II- THƯƠNG MẠI MIỀN NAM THỜI KỲ 1955 - 1975

hàng tiêu dùng

Hàng tiêu dùng nhập khẩu được bày bán tràn lan trên đường phố các đô thị lớn miền Nam, bao gồm cả lượng lớn hàng PX được tuồn lậu ra bên ngoài (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

II- THƯƠNG MẠI MIỀN NAM THỜI KỲ 1955 - 1975

hàng tiêu dùng

Hàng tiêu dùng nhập khẩu được bày bán tràn lan trên đường phố các đô thị lớn miền Nam, bao gồm cả lượng lớn hàng PX được tuồn lậu ra bên ngoài (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

4. Những di sản công nghiệp cho giai đoạn sau

Điều kiện chiến tranh và sự lệ thuộc của nền kinh tế trong vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát vào viện trợ nước ngoài, chủ yếu là của Mỹ, trong 20 năm đã quyết định tính chất, cơ cấu, sự phân bổ các nguồn lực và thị trường đối với hoạt động sản xuất công nghiệp tại miền Nam. Những đặc điểm này đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét cho giai đoạn sau giải phóng, thống nhất đất nước.

a) Hệ thống công nghiệp tập trung

Bằng nguồn viện trợ kinh tế từ Mỹ và một số nước, chính quyền Sài Gòn đã tiếp cận được các loại máy móc công nghiệp tiên tiến, tạo nên sự phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật trong công nghiệp. Trị giá máy móc được nhập khẩu vào miền Nam trong giai đoạn 1965 - 1972 đạt 712,8 triệu USD, gấp 2,7 lần so với giai đoạn 1957 - 1964. Nhờ vậy, một số ngành công nghiệp như sản xuất đồ hộp, dệt vải, chế biến sữa... đã được trang bị các dây chuyền sản xuất quy mô lớn, hiện đại tương đương như nhiều nước trong khu vực.

Quá trình cơ khí hóa, tự động hóa đã giúp nâng cao đáng kể năng suất lao động cũng như chất lượng các sản phẩm. Các cơ sở sản xuất hiện đại cũng có xu hướng tập trung mở rộng máy móc, trang thiết bị hơn là mở rộng sản xuất dựa trên việc thâm dụng lao động. Ví dụ, Công ty Luyện kim VIKIMCO chỉ với 200 công nhân nhưng đã có công suất lên tới 20.000 tấn sắt thép các loại vào năm 1966; Công ty giấy NAGICO có sản lượng trên 3.000 tấn giấy vào năm 1967, chỉ sử dụng 150 công nhân; Công ty Bột giặt VISO có công suất 3.000 tấn bột giặt vào năm 1970, chỉ cần sử dụng 25 công nhân...

Trải qua quá trình tích tụ và tập trung tư bản, sản xuất lớn có ưu thế hơn hẳn sản xuất nhỏ hay nói cách khác hoạt động công nghiệp tại miền Nam dần tập trung vào các cơ sở sản xuất lớn thay vì phân tán vào những cơ sở sản xuất nhỏ, lẻ, tiểu công nghiệp như trước đây. Cùng với đó là xu hướng chuyên môn hóa sản xuất, mỗi cơ sở sản xuất đảm nhiệm chuyên trách một vai trò nhất định trong toàn bộ chuỗi giá trị sản xuất.

Mặt khác, hoạt động sản xuất công nghiệp tại miền Nam còn có xu hướng tập trung hình thành những khu, cụm công nghiệp có sức sản xuất lớn. Có đến 85% tổng số cơ sở sản xuất công nghiệp và hơn 90% tổng sản lượng công nghiệp chế biến của toàn miền Nam được tập trung tại khu vực Sài Gòn, Gia Định và Biên Hòa. Trong đó, cụm công nghiệp Sài Gòn - Biên Hòa là cụm công nghiệp lớn nhất tại miền Nam, tập trung đến 80% năng lực sản xuất công nghiệp với nhiều nhà máy, xí nghiệp có trang bị máy móc nhập khẩu hiện đại, hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất quan trọng.

Một số khu, cụm công nghiệp lớn khác của nền kinh tế miền Nam thời kỳ này là khu công nghiệp Đà Nẵng, khu công nghiệp Cần Thơ và khu công nghiệp Tân Mai (Biên Hòa). Trong đó, khu công nghiệp Đà Nẵng tập trung các nhà máy, xí nghiệp sản xuất ôxy, axetilen, chất dẻo, vật liệu xây dựng gồm gạch ốp lát và ximăng, và sợi dệt. Khu công nghiệp Cần Thơ chủ yếu là các xí nghiệp chế biến lương thực, nông sản như ép dầu thực vật, tinh chế đường, sản xuất thức ăn gia súc và sản xuất giấy. Khu công nghiệp Tân Mai gồm các cơ sở chuyên sản xuất các sản phẩm giấy, gỗ và ván ép.

Tuy nhiên, sự phân bố các khu, cụm công nghiệp tại miền Nam lại nằm cách tương đối xa những khu vực nguyên liệu, đặc biệt là nguồn nguyên liệu cho chế biến nông, lâm, thủy hải sản. Ví dụ, nông sản và thủy sản tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long và gỗ khai thác tại vùng thuộc Trung Bộ thường phải chuyên chở vào tận khu công nghiệp Sài Gòn - Biên Hòa.

Nguyên nhân chủ yếu vì lý do an ninh, giới tư bản mong muốn đặt các cơ sở sản xuất quanh các khu đô thị lớn nhằm được đảm bảo an toàn, tránh bị ảnh hưởng bởi chiến tranh vốn lan rộng khắp các vùng nông thôn. Càng gần các khu đô thị có tầm quan trọng cao về chính trị và quân sự, thì các khu, cụm công nghiệp càng lớn. Bên cạnh đó, các khu đô thị chính là những thị trường tiêu thụ hàng hóa chính khi phần lớn dân cư miền Nam dồn về đây trong thời kỳ này.

Mặt khác, việc bố trí gần các đô thị sẽ giúp các cơ sở sản xuất thuận lợi hơn trong việc tiếp nhận nguồn nguyên liệu nhập khẩu thông qua các cảng biển và sân bay trong bối cảnh phần lớn các hoạt động sản xuất chế biến công nghiệp tại miền Nam phụ thuộc mạnh vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.

b) Phụ thuộc nguyên phụ liệu nhập khẩu

Chỉ trừ một số ít ngành như Chế biến hải sản, Xay xát lúa gạo, Ép dầu thực vật... có sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước, phần lớn nguyên liệu và bán chế phẩm đầu vào cho hoạt động sản xuất chế biến tại miền Nam là đến từ nguồn nhập khẩu. Điển hình, đối với ngành Dệt, 100% bông dùng để kéo sợi là được nhập khẩu từ Mỹ. Đối với sản xuất nhựa dẻo, 99,5% nhựa nguyên liệu đầu vào là nhập khẩu, chỉ một phần rất nhỏ còn lại là nhựa tái sinh. Ngay cả đối với ngành Đường thì đường thô nhập khẩu chiếm đến 97,4% nguyên liệu đầu vào của các nhà máy tinh chế đường và với các doanh nghiệp sản xuất thuốc lá thì 89% sợi thuốc lá được nhập khẩu. Các lĩnh vực sản xuất khác như luyện kim, ximăng, thủy tinh và giấy thì nguyên liệu nhập khẩu chiếm từ 40 đến 82%.

Trong khi đó, thị trường của công nghiệp miền Nam chủ yếu là thị trường nội địa, đơn cử: 90% các sản phẩm dệt may là phục vụ người dân miền Nam. Vai trò của công nghiệp trong xuất khẩu rất nhỏ bé. Giá trị sản lượng của công nghiệp chỉ chiếm khoảng 10%, nhỏ nhất trong các khu vực hoạt động kinh tế khác.

Công nghiệp nhẹ là lĩnh vực có tốc độ phát triển nhanh nhất trong các hoạt động sản xuất công nghiệp tại miền Nam, trọng tâm phát triển là công nghiệp thực phẩm, đồ uống, thuốc lá... do những ngành này đòi hỏi vốn đầu tư ít, thu lợi nhuận nhanh và phục vụ trực tiếp cho cả dân sự lẫn quân sự, cường độ chiến tranh càng tăng thì những ngành này càng phát triển mạnh. Ngược lại, khi chiến tranh kết thúc thì động lực phát triển của những ngành này cũng không tồn tại.

Việc sở hữu trang thiết bị hiện đại, chính xác cao được nhập khẩu từ những nền công nghiệp tiên tiến như Mỹ, Tây Đức1, Nhật Bản... giúp cải thiện đáng kể năng lực sản xuất của các cơ sở sản xuất tại miền Nam, nhưng đây cũng là các loại thiết bị máy móc đòi hỏi các điều kiện kỹ thuật khắt khe trong cả quá trình sử dụng lẫn bảo dưỡng, sửa chữa. Các hệ thống máy này cần phải bảo trì đúng quy trình, sau số giờ hoạt động nhất định, sử dụng phụ tùng thay thế đúng hãng, đúng quy chuẩn. Ngay cả nguyên liệu dùng để sản xuất cũng phải đáp ứng các yêu cầu đầu vào của máy. Ví dụ, hầu hết các xí nghiệp sợi tại miền Nam sẽ chỉ dùng được bông nhập khẩu từ Mỹ, sợi tổng hợp được nhập khẩu từ Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc. Nếu sử dụng các loại bông, sợi có nguồn gốc xuất xứ khác thì chất lượng sản phẩm đầu ra khó đạt mức cao, máy móc thường xuyên bị hỏng. Điều này đặt ra bài toán lớn về việc duy trì sản xuất trong giai đoạn sau giải phóng, thống nhất đất nước khi lượng vật tư, phụ tùng chính hãng dự trữ đã cạn kiệt.

c) Đội ngũ công nhân lành nghề

Sự xuất hiện đông đảo của quân đội Mỹ và lực lượng đồng minh cũng như các đơn vị dân sự nước ngoài tại miền Nam trong thời gian dài đã tạo ra một khu vực được gọi là “Khu vực Mỹ” với lượng lớn công nhân người Việt được đào tạo chuyên môn trong nhiều lĩnh vực như sửa chữa cơ khí, xây dựng, điện tử, lắp ráp, hóa chất... Số lượng người Việt làm việc trong “Khu vực Mỹ” đông nhất là 160.000 người vào năm 1969. Riêng tập đoàn xây dựng hàng đầu Mỹ RMK - BRJ, trong giai đoạn 1962 - 1973 đã đào tạo khoảng 150.000 công nhân Việt Nam từ vận hành các máy thi công, hàn đến tính toán kết cấu, thư ký văn phòng và soạn thảo chương trình điện toán.

Bên cạnh đó, quân nhân thuộc quân đội chính quyền Sài Gòn được đánh giá là có tay nghề tương đối tốt trong nhiều lĩnh vực. Theo đánh giá của Bộ Quốc phòng Sài Gòn, tính đến năm 1973, trong hơn 1 triệu quân nhân thì có đến 175.904 người có chuyên môn tại các lĩnh vực khác nhau (bộ binh 20%, địa phương quân 10%, hải quân 62% và không quân 65%). Điều này cũng được minh chứng qua trình độ sửa chữa của các công binh xưởng như Hải quân Công xưởng2 có khả năng sửa chữa toàn diện các loại chiến hạm trọng tải lớn lẫn tàu vận tải viễn dương; Công xưởng Không quân Biên Hòa có khả năng đại tu, sửa chữa tất cả các loại phi cơ, bao gồm cả các loại tối tân mà Mỹ chuyển giao.

Cùng với lực lượng công nhân, chuyên viên làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp dân sự lớn, ở miền Nam đã hình thành một đội ngũ công nhân kỹ thuật với tác phong lao động công nghiệp, kinh nghiệm vận hành các loại máy móc phức tạp, trình độ chuyên môn nhất định trong các lĩnh vực về sửa chữa cơ khí, xây dựng, điện tử, hóa chất... và thông thạo ngoại ngữ. Đây được xem là nguồn nhân lực quan trọng cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế đất nước sau này.


1. Tên thường gọi của nước Cộng hòa Liên bang Đức trong thời kỳ từ khi nước này được thành lập vào ngày 23/5/1949 đến năm 1990.

2. Tiền thân là Nhà máy Đóng tàu Ba Son.

1. Xuất, nhập khẩu

a) Nhập khẩu

Nhập khẩu được xem là bộ phận chính của nền kinh tế trong vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát. Nếu xét về nguồn gốc xuất xứ thì hàng hóa của Mỹ chiếm vai trò chủ đạo trên thị trường miền Nam thông qua cơ chế Mỹ kiểm soát viện trợ đối với chính quyền Sài Gòn.

Hầu hết hoạt động nhập khẩu của chính quyền Sài Gòn được thể hiện dưới hình thức là viện trợ thương mại (Commercial Import Program)1 và số ngoại tệ mà chính phủ sở hữu từ đổi tiền Sài Gòn cho quân đội đồng minh cũng như nguồn thu từ xuất khẩu, nhưng con số này không đáng kể. Trong đó, viện trợ thương mại đóng vai trò chủ đạo trong việc cung ứng hàng hóa nhập khẩu cho miền Nam. Viện trợ thương mại là khoản viện trợ lớn nhất trong số các loại hình viện trợ kinh tế cho chính quyền Sài Gòn, chủ yếu đến từ Mỹ, và một phần nhỏ từ một số đồng minh của Mỹ.

Đặc biệt, cơ chế vận hành viện trợ thương mại cho phép hàng hóa của Mỹ có nhiều ưu thế vượt trội hơn hàng hóa của các quốc gia khác tràn vào, chiếm lĩnh thị trường miền Nam. Cụ thể, hằng năm, Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) căn cứ trên tình hình nhu cầu thực tế của miền Nam, bao gồm cả những đề nghị của chính quyền Sài Gòn để đề xuất ngân sách viện trợ thương mại đến Chính phủ Mỹ, sau đó phải thông qua ở Quốc hội nước này. Sau khi được phê chuẩn ngân sách, các hãng nhập khẩu tại miền Nam được thông báo để nộp đơn xin nhập khẩu với chính quyền Sài Gòn. Những đơn này được gửi tiếp đến USAID để được xem xét tính phù hợp, cân đối tổng số đơn xin nhập khẩu với tổng số viện trợ thương mại để điều chỉnh, bác bỏ hoặc chấp nhận.

Sau đó, người làm đơn được cấp giấp phép nhập khẩu và phải đem tiền Sài Gòn nộp vào một tài khoản đặc biệt trong Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (thuộc chính quyền Sài Gòn), gọi là Quỹ Đối giá (Counterpart Fund)2 theo tỷ giá chính thức. Khi nhận được tiền, Chính phủ Mỹ sẽ trả tiền mua hàng cho các nhà xuất khẩu bằng đồng USD và hàng hóa được chuyển về miền Nam Việt Nam. Đặc biệt, tỷ giá chính thức thường thấp hơn nhiều so với tỷ giá trên thị trường. Khi hàng hóa cập cảng miền Nam Việt Nam thì các nhà nhập khẩu phải trả phần chênh lệch này cho chính quyền Sài Gòn dưới hình thức các loại thuế.

Bên cạnh đó, việc nhập khẩu các loại hàng hóa phải tuân theo các nguyên tắc của USAID, nổi bật là quy tắc về xuất xứ của hàng nhập khẩu và vấn đề chuyên chở. Trong đó, vào năm 1961, USAID tuyên bố nhiều loại hàng hóa của 19 quốc gia phát triển, bao gồm cả Nhật Bản, Pháp và một số quốc gia cạnh tranh với Mỹ trên thị trường miền Nam Việt Nam, là không đủ tiêu chuẩn để USAID tài trợ để viện trợ3. Điều này nhằm điều chỉnh và thu hẹp hoạt động nhập khẩu của miền Nam Việt Nam, tập trung vào một số quốc gia, đặc biệt là Mỹ. Đến năm 1966, chính quyền Sài Gòn không còn được phép tự do nhập khẩu mà chỉ được nhập hàng từ một số thị trường được quy định, chủ yếu là Mỹ và các quốc gia đồng minh của Mỹ.

Về vấn đề chuyên chở, nếu như trước năm 1965, cước phí hàng viện trợ được chia làm hai phần: 50% do USAID trả, 50% do chính quyền Sài Gòn trả và được tự do lựa chọn tàu chuyên chở thì từ năm 1965, các tàu chuyên chở bắt buộc phải là tàu của Mỹ, cho dù giá cước chuyên chở của tàu Mỹ đắt hơn so với các quốc gia khác.

Đồng thời, Mỹ yêu cầu chính quyền Sài Gòn áp dụng thuế phân suất quân bình nhằm dựng thêm rào cản nữa với những hàng hóa nhập khẩu của các quốc gia có giá thấp hơn giá hàng của Mỹ. Theo đó, đối với hàng hóa Mỹ thì nhà nhập khẩu chỉ phải trả khoảng 5 - 10 đồng tiền Sài Gòn cho mỗi USD tiền hàng nhập khẩu nhưng nếu là hàng hóa của những nước khác mà không được USAID xét duyệt thì phải trả tới 210 đồng tiền Sài Gòn cho mỗi USD tiền hàng nhập khẩu4, gần như không có nhà nhập khẩu nào có thể chi trả mức thuế này mà vẫn đảm bảo kinh doanh có lãi.

Mặt khác, USAID quy định các hãng nhập khẩu hàng thông qua viện trợ thương mại bắt buộc phải tiêu thụ ở miền Nam Việt Nam trong vòng 90 ngày. Nếu quá 90 ngày mà vẫn chưa tiêu thụ hết hàng thì không được phép nộp đơn xin nhập khẩu thêm. Biện pháp này nhằm buộc nhà nhập khẩu phải tiêu thụ nhanh nhất có thể lượng hàng nhập khẩu, tiến tới tăng vòng quay vốn, từ đó tạo thêm tiền để nộp vào Quỹ Đối giá. Tiền trong Quỹ Đối giá lại được dùng để chi trả các chi phí quốc phòng, an ninh, chính trị, xã hội... của chính quyền Sài Gòn.

Ngoài ra, hầu hết các chương trình, dự án viện trợ của Mỹ tại miền Nam Việt Nam đều do các hãng thầu Mỹ thực hiện và tất nhiên, họ ưu tiên sử dụng hàng hóa, vật tư của chính Mỹ.

Ngay từ đầu cuộc chiến tranh, chính phía Mỹ thừa nhận rằng quy trình kiểm soát nhập khẩu vấp phải nhiều sự phản đối từ các nhà nhập khẩu tại miền Nam do việc nhập khẩu trở nên phức tạp, kéo dài gấp nhiều lần so với thông thường nhưng đây là cách để đảm bảo tiền viện trợ của Mỹ chỉ dùng để mua hàng của Mỹ5. Cơ chế viện trợ thương mại và cách Quỹ Đối giá hoạt động như trên còn giúp nền kinh tế Mỹ không để thất thoát lượng lớn USD ra ngoài mà vẫn khiến nước nhận viện trợ phải phụ thuộc vào mình.

Điều này đã biến miền Nam Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của Mỹ, thị phần hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ tăng từ 12% năm 1955 lên 41% vào năm 1973 - thời điểm Mỹ và quân đồng minh rút phần lớn lực lượng khỏi miền Nam.

Hàng hóa từ Nhật Bản cũng chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu của miền Nam thời kỳ này. Tuy nhiên, điều này không phải do Mỹ chia sẻ thị trường miền Nam cho Nhật Bản. Kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản vào miền Nam bị ràng buộc theo một hạn ngạch tương ứng với mức mà Nhật Bản mua hàng của Mỹ và phải trích một phần khoản thu xuất khẩu đưa vào Quỹ Đối giá tại Nhật Bản nhằm giải quyết phần nào chi phí cho lực lượng Mỹ đồn trú tại nước này. Do đó, Mỹ chỉ đơn giản là đánh đổi thị trường miền Nam để lấy thị trường Nhật Bản cũng như “giúp” Nhật Bản có thêm nguồn tài chính chi trả cho chính lực lượng Mỹ tại đây.

Trong trường hợp xuất khẩu của Pháp vào miền Nam ở mức rất cao trong những năm đầu chiến tranh thì liên quan đến vấn đề nước Pháp nhận viện trợ từ Mỹ trong giai đoạn diễn ra và thời kỳ tái thiết sau Chiến tranh thế giới thứ hai cũng như các khoản viện trợ trong thời gian Pháp tái xâm lược Đông Dương. Để Pháp có thể trả các khoản nợ này mà không lo hàng hóa Pháp tràn vào thị trường Mỹ thì Mỹ chuyển khoản nợ được tính bằng đồng franc Pháp cho chính quyền Sài Gòn dưới dạng viện trợ thương mại. Như vậy, chính quyền Sài Gòn có một lượng franc Pháp để nhập khẩu hàng hóa từ Pháp, Pháp bán được hàng để trả nợ Mỹ, Mỹ vừa thu được nợ từ Pháp vừa viện trợ được cho chính quyền Sài Gòn.

Trong giai đoạn 1955 - 1964, kim ngạch nhập khẩu hằng năm chưa có quá nhiều đột biến khi chính quyền Sài Gòn còn thi hành nhiều biện pháp giám sát nhập khẩu chặt chẽ, dựng lên các hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm bảo hộ một loạt ngành công nghiệp nhẹ nhằm kích thích sản xuất nội địa theo Kế hoạch Ngũ niên lần I (1957 - 1961).

Tuy nhiên, từ sau năm 1964, khi chiến tranh leo thang khốc liệt khiến nhu cầu chi ngân sách ngày càng lớn, áp lực lạm phát tăng vọt cùng với đó là việc Mỹ và lực lượng đồng minh ồ ạt tăng quân, tăng viện trợ để vào chiếm đóng miền Nam đã khiến chính quyền Sài Gòn chuyển hướng sang việc cho phép nhập khẩu tối đa từ viện trợ thương mại, không phân biệt là sản phẩm cần thiết hay hàng xa xỉ phẩm, nhằm tăng thu ngân sách thông qua Quỹ Đối giá. Gia tăng nhập khẩu còn giúp hút bớt một phần lượng giấy bạc vốn tung ra quá nhiều cũng như tạo sự phong phú hàng hóa trên thị trường để ổn định, lôi kéo sự ủng hộ của các tầng lớp xã hội, nhất là bộ phận dân cư tại các đô thị. Điều này khiến lượng hàng hóa đổ vào miền Nam tăng rất nhanh trong những năm tiếp theo.

Đặc biệt, khi quân đội Mỹ và lực lượng đồng minh bắt đầu rút dần khỏi miền Nam kể từ năm 1971 thì một lượng lớn hàng hóa, viện trợ, gấp nhiều lần các năm trước được gấp rút chuyển vào miền Nam Việt Nam nhằm cố giúp chính quyền Sài Gòn xoay xở trước nguy cơ sụp đổ.

Nếu xét về tính chất các mặt hàng được nhập khẩu vào miền Nam thì trong giai đoạn 1957 - 1964, kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng như đường, sữa, bánh kẹo,... tương đương với kim ngạch máy móc, vật tư đầu vào cho sản xuất như dầu hỏa, hóa chất, chỉ sợi và nguyên vật liệu dệt... Đây cũng là giai đoạn mà chính quyền Sài Gòn đang có chủ trương phát triển hoạt động sản xuất công nghiệp nhằm vực dậy nền kinh tế. Sau năm 1965 cho đến khi kết thúc chiến tranh, cơ cấu hàng nhập khẩu nghiêng hẳn về các loại hàng tiêu dùng như sản phẩm dệt may, xe máy, thịt cá và gia súc...

Đáng chú ý là trước năm 1965, trong danh mục hàng hóa nhập khẩu không xuất hiện mặt hàng lúa gạo, nhưng kể từ năm 1965 thì kim ngạch nhập khẩu gạo gia tăng mạnh và trở thành một trong những mặt hàng được nhập khẩu nhiều nhất. Thậm chí, trong giai đoạn 1966 - 1970, kim ngạch nhập khẩu lúa gạo thường ở mức cao gấp 2,5 - 5,5 lần kim ngạch nhập khẩu dầu - nguyên liệu quan trọng để phát điện. Nguyên nhân chủ yếu do các biện pháp đẩy mạnh chiến tranh, tiến hành “tràn ngập lãnh thổ”, “bình định nông thôn”, “dồn dân lập ấp chiến lược” ác liệt của quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã khiến hoạt động canh tác bị xáo trộn, sụt giảm. Miền Nam Việt Nam từ một khu vực xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới nhanh chóng trở thành nơi nhập khẩu gạo quy mô lớn.

Bảng 30: Kim ngạch nhập khẩu của vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát phân theo một số thị trường chính trong giai đoạn 1955 – 1973

bảng 30

Nguồn: Viện Quốc gia Thống kê, Sài Gòn: Việt Nam niên giám thống kê 1949 - 1955, 1956 - 1961, 1962 - 1965, 1966 - 1969, 1970 - 1972.

* Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, tập II: 1955 - 1975, Sđd, tr.346.

Các loại hàng hóa, vật tư phục vụ sản xuất chỉ còn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Vật liệu xây dựng như ximăng và thép được đẩy mạnh nhập khẩu nhằm chủ yếu phục vụ việc xây dựng hàng nghìn ấp chiến lược, thiết lập các khu căn cứ quân sự trong bối cảnh miền Nam không có ngành công nghiệp sản xuất thép và ximăng phát triển.

Tính chung 20 năm kể từ năm 1955 đến năm 1975, tổng lượng hàng hóa được nhập khẩu vào miền Nam đạt gần 10 tỉ USD. Trong 10 năm đầu tiên, tổng kim ngạch nhập khẩu chỉ ở mức 2,37 tỉ USD nhưng trong 10 năm sau thì kim ngạch nhập khẩu lên tới 7,54 tỉ USD, chiếm 3/4 tổng kim ngạch nhập khẩu toàn giai đoạn này.

Có thể nói, diễn biến và tính chất hoạt động nhập khẩu của chính quyền Sài Gòn gắn chặt chẽ theo quá trình dính líu, can thiệp của Mỹ ở miền Nam. Nguồn trang trải nhập khẩu chính dựa vào viện trợ của Mỹ với tổng mức viện trợ kinh tế đạt khoảng 14,6 tỉ USD trong 21 năm6.

b) Xuất khẩu

* Giai đoạn 1955 - 1964

Trong giai đoạn 1955 - 1964, chính quyền Sài Gòn đã cố gắng đẩy mạnh xuất khẩu nhằm cân bằng cán cân thương mại với việc đưa ra các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu như trợ cấp, miễn thuế, cấp tín dụng cũng như kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu để phát triển sản xuất nội địa, tạo nguồn hàng cho hoạt động xuất khẩu. Những nỗ lực này đã phần nào giúp hoạt động xuất khẩu trong một số năm khởi sắc. Tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu trong vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát trong giai đoạn 1955 - 1964 đạt 603,8 triệu USD tương đương 1/4 tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu.

Thị trường xuất khẩu lớn nhất của miền Nam trong giai đoạn này là Pháp, theo sau là Tây Đức, Anh và Xingapo với các mặt hàng chủ đạo là nông, lâm và thủy sản. Trong đó, cao su và gạo chiếm vị trí chủ chốt. Đây là hai loại cây trồng mà miền Nam có thế mạnh nhờ điều kiện thiên nhiên thuận lợi và kinh nghiệm khai thác quy mô lớn kể từ thời chính quyền thuộc địa thực dân Pháp.

Bảng 31: Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu của vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát trong giai đoạn 1965 - 1972 (Đơn vị: triệu USD)

bảng 31-a

bảng 31-b

Nguồn: Vietnam Annual Statistical Bullentin: United States Agency for International Development, 1973, p.21.

Đối với mặt hàng cao su, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 375 triệu USD, chiếm 57% tổng kim ngạch xuất khẩu các loại hàng hóa chính trong giai đoạn 1955 - 1964. Sự phát triển của hoạt động xuất khẩu cao su thời gian này chủ yếu nhờ việc giới tư bản Pháp khôi phục lại hoạt động khai thác mủ ở nhiều đồn điền lớn và diện tích trồng cao su được mở rộng dưới các chính sách khuyến khích của chính quyền Sài Gòn.

Tính đến năm 1965, tổng diện tích trồng cao su tại miền Nam đã đạt hơn 142.000 ha, vượt mức trước Chiến tranh thế giới thứ hai và trở thành khu vực có diện tích trồng cao su lớn thứ 5 thế giới. Nhưng từ cuối năm 1963 trở đi, diện tích trồng cao su bắt đầu bị thu hẹp khi chiến tranh lan rộng. Mặt khác, tính đến cuối năm 1959 thì có tới 43% diện tích trồng cao su tại miền Nam đã trên 35 tuổi, tập trung tại các đồn điền lớn của giới tư bản Pháp7, khiến năng suất cho mủ trong những năm tiếp theo ở mức rất thấp và hoạt động khai thác của các đồn điền không bền vững.

Đối với mặt hàng gạo, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 156 triệu USD, chiếm gần 24% tổng kim ngạch xuất khẩu các loại hàng hóa chính trong giai đoạn này. Trong thời gian này, chính quyền Sài Gòn chú trọng thực hiện việc cơ giới hóa, sử dụng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu nhằm cải tiến hoạt động canh tác lúa gạo nói riêng và sản xuất nông nghiệp nói chung. Nhiều loại máy nông nghiệp như máy bơm nước, máy cày loại nhỏ... được đẩy mạnh nhập khẩu. Đồng thời, ngay từ năm 1955, Bộ Nông nghiệp Mỹ đã bắt đầu đưa vào miền Nam một số giống lúa mới, có chu kỳ sinh trưởng ngắn với năng suất cao.

Tuy nhiên, việc quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn tăng cường cưỡng bức nông dân vào các khu tập trung dưới cái tên “khu trù mật”, “ấp chiến lược”, “ấp tân sinh”... và đánh phá ác liệt những vùng nông thôn miền Nam đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động canh tác lúa gạo nói riêng và các hoạt động sản xuất nông nghiệp nói chung. Chỉ trong vòng 3 năm, từ năm 1963 đến năm 1966, diện tích canh tác lúa gạo đã giảm hơn 500.000 mẫu Anh8, sản lượng lúa gạo giảm hơn 18%, từ mức cao kỷ lục 5,3 triệu tấn vào năm 1963 xuống chỉ còn 4,3 triệu tấn vào năm 19669.

bảng 32

* Giai đoạn 1965 - 1975

Kể từ năm 1964, nguồn cung nhiều loại hàng hóa cho xuất khẩu bắt đầu bị thiếu hụt khi hoạt động sản xuất bị đình đốn, chính quyền Sài Gòn buộc phải dần cấm, hạn chế xuất khẩu để đảm bảo nguồn cung nội địa. Đơn cử, trứng vịt bắt đầu bị cấm xuất khẩu từ tháng 11/1964, gạo các loại bị cấm xuất khẩu từ tháng 12/1964, dầu dừa bị cấm xuất khẩu từ tháng 10/1965...

Mặt khác, một lượng lớn nông sản giá rẻ của Mỹ, bao gồm gạo, ngô... tràn vào miền Nam thông qua chương trình viện trợ nông phẩm cho tự do với mục đích giảm bớt áp lực thiếu hụt thực phẩm vì chiến tranh đã tạo ra sự cạnh tranh gay gắt với hoạt động sản xuất nông nghiệp nội địa, triệt tiêu hoàn toàn động lực của nông dân miền Nam. Những điều này đã khiến hoạt động xuất khẩu của miền Nam suy giảm nhanh chóng trong giai đoạn 1965 - 1975. Tính chung cả giai đoạn này, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 393,1 triệu USD, chỉ bằng khoảng 1/20 so với kim ngạch nhập khẩu cùng kỳ.

Nhằm giải quyết áp lực thâm hụt cán cân thương mại ngày càng nghiêm trọng, chính quyền Sài Gòn đã có một số nỗ lực như thành lập Trung tâm Khuếch trương xuất cảng vào cuối năm 1964 nhằm cung cấp tín dụng ngắn hạn và hướng dẫn xuất khẩu, giảm thuế xuất khẩu, tăng trợ cấp xuất khẩu trực tiếp đối với một số mặt hàng, khuyến khích sản xuất các mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu... Đến năm 1971, phát triển xuất khẩu được chính quyền Sài Gòn coi là trụ cột thứ hai nhằm vực dậy nền kinh tế theo bản Kế hoạch Tứ niên quốc gia (1971 - 1975).

Bảng 33: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát phân theo mặt hàng giai đoạn 1965 – 1974 (Đơn vị: triệu USD)

bảng 33

Tuy nhiên, Trung tâm Khuếch trương xuất cảng không có kế hoạch dài hạn hoặc biện pháp căn cơ để thực hiện vai trò của mình, nguồn cấp tín dụng cho xuất khẩu từ các tổ chức tín dụng tại miền Nam cũng rất ít ỏi cộng hưởng với các tác động của chiến tranh đã hạn chế khả năng phát triển của lĩnh vực xuất khẩu. Tại Hội thảo về khuếch trương xuất cảng ở Sài Gòn ngày 24/6/1972, ông Dương Ngọc Sửu, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công kỹ nghệ Sài Gòn, khẳng định:

“Việt Nam chưa khuếch trương được xuất cảng chỉ vì một lý do hết sức đơn giản là chưa có sản phẩm để xuất cảng mà thôi”.

Hàng triệu nông dân dồn về vùng đô thị

Nhà sử học Mỹ Gabriel Kolko trong cuốn sách “Giải phẫu một cuộc chiến tranh” đã ghi lại như sau: “Thuốc diệt cỏ đã được thí nghiệm đầu tiên ở Việt Nam, bắt đầu tháng 8 năm 1961... Vì lý do có liên quan đến dư luận công chúng nên chương trình được giữ bí mật và vì vậy mà không bị tiết lộ ở Mỹ cho đến cuối năm 1965. Năm 1962, chương trình đó rải thuốc xuống 6.000 mẫu Anh, lên đến đỉnh cao 1,7 triệu mẫu Anh năm 1967; trong khoảng thời gian 9 năm, 20% rừng nói chung và 36% rừng đước bị rải thuốc độc, riêng năm 1965 thì 42% thuốc là rải xuống vùng canh tác lương thực... Việc sử dụng hỏa lực của quân đội Mỹ đã làm thay đổi tình trạng nhân khẩu tại miền Nam Việt Nam sau năm 1964, làm cho một bộ phận lớn nông dân chỉ còn quan tâm đến một vấn đề duy nhất là sự sống còn của họ. Đạn dược là nguyên nhân chính của thương vong, mà phần lớn là do quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn sử dụng, chiếm hầu hết số đạn trọng pháo và 100% số bom do máy bay thả xuống... Một bộ phận quan trọng của nông dân bị đẩy ra khỏi ruộng đất của họ làm biến đổi vĩnh viễn tính chất của xã hội miền Nam Việt Nam... Trong hoàn cảnh như vậy, sau năm 1964, hàng triệu nông dân buộc phải bỏ chạy hỗn loạn”.

Nguồn: Gabriel Kolko: Giải phẫu một cuộc chiến tranh,

Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, tr.161-209.


1. Trong một số tài liệu của chính quyền Sài Gòn và Chính phủ Mỹ giai đoạn này thì viện trợ thương mại còn được gọi là khoản hỗ trợ, đảm phụ quốc phòng - Defense Support.

2. Đây là một loại quỹ tài chính đặc biệt, được Chính phủ Mỹ thiết lập tại các quốc gia nhận viện trợ trong giai đoạn này. Chính phủ Mỹ và quốc gia nhận viện trợ cùng đóng góp vào quỹ này, và hai bên cùng quyết định việc chi tiêu. Quỹ đối giá nhằm tạo nguồn thu cho chính phủ nước nhận viện trợ; đồng thời, giúp Mỹ tiêu thụ được hàng hóa của nước này tại thị trường nước nhận viện trợ.

3. Xem Phạm Thị Hồng Hà: Kinh tế Việt Nam Cộng hòa dưới tác động của viện trợ Hoa Kỳ (1955 - 1975), Sđd, tr.189.

4. Xem Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, tập II: 1955 - 1975, Sđd, tr.163.

5. John P. Glennon et al: “277. Memorandum from the Assistant Secretary of State for Far Eastern Affairs (Robertson) to the Under Secretary of State (Hoover)”, Foreign Relations of the United States, 1955 - 1957, Vietnam (Vol. I), United States Government Printing Office, 1985.

6. Douglas Dacy: Foreign aid, War, and Economic development: South Vietnam, 1955 - 1975, Cambridge University Press, 1988, p.202.

7. Xem Ban Kinh tế miền Nam: “Mục cây Công nghiệp”, trong Tài liệu tham khảo về tình hình kinh tế miền Nam Việt Nam, Viện Kinh tế, 1966, tr.13.

8. Mỗi mẫu Anh tương đương 0,4 ha.

9. Xem William J.C. Logan: “How deep is the Green Revolution in South Vietnam?”, Asian Survey, Vol. 11 (No. 4), 1971.

Danh mục

Tùy chỉnh