2. Hoạt động ngoại thương

Trong hơn 3 năm đầu thực hiện đổi mới, hoạt động ngoại thương tiếp tục do Nhà nước độc quyền, mọi hoạt động xuất, nhập khẩu đều do các công ty nhà nước thực hiện. Tháng 6/1989, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 64/HĐBT, theo đó quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu trực tiếp của các doanh nghiệp nhà nước thuộc các ngành địa phương được mở rộng. Nghị định số 64/HĐBT khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất hàng xuất khẩu đẩy mạnh xuất khẩu. Bên cạnh các tổ chức kinh doanh xuất, nhập khẩu chuyên nghiệp của Nhà nước, các sở sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu thuộc thành phần kinh tế quốc doanh được quyền trực tiếp xuất, nhập khẩu, thì các sở sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu thuộc thành phần kinh tế tập thể, công hợp doanh, doanh thể cũng được lựa chọn tổ chức xuất, nhập khẩu quốc doanh để ủy thác bán hàng xuất khẩu theo giá cả thỏa thuận; hoặc được xét cấp giấy phép xuất, nhập khẩu trực tiếp thường xuyên hay từng chuyến. Nghị định cũng bãi bỏ chế độ kết hối ngoại tệ, thực hiện chế mua bán ngoại tệ theo tỷ giá kinh doanh.

Tiếp đó, Nghị định số 114/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 07/4/1992 về quản nhà nước đối với xuất, nhập khẩu đã loại bỏ những bất hợp trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu, điều chỉnh các hoạt động xuất, nhập khẩu theo chế thị trường. Cụ thể:

- Mở rộng quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong cả hai lĩnh vực kinh doanh sản xuất.

- Mọi hàng hóa, trừ một số còn chịu sự quản của Nhà nước, được tự do xuất, nhập khẩu chịu sự điều tiết bằng thuế, theo Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

- Doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế doanh thu; nếu dùng lợi nhuận đầu vào sản xuất hàng xuất khẩu thì được giảm thuế lợi tức. Doanh nghiệp sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu được xét giảm thuế doanh thu, thuế lợi tức trong thời gian sản xuất ban đầu.

xuất khẩu gạo Xuất khẩu gạo tại cảng Sài Gòn1 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

bảng 52

Nghị định số 33/CP ngày 19/4/1994 của Chính phủ đã bổ sung các trường hợp cho phép doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất, nhập khẩu, nếu tìm được khách hàng thị trường xuất khẩu hiệu quả được phép xuất khẩu đối với những mặt hàng ngoài phạm vi danh mục ngành hàng đã đăng trong giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu (Bộ Thương mại trách nhiệm xét giải quyết từng hợp đồng xuất những mặt hàng đó).

Nghị định số 89/CP ngày 15/12/1995 bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa từng chuyến. Nghị định quy định hàng hóa nằm ngoài danh mục cấm xuất, nhập khẩu danh mục thuộc phạm vi cấp giấy phép xuất, nhập khẩu của Bộ Thương mại hoặc xác nhận trước khi xuất khẩu, nhập khẩu của các bộ, quản chuyên ngành, được phép xuất, nhập khẩu tuỳ theo nhu cầu của các doanh nghiệp (đối với hàng hóa ngoài danh mục cấm xuất, nhập khẩu ngoài phạm vi quy định Điều 2, Điều 3 của Nghị định). Khi tiến hành hoạt động xuất, nhập khẩu các loại hàng hóa này, các doanh nghiệp đã giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu do Bộ Thương mại cấp ngành hàng phù hợp, không phải xin giấy phép xuất, nhập khẩu của bất kỳ quan nào, chỉ cần đến quan Hải quan làm thủ tục hải quan để xuất hoặc nhập khẩu. Những quyết định trên ngay lập tức thổi một luồng gió mới vào hoạt động xuất, nhập khẩu. Năm 1988, cả nước mới chỉ 92 tổ chức kinh tế được quyền kinh doanh ngoại thương; năm 1989, tăng lên 202 sở; năm 1990, con số này 500 đơn vị năm 1994 1.200 đơn vị trực tiếp kinh doanh xuất, nhập khẩu thuộc các thành phần kinh tế. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa xuất, nhập khẩu tăng lên một cách ấn tượng, xuất khẩu trở thành một trong những động lực tăng trưởng GDP. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giai đoạn 1986 - 1990 bình quân 28%/năm, cao hơn nhiều lần so với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 3,9%/năm trong cùng giai đoạn.

Giai đoạn 1991 - 1995, xuất khẩu tiếp tục phát huy ưu thế với sự phát triển mạnh mẽ của nguồn lực sản xuất được giải phóng, sự tích lũy kinh nghiệm nghiệp vụ của đội ngũ xuất, nhập khẩu chính sách đối ngoại hòa bình, tự chủ, mở cửa hội nhập của đất nước. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giai đoạn 1991 - 1995 bình quân đạt 17,8%/năm, cao hơn 2 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 8,2%/năm trong cùng giai đoạn.

hiệp định Việt - Trung

Lễ kết Hiệp định Thương mại Việt - Trung Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc biên giới hai nước Việt Nam - Trung Quốc tại Thủ đô Bắc Kinh, ngày 07/11/1991 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

bảng 53

bảng 54

bảng 55

bảng 56

Với mức tăng trưởng này, Việt Nam được xếp vào một trong số các nước mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao nhất thế giới trong cùng giai đoạn 1986 - 1995. Giá trị xuất khẩu bình quân đầu người tăng gấp hơn 7 lần, từ 12,66 USD/người năm 1986 lên 96,8 USD/ người năm 1995. Giá trị xuất khẩu bình quân trên đầu người gia tăng đột biến bắt đầu từ năm 1992. Chỉ trong 4 năm 1992 - 1995, giá trị xuất khẩu bình quân trên đầu người đã tăng 2,66 lần, từ 36,4 USD/người năm 1992 lên 96,8 USD/người năm 1995.

Tăng trưởng xuất khẩu liên tục, mạnh mẽ đã thu hẹp khoảng cách giữa kim ngạch xuất khẩu nhập khẩu, từ gần 300% năm 1986, xuống bình quân 132,8% giai đoạn 1991 - 1995, tức bình quân kim ngạch nhập khẩu cao hơn 32,8% so với kim ngạch xuất khẩu.

Từ năm 1990, Việt Nam bắt đầu xác định được một số mặt hàng xuất khẩu trọng điểm, ngày càng chiếm lĩnh được thị trường thế giới, tốc độ tăng trưởng cao, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu, điển hình như dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản, hạt điều, phê, hạt tiêu, cao su, gạo,...

Từ nhập khẩu bo bo đến xuất khẩu gạo

Những năm 1975 - 1985 đất nước gặp muôn vàn khó khăn cả về khôi phục kinh tế, giữ gìn an ninh trật tự bảo vệ Tổ quốc. Miền Nam không còn viện trợ của các nước bản; miền Bắc, nhiều nước hội chủ nghĩa cũng cắt giảm viện trợ, đặc biệt những mặt hàng cùng cần thiết đối với một nước vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh như lương thực, sắt thép, xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu...

Nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại (nay Bộ Công Thương) Trần Đức Minh cho biết, đầu những năm 1980, nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều vấn đề nan giải, nhất thiếu lương thực. Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng Thứ trưởng Bộ Ngoại thương Nguyễn Nhật Tân đã giao cho Đoàn Đại diện các tổng công ty xuất nhập khẩu Việt Nam tại Hồng Kông nhập khẩu tấm, bo bo từ Đài Loan (Trung Quốc) về bổ sung cho thiếu hụt lương thực trong nước.

Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước ta đã tập hợp trí tuệ các bộ, ngành, địa phương, nhất khu vực phía Nam tìm cách tháo gỡ. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã quyết định thực hiện chính sách đổi mới, trong đó đề xuất của các bộ quản ngành Công Thương Bộ Nông nghiệp xóa bỏ tình trạng ngăn sông cấm chợ. Gạo lương thực của các tỉnh sản xuất ra được tự do luân chuyển, trao đổi trên thị trường cả nước.

Nhờ chính sách đổi mới này, năng suất sản lượng gạo, lương thực tăng mạnh. Khoảng năm 1989 - 1990, Thứ trưởng Bộ Kinh tế Đối ngoại Nguyễn Nhật Tân lại điện sang Hồng Kông (Trung Quốc), giao cho Đoàn Đại diện các tổng công ty xuất nhập khẩu Việt Nam tại Hồng Kông (Trung Quốc) bán 500.000 tấn gạo 5% tấm; năm sau giao xuất khẩu tiếp 500.000 tấn gạo 5% tấm.

Nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại Trần Đức Minh cho biết: “Chúng tôi học hỏi kinh nghiệm của các thương nhân kinh doanh gạo đã hoàn thành nhiệm vụ. Từ chỗ xuất khẩu những hàng ban đầu này, chúng tôi đã giúp các địa phương, nhất phía Nam, xuất khẩu gạo, mở ra một giai đoạn thịnh vượng mới để nước ta sau này trở thành “cường quốc” về xuất khẩu gạo”.

Trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế, công nghệ nước ta còn thấp, xuất khẩu tăng trưởng mạnh góp phần quan trọng duy trì nhập khẩu mức cao, giúp Việt Nam tiếp cận các công nghệ tiên tiến, giải quyết được sự thiếu hụt về nguyên, nhiên vật liệu, thiết bị máy móc, góp phần tăng trưởng xuất khẩu liên tục trong những giai đoạn sau, cũng như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Bên cạnh những đóng góp tích cực, hoạt động ngoại thương cũng còn một số hạn chế như:

- Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu chưa cao, giá trị gia tăng còn thấp. Trong cấu xuất khẩu, tỷ lệ hàng thô, chế, gia công vẫn còn cao; nhiều mặt hàng gắn với sử dụng lao động nhiều công nghệ giản đơn. Trong các mặt hàng chế biến, chưa nhiều mặt hàng xuất khẩu giá trị gia tăng lớn.

thép xuất khẩu

Thép xuất khẩu tại Nhà máy Cán thép Lưu 2 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

- Sức cạnh tranh một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chưa cao, chủ yếu tận dụng lợi thế lao động, tài nguyên giá, hàm lượng tri thức công nghệ trong sản phẩm còn thấp.

- Nhập khẩu tuy góp phần đổi mới công nghệ nhưng chưa nhiều, do phải dành phần lớn ngoại tệ cho nhập khẩu nguyên, nhiên vật liệu. Điển hình trong 2 năm 1994 - 1995, trị giá nhập khẩu hàng nguyên, nhiên vật liệu 3,06 tỉ/5,82 tỉ USD tổng kim ngạch nhập khẩu 4,71 tỉ/8,15 tỉ USD tổng kim ngạch nhập khẩu, chiếm tỷ trọng lần lượt 52,5% 57,7%. Nếu so sánh trong cả giai đoạn 1985 - 1995, tình trạng này chưa nhiều biến chuyển khác biệt.

Một điểm nhấn quan trọng trong giai đoạn này Bộ Ngoại thương đã chủ trì soạn thảo Luật đầu nước ngoài tại Việt Nam, được Quốc hội thông qua ngày 29/12/1987. thời điểm soạn thảo, Luật đầu nước ngoài chịu áp lực rất lớn, khi thực tiễn chúng ta chưa kinh nghiệm gì, trong khi tưởng luận về vai trò của các thành phần kinh tế thì còn nhiều tranh luận.

Dự thảo Luật đã xác định những mục tiêu chính giành được càng sớm càng tốt những cái ta đang thiếu rất cần vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản chỗ đứng trong phân công lao động quốc tế. Đổi lại, Luật bảo đảm cho người đầu nước ngoài được an toàn tối đa về tài sản, được quản kinh doanh hiệu quả, được lợi nhuận khá hơn hoặc ít nhất tương đương với lợi nhuận đầu những nước trong khu vực. Điểm đột phá tính lịch sử Luật cho phép thành lập “Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài” (Điều 4, khoản 3). Các nhà đầu nước ngoài cho đây cũng nội dung hấp dẫn nhất bởi lúc đó các nền kinh tế mở hơn trong khu vực như Thái Lan, Inđônêxia chỉ mở cửa dần dần, giới hạn đầu của nước ngoài 49%.

bảng 57

Điểm quan tâm thứ hai của nhà đầu nước ngoài bảo đảm tài sản đầu tư, đã được Luật giải quyết thỏa đáng bằng Điều 21: “Trong quá trình đầu vào Việt Nam, vốn tài sản của các tổ chức, nhân nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, nghiệp vốn đầu nước ngoài không bị quốc hữu hoá”. Các nhà bình luận quốc tế lúc đó cho rằng, với Luật đầu nước ngoài tại Việt Nam, Việt Nam mở cửa bằng chuẩn mực quốc tế, theo thông lệ quốc tế. Luật được coi bước ngoặt lớn về tưởng kinh tế, bởi tạo ra nền tảng pháp cho việc hợp tác với nước ngoài (ngoài khối hội nghĩa) - một vấn đề còn rất mới mẻ với Việt Nam thời điểm những năm đầu đổi mới.

Bill Clinton

Tổng thống Mỹ Bill Clinton tại cuộc họp báo Nhà Trắng ngày 03/02/1994 công bố quyết định bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận thương mại kéo dài 19 năm của Mỹ đối với Việt Nam (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Văn Triết kể chuyện bình thường hóa quan hệ với Mỹ

“Tôi cho rằng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thạch đã góp nhiều công sức thúc đẩy mối quan hệ với các nước để họ hiểu ủng hộ Việt Nam trong bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Luồng ủng hộ bình thường hóa bắt nguồn từ chỗ Việt Nam mở cửa đổi mới, trở thành một thị trường tiềm năng, hứa hẹn nhiều hội làm ăn, hợp tác. Trong số những người ủng hộ, ngoài chính khách các nước, còn Việt kiều Pháp, Mỹ, Đức, Ôxtrâylia, Thái Lan,...

Đầu những năm 1990, ông Nguyễn Thạch đi nhiều nước vận động, Thủ tướng Văn Kiệt cũng đi nhiều. Mỗi lần Thủ tướng đi, phần lớn tôi đi cùng. Trong những lần đi, các đối tác, bạn của mình đều nói Việt Nam phải khởi động cùng lúc hai vấn đề, gia nhập WTO bình thường hóa quan hệ với Mỹ. một lần, ngài Boutros Boutros-Ghali, Tổng Thư Liên hợp quốc mời Việt Nam qua Mỹ, trưởng đoàn tôi. Khi tôi tới nơi, ngài Boutros Ghali nói: Bộ trưởng Thương mại Mỹ nhã ý muốn gặp tôi để bàn những vấn đề hai bên cùng hợp tác, ý của ông thì sao? - Tổng Thư Liên hợp quốc hỏi tôi. Tôi đồng ý. Khi hai bên gặp nhau, ông Boutros-Ghali nói: Hai ngài biết ý kiến của tôi rồi, một bên muốn gặp một bên đồng ý gặp. Cuộc gặp này lợi ích cho cả hai bên, thành công hay không do hai ngài quyết định.

Mở đầu, Bộ trưởng Thương mại Mỹ nói: Tôi vui mừng thông báo với ngài, Tổng thống Bill Clinton sắp tới sẽ xóa bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam, để xây dựng lại mối quan hệ bình thường giữa hai nước. Tôi thông báo cho ngài thông tin đó rất vui mừng được nghe ý kiến của ngài trong vấn đề này như thế nào, đặc biệt ngài Thủ tướng của Việt Nam ngài Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Việt Nam, chính kiến của hai ngài đó như thế nào?

Tôi biết đây sự thăm ý kiến. Tôi mới nói, tôi rất vui mừng được biết thông tin đó tôi cũng thấy thông tin đó bổ ích cho cả Mỹ lẫn Việt Nam. Còn chính kiến của Thủ tướng ra sao, của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao ra sao thì chắc tôi còn phải nghe ý kiến của các vị đó.

Bộ trưởng Thương mại Mỹ nói, tôi muốn nghe ý kiến của ông? Tôi bảo rằng, theo tôi, nếu như trong xóm hai anh hàng xóm đánh lộn nhau, rồi thì họ cũng phải làm lành chứ, họ thù nhau mãi hay sao? Giờ chuyện đã xảy ra từng ấy năm rồi, lịch sử sang trang rồi, chúng ta cứ giữ cái thù hận nhau thì không nên, bất lợi cho bên kia, bất lợi cho bên này. Đây việc tốt, sở để xây dựng mối quan hệ giữa hai bên.

- Nếu xây dựng mối quan hệ đó thì phải làm sao? Bộ trưởng Thương mại Mỹ hỏi tiếp.

- Theo tôi, nên để Bộ trưởng Ngoại giao hai nước gặp nhau để bàn. Đồng ý thì lập biên bản, rồi để nguyên thủ hai quốc gia đó ý kiến.

- Theo ông, ý kiến hai nguyên thủ sẽ thế nào?

Tôi nói thể “positive” (đồng ý) thể “negative” (không đồng ý) nhưng tôi nghĩ “positive” phần nhiều hơn.

Bộ trưởng Thương mại Mỹ nói rất vui vẻ: “Nếu hai bên bình thường hóa, thì chúng ta hãy phác họa những việc làm sắp tới của hai Bộ trưởng Bộ Thương mại. Sau đó, Chính phủ giao cho Bộ Ngoại giao cùng với Bộ Thương mại chủ trì, chuẩn bị vấn đề này để báo cáo trước Bộ Chính trị. Tinh thần chung các quan chức của Mỹ Việt Nam đều vui mừng trước bước tiến triển này”.

Nguồn: Tạp chí Công Thương phỏng vấn nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Văn Triết tại Nội, ngày 18/02/2022).

*****

Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) - Đại hội đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ về đổi mới duy, Việt Nam vẫn đang chịu tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế - hội. Lạm phát bùng nổ liên tục trong 3 năm 1986, 1987, 1988. Phát biểu khai mạc tại Hội nghị Trung ương 2 khóa VI, ngày 01/4/1987, Tổng thư Nguyễn Văn Linh nhận định: “Lạm phát đang vấn đề nghiêm trọng nổi lên trong nền kinh tế nước ta. được biểu hiện trên bề mặt hội đến mức mỗi nội trợ, mỗi người dân đều cảm nhận được hằng ngày. Chỉ trong vòng hơn một năm, khối lượng tiền tệ ném vào lưu thông đã tăng đến 10 lần. Trong khi đó, tổng sản phẩm hội chỉ tăng 6 - 7%”3. “Nguyên nhân sâu xa bản của tình hình sản xuất thấp kém, cung cầu cách xa, tiền - hàng mất cân đối lớn”4. Lúc bấy giờ, các nghiệp quốc doanh thiếu vật tư, thương mại thì thiếu tiền mua nhập khẩu vật cho sản xuất công nghiệp, thiếu tiền mua nông sản cung cấp cho cán bộ, công nhân viên người dân thành thị. Thực tế bức bách đó buộc Việt Nam phải đẩy nhanh các chính sách khơi nguồn sản xuất để cân đối cho được tiền - hàng thực hiện chính sách 4 giảm: giảm bội chi ngân sách, giảm dần nhịp độ tăng giá, giảm tốc độ lạm phát, giảm khó khăn về đời sống nhân dân5 thông qua triển khai khẩn trương 3 chương trình kinh tế lớn. Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, các bộ quản ngành Công Thương gồm Vật tư, khí - Luyện kim, Năng lượng, Công nghiệp nhẹ, Nội thương, Ngoại thương đã tham mưu tổ chức thực hiện điều chỉnh cấu công nghiệp theo hướng “đẩy mạnh ba chương trình kinh tế với nội dung cao hơn trước từng bước xây dựng cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hóa. Yêu cầu đặt ra với công nghiệp hóa giai đoạn này không chỉ đơn giản tăng thêm tốc độ tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế, quá trình chuyển dịch cấu công nghiệp gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao lâu bền toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Trong điều chỉnh cấu công nghiệp, bên cạnh việc coi trọng công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn, phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu, ngành Công Thương đề ra chủ trương xây dựng chọn lọc một số sở công nghiệp nặng trọng yếu hết sức cần thiết, ta điều kiện về vốn, công nghệ thị trường, như: năng lượng, nhiên liệu, vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến, công nghiệp đóng sửa chữa tàu thủy, luyện kim, hóa chất.

Đồng thời, các bộ quản ngành Công Thương đã dần dần giao quyền tự chủ cho các nghiệp về quản sản xuất - kinh doanh cũng như công tác tổ chức cán bộ. Các bộ đã bước đầu xác định lại chức năng quản nhà nước về kinh tế, sắp xếp lại bộ máy gọn nhẹ, chủ yếu làm chức năng quản nhà nước. Các nghiệp cũng đã giảm bớt những tổ chức không cần thiết, cắt bỏ các khâu trung gian, sắp xếp lại lao động, làm cho dây chuyền sản xuất được đồng bộ, ổn định, bảo đảm năng suất, chất lượng hiệu quả cao. Từ những việc làm trên, hoạt động sản xuất - kinh doanh của các nghiệp đã sự năng động nhất định. Sản xuất công nghiệp đã thích ứng với chế quản mới. Tính bình quân, thời kỳ 1986 - 1990, chỉ số phát triển công nghiệp tăng 5,9%/năm; thời kỳ 1991 - 1995 tăng 13,7%/năm, gấp 2,3 lần 5 năm trước đó6. Đây tốc độ tăng trưởng bình quân mỗi năm cao nhất từ trước đến thời điểm đó vượt xa mục tiêu kế hoạch đề ra tăng bình quân mỗi năm 7,5 - 8,5%. cấu kinh tế bước chuyển đổi, tỷ trọng công nghiệp xây dựng trong GDP tăng từ 22,6% năm 1990 lên 29,1% năm 1995.

Sự thay đổi về quan điểm chính sách kinh tế đã đem lại những tác động tích cực trên thị trường hàng hóa, dịch vụ. Tự do hóa thương mại, tự do hóa lưu thông đã làm cho hàng hóa giao lưu thông suốt giữa các vùng trong cả nước, góp phần khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng, từng doanh nghiệp. Hàng hóa, dịch vụ ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại, tăng trưởng với mức cao, trên 10%/năm. Bên cạnh sự gia tăng về tổng mức bán lẻ hàng hóa doanh thu dịch vụ hội, giá cả đã phản ánh đúng hơn giá trị quan hệ cung - cầu trên thị trường, việc thực hiện chế một giá mua bán bình thường vật hàng hóa đã làm giảm mạnh các nhu cầu giả tạo nạn đầu cơ, tích trữ vật hàng hóa trong nước. Chỉ số tăng giá bình quân hằng tháng của thị trường hội năm 1986 20%, năm 1989 2,5%, năm 1990 4,4% năm 1995 1,0%7.

Hoạt động ngoại thương cũng cởi mở hơn, đã mở rộng quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong cả hai lĩnh vực kinh doanh sản xuất; mọi hàng hóa, trừ một số hàng hóa còn chịu sự quản của Nhà nước, được tự do xuất, nhập khẩu chịu sự điều tiết bằng thuế, theo Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Xuất khẩu trở thành một trong những động lực tăng trưởng GDP. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giai đoạn 1986 - 1990 bình quân đạt 28%/năm, cao hơn nhiều lần so với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 3,9%/năm trong cùng giai đoạn. Giai đoạn 1991 - 1995, xuất khẩu tăng bình quân 17,8%/năm, cao hơn 2 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 8,2%/năm trong cùng giai đoạn.

Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, nội thương, ngoại thương đã khơi nguồn sản xuất, cân đối cung cầu, tiền - hàng, kiềm chế lạm phát đóng góp quan trọng cùng các ngành khác đưa “nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - hội nghiêm trọng”. Từ sản xuất chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng, phải sử dụng nguồn vốn vay viện trợ của nước ngoài đắp một phần cho quỹ tiêu dùng; từ “kinh phí sử dụng từ vốn nước ngoài chiếm một tỷ lệ lớn trong thu nhập quốc dân: năm 1986 8,4%, năm 1988 lên tới 12,7%”8, đến đầu những năm 1990, tổng sản phẩm trong nước đã bảo đảm được trên 90% quỹ tích lũy tiêu dùng hằng năm. Sau khi đắp quỹ tiêu dùng, tổng sản phẩm trong nước còn một phần chuyển sang tích lũy tài sản, tỷ lệ tích lũy này tăng đều qua các năm: 3% năm 1990 lên 11,2% năm 1991 23,4% năm 19959. Đây mục tiêu kỳ vọng Đại hội VI của Đảng đã đề ra ổn định đời sống nhân dân phải đi đôi với bảo đảm yêu cầu tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân để đủ sức tiếp nhận đưa vào tái sản xuất mở rộng vốn vay viện trợ của nước ngoài”10. Trong 10 năm 1986 - 1995, đất nước ta cũng chứng kiến sự đấu tranh quyết liệt cả về mặt tưởng, luận để xác định những bước đi, tiến tới hình thành chế quản kinh tế mới. Về mặt tưởng: Hội nghị Trung ương 11 khóa V, khi thảo luận về dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội VI của Đảng, Bộ Chính trị Đoàn Chủ tịch Hội nghị kết luận rằng, qua 10 năm thấy biểu hiện của “tả” “hữu”:

- Về “tả”, muốn đốt cháy giai đoạn, muốn làm công nghiệp hóa nhanh, ham làm nhiều công nghiệp nặng.

- Về “hữu”, trong điều hành thì nể nang, xuê xoa, đoàn kết một chiều, nguyên tắc11.

Báo cáo chính trị tại Đại hội VI của Đảng nêu nguyên tắc “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói sự thật12. Theo đó, Đảng ta chỉ rõ: “Trong 5 năm 1976 - 1980, đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây dựng bản phát triển sản xuất, không coi trọng đúng mức việc khôi phục sắp xếp lại nền kinh tế, thiên về xây dựng công nghiệp nặng những công trình quy lớn, không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển sản xuất hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu”13. Từ đó, Đảng chủ trương: “Trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt trong kế hoạch 5 năm 1986 - 1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu, để đến khi kết thúc chặng đường đầu tiên đạt được kết quả như sau:

- Về lương thực, thực phẩm: bảo đảm lương thực đủ ăn cho toàn hội dự trữ. Đáp ứng một cách ổn định nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động.

- Về hàng tiêu dùng: sản xuất đáp ứng được nhu cầu bình thường của nhân dân thành thị nông thôn về những sản phẩm công nghiệp thiết yếu.

- Về hàng xuất khẩu: tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; đạt kim ngạch xuất khẩu đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ tùng những hàng hóa cần thiết”14. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh này vẫn còn gặp một số khó khăn. vậy, Bộ Chính trị đã ra Kết luận số 14-NQ/TW ngày 23/5/1988 yêu cầu: “Kiên quyết đình hoãn những công trình xây dựng ngoài kế hoạch Nhà nước chưa đem lại hiệu quả thiết thực”15. Tháng 6/1988, tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VI, Tổng thư Nguyễn Văn Linh một lần nữa phê phán khuynh hướng tưởng “tả” khuynh: “Về cấu kinh tế, chủ trương xây dựng công nghiệp nặng trên quy lớn, tốc độ cao, coi nhẹ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu16”; “hữu” khuynh: “Thiếu không khí tự phê bình phê bình trên tình đồng chí, thay vào đó bệnh nể nang, xuê xoa theo kiểu “dễ người dễ ta””17. Tình hình trên đã làm “tê liệt sự lãnh đạo của Đảng”, trong đó lãnh đạo về kinh tế. “Từ chỗ thiếu dân chủ đến dân chủ hình thức thì tình hình cũng chẳng tốt đẹp hơn”18. Đến năm 1990, công tác tự phê bình phê bình trong Đảng mới được đánh giá bước chuyển biến mạnh mẽ tại Hội nghị Trung ương 8 khóa VI: “Bằng việc làm này, chúng ta chứng minh với toàn Đảng, toàn dân rằng Đảng ta nghiêm túc thực hiện lời dạy của Bác Hồ lấy tự phê bình phê bình làm quy luật phát triển của Đảng”19. Không khí tự phê phê bình cởi mở hơn làm cho các chủ trương, đường lối về kinh tế không chỉ được bàn luận, hoạch định, quyết định lãnh đạo cấp cao còn được lắng nghe, phản biện điều chỉnh từ sở, giúp các quyết sách kinh tế gần với thực tiễn hơn. Không khí cởi mở dân chủ này đã khắc phục được tinh thần thụ động, trông chờ Tổng thư Nguyễn Văn Linh đã phê phán tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VI (tháng 6/1988): “Tư tưởng lại rất nặng, cấp dưới dựa vào cấp trên, địa phương dựa vào Trung ương, trong nước dựa vào ngoài nước”20. Về mặt luận: Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI khẳng định: “Trong lĩnh vực tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức luận vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ”21. Công tác luận tiếp tục trở thành mối quan tâm kéo dài trong suốt giai đoạn giao thời. Phát biểu tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VI, Tổng thư Nguyễn Văn Linh yêu cầu “các ban, ngành, các quan nghiên cứu luận, các phương tiện thông tin đại chúng cần thường xuyên kết, tổng kết, rút ra bài học hay để phổ biến, nâng lên thành luận để chỉ đạo trở lại hoạt động thực tiễn”22. Đặc biệt, Tổng thư cực lực phản đối những “nhà luận” “đi từ phòng họp này sang phòng họp khác, ban bố các mệnh lệnh, còn cuộc sống sinh động sự việc thực tế thì hoàn toàn xa lạ. Họ chỉ biết huênh hoang nói những điều cao xa, thuyết trừu tượng...”23. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VI, khi đưa ra “Một số nhiệm vụ cấp bách của công tác xây dựng Đảng” đã nhấn mạnh: “gắn luận với thực tiễn, khắc phục lối giáo dục luận trừu tượng tính chất kinh viện”24. Khi bế mạc Hội nghị Trung ương 5 khóa VI, Đảng ta đã thống nhất về mặt nhận thức: luận cách mạng Việt Nam phải xuất phát từ thực tế Việt Nam giải quyết những vấn đề do cách mạng Việt Nam đặt ra”25. Điều này nghĩa là, bên cạnh những luận chung của hệ thống hội chủ nghĩa về hình con đường đi lên chủ nghĩa hội, các nhà luận của Đảng, các cấp, các ngành nước ta phải đi vào những hình hay, cách làm tốt của sở, từ đó khái quát lên thành luận.

Công tác luận giai đoạn này hết sức quan trọng, bởi những đổi mới chế quản đều liên quan những khác biệt với hình xây dựng hội chủ nghĩa truyền thống. Hàng loạt vấn đề luận được đặt ra sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI là:

- Xác định chặng đường “quá độ” đi lên chủ nghĩa hội Việt Nam?

- Dân chủ hóa trong quản hoạt động kinh tế bảo đảm dân chủ phát huy đúng hướng theo mục tiêu xây dựng chủ nghĩa hội?

- Mối quan hệ giữa kế hoạch hóa thị trường?

- Nhà nước điều tiết nền kinh tế bằng giá kế hoạch hay giá thị trường? Hay sử dụng kết hợp giá kế hoạch với giá thị trường?

- Kinh tế nhiều thành phần làm các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tự phát, làm rối loạn các cân đối trong nền kinh tế? dẫn đến hạn chế vai trò của nghiệp quốc doanh (nay gọi doanh nghiệp nhà nước)?

- Kinh tế nhiều thành phần mâu thuẫn với hình xây dựng hội chủ nghĩa dựa trên công hữu về liệu sản xuất?

- Quyền tự chủ của nghiệp quốc doanh? Chuyển hoạt động của các tổ chức kinh tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh hội chủ nghĩa?

- Quyền của kinh tế nhân trong hoạt động xuất, nhập khẩu trực tiếp?

- Hợp tác với các nước bản chủ nghĩa làm mất đi sự độc lập, tự chủ?

- Đảng viên được làm kinh tế bản nhân hay không?

Những vấn đề trên, vấn đề thống nhất được ngay, như quyền tự chủ của nghiệp quốc doanh, chuyển hoạt động của các tổ chức kinh tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh hội chủ nghĩa, kinh tế nhiều thành phần, hợp tác với các nước bản chủ nghĩa; vấn đề kéo dài sang các năm sau như kinh tế thị trường, giá thị trường, kinh tế nhân...

Với sự tham mưu của các bộ quản ngành Công Thương, các văn bản pháp quy là: Nghị quyết số 113/HĐBT ngày 05/7/1987 của Hội đồng Bộ trưởng về việc chuyển hoạt động nội thương sang hạch toán, kinh doanh hội chủ nghĩa; Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành các chính sách đổi mới kế hoạch hóa hạch toán kinh doanh hội chủ nghĩa đối với nghiệp quốc doanh; Quyết định số 231/HĐBT ngày 31/12/1987 của Hội đồng Bộ trưởng về việc chuyển ngành vật sang hạch toán kinh doanh hội chủ nghĩa sắp xếp lại tổ chức kinh doanh vật tư; Nghị định số 64/HĐBT ngày 10/6/1989 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành bản quy định về chế độ tổ chức quản hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu, đã tạo hành lang pháp cho các tổ chức kinh tế quốc doanh ngành Công Thương chuyển sang hạch toán kinh doanh hội chủ nghĩa, hoạt động ổn định, giữ vững vai trò chủ đạo trên thị trường sự tham gia của các thành phần kinh tế.

Sự chuyển đổi ngay sau khi Đảng phát động công cuộc đổi mới giúp các đơn vị kinh tế quốc doanh kịp thời mở rộng sản xuất, phát triển kinh doanh, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm hiệu quả kinh tế - hội, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa dịch vụ cần thiết cho hội, tạo nguồn thu ngày càng lớn cho ngân sách quốc gia; từ đó góp phần kiềm chế lạm phát thông qua cân đối cung - cầu lực lượng hàng hóa dự trữ, cũng như bảo đảm lưu chuyển hàng hóa thông suốt trên thị trường thống nhất trong cả nước. Nghị quyết Trung ương 6 khóa VI (tháng 3/1989) nhìn nhận: Đã xuất hiện nhiều hình nghiệp, liên hiệp, công ty chuyển được sang hạch toán kinh doanh, gắn với thị trường, tự trang trải, tích lũy, bảo đảm được đời sống công nhân viên đóng góp cho Nhà nước”26, đồng thời, thúc đẩy tích tụ tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước, tạo sở điều kiện cho việc thành lập các Tổng Công ty 90 Tổng Công ty 91 từ năm 1994 trở đi.

Các vấn đề kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhân, quyền sở hữu liệu sản xuất cũng được tổng kết bằng thực tiễn, thống nhất về luận, tạo thuận lợi cho xác lập chế quản mới bằng các Nghị định phát triển kinh tế nhân, kinh tế gia đình, Luật công ty Luật doanh nghiệp nhân. Thông qua việc công nhận quyền thành lập doanh nghiệp nhân của mọi công dân; công nhận sự tồn tại lâu dài của doanh nghiệp nhân; thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của doanh nghiệp nhân với các doanh nghiệp khác tính sinh lợi hợp pháp của việc kinh doanh, chúng ta đã giải quyết thấu đáo về mặt luận hàng loạt các vấn đề: kinh tế nhân không mâu thuẫn với hình xây dựng hội chủ nghĩa trong tình hình mới, nhận thức mới về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa hội; kinh tế nhiều thành phần không làm rối loạn các cân đối trong nền kinh tế; kinh tế nhân không hạn chế vai trò của doanh nghiệp nhà nước, càng làm cho doanh nghiệp nhà nước “rảnh tay”, điều kiện tập trung vào những ngành then chốt, những lĩnh vực mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, những lĩnh vực nhu cầu của thị trường nhưng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa điều kiện đầu phát triển.

Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) của Đảng đã tổng kết từ thực tiễn: trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, khi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa cao, chưa đồng đều, thì tồn tại đồng thời nhiều chế độ sở hữu (công hữu, hữu, hỗn hợp) một tất yếu khách quan, động lực thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất hội. Hàng hóa trên thị trường, nhất hàng tiêu dùng, dồi dào, đa dạng lưu thông tương đối thuận lợi, trong đó nguồn hàng sản xuất trong nước tuy chưa đạt kế hoạch nhưng cũng tăng hơn trước tiến bộ rệt về mẫu mã, chất lượng. Một số sản phẩm liệu sản xuất tăng khá. Các sở sản xuất gắn chặt hơn với nhu cầu thị trường, phần bao cấp của Nhà nước về vốn, giá vật tư, tiền lương... giảm đáng kể. Đó kết quả của chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đổi mới nhiều chính sách về sản xuất lưu thông hàng hóa. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn với tính chất, trình độ yêu cầu phát triển của sức sản xuất, giải phóng phát huy tiềm năng to lớn trong nước, tạo thuận lợi khai thác nguồn lực bên ngoài. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo chế thị trường sự quản của Nhà nước theo định hướng hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng một cách đồng bộ hơn hiệu quả hơn.

Trong các vấn đề luận trên, gai góc nhất giá thị trường. hình kinh tế kế hoạch hóa về bản chất một nền kinh tế hiện vật. Xét về cách thức quản lý, toàn bộ nền kinh tế quốc dân được cân đối bằng hiện vật thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh, năm nay, năm tới sẽ sản xuất bao nhiêu mét vải, bao nhiêu tấn phân bón, bao nhiêu máy cắt gọt kim loại... Xét trên chế vận hành, các hoạt động sản xuất phân phối tiêu dùng chủ yếu trao đổi hiện vật. Về sản xuất, nghiệp quốc doanh nhận vật của Nhà nước, sản xuất rồi bán cho thương nghiệp theo chế độ “thu quốc doanh”. Về phân phối tiêu dùng, cán bộ công nhân viên, lực lượng trang, nhân dân khu vực thành thị... nhận tem, phiếu, sổ mua gạo, thực phẩm, vải may quần áo, đồ dùng gia đình. Trong nền kinh tế hiện vật, tiền chưa thật tiền. dụ, một nghiệp tiền cũng chưa đủ điều kiện để mua hàng hóa (như vật tư), để được mua vật tư, nghiệp còn phải được giao chỉ tiêu pháp lệnh sản xuất những mặt hàng nhất định, phải kế hoạch sản xuất được các cấp quản duyệt, sau đó mới được mua vật với số lượng chủng loại tương đương với kế hoạch sản xuất đã được phê duyệt. Đồng thời, về bản, hàng cũng chưa thật hàng bởi trong nghiệp quốc doanh, cả giá mua vật cung cấp giá bán sản phẩm theo chế độ “thu quốc doanh” đều không được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó do Nhà nước quy định. thể nói, trong hình kinh tế kế hoạch hóa với nền kinh tế hiện vật, giá trị của hàng hóa gần như không được nhìn nhận theo đúng ý nghĩa của nó; tùy theo ý định khuyến khích hay hạn chế của Nhà nước, hàng thể được định giá cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thực, ít mối liên quan đến giá cả trên thị trường tự do. Bởi vậy, để đi đến thống nhất, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3/1989) đã nêu: Giá cả trong nước không thể tách rời giá cả trên thị trường quốc tế, “Nhà nước không dùng mệnh lệnh hành chính áp đặt giá sử dụng các chính sách biện pháp kinh tế chủ yếu để tác động đến quan hệ cung - cầu, điều tiết, hướng dẫn giá cả trên thị trường”27. Đó cả một chặng đường dài, cụ thể:

- Năm 1987 đã điều chỉnh từng bước giá bán một số vật chiến lược như xăng, than, điện, sắt, ximăng, bông xơ... lên dần dần, phù hợp với sức chịu đựng của các tổ chức kinh tế quốc doanh, theo chủ trương của Hội nghị Trung ương 2 khóa VI: Nhà nước không giữ mức giá mua, bán thấp, nhưng sẽ điều chỉnh từng bước, tránh gây đột biến tới các loại giá khác làm tăng đột ngột khối lượng tiền lưu thông28.

- Từ năm 1988, thực hiện bán vật cho nghiệp quốc doanh theo hai mức giá: Giá bán cung cấp theo hướng điều chỉnh tăng dần cho các nghiệp theo chỉ tiêu pháp lệnh hoặc đơn đặt hàng của Nhà nước giá bán theo sự thỏa thuận với các nghiệp.

- Năm 1989, xóa bỏ hầu hết chế độ bán cung ứng cho nghiệp quốc doanh; từ quý II năm 1989 bãi bỏ chế độ phân phối tem phiếu sau 3 năm 1986 - 1988, thu hẹp từng phần danh mục hàng hóa cung cấp theo định lượng.

Trong 10 năm 1986 - 1995, việc đổi mới chế quản ngày càng mở rộng. Từ quyền tự chủ của tổ chức kinh tế quốc doanh tới quyền sản xuất - kinh doanh của các thành phần kinh tế khác, từ xóa bỏ chế độ bao cấp, đến xóa bỏ hệ thống định giá của Nhà nước, để hàng hóa trao đổi trên thị trường sát với giá trị thực hơn. Đổi mới chế quản một đường thẳng đi lên nhưng bên trong sự đấu tranh, phản biện quyết liệt. Trong bối cảnh ấy, để tập hợp sự đồng thuận, để phá bỏ những định kiến thói quen cũ, Đảng ta dựa vào những nguyên bản của chủ nghĩa hội vận dụng vào thực tiễn của Việt Nam, cho thấy sự “dữ dội” của cuộc đấu tranh trong những năm đầu đổi mới trước khi đi đến sự đồng thuận; đồng thời sự “dữ dội” ấy cũng cho thấy, những bước ngoặt, bản lĩnh của một tổ chức, nhất tổ chức đảng được bộc lộ mạnh mẽ hơn bao giờ hết:

- Chặng đường đầu tiên một bước quá độ nhỏ trong bước quá độ lớn. V.I. Lênin nói: “Suốt cả thời kỳ đó (thời kỳ quá độ), trong chính sách của chúng ta, lại chia ra thành nhiều bước quá độ nhỏ hơn nữa. tất cả cái khó khăn của nhiệm vụ chúng ta phải làm, tất cả cái khó khăn của chính sách tất cả sự khéo léo của chính sách chỗ biết tính đến những nhiệm vụ đặc thù của từng bước quá độ đó”29; “Giải pháp đó xuất phát từ thực tế của nước ta sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế cấu nhiều thành phần một đặc trưng của thời kỳ quá độ30.

- “Tôi muốn nhắc đến một câu nói rất hay của Lênin, đại ý: những ưu điểm, nếu kéo dài mãi quá mức cần thiết sẽ trở thành khuyết điểm. Chúng ta cũng trong trường hợp này. Từ đó, đã đề ra những chủ trương chiến lược sai lầm trên các mặt cấu kinh tế, chế quản kinh tế cải tạo hội chủ nghĩa”31 (Phát biểu của Tổng thư Nguyễn Văn Linh tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VI).

Tổng thư cũng nhấn mạnh:

- “Vì không chú ý đầy đủ đặc điểm lớn nhất của nước ta nền sản xuất nhỏ còn phổ biến như Bác Hồ đã dạy, nên chúng ta đã chủ trương quá độ thẳng, trực tiếp lên chủ nghĩa hội, bỏ qua các nấc trung gian cần thiết, những nấc thang trung gian ngay những nước đã trải qua giai đoạn phát triển bản chủ nghĩa trung bình tiến lên chủ nghĩa hội cũng không thể bỏ qua”32.

đưa ra cảnh báo:

- “Sai lầm lớn trong duy luận lẫn lộn bước đi về thời kỳ quá độ, không chú ý đến điều Lênin căn dặn là: phải hình dung cho thật chúng ta đang quá độ từ đâu đến đâu33.

- “Lênin nói “Chính trị của chúng ta lúc này xây dựng nước nhà về mặt kinh tế”, hoặc “chính trị biểu hiện tập trung của kinh tế”, “kinh tế quyết định chính trị”. Lênin nói những điều đó hoàn toàn không mâu thuẫn với mình khi Người viết: “Chính trị không thể không giữ địa vị ưu tiên so với kinh tế”. Lênin rất đúng khi Người chủ trương muốn giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường thì điều chủ yếu phải tạo ra được sức sản xuất lớn mạnh bằng cách phát triển kinh tế năm thành phần, nòng cốt kinh tế hội chủ nghĩa, hướng các thành phần phi công hữu phát triển theo quỹ đạo hội chủ nghĩa”34.

Nói cách khác, sự đấu tranh phức tạp, quyết liệt trong những năm đầu đổi mới, được thực tiễn kiểm nghiệm tại sở đã tạo ra bản lĩnh kiên định của Đảng, ngay cả khi các nước hội chủ nghĩa đang lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện nghiêm trọng, thì con đường đổi mới của nước ta không bị rơi vào hai thái cực cực đoan là: co cụm lại với cách quản hoặc chuyển sang con đường khác, tiếp tục vững bước; mỗi bước đi tạo ra một nền móng sở vật chất sở luận cao hơn, rộng hơn cho bước đổi mới tiếp theo.

Nhìn lại những bước đi thể thấy, đó những bước tiến hết sức quan trọng trong chống lạm phát, giảm bội chi ngân sách, mở đường cho sản xuất lưu thông phát triển, đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - hội nghiêm trọng. Trong mỗi bước tiến đó, sự tham mưu, tổ chức thực hiện của các Bộ quản ngành Công Thương.


1. Ngày 05/4/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10/NQ-TW về đổi mới quản kinh tế nông nghiệp. Chỉ một năm sau, từ một nước phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam đã xuất khẩu được hơn 1 triệu tấn gạo.

2. Năm 1989, lần đầu tiên nghiệp Liên hiệp Gang thép Thái Nguyên (Bộ khí Luyện kim) đã xuất khẩu sang thị trường các nước bản 23.000 tấn thép các loại, gần 3.200 tấn gang đúc…

3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.48, tr.47.

5. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.48, tr.48.

6. Tổng cục Thống kê: Công nghiệp Việt Nam 20 năm đổi mới phát triển, Sđd, tr.85.

7. Niên giám Thống các năm 1986 - 1995.

8. Ban chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.3, tr.196.

9. Xem Viện Khoa học hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, tập II: 1955 - 1975, Sđd, tr.157.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.377.

11. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.313.

12, 13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.346, 354-355.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.380-381.

15, 16, 17, 18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.49, tr.223, 246, 250, 251.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.50, tr.56-57.

20, 21, 22. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.49, tr.246, 255, 248.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.361.

24, 25. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.49, tr.268, 296.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.49, tr.489.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.49, tr.601.

28. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.48, tr.64.

29, 30. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.375, 389.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.49, tr.246.

32, 33, 34. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.59, tr.247, 247, 298.

2. Hoạt động ngoại thương

Trong hơn 3 năm đầu thực hiện đổi mới, hoạt động ngoại thương tiếp tục do Nhà nước độc quyền, mọi hoạt động xuất, nhập khẩu đều do các công ty nhà nước thực hiện. Tháng 6/1989, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 64/HĐBT, theo đó quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu trực tiếp của các doanh nghiệp nhà nước thuộc các ngành địa phương được mở rộng. Nghị định số 64/HĐBT khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất hàng xuất khẩu đẩy mạnh xuất khẩu. Bên cạnh các tổ chức kinh doanh xuất, nhập khẩu chuyên nghiệp của Nhà nước, các sở sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu thuộc thành phần kinh tế quốc doanh được quyền trực tiếp xuất, nhập khẩu, thì các sở sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu thuộc thành phần kinh tế tập thể, công hợp doanh, doanh thể cũng được lựa chọn tổ chức xuất, nhập khẩu quốc doanh để ủy thác bán hàng xuất khẩu theo giá cả thỏa thuận; hoặc được xét cấp giấy phép xuất, nhập khẩu trực tiếp thường xuyên hay từng chuyến. Nghị định cũng bãi bỏ chế độ kết hối ngoại tệ, thực hiện chế mua bán ngoại tệ theo tỷ giá kinh doanh.

Tiếp đó, Nghị định số 114/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 07/4/1992 về quản nhà nước đối với xuất, nhập khẩu đã loại bỏ những bất hợp trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu, điều chỉnh các hoạt động xuất, nhập khẩu theo chế thị trường. Cụ thể:

- Mở rộng quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong cả hai lĩnh vực kinh doanh sản xuất.

- Mọi hàng hóa, trừ một số còn chịu sự quản của Nhà nước, được tự do xuất, nhập khẩu chịu sự điều tiết bằng thuế, theo Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

- Doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế doanh thu; nếu dùng lợi nhuận đầu vào sản xuất hàng xuất khẩu thì được giảm thuế lợi tức. Doanh nghiệp sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu được xét giảm thuế doanh thu, thuế lợi tức trong thời gian sản xuất ban đầu.

xuất khẩu gạo Xuất khẩu gạo tại cảng Sài Gòn1 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

bảng 52

Nghị định số 33/CP ngày 19/4/1994 của Chính phủ đã bổ sung các trường hợp cho phép doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất, nhập khẩu, nếu tìm được khách hàng thị trường xuất khẩu hiệu quả được phép xuất khẩu đối với những mặt hàng ngoài phạm vi danh mục ngành hàng đã đăng trong giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu (Bộ Thương mại trách nhiệm xét giải quyết từng hợp đồng xuất những mặt hàng đó).

Nghị định số 89/CP ngày 15/12/1995 bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa từng chuyến. Nghị định quy định hàng hóa nằm ngoài danh mục cấm xuất, nhập khẩu danh mục thuộc phạm vi cấp giấy phép xuất, nhập khẩu của Bộ Thương mại hoặc xác nhận trước khi xuất khẩu, nhập khẩu của các bộ, quản chuyên ngành, được phép xuất, nhập khẩu tuỳ theo nhu cầu của các doanh nghiệp (đối với hàng hóa ngoài danh mục cấm xuất, nhập khẩu ngoài phạm vi quy định Điều 2, Điều 3 của Nghị định). Khi tiến hành hoạt động xuất, nhập khẩu các loại hàng hóa này, các doanh nghiệp đã giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu do Bộ Thương mại cấp ngành hàng phù hợp, không phải xin giấy phép xuất, nhập khẩu của bất kỳ quan nào, chỉ cần đến quan Hải quan làm thủ tục hải quan để xuất hoặc nhập khẩu. Những quyết định trên ngay lập tức thổi một luồng gió mới vào hoạt động xuất, nhập khẩu. Năm 1988, cả nước mới chỉ 92 tổ chức kinh tế được quyền kinh doanh ngoại thương; năm 1989, tăng lên 202 sở; năm 1990, con số này 500 đơn vị năm 1994 1.200 đơn vị trực tiếp kinh doanh xuất, nhập khẩu thuộc các thành phần kinh tế. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa xuất, nhập khẩu tăng lên một cách ấn tượng, xuất khẩu trở thành một trong những động lực tăng trưởng GDP. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giai đoạn 1986 - 1990 bình quân 28%/năm, cao hơn nhiều lần so với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 3,9%/năm trong cùng giai đoạn.

Giai đoạn 1991 - 1995, xuất khẩu tiếp tục phát huy ưu thế với sự phát triển mạnh mẽ của nguồn lực sản xuất được giải phóng, sự tích lũy kinh nghiệm nghiệp vụ của đội ngũ xuất, nhập khẩu chính sách đối ngoại hòa bình, tự chủ, mở cửa hội nhập của đất nước. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giai đoạn 1991 - 1995 bình quân đạt 17,8%/năm, cao hơn 2 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 8,2%/năm trong cùng giai đoạn.

hiệp định Việt - Trung

Lễ kết Hiệp định Thương mại Việt - Trung Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc biên giới hai nước Việt Nam - Trung Quốc tại Thủ đô Bắc Kinh, ngày 07/11/1991 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

bảng 53

bảng 54

bảng 55

bảng 56

Với mức tăng trưởng này, Việt Nam được xếp vào một trong số các nước mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao nhất thế giới trong cùng giai đoạn 1986 - 1995. Giá trị xuất khẩu bình quân đầu người tăng gấp hơn 7 lần, từ 12,66 USD/người năm 1986 lên 96,8 USD/ người năm 1995. Giá trị xuất khẩu bình quân trên đầu người gia tăng đột biến bắt đầu từ năm 1992. Chỉ trong 4 năm 1992 - 1995, giá trị xuất khẩu bình quân trên đầu người đã tăng 2,66 lần, từ 36,4 USD/người năm 1992 lên 96,8 USD/người năm 1995.

Tăng trưởng xuất khẩu liên tục, mạnh mẽ đã thu hẹp khoảng cách giữa kim ngạch xuất khẩu nhập khẩu, từ gần 300% năm 1986, xuống bình quân 132,8% giai đoạn 1991 - 1995, tức bình quân kim ngạch nhập khẩu cao hơn 32,8% so với kim ngạch xuất khẩu.

Từ năm 1990, Việt Nam bắt đầu xác định được một số mặt hàng xuất khẩu trọng điểm, ngày càng chiếm lĩnh được thị trường thế giới, tốc độ tăng trưởng cao, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu, điển hình như dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản, hạt điều, phê, hạt tiêu, cao su, gạo,...

Từ nhập khẩu bo bo đến xuất khẩu gạo

Những năm 1975 - 1985 đất nước gặp muôn vàn khó khăn cả về khôi phục kinh tế, giữ gìn an ninh trật tự bảo vệ Tổ quốc. Miền Nam không còn viện trợ của các nước bản; miền Bắc, nhiều nước hội chủ nghĩa cũng cắt giảm viện trợ, đặc biệt những mặt hàng cùng cần thiết đối với một nước vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh như lương thực, sắt thép, xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu...

Nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại (nay Bộ Công Thương) Trần Đức Minh cho biết, đầu những năm 1980, nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều vấn đề nan giải, nhất thiếu lương thực. Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng Thứ trưởng Bộ Ngoại thương Nguyễn Nhật Tân đã giao cho Đoàn Đại diện các tổng công ty xuất nhập khẩu Việt Nam tại Hồng Kông nhập khẩu tấm, bo bo từ Đài Loan (Trung Quốc) về bổ sung cho thiếu hụt lương thực trong nước.

Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước ta đã tập hợp trí tuệ các bộ, ngành, địa phương, nhất khu vực phía Nam tìm cách tháo gỡ. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã quyết định thực hiện chính sách đổi mới, trong đó đề xuất của các bộ quản ngành Công Thương Bộ Nông nghiệp xóa bỏ tình trạng ngăn sông cấm chợ. Gạo lương thực của các tỉnh sản xuất ra được tự do luân chuyển, trao đổi trên thị trường cả nước.

Nhờ chính sách đổi mới này, năng suất sản lượng gạo, lương thực tăng mạnh. Khoảng năm 1989 - 1990, Thứ trưởng Bộ Kinh tế Đối ngoại Nguyễn Nhật Tân lại điện sang Hồng Kông (Trung Quốc), giao cho Đoàn Đại diện các tổng công ty xuất nhập khẩu Việt Nam tại Hồng Kông (Trung Quốc) bán 500.000 tấn gạo 5% tấm; năm sau giao xuất khẩu tiếp 500.000 tấn gạo 5% tấm.

Nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại Trần Đức Minh cho biết: “Chúng tôi học hỏi kinh nghiệm của các thương nhân kinh doanh gạo đã hoàn thành nhiệm vụ. Từ chỗ xuất khẩu những hàng ban đầu này, chúng tôi đã giúp các địa phương, nhất phía Nam, xuất khẩu gạo, mở ra một giai đoạn thịnh vượng mới để nước ta sau này trở thành “cường quốc” về xuất khẩu gạo”.

Trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế, công nghệ nước ta còn thấp, xuất khẩu tăng trưởng mạnh góp phần quan trọng duy trì nhập khẩu mức cao, giúp Việt Nam tiếp cận các công nghệ tiên tiến, giải quyết được sự thiếu hụt về nguyên, nhiên vật liệu, thiết bị máy móc, góp phần tăng trưởng xuất khẩu liên tục trong những giai đoạn sau, cũng như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Bên cạnh những đóng góp tích cực, hoạt động ngoại thương cũng còn một số hạn chế như:

- Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu chưa cao, giá trị gia tăng còn thấp. Trong cấu xuất khẩu, tỷ lệ hàng thô, chế, gia công vẫn còn cao; nhiều mặt hàng gắn với sử dụng lao động nhiều công nghệ giản đơn. Trong các mặt hàng chế biến, chưa nhiều mặt hàng xuất khẩu giá trị gia tăng lớn.

thép xuất khẩu

Thép xuất khẩu tại Nhà máy Cán thép Lưu 2 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

- Sức cạnh tranh một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chưa cao, chủ yếu tận dụng lợi thế lao động, tài nguyên giá, hàm lượng tri thức công nghệ trong sản phẩm còn thấp.

- Nhập khẩu tuy góp phần đổi mới công nghệ nhưng chưa nhiều, do phải dành phần lớn ngoại tệ cho nhập khẩu nguyên, nhiên vật liệu. Điển hình trong 2 năm 1994 - 1995, trị giá nhập khẩu hàng nguyên, nhiên vật liệu 3,06 tỉ/5,82 tỉ USD tổng kim ngạch nhập khẩu 4,71 tỉ/8,15 tỉ USD tổng kim ngạch nhập khẩu, chiếm tỷ trọng lần lượt 52,5% 57,7%. Nếu so sánh trong cả giai đoạn 1985 - 1995, tình trạng này chưa nhiều biến chuyển khác biệt.

Một điểm nhấn quan trọng trong giai đoạn này Bộ Ngoại thương đã chủ trì soạn thảo Luật đầu nước ngoài tại Việt Nam, được Quốc hội thông qua ngày 29/12/1987. thời điểm soạn thảo, Luật đầu nước ngoài chịu áp lực rất lớn, khi thực tiễn chúng ta chưa kinh nghiệm gì, trong khi tưởng luận về vai trò của các thành phần kinh tế thì còn nhiều tranh luận.

Dự thảo Luật đã xác định những mục tiêu chính giành được càng sớm càng tốt những cái ta đang thiếu rất cần vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản chỗ đứng trong phân công lao động quốc tế. Đổi lại, Luật bảo đảm cho người đầu nước ngoài được an toàn tối đa về tài sản, được quản kinh doanh hiệu quả, được lợi nhuận khá hơn hoặc ít nhất tương đương với lợi nhuận đầu những nước trong khu vực. Điểm đột phá tính lịch sử Luật cho phép thành lập “Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài” (Điều 4, khoản 3). Các nhà đầu nước ngoài cho đây cũng nội dung hấp dẫn nhất bởi lúc đó các nền kinh tế mở hơn trong khu vực như Thái Lan, Inđônêxia chỉ mở cửa dần dần, giới hạn đầu của nước ngoài 49%.

bảng 57

Điểm quan tâm thứ hai của nhà đầu nước ngoài bảo đảm tài sản đầu tư, đã được Luật giải quyết thỏa đáng bằng Điều 21: “Trong quá trình đầu vào Việt Nam, vốn tài sản của các tổ chức, nhân nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, nghiệp vốn đầu nước ngoài không bị quốc hữu hoá”. Các nhà bình luận quốc tế lúc đó cho rằng, với Luật đầu nước ngoài tại Việt Nam, Việt Nam mở cửa bằng chuẩn mực quốc tế, theo thông lệ quốc tế. Luật được coi bước ngoặt lớn về tưởng kinh tế, bởi tạo ra nền tảng pháp cho việc hợp tác với nước ngoài (ngoài khối hội nghĩa) - một vấn đề còn rất mới mẻ với Việt Nam thời điểm những năm đầu đổi mới.

Bill Clinton

Tổng thống Mỹ Bill Clinton tại cuộc họp báo Nhà Trắng ngày 03/02/1994 công bố quyết định bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận thương mại kéo dài 19 năm của Mỹ đối với Việt Nam (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Văn Triết kể chuyện bình thường hóa quan hệ với Mỹ

“Tôi cho rằng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thạch đã góp nhiều công sức thúc đẩy mối quan hệ với các nước để họ hiểu ủng hộ Việt Nam trong bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Luồng ủng hộ bình thường hóa bắt nguồn từ chỗ Việt Nam mở cửa đổi mới, trở thành một thị trường tiềm năng, hứa hẹn nhiều hội làm ăn, hợp tác. Trong số những người ủng hộ, ngoài chính khách các nước, còn Việt kiều Pháp, Mỹ, Đức, Ôxtrâylia, Thái Lan,...

Đầu những năm 1990, ông Nguyễn Thạch đi nhiều nước vận động, Thủ tướng Văn Kiệt cũng đi nhiều. Mỗi lần Thủ tướng đi, phần lớn tôi đi cùng. Trong những lần đi, các đối tác, bạn của mình đều nói Việt Nam phải khởi động cùng lúc hai vấn đề, gia nhập WTO bình thường hóa quan hệ với Mỹ. một lần, ngài Boutros Boutros-Ghali, Tổng Thư Liên hợp quốc mời Việt Nam qua Mỹ, trưởng đoàn tôi. Khi tôi tới nơi, ngài Boutros Ghali nói: Bộ trưởng Thương mại Mỹ nhã ý muốn gặp tôi để bàn những vấn đề hai bên cùng hợp tác, ý của ông thì sao? - Tổng Thư Liên hợp quốc hỏi tôi. Tôi đồng ý. Khi hai bên gặp nhau, ông Boutros-Ghali nói: Hai ngài biết ý kiến của tôi rồi, một bên muốn gặp một bên đồng ý gặp. Cuộc gặp này lợi ích cho cả hai bên, thành công hay không do hai ngài quyết định.

Mở đầu, Bộ trưởng Thương mại Mỹ nói: Tôi vui mừng thông báo với ngài, Tổng thống Bill Clinton sắp tới sẽ xóa bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam, để xây dựng lại mối quan hệ bình thường giữa hai nước. Tôi thông báo cho ngài thông tin đó rất vui mừng được nghe ý kiến của ngài trong vấn đề này như thế nào, đặc biệt ngài Thủ tướng của Việt Nam ngài Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Việt Nam, chính kiến của hai ngài đó như thế nào?

Tôi biết đây sự thăm ý kiến. Tôi mới nói, tôi rất vui mừng được biết thông tin đó tôi cũng thấy thông tin đó bổ ích cho cả Mỹ lẫn Việt Nam. Còn chính kiến của Thủ tướng ra sao, của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao ra sao thì chắc tôi còn phải nghe ý kiến của các vị đó.

Bộ trưởng Thương mại Mỹ nói, tôi muốn nghe ý kiến của ông? Tôi bảo rằng, theo tôi, nếu như trong xóm hai anh hàng xóm đánh lộn nhau, rồi thì họ cũng phải làm lành chứ, họ thù nhau mãi hay sao? Giờ chuyện đã xảy ra từng ấy năm rồi, lịch sử sang trang rồi, chúng ta cứ giữ cái thù hận nhau thì không nên, bất lợi cho bên kia, bất lợi cho bên này. Đây việc tốt, sở để xây dựng mối quan hệ giữa hai bên.

- Nếu xây dựng mối quan hệ đó thì phải làm sao? Bộ trưởng Thương mại Mỹ hỏi tiếp.

- Theo tôi, nên để Bộ trưởng Ngoại giao hai nước gặp nhau để bàn. Đồng ý thì lập biên bản, rồi để nguyên thủ hai quốc gia đó ý kiến.

- Theo ông, ý kiến hai nguyên thủ sẽ thế nào?

Tôi nói thể “positive” (đồng ý) thể “negative” (không đồng ý) nhưng tôi nghĩ “positive” phần nhiều hơn.

Bộ trưởng Thương mại Mỹ nói rất vui vẻ: “Nếu hai bên bình thường hóa, thì chúng ta hãy phác họa những việc làm sắp tới của hai Bộ trưởng Bộ Thương mại. Sau đó, Chính phủ giao cho Bộ Ngoại giao cùng với Bộ Thương mại chủ trì, chuẩn bị vấn đề này để báo cáo trước Bộ Chính trị. Tinh thần chung các quan chức của Mỹ Việt Nam đều vui mừng trước bước tiến triển này”.

Nguồn: Tạp chí Công Thương phỏng vấn nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Văn Triết tại Nội, ngày 18/02/2022).

*****

Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) - Đại hội đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ về đổi mới duy, Việt Nam vẫn đang chịu tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế - hội. Lạm phát bùng nổ liên tục trong 3 năm 1986, 1987, 1988. Phát biểu khai mạc tại Hội nghị Trung ương 2 khóa VI, ngày 01/4/1987, Tổng thư Nguyễn Văn Linh nhận định: “Lạm phát đang vấn đề nghiêm trọng nổi lên trong nền kinh tế nước ta. được biểu hiện trên bề mặt hội đến mức mỗi nội trợ, mỗi người dân đều cảm nhận được hằng ngày. Chỉ trong vòng hơn một năm, khối lượng tiền tệ ném vào lưu thông đã tăng đến 10 lần. Trong khi đó, tổng sản phẩm hội chỉ tăng 6 - 7%”3. “Nguyên nhân sâu xa bản của tình hình sản xuất thấp kém, cung cầu cách xa, tiền - hàng mất cân đối lớn”4. Lúc bấy giờ, các nghiệp quốc doanh thiếu vật tư, thương mại thì thiếu tiền mua nhập khẩu vật cho sản xuất công nghiệp, thiếu tiền mua nông sản cung cấp cho cán bộ, công nhân viên người dân thành thị. Thực tế bức bách đó buộc Việt Nam phải đẩy nhanh các chính sách khơi nguồn sản xuất để cân đối cho được tiền - hàng thực hiện chính sách 4 giảm: giảm bội chi ngân sách, giảm dần nhịp độ tăng giá, giảm tốc độ lạm phát, giảm khó khăn về đời sống nhân dân5 thông qua triển khai khẩn trương 3 chương trình kinh tế lớn. Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, các bộ quản ngành Công Thương gồm Vật tư, khí - Luyện kim, Năng lượng, Công nghiệp nhẹ, Nội thương, Ngoại thương đã tham mưu tổ chức thực hiện điều chỉnh cấu công nghiệp theo hướng “đẩy mạnh ba chương trình kinh tế với nội dung cao hơn trước từng bước xây dựng cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hóa. Yêu cầu đặt ra với công nghiệp hóa giai đoạn này không chỉ đơn giản tăng thêm tốc độ tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế, quá trình chuyển dịch cấu công nghiệp gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao lâu bền toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Trong điều chỉnh cấu công nghiệp, bên cạnh việc coi trọng công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn, phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu, ngành Công Thương đề ra chủ trương xây dựng chọn lọc một số sở công nghiệp nặng trọng yếu hết sức cần thiết, ta điều kiện về vốn, công nghệ thị trường, như: năng lượng, nhiên liệu, vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến, công nghiệp đóng sửa chữa tàu thủy, luyện kim, hóa chất.

Đồng thời, các bộ quản ngành Công Thương đã dần dần giao quyền tự chủ cho các nghiệp về quản sản xuất - kinh doanh cũng như công tác tổ chức cán bộ. Các bộ đã bước đầu xác định lại chức năng quản nhà nước về kinh tế, sắp xếp lại bộ máy gọn nhẹ, chủ yếu làm chức năng quản nhà nước. Các nghiệp cũng đã giảm bớt những tổ chức không cần thiết, cắt bỏ các khâu trung gian, sắp xếp lại lao động, làm cho dây chuyền sản xuất được đồng bộ, ổn định, bảo đảm năng suất, chất lượng hiệu quả cao. Từ những việc làm trên, hoạt động sản xuất - kinh doanh của các nghiệp đã sự năng động nhất định. Sản xuất công nghiệp đã thích ứng với chế quản mới. Tính bình quân, thời kỳ 1986 - 1990, chỉ số phát triển công nghiệp tăng 5,9%/năm; thời kỳ 1991 - 1995 tăng 13,7%/năm, gấp 2,3 lần 5 năm trước đó6. Đây tốc độ tăng trưởng bình quân mỗi năm cao nhất từ trước đến thời điểm đó vượt xa mục tiêu kế hoạch đề ra tăng bình quân mỗi năm 7,5 - 8,5%. cấu kinh tế bước chuyển đổi, tỷ trọng công nghiệp xây dựng trong GDP tăng từ 22,6% năm 1990 lên 29,1% năm 1995.

Sự thay đổi về quan điểm chính sách kinh tế đã đem lại những tác động tích cực trên thị trường hàng hóa, dịch vụ. Tự do hóa thương mại, tự do hóa lưu thông đã làm cho hàng hóa giao lưu thông suốt giữa các vùng trong cả nước, góp phần khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng, từng doanh nghiệp. Hàng hóa, dịch vụ ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại, tăng trưởng với mức cao, trên 10%/năm. Bên cạnh sự gia tăng về tổng mức bán lẻ hàng hóa doanh thu dịch vụ hội, giá cả đã phản ánh đúng hơn giá trị quan hệ cung - cầu trên thị trường, việc thực hiện chế một giá mua bán bình thường vật hàng hóa đã làm giảm mạnh các nhu cầu giả tạo nạn đầu cơ, tích trữ vật hàng hóa trong nước. Chỉ số tăng giá bình quân hằng tháng của thị trường hội năm 1986 20%, năm 1989 2,5%, năm 1990 4,4% năm 1995 1,0%7.

Hoạt động ngoại thương cũng cởi mở hơn, đã mở rộng quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong cả hai lĩnh vực kinh doanh sản xuất; mọi hàng hóa, trừ một số hàng hóa còn chịu sự quản của Nhà nước, được tự do xuất, nhập khẩu chịu sự điều tiết bằng thuế, theo Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Xuất khẩu trở thành một trong những động lực tăng trưởng GDP. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giai đoạn 1986 - 1990 bình quân đạt 28%/năm, cao hơn nhiều lần so với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 3,9%/năm trong cùng giai đoạn. Giai đoạn 1991 - 1995, xuất khẩu tăng bình quân 17,8%/năm, cao hơn 2 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 8,2%/năm trong cùng giai đoạn.

Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, nội thương, ngoại thương đã khơi nguồn sản xuất, cân đối cung cầu, tiền - hàng, kiềm chế lạm phát đóng góp quan trọng cùng các ngành khác đưa “nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - hội nghiêm trọng”. Từ sản xuất chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng, phải sử dụng nguồn vốn vay viện trợ của nước ngoài đắp một phần cho quỹ tiêu dùng; từ “kinh phí sử dụng từ vốn nước ngoài chiếm một tỷ lệ lớn trong thu nhập quốc dân: năm 1986 8,4%, năm 1988 lên tới 12,7%”8, đến đầu những năm 1990, tổng sản phẩm trong nước đã bảo đảm được trên 90% quỹ tích lũy tiêu dùng hằng năm. Sau khi đắp quỹ tiêu dùng, tổng sản phẩm trong nước còn một phần chuyển sang tích lũy tài sản, tỷ lệ tích lũy này tăng đều qua các năm: 3% năm 1990 lên 11,2% năm 1991 23,4% năm 19959. Đây mục tiêu kỳ vọng Đại hội VI của Đảng đã đề ra ổn định đời sống nhân dân phải đi đôi với bảo đảm yêu cầu tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân để đủ sức tiếp nhận đưa vào tái sản xuất mở rộng vốn vay viện trợ của nước ngoài”10. Trong 10 năm 1986 - 1995, đất nước ta cũng chứng kiến sự đấu tranh quyết liệt cả về mặt tưởng, luận để xác định những bước đi, tiến tới hình thành chế quản kinh tế mới. Về mặt tưởng: Hội nghị Trung ương 11 khóa V, khi thảo luận về dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội VI của Đảng, Bộ Chính trị Đoàn Chủ tịch Hội nghị kết luận rằng, qua 10 năm thấy biểu hiện của “tả” “hữu”:

- Về “tả”, muốn đốt cháy giai đoạn, muốn làm công nghiệp hóa nhanh, ham làm nhiều công nghiệp nặng.

- Về “hữu”, trong điều hành thì nể nang, xuê xoa, đoàn kết một chiều, nguyên tắc11.

Báo cáo chính trị tại Đại hội VI của Đảng nêu nguyên tắc “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói sự thật12. Theo đó, Đảng ta chỉ rõ: “Trong 5 năm 1976 - 1980, đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây dựng bản phát triển sản xuất, không coi trọng đúng mức việc khôi phục sắp xếp lại nền kinh tế, thiên về xây dựng công nghiệp nặng những công trình quy lớn, không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển sản xuất hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu”13. Từ đó, Đảng chủ trương: “Trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt trong kế hoạch 5 năm 1986 - 1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu, để đến khi kết thúc chặng đường đầu tiên đạt được kết quả như sau:

- Về lương thực, thực phẩm: bảo đảm lương thực đủ ăn cho toàn hội dự trữ. Đáp ứng một cách ổn định nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động.

- Về hàng tiêu dùng: sản xuất đáp ứng được nhu cầu bình thường của nhân dân thành thị nông thôn về những sản phẩm công nghiệp thiết yếu.

- Về hàng xuất khẩu: tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; đạt kim ngạch xuất khẩu đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ tùng những hàng hóa cần thiết”14. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh này vẫn còn gặp một số khó khăn. vậy, Bộ Chính trị đã ra Kết luận số 14-NQ/TW ngày 23/5/1988 yêu cầu: “Kiên quyết đình hoãn những công trình xây dựng ngoài kế hoạch Nhà nước chưa đem lại hiệu quả thiết thực”15. Tháng 6/1988, tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VI, Tổng thư Nguyễn Văn Linh một lần nữa phê phán khuynh hướng tưởng “tả” khuynh: “Về cấu kinh tế, chủ trương xây dựng công nghiệp nặng trên quy lớn, tốc độ cao, coi nhẹ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu16”; “hữu” khuynh: “Thiếu không khí tự phê bình phê bình trên tình đồng chí, thay vào đó bệnh nể nang, xuê xoa theo kiểu “dễ người dễ ta””17. Tình hình trên đã làm “tê liệt sự lãnh đạo của Đảng”, trong đó lãnh đạo về kinh tế. “Từ chỗ thiếu dân chủ đến dân chủ hình thức thì tình hình cũng chẳng tốt đẹp hơn”18. Đến năm 1990, công tác tự phê bình phê bình trong Đảng mới được đánh giá bước chuyển biến mạnh mẽ tại Hội nghị Trung ương 8 khóa VI: “Bằng việc làm này, chúng ta chứng minh với toàn Đảng, toàn dân rằng Đảng ta nghiêm túc thực hiện lời dạy của Bác Hồ lấy tự phê bình phê bình làm quy luật phát triển của Đảng”19. Không khí tự phê phê bình cởi mở hơn làm cho các chủ trương, đường lối về kinh tế không chỉ được bàn luận, hoạch định, quyết định lãnh đạo cấp cao còn được lắng nghe, phản biện điều chỉnh từ sở, giúp các quyết sách kinh tế gần với thực tiễn hơn. Không khí cởi mở dân chủ này đã khắc phục được tinh thần thụ động, trông chờ Tổng thư Nguyễn Văn Linh đã phê phán tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VI (tháng 6/1988): “Tư tưởng lại rất nặng, cấp dưới dựa vào cấp trên, địa phương dựa vào Trung ương, trong nước dựa vào ngoài nước”20. Về mặt luận: Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI khẳng định: “Trong lĩnh vực tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức luận vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ”21. Công tác luận tiếp tục trở thành mối quan tâm kéo dài trong suốt giai đoạn giao thời. Phát biểu tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VI, Tổng thư Nguyễn Văn Linh yêu cầu “các ban, ngành, các quan nghiên cứu luận, các phương tiện thông tin đại chúng cần thường xuyên kết, tổng kết, rút ra bài học hay để phổ biến, nâng lên thành luận để chỉ đạo trở lại hoạt động thực tiễn”22. Đặc biệt, Tổng thư cực lực phản đối những “nhà luận” “đi từ phòng họp này sang phòng họp khác, ban bố các mệnh lệnh, còn cuộc sống sinh động sự việc thực tế thì hoàn toàn xa lạ. Họ chỉ biết huênh hoang nói những điều cao xa, thuyết trừu tượng...”23. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VI, khi đưa ra “Một số nhiệm vụ cấp bách của công tác xây dựng Đảng” đã nhấn mạnh: “gắn luận với thực tiễn, khắc phục lối giáo dục luận trừu tượng tính chất kinh viện”24. Khi bế mạc Hội nghị Trung ương 5 khóa VI, Đảng ta đã thống nhất về mặt nhận thức: luận cách mạng Việt Nam phải xuất phát từ thực tế Việt Nam giải quyết những vấn đề do cách mạng Việt Nam đặt ra”25. Điều này nghĩa là, bên cạnh những luận chung của hệ thống hội chủ nghĩa về hình con đường đi lên chủ nghĩa hội, các nhà luận của Đảng, các cấp, các ngành nước ta phải đi vào những hình hay, cách làm tốt của sở, từ đó khái quát lên thành luận.

Công tác luận giai đoạn này hết sức quan trọng, bởi những đổi mới chế quản đều liên quan những khác biệt với hình xây dựng hội chủ nghĩa truyền thống. Hàng loạt vấn đề luận được đặt ra sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI là:

- Xác định chặng đường “quá độ” đi lên chủ nghĩa hội Việt Nam?

- Dân chủ hóa trong quản hoạt động kinh tế bảo đảm dân chủ phát huy đúng hướng theo mục tiêu xây dựng chủ nghĩa hội?

- Mối quan hệ giữa kế hoạch hóa thị trường?

- Nhà nước điều tiết nền kinh tế bằng giá kế hoạch hay giá thị trường? Hay sử dụng kết hợp giá kế hoạch với giá thị trường?

- Kinh tế nhiều thành phần làm các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tự phát, làm rối loạn các cân đối trong nền kinh tế? dẫn đến hạn chế vai trò của nghiệp quốc doanh (nay gọi doanh nghiệp nhà nước)?

- Kinh tế nhiều thành phần mâu thuẫn với hình xây dựng hội chủ nghĩa dựa trên công hữu về liệu sản xuất?

- Quyền tự chủ của nghiệp quốc doanh? Chuyển hoạt động của các tổ chức kinh tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh hội chủ nghĩa?

- Quyền của kinh tế nhân trong hoạt động xuất, nhập khẩu trực tiếp?

- Hợp tác với các nước bản chủ nghĩa làm mất đi sự độc lập, tự chủ?

- Đảng viên được làm kinh tế bản nhân hay không?

Những vấn đề trên, vấn đề thống nhất được ngay, như quyền tự chủ của nghiệp quốc doanh, chuyển hoạt động của các tổ chức kinh tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh hội chủ nghĩa, kinh tế nhiều thành phần, hợp tác với các nước bản chủ nghĩa; vấn đề kéo dài sang các năm sau như kinh tế thị trường, giá thị trường, kinh tế nhân...

Với sự tham mưu của các bộ quản ngành Công Thương, các văn bản pháp quy là: Nghị quyết số 113/HĐBT ngày 05/7/1987 của Hội đồng Bộ trưởng về việc chuyển hoạt động nội thương sang hạch toán, kinh doanh hội chủ nghĩa; Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành các chính sách đổi mới kế hoạch hóa hạch toán kinh doanh hội chủ nghĩa đối với nghiệp quốc doanh; Quyết định số 231/HĐBT ngày 31/12/1987 của Hội đồng Bộ trưởng về việc chuyển ngành vật sang hạch toán kinh doanh hội chủ nghĩa sắp xếp lại tổ chức kinh doanh vật tư; Nghị định số 64/HĐBT ngày 10/6/1989 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành bản quy định về chế độ tổ chức quản hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu, đã tạo hành lang pháp cho các tổ chức kinh tế quốc doanh ngành Công Thương chuyển sang hạch toán kinh doanh hội chủ nghĩa, hoạt động ổn định, giữ vững vai trò chủ đạo trên thị trường sự tham gia của các thành phần kinh tế.

Sự chuyển đổi ngay sau khi Đảng phát động công cuộc đổi mới giúp các đơn vị kinh tế quốc doanh kịp thời mở rộng sản xuất, phát triển kinh doanh, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm hiệu quả kinh tế - hội, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa dịch vụ cần thiết cho hội, tạo nguồn thu ngày càng lớn cho ngân sách quốc gia; từ đó góp phần kiềm chế lạm phát thông qua cân đối cung - cầu lực lượng hàng hóa dự trữ, cũng như bảo đảm lưu chuyển hàng hóa thông suốt trên thị trường thống nhất trong cả nước. Nghị quyết Trung ương 6 khóa VI (tháng 3/1989) nhìn nhận: Đã xuất hiện nhiều hình nghiệp, liên hiệp, công ty chuyển được sang hạch toán kinh doanh, gắn với thị trường, tự trang trải, tích lũy, bảo đảm được đời sống công nhân viên đóng góp cho Nhà nước”26, đồng thời, thúc đẩy tích tụ tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước, tạo sở điều kiện cho việc thành lập các Tổng Công ty 90 Tổng Công ty 91 từ năm 1994 trở đi.

Các vấn đề kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhân, quyền sở hữu liệu sản xuất cũng được tổng kết bằng thực tiễn, thống nhất về luận, tạo thuận lợi cho xác lập chế quản mới bằng các Nghị định phát triển kinh tế nhân, kinh tế gia đình, Luật công ty Luật doanh nghiệp nhân. Thông qua việc công nhận quyền thành lập doanh nghiệp nhân của mọi công dân; công nhận sự tồn tại lâu dài của doanh nghiệp nhân; thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của doanh nghiệp nhân với các doanh nghiệp khác tính sinh lợi hợp pháp của việc kinh doanh, chúng ta đã giải quyết thấu đáo về mặt luận hàng loạt các vấn đề: kinh tế nhân không mâu thuẫn với hình xây dựng hội chủ nghĩa trong tình hình mới, nhận thức mới về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa hội; kinh tế nhiều thành phần không làm rối loạn các cân đối trong nền kinh tế; kinh tế nhân không hạn chế vai trò của doanh nghiệp nhà nước, càng làm cho doanh nghiệp nhà nước “rảnh tay”, điều kiện tập trung vào những ngành then chốt, những lĩnh vực mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, những lĩnh vực nhu cầu của thị trường nhưng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa điều kiện đầu phát triển.

Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) của Đảng đã tổng kết từ thực tiễn: trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, khi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa cao, chưa đồng đều, thì tồn tại đồng thời nhiều chế độ sở hữu (công hữu, hữu, hỗn hợp) một tất yếu khách quan, động lực thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất hội. Hàng hóa trên thị trường, nhất hàng tiêu dùng, dồi dào, đa dạng lưu thông tương đối thuận lợi, trong đó nguồn hàng sản xuất trong nước tuy chưa đạt kế hoạch nhưng cũng tăng hơn trước tiến bộ rệt về mẫu mã, chất lượng. Một số sản phẩm liệu sản xuất tăng khá. Các sở sản xuất gắn chặt hơn với nhu cầu thị trường, phần bao cấp của Nhà nước về vốn, giá vật tư, tiền lương... giảm đáng kể. Đó kết quả của chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đổi mới nhiều chính sách về sản xuất lưu thông hàng hóa. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn với tính chất, trình độ yêu cầu phát triển của sức sản xuất, giải phóng phát huy tiềm năng to lớn trong nước, tạo thuận lợi khai thác nguồn lực bên ngoài. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo chế thị trường sự quản của Nhà nước theo định hướng hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng một cách đồng bộ hơn hiệu quả hơn.

Trong các vấn đề luận trên, gai góc nhất giá thị trường. hình kinh tế kế hoạch hóa về bản chất một nền kinh tế hiện vật. Xét về cách thức quản lý, toàn bộ nền kinh tế quốc dân được cân đối bằng hiện vật thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh, năm nay, năm tới sẽ sản xuất bao nhiêu mét vải, bao nhiêu tấn phân bón, bao nhiêu máy cắt gọt kim loại... Xét trên chế vận hành, các hoạt động sản xuất phân phối tiêu dùng chủ yếu trao đổi hiện vật. Về sản xuất, nghiệp quốc doanh nhận vật của Nhà nước, sản xuất rồi bán cho thương nghiệp theo chế độ “thu quốc doanh”. Về phân phối tiêu dùng, cán bộ công nhân viên, lực lượng trang, nhân dân khu vực thành thị... nhận tem, phiếu, sổ mua gạo, thực phẩm, vải may quần áo, đồ dùng gia đình. Trong nền kinh tế hiện vật, tiền chưa thật tiền. dụ, một nghiệp tiền cũng chưa đủ điều kiện để mua hàng hóa (như vật tư), để được mua vật tư, nghiệp còn phải được giao chỉ tiêu pháp lệnh sản xuất những mặt hàng nhất định, phải kế hoạch sản xuất được các cấp quản duyệt, sau đó mới được mua vật với số lượng chủng loại tương đương với kế hoạch sản xuất đã được phê duyệt. Đồng thời, về bản, hàng cũng chưa thật hàng bởi trong nghiệp quốc doanh, cả giá mua vật cung cấp giá bán sản phẩm theo chế độ “thu quốc doanh” đều không được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó do Nhà nước quy định. thể nói, trong hình kinh tế kế hoạch hóa với nền kinh tế hiện vật, giá trị của hàng hóa gần như không được nhìn nhận theo đúng ý nghĩa của nó; tùy theo ý định khuyến khích hay hạn chế của Nhà nước, hàng thể được định giá cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thực, ít mối liên quan đến giá cả trên thị trường tự do. Bởi vậy, để đi đến thống nhất, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3/1989) đã nêu: Giá cả trong nước không thể tách rời giá cả trên thị trường quốc tế, “Nhà nước không dùng mệnh lệnh hành chính áp đặt giá sử dụng các chính sách biện pháp kinh tế chủ yếu để tác động đến quan hệ cung - cầu, điều tiết, hướng dẫn giá cả trên thị trường”27. Đó cả một chặng đường dài, cụ thể:

- Năm 1987 đã điều chỉnh từng bước giá bán một số vật chiến lược như xăng, than, điện, sắt, ximăng, bông xơ... lên dần dần, phù hợp với sức chịu đựng của các tổ chức kinh tế quốc doanh, theo chủ trương của Hội nghị Trung ương 2 khóa VI: Nhà nước không giữ mức giá mua, bán thấp, nhưng sẽ điều chỉnh từng bước, tránh gây đột biến tới các loại giá khác làm tăng đột ngột khối lượng tiền lưu thông28.

- Từ năm 1988, thực hiện bán vật cho nghiệp quốc doanh theo hai mức giá: Giá bán cung cấp theo hướng điều chỉnh tăng dần cho các nghiệp theo chỉ tiêu pháp lệnh hoặc đơn đặt hàng của Nhà nước giá bán theo sự thỏa thuận với các nghiệp.

- Năm 1989, xóa bỏ hầu hết chế độ bán cung ứng cho nghiệp quốc doanh; từ quý II năm 1989 bãi bỏ chế độ phân phối tem phiếu sau 3 năm 1986 - 1988, thu hẹp từng phần danh mục hàng hóa cung cấp theo định lượng.

Trong 10 năm 1986 - 1995, việc đổi mới chế quản ngày càng mở rộng. Từ quyền tự chủ của tổ chức kinh tế quốc doanh tới quyền sản xuất - kinh doanh của các thành phần kinh tế khác, từ xóa bỏ chế độ bao cấp, đến xóa bỏ hệ thống định giá của Nhà nước, để hàng hóa trao đổi trên thị trường sát với giá trị thực hơn. Đổi mới chế quản một đường thẳng đi lên nhưng bên trong sự đấu tranh, phản biện quyết liệt. Trong bối cảnh ấy, để tập hợp sự đồng thuận, để phá bỏ những định kiến thói quen cũ, Đảng ta dựa vào những nguyên bản của chủ nghĩa hội vận dụng vào thực tiễn của Việt Nam, cho thấy sự “dữ dội” của cuộc đấu tranh trong những năm đầu đổi mới trước khi đi đến sự đồng thuận; đồng thời sự “dữ dội” ấy cũng cho thấy, những bước ngoặt, bản lĩnh của một tổ chức, nhất tổ chức đảng được bộc lộ mạnh mẽ hơn bao giờ hết:

- Chặng đường đầu tiên một bước quá độ nhỏ trong bước quá độ lớn. V.I. Lênin nói: “Suốt cả thời kỳ đó (thời kỳ quá độ), trong chính sách của chúng ta, lại chia ra thành nhiều bước quá độ nhỏ hơn nữa. tất cả cái khó khăn của nhiệm vụ chúng ta phải làm, tất cả cái khó khăn của chính sách tất cả sự khéo léo của chính sách chỗ biết tính đến những nhiệm vụ đặc thù của từng bước quá độ đó”29; “Giải pháp đó xuất phát từ thực tế của nước ta sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế cấu nhiều thành phần một đặc trưng của thời kỳ quá độ30.

- “Tôi muốn nhắc đến một câu nói rất hay của Lênin, đại ý: những ưu điểm, nếu kéo dài mãi quá mức cần thiết sẽ trở thành khuyết điểm. Chúng ta cũng trong trường hợp này. Từ đó, đã đề ra những chủ trương chiến lược sai lầm trên các mặt cấu kinh tế, chế quản kinh tế cải tạo hội chủ nghĩa”31 (Phát biểu của Tổng thư Nguyễn Văn Linh tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VI).

Tổng thư cũng nhấn mạnh:

- “Vì không chú ý đầy đủ đặc điểm lớn nhất của nước ta nền sản xuất nhỏ còn phổ biến như Bác Hồ đã dạy, nên chúng ta đã chủ trương quá độ thẳng, trực tiếp lên chủ nghĩa hội, bỏ qua các nấc trung gian cần thiết, những nấc thang trung gian ngay những nước đã trải qua giai đoạn phát triển bản chủ nghĩa trung bình tiến lên chủ nghĩa hội cũng không thể bỏ qua”32.

đưa ra cảnh báo:

- “Sai lầm lớn trong duy luận lẫn lộn bước đi về thời kỳ quá độ, không chú ý đến điều Lênin căn dặn là: phải hình dung cho thật chúng ta đang quá độ từ đâu đến đâu33.

- “Lênin nói “Chính trị của chúng ta lúc này xây dựng nước nhà về mặt kinh tế”, hoặc “chính trị biểu hiện tập trung của kinh tế”, “kinh tế quyết định chính trị”. Lênin nói những điều đó hoàn toàn không mâu thuẫn với mình khi Người viết: “Chính trị không thể không giữ địa vị ưu tiên so với kinh tế”. Lênin rất đúng khi Người chủ trương muốn giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường thì điều chủ yếu phải tạo ra được sức sản xuất lớn mạnh bằng cách phát triển kinh tế năm thành phần, nòng cốt kinh tế hội chủ nghĩa, hướng các thành phần phi công hữu phát triển theo quỹ đạo hội chủ nghĩa”34.

Nói cách khác, sự đấu tranh phức tạp, quyết liệt trong những năm đầu đổi mới, được thực tiễn kiểm nghiệm tại sở đã tạo ra bản lĩnh kiên định của Đảng, ngay cả khi các nước hội chủ nghĩa đang lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện nghiêm trọng, thì con đường đổi mới của nước ta không bị rơi vào hai thái cực cực đoan là: co cụm lại với cách quản hoặc chuyển sang con đường khác, tiếp tục vững bước; mỗi bước đi tạo ra một nền móng sở vật chất sở luận cao hơn, rộng hơn cho bước đổi mới tiếp theo.

Nhìn lại những bước đi thể thấy, đó những bước tiến hết sức quan trọng trong chống lạm phát, giảm bội chi ngân sách, mở đường cho sản xuất lưu thông phát triển, đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - hội nghiêm trọng. Trong mỗi bước tiến đó, sự tham mưu, tổ chức thực hiện của các Bộ quản ngành Công Thương.


1. Ngày 05/4/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10/NQ-TW về đổi mới quản kinh tế nông nghiệp. Chỉ một năm sau, từ một nước phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam đã xuất khẩu được hơn 1 triệu tấn gạo.

2. Năm 1989, lần đầu tiên nghiệp Liên hiệp Gang thép Thái Nguyên (Bộ khí Luyện kim) đã xuất khẩu sang thị trường các nước bản 23.000 tấn thép các loại, gần 3.200 tấn gang đúc…

3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.48, tr.47.

5. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.48, tr.48.

6. Tổng cục Thống kê: Công nghiệp Việt Nam 20 năm đổi mới phát triển, Sđd, tr.85.

7. Niên giám Thống các năm 1986 - 1995.

8. Ban chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, t.3, tr.196.

9. Xem Viện Khoa học hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, tập II: 1955 - 1975, Sđd, tr.157.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.377.

11. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.313.

12, 13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.346, 354-355.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.380-381.

15, 16, 17, 18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.49, tr.223, 246, 250, 251.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.50, tr.56-57.

20, 21, 22. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.49, tr.246, 255, 248.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.361.

24, 25. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.49, tr.268, 296.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.49, tr.489.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.49, tr.601.

28. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.48, tr.64.

29, 30. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.375, 389.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.49, tr.246.

32, 33, 34. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.59, tr.247, 247, 298.

1. Hoạt động nội thương

Giai đoạn này, công tác quản lý nhà nước về thương mại có sự đổi mới từ Trung ương đến địa phương cả về tư duy, nội dung và phương pháp quản lý, môi trường pháp lý cho lưu thông hàng hóa, hoạt động của thương nhân. Ngày 05/7/1987, Hội đồng Bộ trưởng có Nghị quyết số 113/HĐBT chuyển hoạt động nội thương sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết đánh dấu bước khởi đầu xác lập cơ chế xóa bỏ chế độ bao cấp - một phương thức kinh doanh chủ yếu của thương nghiệp quốc doanh: “Mọi quan hệ trao đổi giữa các tổ chức kinh tế của Nhà nước với hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp và các hộ nông dân phải theo nguyên tắc bình đẳng, thuận mua vừa bán, bảo đảm củng cố liên minh công nông. Xóa bỏ chế độ trao đổi hiện vật trong việc mua nông sản và bán vật tư với nông dân”; “Xóa bỏ tình trạng cắt khúc lưu thông hàng hóa theo cấp hành chính; không nhất thiết mỗi cấp quản lý hành chính đều phải có tổ chức kinh doanh thương nghiệp của riêng mình”; “Xây dựng và thực hiện các định mức kinh tế kỹ thuật thương nghiệp hợp lý, nâng cao chất lượng kinh doanh, quay nhanh vòng hàng và tiền, giảm mạnh phí lưu thông bất hợp lý, kinh doanh có lãi; hạn chế, đi tới chấm dứt việc Nhà nước bù lỗ cho thương nghiệp”.

Ngày 31/12/1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 231/HĐBT về việc chuyển ngành vật tư sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa và sắp xếp lại tổ chức kinh doanh vật tư, cho phép tổ chức kinh doanh vật tư “được quan hệ trực tiếp với các xí nghiệp”. Trong đó, hạch toán rành mạch việc mua bán vật tư trong và ngoài chỉ tiêu pháp lệnh, trong và ngoài danh mục Nhà nước định giá:

- Phần bán cho các xí nghiệp làm sản phẩm theo chỉ tiêu pháp lệnh hoặc đơn đặt hàng của Nhà nước thì bán theo số lượng Nhà nước đã ghi rõ tương ứng khối lượng sản phẩm được giao kế hoạch pháp lệnh hoặc đơn đặt hàng Nhà nước.

- Phần bán theo sự thỏa thuận với các xí nghiệp để làm các sản phẩm và dịch vụ khác thì đưa vào kế hoạch kinh doanh chung báo cáo cấp trên biết, và phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về các điều khoản mua bán ký kết với các bạn hàng.

- Đối với những loại vật tư thuộc danh mục Nhà nước định giá thì phải bán theo đúng giá quy định của Nhà nước.

- Đối với những loại vật tư ngoài danh mục Nhà nước định giá các tổ chức kinh doanh vật tư được bán theo giá thỏa thuận với người mua.

Đặc biệt, các tổ chức kinh doanh vật tư được trực tiếp quan hệ với các tổ chức và tư nhân trong và ngoài nước trong phạm vi nhiệm vụ được Nhà nước giao để liên doanh, liên kết chủ động tạo thêm nguồn vật tư, vay và sử dụng ngoại tệ, ký hợp đồng mua, bán vật tư, đại lý mua, bán vật tư;... quyết định việc tham gia các hình thức liên kết với các đơn vị kinh tế khác trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi; kể cả việc gia nhập các liên hiệp sản xuất kinh doanh khác.

Ngày 23/12/1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 193/HĐBT về kinh doanh thương mại và dịch vụ ở thị trường trong nước. Trong đó, Nhà nước bảo hộ các hoạt động kinh doanh hợp pháp của các tổ chức, cá nhân; các tổ chức kinh tế và các công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên đều được đăng ký và được cấp giấy phép kinh doanh; mọi hàng hóa đều được tự do lưu thông, trừ những mặt hàng cấm và những mặt hàng đòi hỏi phải tuân thủ những điều kiện nhất định mới được phép kinh doanh.

bách hóa Tràng Tiền

Bách hóa tổng hợp Tràng Tiền, Hà Nội đầu năm 1990 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

bảng 49

bảng 50

bảng 51

Những chính sách trên đã chuyển hoạt động của thương nghiệp quốc doanh từ phục vụ theo phương thức cung ứng sang phục vụ theo phương thức kinh doanh; đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh, từ đó từng bước hình thành các kênh lưu thông mới, xây dựng nhiều hạ tầng bán buôn, bán lẻ mới.

Với sự tham gia đông đảo của các loại hình thương nhân thuộc các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, gắn sản xuất với tiêu thụ, gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu và bảo đảm các nhu cầu trong nước. Mạng lưới kinh doanh thương mại, dịch vụ tiếp tục được mở rộng trên cả 3 địa bàn: thành thị, nông thôn và miền núi, với sự tham gia của các chủ thể kinh doanh. Tổ chức và phương thức kinh doanh, phương thức mua bán ngày càng đổi mới, phong phú và linh hoạt hơn.

Thương nghiệp quốc doanh đã từng bước vươn lên, thích ứng với cơ chế mới, hiệu quả kinh doanh được nâng cao, giữ được vai trò nòng cốt ở những mặt hàng trọng yếu ở những khâu và lĩnh vực then chốt, chi phối 70 - 75% khâu bán buôn, chiếm từ trên 30% đến gần 60% tổng mức lưu chuyển bán lẻ.

Sau khi bị tan rã hàng loạt, các hợp tác xã thương mại đã từng bước chuyển đổi, củng cố và phát triển, phát huy được vai trò ở nông thôn, miền núi, chiếm trên dưới 1% tổng mức bán lẻ trên thị trường theo những mô hình hợp tác xã kiểu mới, như: gắn dịch vụ nông nghiệp với thương mại, dịch vụ trong trường học, kinh doanh và quản lý chợ,...

Dưới hình thức công ty, cá nhân, hộ kinh doanh cá thể, thương mại tư nhân phát triển nhanh, nhất là từ khi Nhà nước ban hành Luật doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng khoảng 0,5% trong tổng mức bán lẻ trên thị trường nội địa. Các doanh nghiệp, doanh nhân ngoài khu vực Nhà nước tạo ra khá nhiều việc làm và tăng thu nhập cho một bộ phận dân cư, tiêu thụ nông sản, cung ứng vật tư, hàng tiêu dùng phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân, góp phần quan trọng giữ vững các cân đối lớn của nền kinh tế, kiềm chế lạm phát từ mức 3 con số trong 3 năm đầu đổi mới xuống trên dưới 10% từ năm 1992.

Trong 3 năm 1986 - 1988, thương nghiệp quốc doanh chiếm tỷ trọng rất cao, từ xấp xỉ 30% đến gần 60% tổng mức bán lẻ toàn xã hội, bắt đầu từ năm 1989, sau khi Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị quyết số 113/HĐBT (ngày 05/7/1987), Quyết định số 231/HĐBT (ngày 31/12/1987) và Quyết định số 193/HĐBT (ngày 23/12/1988), thương nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cùng “bung” ra, cơ cấu bán lẻ của thương nghiệp quốc doanh giảm dần, trong khi thương nghiệp tư nhân ngày càng có đóng góp nhiều hơn trên thị trường trong nước, từ khoảng 40% năm 1986 vươn lên 74,5% năm 1995. Tuy nhiên, những vật tư chiến lược quan trọng như xăng dầu, kim khí, thiết bị và phụ tùng, hóa chất vật liệu điện và dụng cụ cơ khí vẫn do thương nghiệp quốc doanh nắm bán buôn chi phối.

Bên cạnh chính sách chung, Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chính sách khuyến khích phát triển các hợp tác xã, chính sách phát triển thương nghiệp miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc... Hoạt động của các sở thương mại đã chuyển từ thực hiện chức năng chủ quản doanh nghiệp trực thuộc sang hướng dẫn và tổ chức thực hiện chính sách và luật pháp, cung cấp thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển kinh doanh trên thị trường, thiết lập trật tự, kỷ cương trên thị trường, kiềm chế hoạt động buôn lậu, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng và các hành vi gian lận thương mại khác, nâng cao hiệu quả kinh doanh thương mại và bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng.

CHƯƠNG III: PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP - THƯƠNG MẠI TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ (1995 - 2010)

Tam Đảo 03

Công trình giàn khoan tự nâng 90 m nước Tam Đảo 03 (Ảnh: Petrovietnam)

thủy điện Ialy

Thủy điện Ialy được khởi công xây dựng ngày 01/11/1993 và khánh thành ngày 27/4/2002 (Ảnh: EVN)

dây chuyền lá cách

Dây chuyền sản xuất lá cách của Jungfer (Áo) - Công trình đầu tư đầu tiên của Công ty cổ phần Pin Ắc quy miền Nam (PINACO), năm 1991 (Ảnh: PINACO)

Danh mục

Tùy chỉnh