụng cụ, đồ nghề, các phương tiện đo lường, kiểm tra, kiểm nghiệm... đối với các thứ sai hỏng thì sửa, thiếu thì sắm thêm.

- Xây dựng định mức tiêu hao vật cho từng loại thành phẩm.

- Xây dựng thực hiện định mức chất lượng thành phẩm, bảo đảm giá trị sử dụng phân loại thành phẩm để áp dụng chế độ thưởng phạt đối với vấn đề này; lập quy chế xuất xưởng.

- Xây dựng tổ chức thực hiện chế độ kiểm tra chất lượng sản phẩm, nghiệm thu sản phẩm.

- Đẩy mạnh công tác thí nghiệm, sản xuất thử thiết kế mặt hàng mới.

- Tăng cường tổ chức phổ biến các phát minh, sáng kiến thông tin kỹ thuật.

Thứ năm, vận dụng các đòn bẩy kinh tế trong quản nghiệp:

- Bộ máy tổ chức kế toán thống giúp cho giám đốc nghiệp tính toán tương đối chính xác chi phí sản xuất, tính lại giá thành hợp cho nghiệp, xác định giá bán buôn nghiệp, giá bán buôn công nghiệp lãi định mức của nghiệp, để căn cứ xác định chế độ nộp phân phối lợi nhuận.

Về mặt tổ chức, thống nhất tổ chức kế toán thống nghiệp, thực hiện đúng đắn các biểu báo thống số liệu ban đầu nhằm nâng cao tính thống nhất, tập trung, chính xác kịp thời của kế toán, thống hạch toán nghiệp vụ kỹ thuật.

- Phát huy tác dụng kiểm tra, giám đốc của kế toán, nâng cao trình độ phân tích hoạt động kinh tế để kịp thời sửa chữa các khuyết điểm, phát hiện khai thác tốt khả năng tiềm tàng của nghiệp.

- Chú trọng thực hiện tốt chế độ lương sản phẩm, chế độ thưởng phạt, chế độ phân phối lợi nhuận dưới hình thức ba quỹ cho một số nghiệp điều kiện.

Đối với chế độ lương theo sản phẩm: đẩy mạnh mở rộng chế độ trả lương theo sản phẩm trên sở định mức chặt chẽ, kiểm soát chặt chẽ để thể trở thành hình thức trả lương chủ yếu. Việc đẩy mạnh mở rộng chế độ trả lương theo sản phẩm dựa trên những điều kiện bản dự thảo điều lệ của Bộ Lao động đã đề ra đã được Thường vụ Hội đồng Chính phủ thông qua để chấp hành. Việc xây dựng định mức lao động phải tiến hành tại đơn vị sở dưới sự chỉ đạo của quan quản cấp trên.

Đối với chế độ thưởng phạt: tinh thần thưởng đối với những người thành tích trong việc thực hiện kế hoạch, vượt tiêu chuẩn phẩm chất, tiết kiệm nguyên vật liệu, giữ gìn thiết bị tốt, sửa chữa thiết bị giỏi; chế độ phạt nhằm vào những người hành vi hại đến các việc trên.

Đối với việc trích lập ba quỹ, thi hành đúng nội dung của bản điều lệ đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành, áp dụng trước tiên đối với các nghiệp làm thí điểm cải tiến quản lý.

c) Cải tiến tổ chức sản xuất, tổ chức quản nghiệp

- Chấn chỉnh lại dây chuyền công nghệ, thực hiện sự tập trung, thống nhất chỉ đạo vào người phụ trách nghiệp. Chú trọng đầy đủ cả về tổ chức sản xuất tổ chức quản lý.

- Soát lại dây chuyền sản xuất từ tổ sản xuất lên phân xưởng, các phòng, ban định lại biên chế của từng bộ phận. Tinh giản bộ máy quản lý, bỏ bớt các phòng ban trùng lắp về nhiệm vụ, bỏ bộ máy quản hành chính phân xưởng, thực hiện sự chỉ đạo tập trung của giám đốc phân công phó giám đốc theo ba lĩnh vực lớn: sản xuất, kỹ thuật, kinh tế. Nơi nào không phó giám đốc kinh tế thì chú trọng phát huy vai trò của kế toán trưởng. Đối với nghiệp lớn thì thể một phó giám đốc về đời sống.

- Xác định rành mạch cụ thể chế độ thủ trưởng, đưa chế độ này đi vào nền nếp, cụ thể là:

+ Giám đốc phải quản nghiệp toàn diện, chịu trách nhiệm về tài sản nghiệp về thực hiện các chi tiêu kế hoạch nhà nước, về hướng phát triển mở rộng nghiệp nộp lợi nhuận cho Nhà nước.

+ Chỉ huy sản xuất theo tiến độ tập trung vào người được phân công chịu trách nhiệm từ khâu chuẩn bị sản xuất đến ra thành phẩm cuối cùng. Xây dựng thi hành đúng đắn chế độ chỉ huy sản xuất của đốc công, quản đốc phân xưởng; bảo đảm hiệu lực của mệnh lệnh chỉ huy trong sản xuất, tập trung tối cao vào người phó giám đốc sản xuất hay phó giám đốc kỹ thuật.

+ Chế độ thủ trưởng được đề cao đi đôi với bảo đảm dân chủ pháp chế hội chủ nghĩa, bảo đảm xây dựng đội ngũ cán bộ, công nhân giỏi về kinh tế, kỹ thuật, vững vàng về chính trị, tưởng phẩm chất đạo đức.

Cùng với công tác cải tiến quản nghiệp, việc cải tiến hệ thống tổ chức quản toàn ngành công nghiệp cũng một nội dung lớn đề ra trong giai đoạn này.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.33, tr.89.

2. Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.2, tr.259.

3. Sự phát triển của một số ngành công nghiệp chủ yếu

a) Điện lực

Điện lực là mục tiêu bị đánh phá ác liệt trong chiến tranh; hầu như 100% các nhà máy điện bị đánh phá, trong đó nhiều nhà máy bị đánh nhiều lần. Với khẩu hiệu “giữ vững dòng điện như mạch máu”, cán bộ, công nhân viên ngành Điện tập trung cao độ cho công tác khôi phục các nhà máy điện, đảm bảo đường điện luôn thông suốt phục vụ kịp thời cho sản xuất và đời sống và đáp ứng các yêu cầu chiến đấu. Sau cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, ta đã lập tức khôi phục các lò hơi số 4 Nhà máy Điện Việt Trì, lò hơi số 2 Nhà máy Điện Uông Bí, nồi hơi Nhà máy Điện Yên Phụ và 25 cụm lò hơi nhỏ khác, đồng thời phát triển các trạm diesel để cung cấp cho các cơ sở không được dùng điện lưới.

thủy điện

Sau cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mỹ, Điện lực cũng là ngành hoàn thành sớm nhất việc khôi phục 100% các nhà máy điện bị hư hỏng vào năm 1974, cải tạo và mở rộng một loạt các nhà máy điện quan trọng: Uông Bí đợt II và III, đưa công suất từ 48 MW lên 55 MW, Thái Nguyên: công suất 24 MW, Hà Bắc và Việt Trì: công suất 12 MW. Hoàn thành xây dựng các nhà máy điện lớn như Nhiệt điện Ninh Bình: 100 MW, Thủy điện Thác Bà: 108 MW; chuẩn bị cho xây dựng Nhà máy điện Phả Lại, mở rộng các trạm biến áp 110 kV Đông Anh, Hà Đông, An Lạc; khôi phục các trạm biến áp Mông Dương, Trình Xuyên và các đường dây 110 kV quan trọng Ninh Bình - Thanh Hóa, Phả Lại - Hải Hưng, đường dây 220 kV Thanh Hóa - Vinh; xây dựng thêm các trạm diesel ở Khu IV cũ, các trạm bù công suất ở các khu công nghiệp lớn và các trạm biến thế phục vụ nông nghiệp.

Số lượng các nhà máy điện đã tăng từ 40 cơ sở năm 1965 lên hơn 50 cơ sở năm 1975. Năm 1975, lần đầu tiên miền Bắc đạt sản lượng điện 1,34 tỉ kWh, gấp hơn 2 lần mức của năm 1965, trong đó tỷ lệ điện dành cho sản xuất nông nghiệp tăng từ 2% (năm 1960) lên 6,1% (năm 1965) và 14,8% (năm 1975).

b) Luyện kim

Ngành Luyện kim bị đánh phá ác liệt và thiệt hại nặng nề, đặc biệt là Luyện kim đen. Dự kiến sản xuất 20 vạn tấn thép vào kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1965 - 1970) đã không thực hiện được. Hầu hết các sản phẩm khác đều giảm sút mạnh: gang giảm từ 127,8 nghìn tấn (năm 1965) xuống còn 95,1 nghìn tấn (năm 1975), quặng cromit giảm từ 13,1 nghìn tấn xuống còn 10,4 nghìn tấn, thiếc thỏi giảm từ 436 tấn xuống còn 263 tấn, riêng thép, năm 1975 bắt đầu sản xuất được 36 nghìn tấn.

Tuy nhiên, trong chiến tranh, chúng ta đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ nghiên cứu, thiết kế, xây dựng và luyện kim có trình độ, tiến hành khảo sát thăm dò được một trữ lượng trên 200 triệu tấn quặng sắt. Ngay khi chiến tranh vừa kết thúc vào năm 1975, khu Liên hợp Gang thép Thái Nguyên được khôi phục và cải tạo mở rộng với công suất 12 vạn tấn thép và 15 vạn tấn gang/năm, tiếp tục xây dựng Nhà máy Luyện cán thép Gia Sàng, khôi phục và mở rộng các mỏ Cromit Cổ Định (Thanh Hóa): 2 vạn tấn, Nhà máy Luyện thiếc Tĩnh Túc: 550 nghìn tấn quặng, mỏ graphite (Yên Bái): 600 nghìn tấn.

c) Cơ khí

Đây cũng là ngành bị đánh phá nặng nề và giảm sút mạnh trong thời kỳ chiến tranh. Năm 1968, khi đế quốc Mỹ tuyên bố ngừng ném bom phá hoại miền Bắc, một số sản phẩm cơ khí quan trọng đã sụt giảm so với cùng kỳ năm 1967 và không hoàn thành kế hoạch như bơm nước, rơmoóc, lốp ôtô, động cơ điện, tầu kéo, phụ tùng ôtô; sản xuất dụng cụ đồ nghề, nông cụ. Năm 1970, đế quốc Mỹ đã ngừng ném bom, nhưng so với năm 1969, sản lượng của ngành vẫn bị giảm nhiều do phải ngừng sản xuất các mặt hàng ứ đọng để chuyển sang sản xuất phụ tùng và sửa chữa.

Trong những năm 1973 - 1975, ngành Cơ khí đã tiến hành sắp xếp theo nhóm sản phẩm, tập trung đảm bảo sửa chữa nhanh chóng các phương tiện giao thông vận tải, mở rộng mạng lưới các trạm trại cơ khí nông nghiệp, chế tạo các thiết bị cho công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm.

d) Khai thác than

Trong chiến tranh, sản lượng than khai thác bị giảm mạnh và chỉ cung cấp đủ cho các nhà máy điện: cho các ngành như rèn, đúc, nung vôi, nung gạch thiếu than nghiêm trọng... Cũng lấy mốc kết thúc cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, là quý I/1968, khai thác đạt 70% kế hoạch và bằng 71% so với cùng kỳ năm 1967. Lượng than dự trữ tại các cảng còn rất mỏng: cảng Tiên Kiên còn 11 nghìn tấn, cảng Hải Phòng chỉ còn 3,4 nghìn tấn.

Từ năm 1973, miền Bắc trở lại thời kỳ hòa bình, ta đã khôi phục lại Nhà máy Sàng than Hòn Gai: 1 triệu tấn; Nhà máy Sàng than Cửa Ông: 2 triệu tấn (tương đương 2/3 công suất cũ); khôi phục và cải tạo 3 mỏ than lộ thiên ở Quảng Ninh có công suất 3,5 triệu tấn; xây dựng tiếp mỏ than Mông Dương: 0,9 triệu tấn; các mỏ than Vàng Danh: 1,8 triệu tấn; mỏ than Hà Lầm, Hữu Nghị: 0,3 triệu tấn; mỏ than Phấn Mễ: 10 vạn tấn; khởi công mỏ than Cao Sơn: 2 triệu tấn, Nhà máy Phân lân nung chảy Văn Điển... Sản lượng ngành Than cũng nhanh chóng được khôi phục và có bước nhảy vọt: Năm 1975, lần đầu tiên miền Bắc đạt sản lượng 5,2 triệu tấn than, vượt 1 triệu tấn so với mức năm 1965; trong đó chủ yếu nhờ vào tăng sản lượng khai thác mỏ than Hòn Gai từ 2,3 triệu tấn (năm 1971) lên 4,1 triệu tấn (năm 1975).

đ) Hóa chất phân bón

Khôi phục, cải tạo và mở rộng các cơ sở quan trọng như Hóa chất Việt Trì: 4.500 tấn, Supe Phốtphát Lâm Thao đợt II từ 18 vạn tấn lên 30 vạn tấn, Cao su Sao Vàng: 5 vạn bộ lốp ôtô và 3 triệu lốp xe đạp... Xây dựng thêm nhiều nhà máy mới như Phân đạm Hà Bắc: công suất 6 vạn tấn, Phân lân nung chảy Ninh Bình: 10 vạn tấn, Ắc quy Vĩnh Phú: 6 vạn kWh, các cơ sở nhỏ đắp lốp xe thuộc Bộ Giao thông vận tải, thuộc Tổng cục Hóa chất và thuộc các địa phương. Chuẩn bị khởi công Nhà máy Phân lân nung chảy Thanh Hóa, công suất 2 vạn tấn...

e) Sản xuất hàng tiêu dùng

Sản xuất hàng tiêu dùng cũng không tránh khỏi có những thời gian sút giảm và căng thẳng về cung ứng hàng hóa tiêu dùng, như giấy viết, chiếu cói, đồ sành sứ thủy tinh, đường mật, nước mắm, cá muối... Sau khi buộc Mỹ chấm dứt chiến tranh phá hoại, ta đã nhanh chóng khôi phục và cải tạo các cơ sở quan trọng như Dệt 8-3 với công suất 40 triệu mét vải, Dệt Nam Định: 60 triệu mét vải, Tơ lụa Nam Định: 7 triệu mét lụa, Sứ Hải Dương: 2.250 tấn sản phẩm, Bóng đèn Rạng Đông: 7 triệu cái. Khởi công xây dựng Nhà máy Dệt Minh Phương (Vĩnh Phú) do Trung Quốc giúp, Giấy Bãi Bằng (Vĩnh Phú) do Thuỵ Điển giúp, Dệt kim Thắng Lợi, May Xuất khẩu; thành lập các quốc doanh đánh cá và cảng cá Hạ Long, Cát Bà, Hải Phòng, Sông Gianh; xây dựng các nhà máy chè Nghĩa Lộ, Yên Bái, Trần Phú, Cửu Long, In nhãn hiệu Vĩnh Phú... Các địa phương cũng tự xây dựng nhiều cơ sở nhỏ chế biến chè, bột mì, ngô, khoai, sắn, đậu phụ, nước mắm, rau quả...

III. THƯƠNG MẠI

tiếp xăng dầu

Công nhân Công ty Xăng dầu khu vực I tiếp nhận xăng dầu tại Đông Anh năm 1970 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

cửa hàng cảng HP

Cửa hàng công nghệ phẩm khu phố Ngô Quyền, Hải Phòng mang hàng đến cảng bán cho công nhân, tháng 01/1969 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

tổ bán lẻ

Tổ bán lẻ bách hóa thuộc Xí nghiệp bán lẻ Lạng Sơn bảo đảm đưa hàng về tận tay người tiêu dùng, nhất là vùng nông thôn hẻo lánh, tháng 4/1969 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Danh mục

Tùy chỉnh