III- THƯƠNG MẠI

Năm 1996, sau 10 năm thực hiện đổi mới, những mục tiêu của kế hoạch 5 năm (1991 - 1995) đã hoàn thành, Việt Nam bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - hội; nhiệm vụ đặt ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa cũng bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, bối cảnh trong nước quốc tế những đổi thay nhanh chóng đòi hỏi phải những chính sách kịp thời nhằm thích ứng với bối cảnh mới.

Với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, sức sản xuất ngày càng nâng cao, đòi hỏi một khung khổ pháp cao hơn, tạo thuận lợi cho dòng chảy hàng hóa trong ngoài nước. Trên bình diện quốc tế, các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác liên kết về kinh tế, thương mại; mọi hội mở ra cho tất cả các quốc gia. Nhưng ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường,... thuộc về các nước phát triển các công ty đa quốc gia, nên doanh nhân các nước chậm phát triển đang phát triển, trong đó Việt Nam, luôn dễ bị tổn thương trong cuộc cạnh tranh không cân sức.

Thực hiện chủ trương của Đảng Nhà nước về: đa dạng hóa, đa phương hóa, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, các Bộ quản ngành Công Thương đã tham mưu, đề xuất, xây dựng nhiều chính sách thương mại theo hướng mở rộng các hoạt động thương mại trong nước, đi đôi với mở rộng quyền kinh doanh của các chủ thể Việt Nam trong các hoạt động thương mại với nước ngoài, góp phần từng bước thực hiện tự do hóa thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho sự lớn mạnh của tầng lớp thương nhân đủ sức tự bảo vệ mình trước những thách thức sức ép ngày càng lớn trong dòng chảy thương mại quốc tế.

Ngày 10/5/1997, Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật thương mại (có hiệu lực từ ngày 01/01/1998). Đây đạo luật thương mại đầu tiên, văn bản quan trọng ghi nhận giai đoạn phát triển kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa. Trước khi Luật thương mại được ban hành, các hoạt động thương mại nước ta được quy định một số văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ các bộ, ngành. Sự thiếu vắng một văn bản giá trị pháp cao đã hạn chế sự phát triển các hoạt động thương mại. Luật thương mại đạo luật đầu tiên thể chế các chính sách của Đảng Nhà nước về thương mại, cụ thể là:

- Công nhận quyền bình đẳng trước pháp luật của các tổ chức, nhân kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Các chủ thể được tham gia bình đẳng trước pháp luật vào các hoạt động thương mại.

- Thể hiện xu hướng mở rộng quyền kinh doanh thương mại, thúc đẩy hoạt động thương mại trên mọi lĩnh vực Nhà nước không cấm.

- Làm cho pháp luật thương mại Việt Nam phù hợp với pháp luật tập quán thương mại quốc tế, tạo sở pháp để xử các quan hệ kinh tế, thương mại trong đàm phán song phương đa phương với các nước, các tổ chức thương mại khu vực thế giới.

Để từng bước đưa các quy định của Luật thương mại vào cuộc sống, Bộ Thương mại (nay Bộ Công Thương) tiếp tục tham mưu xây dựng các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật thương mại. Trên sở các nghị định, các bộ, ngành đã ban hành hàng chục thông các văn bản hướng dẫn khác để thực hiện Luật. thể kể đến một số nghị định như:

- Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công đại mua bán hàng hóa với nước ngoài (ngày 02/8/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/2001/ NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/1998/ NĐ-CP). Nghị định này cùng với các văn bản hướng dẫn đã tạo ra một bước đột phá trong hoạt động xuất, nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia ngoại thương. Các phương thức mua bán phổ biến trong thương mại quốc tế như ủy thác, đại lý, tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu... cũng đã được pháp quy hóa trong Luật góp phần đa dạng hóa các loại hình hoạt động xuất, nhập khẩu.

- Nghị định số 11/1999/NĐ-CP ngày 03/3/1999 của Chính phủ về hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện; hàng hóa, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh, kinh doanh điều kiện (được bổ sung bởi Nghị định số 73/2002/NĐ-CP ngày 20/8/2002); Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh kinh doanh điều kiện. Đây văn bản quan trọng nhằm định hướng cho các hoạt động thương mại cụ thể hóa nguyên tắc thương nhân được kinh doanh những mặt hàng pháp luật không cấm.

- Nghị định số 20/1999/NĐ-CP ngày 12/4/1999 của Chính phủ về kinh doanh dịch vụ giám định hàng hóa; Nghị định số 20/2006/NĐ-CP ngày 20/02/2006 của Chính phủ quy đinh chi tiết Luật thương mại về kinh doanh dịch vụ giám định thương mại. Các nghị định hướng dẫn chi tiết những quy định trong Luật thương mại, đặc biệt phân biệt giữa kiểm tra bắt buộc giám định theo trưng cầu của Nhà nước đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu với giám định theo yêu cầu của các bên trong hợp đồng.

- Nghị định số 32/1999/NĐ-CP ngày 05/5/1999 của Chính phủ về khuyến mại, quảng cáo thương mại hội chợ, triển lãm thương mại; Nghị định số 24/2003/NĐ-CP ngày 13/3/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành pháp luật quảng cáo. Các nghị định này tạo sở pháp quan trọng cho các hình thức xúc tiến thương mại phát triển, góp phần thúc đẩy các hoạt động mua bán hàng hóa trong nước cũng như giao lưu thương mại quốc tế.

- Nghị định số 48/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ quy định về văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân của doanh nghiệp du lịch Việt Nam trong nước, nước ngoài; Nghị định số 45/2000/NĐ-CP ngày 06/9/2000 của Chính phủ về văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân nước ngoài của doanh nghiệp du lịch nước ngoài tại Việt Nam; Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều kiện của Luật du lịch. Các văn bản này sở pháp quan trọng để thương nhân Việt Nam mở rộng hoạt động thương mại ra nước ngoài cũng sở pháp tạo thuận lợi thu hút các hoạt động thương mại - du lịch của thương nhân nước ngoài vào Việt Nam.

Để tăng cường quản nhà nước về thương mại, tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam tự chủ hơn khi hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, năm 1999, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng; năm 2001, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế; năm 2002, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế; năm 2004, ban hành Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam Pháp lệnh chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, Luật cạnh tranh; năm 2005 ban hành Luật thương mại; năm 2006, ban hành Nghị định thư gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); năm 2010, ban hành Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Bên cạnh đó, Bộ Thương mại cũng ban hành các quyết định sau: Quyết định số 1681/QĐ-BTM ngày 15/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Thương mại quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cấu tổ chức của Cục Quản thị trường; Quyết định số 1249/QĐ-BTM ngày 31/7/2007 của Bộ trưởng Bộ Thương mại về việc sửa đổi, bổ sung Điều 3 Quyết định số 1681/QĐ-BTM về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cấu tổ chức của Cục Quản thị trường.

Việc hình thành khung khổ pháp hoạt động thương mại trong ngoài nước đã góp phần quan trọng vào phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng thương mại - dịch vụ, đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp ngư nghiệp.

III- THƯƠNG MẠI

Năm 1996, sau 10 năm thực hiện đổi mới, những mục tiêu của kế hoạch 5 năm (1991 - 1995) đã hoàn thành, Việt Nam bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - hội; nhiệm vụ đặt ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa cũng bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, bối cảnh trong nước quốc tế những đổi thay nhanh chóng đòi hỏi phải những chính sách kịp thời nhằm thích ứng với bối cảnh mới.

Với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, sức sản xuất ngày càng nâng cao, đòi hỏi một khung khổ pháp cao hơn, tạo thuận lợi cho dòng chảy hàng hóa trong ngoài nước. Trên bình diện quốc tế, các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác liên kết về kinh tế, thương mại; mọi hội mở ra cho tất cả các quốc gia. Nhưng ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường,... thuộc về các nước phát triển các công ty đa quốc gia, nên doanh nhân các nước chậm phát triển đang phát triển, trong đó Việt Nam, luôn dễ bị tổn thương trong cuộc cạnh tranh không cân sức.

Thực hiện chủ trương của Đảng Nhà nước về: đa dạng hóa, đa phương hóa, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, các Bộ quản ngành Công Thương đã tham mưu, đề xuất, xây dựng nhiều chính sách thương mại theo hướng mở rộng các hoạt động thương mại trong nước, đi đôi với mở rộng quyền kinh doanh của các chủ thể Việt Nam trong các hoạt động thương mại với nước ngoài, góp phần từng bước thực hiện tự do hóa thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho sự lớn mạnh của tầng lớp thương nhân đủ sức tự bảo vệ mình trước những thách thức sức ép ngày càng lớn trong dòng chảy thương mại quốc tế.

Ngày 10/5/1997, Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật thương mại (có hiệu lực từ ngày 01/01/1998). Đây đạo luật thương mại đầu tiên, văn bản quan trọng ghi nhận giai đoạn phát triển kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa. Trước khi Luật thương mại được ban hành, các hoạt động thương mại nước ta được quy định một số văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ các bộ, ngành. Sự thiếu vắng một văn bản giá trị pháp cao đã hạn chế sự phát triển các hoạt động thương mại. Luật thương mại đạo luật đầu tiên thể chế các chính sách của Đảng Nhà nước về thương mại, cụ thể là:

- Công nhận quyền bình đẳng trước pháp luật của các tổ chức, nhân kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Các chủ thể được tham gia bình đẳng trước pháp luật vào các hoạt động thương mại.

- Thể hiện xu hướng mở rộng quyền kinh doanh thương mại, thúc đẩy hoạt động thương mại trên mọi lĩnh vực Nhà nước không cấm.

- Làm cho pháp luật thương mại Việt Nam phù hợp với pháp luật tập quán thương mại quốc tế, tạo sở pháp để xử các quan hệ kinh tế, thương mại trong đàm phán song phương đa phương với các nước, các tổ chức thương mại khu vực thế giới.

Để từng bước đưa các quy định của Luật thương mại vào cuộc sống, Bộ Thương mại (nay Bộ Công Thương) tiếp tục tham mưu xây dựng các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật thương mại. Trên sở các nghị định, các bộ, ngành đã ban hành hàng chục thông các văn bản hướng dẫn khác để thực hiện Luật. thể kể đến một số nghị định như:

- Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công đại mua bán hàng hóa với nước ngoài (ngày 02/8/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/2001/ NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/1998/ NĐ-CP). Nghị định này cùng với các văn bản hướng dẫn đã tạo ra một bước đột phá trong hoạt động xuất, nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia ngoại thương. Các phương thức mua bán phổ biến trong thương mại quốc tế như ủy thác, đại lý, tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu... cũng đã được pháp quy hóa trong Luật góp phần đa dạng hóa các loại hình hoạt động xuất, nhập khẩu.

- Nghị định số 11/1999/NĐ-CP ngày 03/3/1999 của Chính phủ về hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện; hàng hóa, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh, kinh doanh điều kiện (được bổ sung bởi Nghị định số 73/2002/NĐ-CP ngày 20/8/2002); Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh kinh doanh điều kiện. Đây văn bản quan trọng nhằm định hướng cho các hoạt động thương mại cụ thể hóa nguyên tắc thương nhân được kinh doanh những mặt hàng pháp luật không cấm.

- Nghị định số 20/1999/NĐ-CP ngày 12/4/1999 của Chính phủ về kinh doanh dịch vụ giám định hàng hóa; Nghị định số 20/2006/NĐ-CP ngày 20/02/2006 của Chính phủ quy đinh chi tiết Luật thương mại về kinh doanh dịch vụ giám định thương mại. Các nghị định hướng dẫn chi tiết những quy định trong Luật thương mại, đặc biệt phân biệt giữa kiểm tra bắt buộc giám định theo trưng cầu của Nhà nước đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu với giám định theo yêu cầu của các bên trong hợp đồng.

- Nghị định số 32/1999/NĐ-CP ngày 05/5/1999 của Chính phủ về khuyến mại, quảng cáo thương mại hội chợ, triển lãm thương mại; Nghị định số 24/2003/NĐ-CP ngày 13/3/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành pháp luật quảng cáo. Các nghị định này tạo sở pháp quan trọng cho các hình thức xúc tiến thương mại phát triển, góp phần thúc đẩy các hoạt động mua bán hàng hóa trong nước cũng như giao lưu thương mại quốc tế.

- Nghị định số 48/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ quy định về văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân của doanh nghiệp du lịch Việt Nam trong nước, nước ngoài; Nghị định số 45/2000/NĐ-CP ngày 06/9/2000 của Chính phủ về văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân nước ngoài của doanh nghiệp du lịch nước ngoài tại Việt Nam; Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều kiện của Luật du lịch. Các văn bản này sở pháp quan trọng để thương nhân Việt Nam mở rộng hoạt động thương mại ra nước ngoài cũng sở pháp tạo thuận lợi thu hút các hoạt động thương mại - du lịch của thương nhân nước ngoài vào Việt Nam.

Để tăng cường quản nhà nước về thương mại, tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam tự chủ hơn khi hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, năm 1999, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng; năm 2001, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế; năm 2002, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế; năm 2004, ban hành Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam Pháp lệnh chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, Luật cạnh tranh; năm 2005 ban hành Luật thương mại; năm 2006, ban hành Nghị định thư gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); năm 2010, ban hành Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Bên cạnh đó, Bộ Thương mại cũng ban hành các quyết định sau: Quyết định số 1681/QĐ-BTM ngày 15/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Thương mại quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cấu tổ chức của Cục Quản thị trường; Quyết định số 1249/QĐ-BTM ngày 31/7/2007 của Bộ trưởng Bộ Thương mại về việc sửa đổi, bổ sung Điều 3 Quyết định số 1681/QĐ-BTM về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cấu tổ chức của Cục Quản thị trường.

Việc hình thành khung khổ pháp hoạt động thương mại trong ngoài nước đã góp phần quan trọng vào phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng thương mại - dịch vụ, đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp ngư nghiệp.

3. Tình hình phát triển một số ngành công nghiệp

a) Ngành Điện

Có thể chia hoạt động thành hai giai đoạn với những dấu ấn nổi bật:

Giai đoạn 1996 - 2005:

- Năm 1997, đã hoàn thành lắp đặt và đưa vào vận hành các tổ máy tuốcbin khí công suất 145 MW tại Phú Mỹ 2.1. Từ năm 1999, đã lần lượt xây dựng và đưa vào vận hành các nhà máy điện tuốcbin khí chu trình hỗn hợp công suất lớn, hiện đại, công nghệ tiên tiến, có hiệu suất và mức độ tự động hóa cao, sử dụng nhiên liệu chính là khí thiên nhiên từ các bể dầu khí Cửu Long, Nam Côn Sơn như: Nhà máy Điện Bà Rịa (390 MW), Trung tâm Điện lực Phú Mỹ với tổng công suất 3.890 MW.

- Năm 2002, khánh thành Nhà máy Thủy điện Ialy (720 MW), công trình thủy điện lớn nhất khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Đây cũng là công trình duy nhất ở Việt Nam có hệ thống cáp dầu với cấp điện áp 500 kV. Sản lượng điện bình quân theo thiết kế 3 tỉ 680 triệu kWh/năm. Phần lớn các hạng mục của công trình được xây dựng ngầm trong lòng núi.

- Luật điện lực năm 2004 chính thức được ban hành đã tạo ra khung cơ sở pháp lý chung cho quá trình cải cách và cấu trúc lại ngành điện, tạo hành lang cho việc từng bước thành lập thị trường điện cạnh tranh với mục đích thu hút đầu tư tư nhân và giảm đầu tư nhà nước trong lĩnh vực năng lượng, nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành Điện và phát triển một thị trường điện cạnh tranh, minh bạch, công bằng và không phân biệt đối xử. Luật cũng quy định về các hoạt động điện lực lập kế hoạch và đầu tư phát triển điện lực, sản xuất điện, truyền tải, phân phối và bán lẻ điện.

- Ngày 10/4/2005, Trung tâm Điện lực Phú Mỹ được khánh thành với 6 nhà máy điện có tổng công suất 3.890 MW, lớn gấp 2 lần Thủy điện Hòa Bình; trong đó, EVN đầu tư xây dựng Nhà máy Phú Mỹ 1,

thủy điện Ialy

Thủy điện Ialy được khởi công xây dựng ngày 01/11/1993 và khánh thành ngày 27/4/2002 (Ảnh: EVN)

Phú Mỹ 2.1, Phú Mỹ 2.1 mở rộng và Phú Mỹ 4; các nhà máy Phú Mỹ 3, Phú Mỹ 2.2 do các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo hình thức BOT. Đây là công trình quan trọng ghi nhận sự phát triển vượt bậc của ngành Công nghiệp điện lực Việt Nam. Đồng thời, qua việc tham gia xây dựng công trình, lực lượng tư vấn xây dựng điện của ngành đã bước đầu tiếp cận được công nghệ hiện đại và chủ động trong công tác tư vấn thiết kế nhà máy điện chạy khí.

- Ngày 19/10/2005, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã ký Quyết định số 258/2005/QĐ-TTg thành lập Cục Điều tiết điện lực (ERAV) thuộc Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương). Cục Điều tiết điện lực giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện chức năng điều tiết hoạt động điện lực và thị trường điện lực, nhằm góp phần cung cấp điện an toàn, ổn định, chất lượng, sử dụng điện tiết kiệm, có hiệu quả và bảo đảm tính công bằng, minh bạch, đúng quy định của pháp luật.

- Ngày 02/12/2005, Thủy điện Sơn La - công trình thủy điện lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á được khởi công xây dựng, với tổng công suất thiết kế 2.400 MW, sản lượng điện trung bình hằng năm 10,2 tỉ kWh. Tổng mức đầu tư là 36.933 tỉ đồng, đập chính của Thủy điện Sơn La cao 138,1 m, chiều dài đập 961 m. Ngày 17/12/2010, tổ máy số 1 Nhà máy Thủy điện Sơn La đã hòa thành công vào điện lưới quốc gia.

- Ngày 23/12/2012, EVN tổ chức Lễ khánh thành công trình Nhà máy Thủy điện Sơn La, về đích sớm 3 năm so với Nghị quyết của Quốc hội, làm lợi cho đất nước hàng chục nghìn tỉ đồng. Đây là công trình đa mục tiêu, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

- Sản lượng điện tăng mạnh, từ 16,9 tỉ kWh năm 1996 lên 26,7 tỉ kWh năm 2000 và 52,1 tỉ kWh năm 2005. Tổng công suất nguồn năm 2005 đạt trên 10.500 MW.

Giai đoạn 2006 - 2010:

- Ngày 26/01/2006, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 26/2006/ QĐ-TTg phê duyệt lộ trình, các điều kiện hình thành và phát triển các cấp độ thị trường điện tại Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu từng bước phát triển thị trường điện cạnh tranh, thu hút vốn đầu tư, nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh, thị trường điện lực tại Việt Nam sẽ được hình thành và phát triển qua ba cấp độ: Cấp độ 1 (2005 - 2014): Thị trường phát điện cạnh tranh; Cấp độ 2 (2015 - 2022): Thị trường bán buôn điện cạnh tranh; Cấp độ 3 (từ sau năm 2022): Thị trường bán lẻ điện cạnh tranh.

- Ngày 22/6/2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 147/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn Điện lực Việt Nam, với ba lĩnh vực sản xuất và kinh doanh chính là điện năng, viễn thông công cộng và cơ khí điện lực. Ngày 22/6/2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 148/2006/ QĐ-TTg về việc thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Ngày 17/12/2006, Tập đoàn Điện lực Việt Nam chính thức ra mắt, đánh dấu một bước ngoặt trọng đại, đưa ngành Điện nhanh chóng trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh, kinh doanh đa ngành nghề, đa sở hữu, có trình độ công nghệ, quản lý hiện đại, chuyên môn hóa cao và hội nhập quốc tế có hiệu quả.

- Ngày 31/12/2007, Hội đồng quản trị Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam đã ban hành Quyết định số 1182/QÐ-EVN-HÐQT về việc thành lập Công ty Mua bán điện (EPTC), với nhiệm vụ chính là lập kế hoạch, đàm phán, thực hiện các hợp đồng mua bán điện; thỏa thuận, ký kết thiết kế kỹ thuật, quản lý hệ thống đo đếm điện năng phục vụ mua bán điện; tham gia vận hành thị trường điện nội bộ và cạnh tranh... Công ty Mua bán điện đã và đang tự hoàn thiện, tiến hành nghiên cứu, đổi mới, đào tạo và chuẩn bị các điều kiện tối ưu, sẵn sàng cho các cấp độ tiếp theo của thị trường điện và hoạt động kinh doanh trong thời gian tới.

- Ngày 04/7/2008, Tổng Công ty Truyền tải điện quốc gia (EVNNPT) được thành lập với mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, do EVN sở hữu 100% vốn, gồm 4 công ty truyền tải điện 1, 2, 3, 4 và 3 ban quản lý dự án các công trình điện miền Bắc, miền Trung, miền Nam. EVNNPT có trách nhiệm đầu tư, tổ chức vận hành và quản lý hệ thống truyền tải điện từ 220 kV đến 500 kV của hệ thống điện quốc gia. Mục tiêu chính là cung cấp dịch vụ truyền tải điện an toàn, liên tục, ổn định và tin cậy; bảo đảm cung ứng điện cho các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội an ninh và quốc phòng cho đất nước; sản xuất - kinh doanh có hiệu quả, bảo toàn và phát triển nguồn vốn được giao.

- Đến cuối năm 2009, cả nước có 100% số huyện có điện lưới quốc gia và điện tại chỗ; 97,57% số hộ dân nông thôn sử dụng điện lưới quốc gia, vượt trước một năm so với mục tiêu của Chính phủ đề ra trong Chiến lược Phát triển năng lượng quốc gia.

- Tháng 4/2010, 5 tổng công ty điện lực đã ra mắt và chính thức đi vào hoạt động. Đó là: Tổng Công ty Điện lực miền Bắc (EVNNPC); Tổng Công ty Điện lực miền Nam (EVNSPC), Tổng Công ty Điện lực miền Trung (EVNCPC), Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội (EVNHANOI), Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh (EVNHCMC). Đây là bước ngoặt mới, giúp hoàn thiện cơ cấu tổ chức, mô hình quản lý, nâng cao quản trị doanh nghiệp, tạo đà cho sự phát triển trong sản xuất - kinh doanh của các đơn vị ngành Điện.

- Ngày 25/6/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 975/QĐ-TTg chuyển Công ty mẹ - Tập đoàn Điện lực Việt Nam thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu. Tên gọi sau khi chuyển đổi là: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp, các quy định pháp luật có liên quan và Điều lệ tổ chức hoạt động do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tại thời điểm chuyển đổi, vốn điều lệ của EVN là 110 nghìn tỉ đồng; ngành nghề kinh doanh chính là: sản xuất, điều độ, mua, bán buôn điện năng; xuất, nhập khẩu điện năng; đầu tư và quản lý vốn đầu tư các dự án điện. Đây là bước chuyển đổi quan trọng theo đúng lộ trình cam kết của Việt Nam với tổ chức WTO.

- Xây dựng và đưa vào vận hành các trung tâm điện lực: Vĩnh Tân, Duyên Hải, Hải Phòng, Quảng Ninh,...

- Nhằm đảm bảo đẩy nhanh tiến độ các công trình điện đáp ứng nhu cầu điện ngày càng cao, EVN đã được Chính phủ cho phép áp dụng cơ chế, chính sách đặc thù đối với các công trình điện. Cụ thể, các dự án thủy điện đang xây dựng và khởi công xây dựng trong giai đoạn 2006 - 2010 được thực hiện theo các cơ chế, chính sách quy định tại các văn bản của Chính phủ: Công văn số 797/CP-CN ngày 17/6/2003 và Công văn số 400/CP-CN ngày 26/3/2004. Tiếp đến, 14 dự án xây dựng điện cấp bách giai đoạn 2006 - 2010 và giai đoạn sau năm 2010 được tiếp tục áp dụng cơ chế này theo Quyết định số 1195/QĐ-TTg ngày 09/11/2005 của Chính phủ. Sau thời gian ngắn áp dụng, các cơ chế này đã thể hiện tính ưu việt, đạt được hiệu quả cao trong các dự án đầu tư xây dựng.

Giai đoạn 2006 - 2010, hệ thống điện lớn mạnh không ngừng, các nguồn điện ngày càng đa dạng: thủy điện, nhiệt điện than, nhiệt điện khí...; phát triển đồng bộ lưới truyền tải và hệ thống lưới điện phân phối. Lĩnh vực dịch vụ điện từng bước được hoàn thiện và có nhiều đổi mới. Năm 2010, sản lượng điện đạt 97,3 tỉ kWh, tăng gần gấp 2 lần so với năm 2005. Việc đưa điện về nông thôn được thực hiện tốt. Đến năm 2010, cả nước có 100% số huyện có điện. Tổng công suất lắp đặt năm 2010 đạt trên 20.000 MW, tăng 3,2 lần so với năm 2000.

b) Ngành Than

Các đơn vị ngành Than (Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Tổng Công ty Đông Bắc) đã đẩy nhanh tốc độ phát triển một cách bền vững để đáp ứng nhu cầu sử dụng than trong nước ngày càng tăng cao, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế - xã hội. Nếu năm 1996, sản lượng than khai thác mới đạt 9,8 triệu tấn; thì đến năm 2005, sản lượng than nguyên khai đạt trên 34 triệu tấn, tăng 2,93 lần so với năm 2000 và tăng 3,47 lần so với năm 1996. Năm 2010, sản lượng khai thác đạt 43,5 triệu tấn, gấp 1,28 lần năm 2005. Điều ấn tượng hơn, chỉ riêng Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, năm 2010 đã tiêu thụ được 42 triệu tấn, trong đó xuất khẩu đạt gần 19 triệu tấn, với giá trị xuất khẩu than và khoáng sản lên đến 1,4 tỉ USD.

Đầu những năm 2000, ngành Than bắt đầu tăng tốc đổi mới công nghệ khai thác, nhất là trong lĩnh vực khai thác hầm lò, tập trung vào cơ giới hóa, chống lò nhằm nâng cao năng suất lao động.

Năm 2002, Công ty Than Khe Chàm áp dụng thử nghiệm công nghệ cơ giới hóa khai thác sử dụng máy khấu than kết hợp chống lò bằng giá thủy lực di động. Sản lượng cao nhất đạt 22.300 tấn/tháng, năng suất lao động trung bình đạt 5,16 tấn/công - ca. Từ thành công của lò chợ cơ giới hóa này, năm 2005, Công ty nghiên cứu áp dụng thử nghiệm lò chợ cơ giới hóa đồng bộ sử dụng máy khấu combai với giàn chống tự hành.

Kết quả đạt được là sản lượng và năng suất của lò chợ cơ giới hóa đồng bộ đạt được cao hơn 1,5 - 2,5 lần so với lò chợ chống cột thủy lực đơn hoặc giá thủy lực di động. Cụ thể là công suất lò chợ đạt 380.000 tấn/năm, năng suất lao động đạt 7 - 14 tấn/công - ca, trung bình 10,5 tấn/công - ca.

Than Vàng Danh

Máy khấu than và giàn chống tự hành Vinaalta được áp dụng tại lò chợ của Công ty cổ phần Than Vàng Danh (Ảnh: Vinacomin)

Năm 2007, Công ty Than Vàng Danh triển khai áp dụng thử nghiệm công nghệ cơ giới hóa khai thác bằng máy combai khấu than và giàn chống tự hành VINAALTA trên cơ sở kết quả nghiên cứu đề tài cấp Nhà nước. Kết quả triển khai giai đoạn đầu khá tốt, sản lượng tăng 1,62 lần, năng suất lao động tăng 3,6 lần, tỷ lệ thu hồi than hạ trần tăng 12,6% so với lò chợ chống giữ bằng giá thủy lực di động, trong cùng một điều kiện.

Năm 2008, Công ty Than Mạo Khê và Công ty Than Hồng Thái đưa vào áp dụng thử nghiệm công nghệ cơ giới hóa bằng hệ thống khai thác cột dài theo độ dốc, chống giữ bằng tổ hợp giàn chống 2ANSH, khấu gương bằng máy bào than, công suất khai thác và năng suất lao động cao hơn 1,5 - 2 lần, chi phí mét lò chuẩn bị thấp hơn 7 lần và tổn thất công nghệ giảm hơn 2 lần so với sơ đồ công nghệ khai thác dọc vỉa phân tầng, chống giữ bằng giá thủy lực di động.

Năm 2010, Công ty Than Nam Mẫu áp dụng công nghệ cơ giới hóa khai thác vỉa dày. Sản lượng khai thác tăng 1,5 - 1,8 lần so với lò chợ chống giá khung thủy lực di động, có tháng đạt tới 36.000 tấn, số công nhân giảm 1,5 - 2 lần so với lò chợ thủ công, nên năng suất lao động lò chợ cơ giới hóa tăng 1,5 - 2,5 lần so với lò chợ thủ công: năng suất lao động lò chợ cơ giới hóa đạt 9 - 14 tấn/công - ca trong khi năng suất lao động tại lò chợ chống cột thủy lực đơn hoặc giá thủy lực di động chỉ 2,5 - 5 tấn/công - ca.

Có thể nói, cho đến năm 2010, vấn đề công nghệ cơ giới hóa khai thác cho điều kiện vỉa mỏng dốc đứng, vỉa dày, dốc thoải đến nghiêng về cơ bản đã được giải quyết, tiếp tục hoàn thiện và nhân rộng đại trà.

Một số dấu mốc quan trọng của TKV giai đoạn 1996 - 2010:

- Tháng 11/1996: Ngành Than đón nhận Huân chương Sao Vàng do có nhiều thành tích trong 50 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Theo Nghị định số 27/CP của Chính phủ, từ năm 1996 bắt đầu quá trình tách các mỏ than, nhà máy tuyển than, nhà máy cơ khí ra khỏi các công ty than 2 cấp vùng Hòn Gai, Cẩm Phả, Uông Bí để trở thành doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập của Tổng Công ty Than Việt Nam, đã góp phần tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất - kinh doanh, giải phóng tối đa năng lực sản xuất, tạo nên cơ cấu tổ chức cơ bản của TKV.

- Tháng 12/1997: Than Việt Nam đạt 10,7 triệu tấn than thương phẩm, hoàn thành vượt mức sản lượng của năm 2000 do Đại hội lần thứ VIII của Đảng giao cho ngành Than (10 triệu tấn).

- Năm 1998: Tự sản xuất thuốc nổ ANFO chịu nước dùng cho các mỏ lộ thiên thay cho thuốc nổ nhập ngoại.

- Tháng 5/1999: Đại hội công nhân viên chức Tổng Công ty Than Việt Nam quyết định điều chỉnh giảm sản xuất than theo nhu cầu thị trường, giải quyết thành công quan hệ cung - cầu do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực.

- Năm 1999: Thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp sản xuất than đầu tiên là Xí nghiệp Than Cẩm Phả thuộc Công ty Than Quảng Ninh (nay là Công ty Than Hạ Long).

- Quỹ Môi trường than Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 669/TCCB ngày 14/4/1999 của Tổng Công ty Than Việt Nam. Nhờ đó, các hoạt động bảo vệ môi trường trong khai thác than - khoáng sản đã từng bước đi vào nền nếp, có kế hoạch, đi vào chiều sâu, giải quyết được nhiều vấn đề môi trường ở vùng mỏ.

- Năm 2000: Tổng Công ty Than Việt Nam di chuyển hết cơ sở vật chất kỹ thuật (nhà sàng, kho than, kho vật tư, đường sắt, nhà máy cơ khí) ra khỏi trung tâm thành phố Hạ Long, chuyển cảng than Hòn Gai thành cảng vật tư - du lịch, nhường chỗ cho phát triển đô thị và bảo vệ môi trường.

- Tháng 5/2001: Tổng Công ty Cơ khí năng lượng và Mỏ sáp nhập vào Tổng Công ty Than Việt Nam.

- Tháng 4/2002: Khởi công xây dựng Nhà máy Điện Na Dương - Nhà máy nhiệt điện đầu tiên của Tập đoàn.

- Tháng 10/2002: Thành lập Trung tâm An toàn mỏ thực hiện chức năng nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, kiểm định... về lĩnh vực an toàn trong toàn ngành.

- Tháng 8/2003: Xuất xưởng lô xe tải KRAZ đầu tiên được lắp ráp tại Việt Nam.

- Tháng 12/2003: Đạt 18,8 triệu tấn than thương phẩm, vượt chỉ tiêu sản lượng của năm 2005 do Đại hội IX của Đảng đề ra cho ngành Than (15 triệu tấn).

- Tháng 12/2004: Đạt 24,7 triệu tấn than thương phẩm (trong đó xuất khẩu 10,5 triệu tấn), đạt mục tiêu quy hoạch của năm 2010 (23 - 24 triệu tấn).

- Ngày 06/01/2005: Tổng Công ty Than Việt Nam được Chủ tịch nước ký quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới.

- Ngày 08/8/2005: Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 198/2005/QĐ-TTg và Quyết định số 199/2005/QĐ-TTg tổ chức lại Tổng Công ty Than Việt Nam và các đơn vị thành viên thành lập Tập đoàn Than Việt Nam, hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con.

- Ngày 26/12/2005: Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 345/2005/QĐ-TTg thành lập Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam trên cơ sở Tập đoàn Than Việt Nam và Tổng Công ty Khoáng sản Việt Nam. Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam bắt đầu hoạt động từ ngày 01/01/2006.

- Ngày 09/10/2006: Cổ phiếu của Công ty cổ phần Than Cọc Sáu, Đèo Nai, Cao Sơn, Hà Tu tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội đã thu hút nhiều nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Tập đoàn đã hoàn thành việc chuyển đổi sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, chuyển phần lớn các công ty sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp.

- Năm 2010: Doanh thu đạt 69,6 nghìn tỉ đồng, đảm bảo đủ việc làm cho trên 132 nghìn công nhân viên chức lao động.

- Ngày 25/6/2010, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định chuyển công ty mẹ Tập đoàn TKV thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.

c) Công nghiệp khai thác bôxít - alumin - nhôm

Đại hội IX (tháng 4/2001) của Đảng đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, trong đó xác định một số định hướng phát triển cho vùng Tây Nguyên là “Khai thác và chế biến quặng bôxít”1. Đến Đại hội X (tháng 4/2006), Đảng ta tiếp tục xác định: “Nhà nước tập trung đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư để phát triển những sản phẩm quan trọng của nền kinh tế, như: lọc hoá dầu, khai thác quặng và luyện thép, phân bón, hoá chất, ximăng, khai thác bôxít và sản xuất alumin”2. Từ năm 2001 đến năm 2010, Bộ Chính trị đã nhiều lần bàn và ra các nghị quyết, kết luận để lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng ngành Công nghiệp bôxít, alumin, nhôm, phục vụ phát triển kinh tế đất nước nói chung, góp phần phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên nói riêng. Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 01/11/2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 167/2007/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng quặng bôxít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025. Chính phủ đã giao Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam là đơn vị có kinh nghiệm trong khai thác khoáng sản làm chủ đầu tư thực hiện hai dự án và chủ trì đàm phán với các đối tác nước ngoài có năng lực để hợp tác phát triển kết cấu hạ tầng và đầu tư xây dựng ngành Công nghiệp bôxít - alumin - nhôm. Năm 2008, đã khởi công xây dựng Nhà máy sản xuất alumin Tân Rai, năm 2010 khởi công Nhà máy sản xuất alumin Nhân Cơ do Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam làm chủ đầu tư. Tổ hợp Nhà máy alumin Tân Rai có công suất thiết kế 650.000 tấn alumin/năm, bao gồm 3 hợp phần là khai thác mỏ, nhà máy tuyển và nhà máy alumin. Tổ hợp Nhà máy alumina Nhân Cơ (tương tự như Tân Rai) có 3 nhà máy: Nhà máy alumin 650.000 tấn alumin/năm; Nhà máy nhiệt điện sử dụng than công suất 30 MW (2 tổ máy x 15 MW) và Nhà máy khí hóa than cấp nhiệt để nung hydrat chế biến thành alumin. Đồng thời, một nhà máy điện phân nhôm của chủ đầu tư là Công ty trách nhiệm hữu hạn Luyện kim Trần Hồng Quân, công suất thiết kế đến năm 2020 là 450.000 tấn nhôm/năm, được xây dựng tại khu công nghiệp Nhân Cơ, huyện Đăk R’lấp, tỉnh Đắk Nông. Theo đánh giá của Tổng hội Địa chất Việt Nam, trữ lượng công nghiệp của bôxít của Việt Nam là trên 7 tỉ tấn, đứng vào hàng thứ 3 về trữ lượng bôxít trên thế giới; trong đó, trữ lượng quặng bôxít laterít ở Nhân Cơ khoảng 4 tỉ tấn, còn trữ lượng tại Bảo Lộc khoảng 500 triệu tấn.

d) Ngành Dầu khí

Thành tựu quan trọng của ngành giai đoạn này là phát hiện, đưa vào khai thác có hiệu quả các giếng dầu, chế biến dầu khí và phát triển ngành Công nghiệp khí.

Về khai thác và chế biến dầu khí: Phát hiện và đưa vào khai thác các mỏ Sư tử đen, Sư tử vàng, Cá ngừ vàng, Sư tử trắng, Sư tử nâu, Nam rồng đồi mồi, Nam trung tâm rồng. Sản lượng khai thác từ năm 1996 đến năm 2010 đạt 232,32 triệu tấn dầu, bằng 82% tổng sản lượng khai thác từ khi có tấn dầu đầu tiên năm 1986 đến năm 2010. Đặc biệt, từ năm 2006, Việt Nam khai thác tấn dầu đầu tiên ở nước ngoài. Đó là Lô PM 304, có diện tích 10.260 km2, nằm trên thềm lục địa phía Đông bán đảo Malaixia, thuộc bể trầm tích Malay - Thổ Chu. Hợp đồng PSC lô PM-304 gồm các bên là Petrofac 30% là Nhà điều hành; Petronas Carigali 30%; Kufpec 25% và PIDC 15% (năm 2006). Dòng dầu đầu tiên từ mỏ Cendor, lô PM 304 Malaixia đã được khai thác vào ngày 23/9/2006, sản lượng khai thác tháng 11/2006 là 12.000 thùng/ngày (≈ 1.622 tấn/ngày).

- Năm 2008, Công ty Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) được thành lập đã đóng vai trò trụ cột trong ngành Hóa dầu Việt Nam. Sản phẩm của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất bao gồm xăng A92 và A95; nhiên liệu phản lực JET A1, nhựa đường, dầu ôtô diesel, dầu FO, khí ga hóa lỏng LPG, và nhựa Polypropylene (PP). Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất hạt nhựa Polypropylene, BSR đã đưa ra chiến lược sản xuất và xuất bán ra thị trường các chủng loại sản phẩm hạt nhựa Polypropylene mới như màng BOPP, F-5110, F-6070, Fiber, Cast Film và PP tự phân hủy trong thời gian đến. Ngày 30/5/2010, dự án Nhà máy Lọc dầu Dung Quất chính thức được bàn giao từ tổ hợp TPC sang cho chủ đầu tư, kết thúc giai đoạn xây dựng, vận hành chạy thử và nghiệm thu nhà máy.

Trong công nghiệp khí: Phát triển mạnh với ba hệ thống đường ống dẫn khí ở các bể Cửu Long, Nam Côn Sơn và Malay - Thổ Chu, với nhiều bước tiến quan trọng:

- Ngày 20/3/1996, Thủ tướng Võ Văn Kiệt chỉ đạo Chương trình Khí 1996 - 2000, đồng ý để PetroVietnam tham gia Dự án sản xuất phân đạm trong tổ hợp điện - đạm với các đối tác nước ngoài, sử dụng khí đồng hành mỏ Bạch Hổ, tiến hành lập báo cáo khả thi.

- Nhà máy sản xuất khí hóa lỏng (LPG) Dinh Cố đầu tiên của Việt Nam được khởi công xây dựng vào ngày 04/10/1997.

- Ngày 03/7/1999, Nhà máy được Hội đồng nghiệm thu Nhà nước nghiệm thu cho phép đưa vào sử dụng.

- Ngày 09/7/1999, Nhà máy Xử lý khí Dinh Cố chính thức vận hành. Đây là nhà máy xử lý khí đầu tiên của Việt Nam ứng dụng, chuyển giao các công nghệ hiện đại trong đầu tư xây dựng công trình khí với các thiết bị kỹ thuật hiện đại được chọn mua từ những nước có trình độ khoa học tiên tiến như Turbo Expander, hệ thống điều khiển DCS...

- Ngày 27/3/2001, dự án Nhà máy Đạm Phú Mỹ được khởi công. Đến ngày 15/12/2004, Nhà máy chính thức khánh thành. Dự án được đánh giá là rất thành công. Lần đầu tiên một công trình trọng điểm nằm trong chương trình khí - điện - đạm của Nhà nước đạt được cả ba mục tiêu: chất lượng, tiến độ và hiệu quả. Nhà máy Đạm Phú Mỹ sử dụng các công nghệ tiên tiến sản xuất amoniac của Hãng Haldor Topsoe (Đan Mạch) và sản xuất ure của SnamProgetti (Italia), thiết bị hiện đại của các nước G7 và EU theo tiêu chuẩn quốc tế, khi chạy thử đã ra được sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng và đạt công suất thiết kế. Tiến độ xây dựng được hoàn thành trong 34 tháng. Chi phí đầu tư 380 triệu USD, so với tổng dự toán được duyệt là 445 triệu USD, tiết kiệm được 65 triệu USD; so với hạn mức đầu tư là 486 triệu USD thì tiết kiệm được 106 triệu USD. Chỉ sau 5 năm, Nhà máy đã thu hồi vốn và trả hết nợ vốn vay.

Dinh Cố

Nhà máy Khí hóa lỏng Dinh Cố (Bà Rịa - Vũng Tàu) phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

- Ngày 04/4/2007, từ rừng U Minh hạ, tuốcbin 1 Nhà máy Điện Cà Mau 1 đã hòa lưới điện quốc gia. Đây là sự nỗ lực, quyết tâm không ngừng của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tổng công ty Lắp máy Việt Nam, các nhà thầu nước ngoài. Tuốcbin 1 Nhà máy điện Cà Mau 1 có công suất 230 MW (chạy bằng dầu DO) và 250 MW (chạy bằng khí) hòa lưới điện quốc gia là sự kiện có ý nghĩa to lớn trong thời điểm cả nước đang thiếu điện.

- Ngày 26/7/2008, Nhà máy Đạm Cà Mau - nằm trong tổ hợp dự án cụm khí - điện - đạm Cà Mau cũng chính thức khởi công. Đây được coi là mảnh ghép cuối cùng trong cụm dự án khí - điện - đạm Cà Mau, Nhà máy Đạm Cà Mau là công trình có quy mô lớn, dây chuyền công nghệ hiện đại với công suất thiết kế 800.000 tấn urê/năm. Nhà máy Đạm Cà Mau đi vào hoạt động đúng tiến độ và cung ứng kịp thời sản phẩm ra thị trường đã góp phần bảo đảm sự ổn định và chủ động về phân bón cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

- Ngày 18/6/2010, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 924/ QĐ-TTg chuyển Công ty mẹ - Tập đoàn Dầu khí Việt Nam thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.

Ngày 19/01/2009, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tổ chức Lễ đón nhận Danh hiệu Anh hùng Lao động. Kể từ năm 1986 - thời điểm tấn dầu thô đầu tiên được khai thác từ mỏ Bạch Hổ đến năm 2010, hằng năm Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đóng góp khoảng 20% vào GDP và 30% vào tổng thu ngân sách của đất nước, kim ngạch xuất khẩu trong toàn Tập đoàn chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

đ) Ngành Hóa chất

Giai đoạn 1996 - 2010, ngành Hóa chất chuyển hướng kịp thời sang cơ chế thị trường, đạt tốc độ tăng trưởng cao, bình quân dao động khoảng 10 - 15%/năm. Giai đoạn 2006 - 2010, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 11,1%/năm; lợi nhuận tăng bình quân 46%/năm; vốn chủ sở hữu tăng 2,9 lần so với năm gốc 2005.

Ngành Hóa chất có những phát triển vượt bậc và toàn diện trên các mặt sản xuất - kinh doanh, đầu tư xây dựng cơ bản, lao động sáng tạo, ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh lương thực. Mỗi năm cung cấp khoảng 1,4 triệu tấn phân chứa lân gồm supe photphat và phân lân nung chảy. Khoảng 1,4 - 1,6 triệu tấn phân NPK các loại và 150 nghìn tấn phân đạm.

Tính đến năm 2010, 10 phân ngành hóa chất đáp ứng cơ bản nhu cầu trong nước. Pin thông dụng đáp ứng 90%; ắc quy ôtô đáp ứng 60%, ắc quy xe máy đáp ứng 70%, sản phẩm cao su đáp ứng 70 - 75%, sản phẩm sơn đáp ứng 70%, bình quân 2 - 3 kg/người/năm, chất tẩy rửa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, bình quân 6 - 6,5 kg/người/năm. Nhiều đơn vị trong ngành có chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới. Casumina xếp hạng 59 năm 2007 và 60 năm 2008 trong số 75 công ty sản xuất cao su hàng đầu thế giới. Có những công ty sản xuất chất tẩy rửa trong nước đã ký được thỏa thuận khung 5 năm (2007 - 2012) với các đối tác tại thị trường Nhật Bản; thỏa thuận khung 10 năm (2009 - 2019) với đối tác Philíppin về cung cấp các sản phẩm bột giặt, nước rửa chén, nước xả vải3.

Ngành đầu tư mở rộng và cải tạo nhiều nhà máy phân bón hóa học như Đạm Hà Bắc, Lân Văn Điển, Supe Phốtphát và Hóa chất Lâm Thao; xuất hiện nhiều nhà máy sản xuất phân bón hỗn hợp NPK, phân vi sinh, phân hữu cơ sinh học như Phân bón Việt - Nhật, Bình Điền, Con Cò Vàng, Ba Con Cò, Thanh Bình, Đồng Nai. Đồng thời, có thêm các nhà máy phân bón hóa học lấy nguyên liệu từ khí đồng hành: Nhà máy Đạm Phú Mỹ, Cà Mau. Năm 2010, tổng nhu cầu phân bón cả nước khoảng 9,1 triệu tấn, sản xuất trong nước đã đạt trên 6 triệu tấn, đáp ứng được trên 67% tổng nhu cầu phục vụ sản xuất nông nghiệp, còn lại là nhập khẩu.

Đơn vị chủ lực trong ngành là Tổng Công ty Hóa chất có sự biến động về tổ chức:

Ngày 24/4/2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 89/2006/QĐ-TTg phê duyệt đề án chuyển Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con và Quyết định số 90/2006/QĐ-TTg về việc thành lập Công ty mẹ - Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam. Tại thời điểm thành lập, Công ty mẹ - Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam có 23 công ty con; trong đó có 2 công ty trách nhiệm hữu hạn, 11 công ty liên kết; 4 công ty liên doanh và 2 đơn vị sự nghiệp. Từ đó, Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc. Năm 2006, tổng vốn chủ sở hữu của Tổng Công ty là 4.342 tỉ đồng, năm 2010 đã đạt 10.695 tỉ đồng, tăng 2,46 lần.

Ngày 23/12/2009, Thủ tướng ban hành Quyết định số 2180/QĐ-TTg thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (VINACHEM). Tập đoàn Hóa chất Việt Nam là doanh nghiệp đa sở hữu; trong đó sở hữu nhà nước là chi phối, hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con.

dây chuyền lá cách

Dây chuyền sản xuất lá cách của Jungfer (Áo) - Công trình đầu tư đầu tiên của Công ty cổ phần Pin Ắc quy miền Nam (PINACO), năm 1991 (Ảnh: PINACO)

Tại thời điểm thành lập, Tập đoàn có 10 công ty con do tập đoàn nắm giữ 100% vốn điều lệ, 17 công ty con do tập đoàn nắm giữ trên 50% vốn điều lệ khi cổ phần hóa, 16 công ty con do tập đoàn nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ, 1 viện nghiên cứu, 1 trường cao đẳng. Ngành kinh doanh chính là sản xuất - kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất cơ bản, sản phẩm cao su, pin và ắc quy, chất giặt rửa và mỹ phẩm, khí công nghiệp, khai khoáng, sản phẩm hóa dầu, hóa dược...

Ngày 23/6/2010, tại Quyết định số 953/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Công ty mẹ - Tập đoàn Hóa chất Việt Nam được chuyển đổi thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Tập đoàn Hóa chất Việt Nam do Nhà nước làm chủ sở hữu.

Sự ra đời của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam là một dấu ấn quan trọng, giữ vai trò nòng cốt trong phát triển các phân ngành hóa chất và trở thành doanh nghiệp hàng đầu của ngành Hóa chất Việt Nam trong sản xuất hóa chất cơ bản, các sản phẩm hóa chất phục vụ sản xuất nông nghiệp và tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu. Đồng thời, Tập đoàn có điều kiện đầu tư tập trung vào các dự án góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đảm bảo nhu cầu phân bón (lân, đạm - urê, NPK) trong nước.

e) Ngành Cơ khí

Xác định ngành Cơ khí là ngành công nghiệp then chốt, Đảng và Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản khuyến khích phát triển như:

- Quyết định số 186/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/12/2002 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Cơ khí Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn tới năm 2020.

- Kết luận số 25-KL/TW ngày 17/10/2003 của Bộ Chính trị về Chiến lược phát triển ngành Cơ khí Việt Nam.

- Quyết định số 10/2009/QĐ-TTg ngày 16/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm và danh mục các sản phẩm cơ khí trọng điểm, danh mục dự án đầu tư sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2015.

- Chỉ thị số 494/CT-TTg ngày 20/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc sử dụng vật tư, hàng hóa sản xuất trong nước trong công tác đấu thầu các dự án sử dụng vốn nhà nước.

Những chính sách trên đã tạo khung khổ pháp lý cho việc tập trung phát triển ngành Cơ khí một cách có hiệu quả, bền vững trên cơ sở phát huy mọi nguồn lực trong nước kết hợp với nguồn lực bên ngoài. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển ngành Cơ khí một cách có tổ chức, phân công và hợp tác hợp lý, đồng thời tiếp tục đổi mới, sắp xếp phát triển và củng cố doanh nghiệp nhà nước về cơ khí đủ mạnh để giữ vai trò nòng cốt, là lực lượng chủ lực của ngành.

Một số lĩnh vực có sự chuyển biến, đột phá như:

+ Chế tạo thiết bị thủy công (cung cấp cho các công trình nhà máy thủy điện lớn, nhỏ trong cả nước), chế tạo giàn khoan dầu khí (cung cấp khoan thăm dò, khai thác dầu khí đến độ sâu 120 m, giàn khoan tự nâng 90 m nước, giàn khoan khai thác giếng dầu).

+ Chế tạo và cung cấp thiết bị cho các nhà máy ximăng, đóng tàu các loại (tàu chở dầu đến trọng tải 105 nghìn DWT, tàu chở khí hóa lỏng trọng tải đến 5.000 tấn, tàu chở hàng rời...), các công trình thiết bị toàn bộ (nhà máy đường công suất 1.000 tấn mía/ngày, chế biến mủ cao su công suất 6.000 tấn/năm).

+ Cơ khí chế tạo trong nước cũng đã sản xuất, lắp ráp được hầu hết các chủng loại xe ôtô con, xe tải, xe khách; sản xuất xe máy đã có tỷ lệ nội địa hóa 85 - 95%, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Đến năm 2010, cả nước đã có một hệ thống các nhà máy cơ khí với đủ các quy mô lớn nhỏ. Tại một số địa phương, vùng kinh tế đã hình thành mô hình cụm ngành về cơ khí chế tạo (như khu phức hợp cơ khí Chu Lai - Quảng Nam...). Ngành Cơ khí cũng đã hình thành một số doanh nghiệp có tiềm năng phát triển ngang tầm khu vực như Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam Lilama, Tổng Công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp Việt Nam, Tổng Công ty Máy và Thiết bị công nghiệp (MIE), Tổng Công ty Thiết bị Điện... Đồng thời, mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp tư nhân phát triển, như Công ty cổ phần Ôtô Trường Hải, Xí nghiệp Cơ khí Quang Trung (Ninh Bình)... cũng như thu hút nhiều doanh nghiệp cơ khí FDI hàng đầu thế giới vào hoạt động, như Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghiệp nặng Doosan Việt Nam được cấp chứng nhận đầu tư năm 2006 tại Khu Kinh tế Dung Quất với vốn đầu tư 300 triệu USD/110 ha, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất các thiết bị công nghiệp nặng như nồi hơi cho các nhà máy nhiệt điện, cẩu trục bốc dỡ hàng cho các hệ thống cảng biển, thiết bị xử lý nước biển thành nước ngọt cho sinh hoạt và một vài sản phẩm cơ khí trọng điểm khác, hay Công ty trách nhiệm hữu hạn Leaderweld Alloy Rod Việt Nam - “chuyên gia” sản xuất các loại que hàn và dây hàn.

Nhiều công ty cơ khí trong nước trở thành nhà cung cấp phụ tùng chính thức cho các liên doanh lớn tại Việt Nam như: Honda, Piaggio, Yamaha, SYM... VEAM có thể sản xuất được các chi tiết phần khung và chi tiết phần động cơ, đặc biệt có những chi tiết động cơ dạng khó như: Trục khuỷu (Crankshaft), Tay biên (Connecting Rod)...

Hiện nay, cơ khí Việt Nam có thế mạnh tập trung ở ba phân ngành gồm xe máy và phụ tùng linh kiện xe máy, cơ khí gia dụng và dụng cụ, ôtô và phụ tùng ôtô. Ba phân ngành này chiếm gần 70% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cơ khí cả nước.

f) Ngành Dệt may

Việc thành lập Tổng Công ty Dệt may Việt Nam đã tạo cú hích dẫn dắt ngành Dệt may phát triển mạnh mẽ về số lượng, chất lượng và quy mô. Trong tất cả các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu giai đoạn 2000 - 2010, Dệt may là ngành có kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng lớn nhất, khoảng 18%/năm, chiếm 15% kim ngạch xuất khẩu cả nước.

Giai đoạn này Dệt may là một trong những ngành điển hình thành công trong chiến lược phát triển nhờ các chính sách đặc thù của Chính phủ. Chiến lược phát triển và một số cơ chế, chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lược phát triển ngành Dệt may Việt Nam đến năm 2010 (thường gọi là Chiến lược tăng tốc ngành Dệt may) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg ngày 23/4/2001 đã đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng mạnh mẽ của ngành giai đoạn 2001 - 2005, 2006 - 2010, tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn sau.

Dấu ấn nổi bật nhất của ngành là chuyển dần từ phương thức gia công xuất khẩu sang sản xuất FOB (mua nguyên liệu, bán thành phẩm) và tái cấu trúc sản xuất ngành may.

Ngành bắt đầu quan tâm đến đầu tư phát triển các khu công nghiệp sản xuất vải (dệt, in, nhuộm, hoàn tất), có hệ thống xử lý nước thải nhằm từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và quan tâm đến thị trường nội địa.

g) Ngành Da giày

Da giày cũng là ngành thâm dụng lao động và hướng về xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu luôn đứng sau dệt may, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Hằng năm, 90% sản phẩm do ngành Da giày sản xuất được xuất khẩu sang các thị trường quốc tế, trong đó EU chiếm 70%, Mỹ 20%, Nhật Bản 3%.

Từ năm 2004 đến năm 2010, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu da giày đứng thứ 4 thế giới, sau Trung Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc) và Italy. Khoảng 60% các sản phẩm da giày xuất khẩu theo phương thức gia công cho đối tác nước ngoài dưới hình thức theo đơn đặt hàng. Đầu những năm 2000, ngành Da giày bắt đầu chú ý tới thị trường nội địa.

h) Ngành Công nghiệp thực phẩm

Chế biến thực phẩm là ngành Việt Nam đang có nhiều lợi thế và có tiềm năng phát triển tốt. Tuy nhiên, sự phát triển của ngành cũng phụ thuộc và chịu ảnh hưởng rất nhiều vào thị trường xuất khẩu, với những yêu cầu khắt khe về an toàn thực phẩm, chất lượng và sức ép cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Các ngành có tốc độ tăng trưởng tốt là chế biến mía đường, sản xuất bia; sản xuất sản phẩm từ bơ, sữa; sản xuất và xay xát bột thô; thuỷ hải sản chế biến và nhất là chế biến thực phẩm đóng hộp. Nhiều doanh nghiệp đứng vững được cả trên thị trường nội địa và xuất khẩu như Công ty Xuất khẩu Rau quả Tiền Giang; Công ty Thực phẩm Xuất khẩu Đồng Giao, Công ty cổ phần Việt Nam Kỹ nghệ Súc sản Vissan, Tổng Công ty Rau quả, nông sản (Vegetexco Vietnam), Công ty Đồ hộp Hạ Long, Tổng Công ty Dầu thực vật Việt Nam (VOCARIMEX)... Sản phẩm đóng hộp của các công ty trong nước phong phú, đa dạng, chiếm lĩnh khá tốt thị trường nội địa. Năm 2010, riêng Công ty cổ phần Việt Nam Kỹ nghệ Súc sản Vissan đã có hơn 100 nhãn hàng thuộc nhóm thực phẩm đóng hộp, chiếm 29% thị phần.

i) Ngành Công nghiệp điện tử

Năm 1996, ngành bắt đầu thu được 90 triệu USD từ xuất khẩu. Đến năm 2000, doanh thu xuất khẩu của ngành tăng lên tới 783 triệu USD và sản phẩm điện tử đã được xuất khẩu tới 35 nước trên thế giới.

Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu các mặt hàng thuộc ngành Công nghiệp điện tử của Việt Nam giai đoạn 2003 - 2010 phát triển vượt bậc, đến năm 2005 đạt 1,4 tỉ USD và 3,6 tỉ USD năm 2010. Nhiều hãng điện tử nổi tiếng nước ngoài đầu tư vào Việt Nam như Canon, Intel, Panasonic...

Ba thành tựu từ Chiến lược phát triển ngành Cơ khí

Theo đề nghị của Bộ Công nghiệp tại Công văn số 3608/TTr-KHĐT ngày 10/9/2002, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã ký ban hành Quyết định số 186/2002/QĐ-TTg ngày 26/12/2002 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Cơ khí Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Sau 8 năm thực hiện (2003 - 2010), ngành Công nghiệp cơ khí đã đạt được ba thành tựu cơ bản:

Thứ nhất, Chính phủ đã ban hành những chính sách hỗ trợ quan trọng để định hướng phát triển ngành Cơ khí, bảo vệ thị trường trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cơ khí trong nước tham gia chế tạo thiết bị cơ khí trong các dự án công nghiệp như: thủy điện, nhiệt điện, ximăng... Có thể kể là: Quyết định số 112/2003/QĐ-TTg ngày 09/6/2003 về việc thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình sản phẩm cơ khí trọng điểm do Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban; Quyết định số 10/2009/QĐ-TTg ngày 16/01/2009 về cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm và danh mục các sản phẩm cơ khí trọng điểm, danh mục dự án đầu tư sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2015. Cùng với đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một số cơ chế, chính sách khác để hỗ trợ ngành Cơ khí về: công tác đấu thầu; chế tạo thiết bị cơ khí thủy công; chế tạo thiết bị nhà máy nhiệt điện; về phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ... Các bộ, ban, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ của mình cũng đã ban hành tương đối đầy đủ hệ thống chính sách hướng dẫn thi hành các chính sách của Chính phủ về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư.

Thứ hai, công tác tư vấn thiết kế đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Chúng ta đã làm chủ được công tác thiết kế các nhóm thiết bị có hàm lượng công nghệ khá như: thiết bị cơ khí thủy công, một số cụm chi tiết của các nhà máy sản xuất công nghiệp. Để phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, một hệ thống các phòng thí nghiệm hiện đại đã được Nhà nước đầu tư, đây là những cơ sở nghiên cứu khoa học phục vụ cho chiến lược phát triển ngành Cơ khí. Với sự cố gắng và sáng tạo trong nghiên cứu khoa học của tập thể cán bộ nghiên cứu, nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã được ứng dụng có hiệu quả trong các ngành kinh tế của đất nước.

Thứ ba, các sản phẩm trước đây phải nhập khẩu hoàn toàn đã từng bước được thay thế bằng sản phẩm do ngành Cơ khí trong nước chế tạo. Các doanh nghiệp cơ khí trong nước đã làm chủ được công nghệ, sản xuất được các loại thiết bị cơ khí thủy công cho các nhà máy thủy điện; dây chuyền thiết bị đồng bộ cho các nhà máy công nghiệp.

Những kết quả đó của ngành Cơ khí đã góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.259

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.65, tr.274.

3. Xem Bộ Công Thương: Ngành Công Thương Việt Nam sau 25 năm đổi mới (Lưu hành nội bộ), Sđd, tr.243-244.

1. Hoạt động nội thương

Sản xuất phát triển, đời sống của các tầng lớp dân cư nhìn chung được cải thiện đã làm cho sức mua của thị trường trong nước tăng lên đáng kể. Mặt khác, việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đã tạo điều kiện cho hoạt động của thương mại ngày càng phù hợp với cơ chế thị trường, nên thị trường trong nước duy trì được mức tăng trưởng ổn định, lưu thông hàng hóa thông suốt, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng đa dạng và không ngừng tăng lên của sản xuất và đời sống. Tốc độ tăng trưởng của khu vực thương mại - dịch vụ qua 5 năm 1996 - 2000, 2001 - 2005 và 2006 - 2010 đều theo hướng đi lên.

bảng 62

bảng 63

bảng 64

So sánh tốc độ tăng của ba khu vực: Tăng trưởng của khu vực nông, lâm, thủy sản có xu hướng giảm qua các năm, từ 4,30% mỗi năm giai đoạn 1996 - 2000, giảm xuống 3,83%/năm giai đoạn 2001 - 2005, giảm tiếp xuống 3,34%/năm giai đoạn 2006 - 2010. Tương tự, tăng trưởng khu vực công nghiệp - xây dựng cũng giảm dần từ 10,6% mỗi năm giai đoạn 1996 - 2000, giảm xuống 10,25%/năm giai đoạn 2001 - 2005, giảm tiếp xuống 7,94%/năm giai đoạn 2006 - 2010. Duy nhất khu vực thương mại - dịch vụ có xu hướng tăng, từ 5,75%/năm giai đoạn 1996 - 2000, tăng lên 6,96%/năm giai đoạn 2001 - 2005, tăng tiếp lên 7,73%/năm giai đoạn 2006 - 2010.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ cuối giai đoạn 2001 - 2010 gấp 1,5 lần đầu giai đoạn, đạt 219.400 tỉ đồng so với 145.874 tỉ đồng, mức tăng trưởng bình quân 5,75%/năm. Giá trị hàng hóa và doanh thu dịch vụ của ba khu vực quốc doanh, tập thể, tư nhân đều tăng, nhưng xét về cơ cấu, khu vực quốc doanh và tập thể có xu hướng giảm, ngược lại, khu vực tư nhân có xu hướng tăng.

Về cơ cấu, không có những biến động đáng kể, thể hiện trên hai mặt: Thứ nhất, không có sự “đổi ngôi” của ba khu vực. Trong 10 năm 2001 - 2010, dẫn đầu luôn là bán lẻ, tiếp theo là dịch vụ lưu trú, ăn uống, cuối cùng là du lịch và dịch vụ khác. Thứ hai, mức dao động của mỗi khu vực không cao. Lấy tỷ trọng cao nhất của khu vực du lịch và các dịch vụ khác năm 2008 là 11% với năm thấp nhất 2001 là 6%, dao động cũng chỉ 5%. Mức dao động của hai khu vực tiếp theo còn thấp hơn nữa. Tỷ trọng cao nhất của dịch vụ lưu trú, ăn uống năm 2002 là 12,7%, so với năm thấp nhất 2010 là 11,1%, mức dao động 1,6%. Tương tự, tỷ trọng cao nhất của bán lẻ năm 2001 là 81,5% so với năm thấp nhất 2007 là 77%, dao động cũng chỉ 4,5%.

Xét về giá trị tuyệt đối, qua từng 5 năm, tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ ngày càng tăng cao. Trong 5 năm đầu (2001 - 2005), tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ của năm cuối kỳ (2005) là 480,3 nghìn tỉ đồng, cao gấp 1,96 lần năm đầu kỳ (2001) là 245,3 nghìn tỉ đồng. Đến 5 năm tiếp theo (2006 - 2010), tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ năm cuối kỳ (năm 2010) đã tăng 2,58 lần so với năm đầu kỳ (2006). Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ của 5 năm 2006 - 2010 đạt 5,105 triệu tỉ đồng, gấp 2,86 lần so với 1,738 triệu tỉ đồng của 5 năm 2001 - 2005. Hoạt động bán lẻ ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Trong 5 năm 1996 - 2000, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 913,694 nghìn tỉ đồng, tương đương 18,01% GDP cùng thời kỳ (5,072 triệu tỉ đồng). Tương tự, giai đoạn 2001 - 2005 tổng mức bán lẻ đạt 1,738 triệu tỉ đồng, tương đương 25,06% GDP (6,934 triệu tỉ đồng); giai đoạn 2006 - 2010 tổng mức bán lẻ đạt 5,105 triệu tỉ đồng, tương đương 53% GDP (9,631 triệu tỉ đồng).

Tốc độ tăng trưởng và khối lượng luân chuyển của khu vực thương mại - dịch vụ được coi là ấn tượng nhờ sự đóng góp quan trọng của các chính sách liên tục được cập nhật, điều chỉnh sát với thực tiễn trong thời kỳ này. Đó là sự ra đời của Luật thương mại năm 1997, quy định một cách có hệ thống về các hoạt động thương mại hàng hóa như mua bán hàng hóa, đại diện, môi giới, ủy thác, đại lý, gia công, đấu giá, đấu thầu; các dịch vụ thương mại như giao nhận hàng hóa, giám định hàng hóa và các hoạt động xúc tiến thương mại như khuyến mại, quảng cáo... Tiếp đó, Luật thương mại năm 2005 đã điều chỉnh theo hướng mở rộng nội hàm của khái niệm hoạt động thương mại. So với Luật thương mại năm 1997, phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại năm 2005 không còn bị giới hạn bởi 14 hành vi thương mại mà đã được mở rộng ra tất cả các hoạt động “nhằm mục đích sinh lợi”. Đối tượng điều chỉnh của Luật thương mại năm 2005 là hoạt động thương mại của thương nhân và vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Những lĩnh vực Luật thương mại điều chỉnh có sự tiếp cận của Bộ luật dân sự, ở chừng mực nào đó Bộ luật dân sự được xem là luật “mẹ” được sử dụng để điều chỉnh đối với các hoạt động kinh doanh sinh lời.

Hoạt động xúc tiến thương mại bắt đầu được chú trọng, hệ thống các cơ quan xúc tiến thương mại hình thành và phát triển mạnh trong giai đoạn này. Trước năm 1996, có 3 trung tâm xúc tiến thương mại ở địa phương được thành lập (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thái Bình). Trong giai đoạn 1996 - 2010, có 51/63 địa phương thành lập trung tâm xúc tiến thương mại.

Lần đầu tiên cơ chế hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại được hình thành thông qua các Chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 57/2003/QĐ-TTg nhằm hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thông qua các hiệp hội ngành hàng, tổng công ty. Năm 2005, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg (được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 80/2009/QĐ-TTg ngày 21/5/2009) ban hành Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006 - 2010. Đến năm 2010 cơ chế chính sách hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại thông qua Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia thực hiện theo Quyết định số 72/2010/QĐ-TTg. Cơ chế theo Quyết định 72/2010/QĐ-TTg toàn diện hơn, bao trùm cả hoạt động xúc tiến thương mại cho phát triển xuất khẩu, thị trường trong nước, thị trường miền núi, biên giới, hải đảo. Từ đó hoạt động xúc tiến thương mại đóng góp vai trò ngày càng quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; củng cố, giữ vững thị phần và phát triển thị trường trong nước trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp nước ngoài, khai thác tối ưu các thị trường nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo.

Hệ thống siêu thị thuần Việt lâu đời nhất

Bà Nguyễn Thị Nghĩa - nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Saigon Co.op, thường được biết đến với tên gọi Chín Ngân - bí danh khi hoạt động ở Sài Gòn trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ - kể lại:

Vào những năm 1990, Sài Gòn có khoảng 300 hợp tác xã nhưng mất dần chỉ còn trên 100 đơn vị. Lúc đó, Ban quản lý hợp tác xã Mua bán mà bà là Trưởng ban cũng trong tình thế khó khăn. Đây cũng là lúc ý tưởng hình thành siêu thị bùng cháy trong bà.

Tuy nhiên, hợp tác xã không đủ tiền nên bà quyết định liên doanh với một công ty bán lẻ Nhật Bản. Mối “lương duyên” không thành. Phía Nhật rút vốn trước hạn và chấp nhận đền bù. Bà lấy 3 tỉ đồng đền bù mở siêu thị.

Ngày 09/02/1996, Saigon Co.op chính thức ra mắt siêu thị Co.opmart đầu tiên - Co.opmart Cống Quỳnh được khai trương và trở thành một sự kiện đáng nhớ. Mọi người kéo nhau đến xem, phần đông vì hiếu kỳ, dẫn tới cảnh xô đẩy nhau vỡ cả cửa kính.

Năm 1996 đã có siêu thị Maximart và Citimart, nhưng đó không phải là đối thủ của Saigon Co.op. Hai siêu thị này tập trung vào hàng ngoại nhập, hướng tới giới nhà giàu, còn Co.opmart tập trung vào phân khúc bình dân, bán hàng Việt Nam, giá cả vừa phải.

Mục tiêu chính của Saigon Co.op lúc bấy giờ là cố gắng chiếm lĩnh thị trường ở Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng đến năm 2003, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt động viên bà nên đem loại hình mua bán “văn minh” tới những vùng đất mới. Kết quả, hai siêu thị được đóng chốt tại hai tỉnh Bình Định và Cần Thơ.

Trải qua 1/4 thế kỷ, hệ thống siêu thị Co.opmart vẫn đều đặn phát triển. Saigon Co.op đã nâng tổng số lượng siêu thị cao hơn 128 lần so với ban đầu. Quy mô phân bố Co.opmart cũng được mở rộng từ Thành phố Hồ Chí Minh đến 45 tỉnh, thành phố trên cả nước. Cho đến nay, Saigon Co.op vẫn là đơn vị sáng tạo, đi đầu trong Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” xuyên suốt và đồng bộ trên toàn hệ thống bán lẻ.

Tháng 4/2021, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam (VietKings) công bố Co.opmart là hệ thống siêu thị thuần Việt lâu đời nhất trên cơ sở tồn tại và phát triển ổn định liên tục trong 25 năm.

Nguồn: VnExpress.net.

siêu thị

Danh mục

Tùy chỉnh