1. Tình hình chính trị, kinh tế, hội Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945

a) Tình hình chính trị

Ngày 08/5/1945, phát xít Đức đầu hàng Đồng minh. châu Á, ngày 15/8/1945, phát xít Nhật cũng đầu hàng. Chớp thời cơ, ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Tiếp đó, ngày 16/8, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào đã thành lập Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đây được coi tiền thân của Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam, trước khi thành lập một chính phủ chính thức, thay mặt quốc dân để giao thiệp với nước ngoài chủ trì mọi công việc trong nước.

Thực hiện nghị quyết của Đại hội quốc dân Tân Trào, hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh mệnh lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, nhân dân cả nước đã chủ động khởi nghĩa giành chính quyền, tiêu biểu các cuộc khởi nghĩa tại Nội, Huế Sài Gòn. Nội khởi nghĩa thắng lợi vào ngày 19/8/1945, tiếp theo sau Huế vào ngày 23/8/1945 Sài Gòn vào ngày 25/8/1945. Ngày 30/8/1945, vua Bảo Đại chính thức tuyên bố thoái vị tại Huế, trao lại ấn, kiếm - biểu tượng quyền lực của chế độ phong kiến cho phái đoàn Chính phủ cách mạng.

Chính quyền trong cả nước đã thuộc về nhân dân, chế độ thuộc địa phong kiến hoàn toàn bị lật đổ. Ngày 27/8/1945, Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam, gồm 14 thành viên do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam.

Đọc Tuyên ngôn Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Quảng trường Ba Đình, ngày 02/9/1945 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Tuy nhiên, nền độc lập của nước non trẻ Việt Nam bị chủ nghĩa đế quốc, thực dân phản động liên kết với nhau bao vây, chống phá từ nhiều phía; trong đó, Hán - chỉ huy quân đội của Trung Hoa Dân quốc với khoảng 200.000 quân đã kéo vào đóng tại Nội hầu hết các thành phố, thị lớn từ biên giới Việt - Trung cho đến tuyến 16 từ cuối tháng 8/1945 với danh nghĩa thực hiện nhiệm vụ giải giáp quân đội phát xít Nhật theo Tuyên bố Potsdam1. Thực tế, đội quân này mưu đồ lật đổ chính quyền cách mạng vừa mới thành lập. Đội quân ô hợp, cướp bóc nhũng nhiễu này đe dọa nghiêm trọng cả chủ quyền độc lập lẫn nền kinh tế Việt Nam.

Ngày 12/9/1945, quân đội Liên hiệp Anh theo ủy quyền của lực lượng Đồng minh tiến vào miền Nam Việt Nam đến tuyến 16 để tước khí quân đội phát xít Nhật. Tuy nhiên, lực lượng này lại cho phép cả đạo quân viễn chinh Pháp vào cùng khi Pháp lên kế hoạch tái chiếm lại Đông Dương thực hiện nhiều hành động gây hấn, chống đối, xung đột với chính quyền cách mạng.

Tại thời điểm này, vẫn còn khoảng 60.000 quân phát xít Nhật đóng tại nước ta nhiều lực lượng chống đối, phản động câu kết với các thế lực nước ngoài để chống lại Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bên cạnh đó, Việt Nam gần như bị phong tỏa khi mọi hải cảng, sân bay nhiều cửa khẩu trên biên giới đất liền vẫn do quân đội Pháp kiểm soát. Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gặp rất nhiều khó khăn trong việc thiết lập cũng như duy trì các quan hệ với nước ngoài.

Ngày 23/9/1945, quân đội Pháp nổ súng tấn công các trụ sở của chính quyền cách mạng tại Sài Gòn, khơi mào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần hai. Ủy ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập kêu gọi nhân dân đứng lên kháng chiến. Quân dân Nam Bộ đã anh dũng, kiên cường trực diện chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược.

Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc với việc tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập dân tộc ra sức xây dựng chế độ hội mới.

Đến cuối tháng 02/1946, với lực lượng vượt trội, quân đội Pháp đã đánh chiếm được tất cả các tỉnh, thành phố, đường giao thông quan trọng vùng Nam Bộ cực Nam Trung Bộ. Với sách lược “Hòa để tiến” các biện pháp chính trị, ngoại giao khéo léo, Chính phủ liên hiệp kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa2 đại diện Chính phủ Cộng hòa Pháp đã kết Hiệp định bộ vào ngày 06/3/1946, tiếp sau đó Tạm ước về quan hệ Việt Nam - Pháp vào ngày 14/9/1946. Qua đó, “tiễn” quân đội Trung Hoa Dân quốc cùng tay sai ra khỏi nước ta, bớt đi được một mối đe dọa thường trực. Đồng thời, chúng ta thêm thời gian quý báu để củng cố chính quyền, chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ chống thực dân Pháp.

Ngay sau khi Hiệp định bộ, người Pháp đã bộc lộ ý đồ phá hoại Hiệp định. Cuối năm 1946, ngay sau khi thêm viện binh, quân đội Pháp liên tục tiến hành các hành động khiêu khích ra tối hậu thư đòi ta phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Chín năm trường kỳ kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ, vẻ vang của dân tộc Việt Nam bắt đầu từ đây.

b) Tình hình kinh tế - hội

Ngoài việc phải đối phó với nạn ngoại xâm nội phản, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ còn phải đương đầu với hàng loạt khó khăn, thử thách về kinh tế - hội. Nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, bị kiệt quệ nặng nề bởi chính sách khai thác, bóc lột đến tận cùng của thực dân Pháp phátxít Nhật cộng thêm chiến tranh, thiên tai liên miên.

Nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử nước ta kéo dài từ tháng 02/1945 đến tháng 4/1945 làm chết khoảng hai triệu người3 còn chưa giải quyết xong hậu quả, thì nguy nạn đói mới lại tiếp tục khi hàng loạt đê tại Bắc Bộ Bắc Trung Bộ bị vỡ vào tháng 8/1945, gây ra một trong những nạn lụt lớn nhất thế kỷ XX tại Việt Nam. Khoảng 40% diện tích lúa mùa đã cấy xong tại Bắc Bộ bị phá hủy. Ba tỉnh Trung Bộ gồm Thanh Hóa, Nghệ An Tĩnh cũng lâm vào cảnh tương tự với mùa màng bị mất gần 50%. Sau trận lụt hạn hán kế tiếp, một lượng lớn đất canh tác bị bỏ hoang hóa. Lượng thóc thu hoạch được của vụ mùa năm 1945 chỉ đủ ăn đến cuối tháng 01/19464.

nhân dân góp gạo Nhân dân góp gạo chống giặc đói (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Thông về phương pháp khẩn cấp chấn hưng nông nghiệp của Bộ Quốc dân Kinh tế gửi các địa phương vào ngày 26/10/1945 nêu: “Ngành kinh tế canh nông đã bị liệt, sức sản xuất nông nghiệp giảm nhiều. Hiện nay, một nạn đói khác đang sắp hoành hành nếu không phương pháp khẩn cấp để cứu chữa thì nạn đói sẽ còn khốc liệt hơn”5.

Trong khi người dân Việt Nam đang thiếu hụt lương thực trầm trọng, đội quân 200.000 người của Trung Hoa Dân quốc còn đòi Chính phủ ta phải thực hiện chế độ trưng thu lương thực để cung cấp 10.000 tấn gạo mỗi tháng.

Ngân quỹ quốc gia khánh kiệt, lượng tiền Chính phủ nắm được từ Sở Ngân khố của người Pháp chỉ còn 1.250.000 đồng Đông Dương, bao gồm 586.000 đồng tiền rách, nát đang chờ tiêu hủy chưa tính số nợ ngân phiếu chưa trả 564.367.522 đồng Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương do người Pháp nắm quyền in ấn, phát hành tiền tệ gây khó khăn bằng cách cắt đứt hoàn toàn nguồn cung cấp tài chính. Các nguồn thu từ thuế vốn đóng góp đến 3/4 ngân sách Đông Dương giảm sút. Các chính sách thuế mới nhằm giảm nhẹ gánh nặng đóng góp cho nhân dân được Chính phủ ban hành ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng khiến nguồn thu ngân sách giảm nhiều trong khi nhu cầu phải chi rất lớn.

Trong khi đó, nền kinh tế đang rơi vào tình trạng lạm phát nghiêm trọng. Khi quân đội phátxít Nhật tràn vào Việt Nam trong năm 1940, chúng đã buộc Pháp phải in nhiều tiền để phục vụ nhu cầu chi tiêu, gây sụp đổ nền kinh tế Việt Nam. Nếu như năm 1940, số lượng tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành chỉ 284,4 triệu đồng Đông Dương thì đến tháng 10/1945, con số này lên đến 2,483 tỉ đồng Đông Dương. Mặt khác, chính quyền cách mạng còn phải đối phó với cuộc chiến tiền tệ, phá hoại kinh tế khốc liệt không chỉ từ thực dân Pháp còn từ chính đội quân Trung Hoa Dân quốc đóng tại Bắc Bộ.

Những vấn đề khác về văn hóa - hội cũng rất cấp bách. Chế độ thống trị thực dân trong gần 80 năm khiến hơn 90% dân số Việt Nam không biết đọc, biết viết6, nhiều tệ nạn hội như nghiện rượu, thuốc phiện, cờ bạc, tín dị đoan... thâm nhập sâu trong các tầng lớp hội. Dân trí thấp cùng với tình hình kinh tế khó khăn sự chống phá của các thế lực thù địch càng khiến tệ nạn hội bùng phát, tạo ra các thử thách nghiêm trọng đối với chính quyền mới.


1. Tuyên bố Potsdam được Mỹ, Anh Trung Hoa Dân quốc công bố ngày 26/7/1945, nêu ra các điều kiện cho sự đầu hàng của quân đội phátxít Nhật.

2. Thành lập ngày 02/3/1946 dựa trên kết quả của kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I tại Nội.

3. Xem Văn Tạo Furuta Motoo: Nạn đói năm 1945 Việt Nam - Những chứng tích lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Nội, 2016, tr.19.

4. Xem Trung tâm Khoa học hội nhân văn quốc gia, Viện Kinh tế học, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000 (Tập 1: 1945 - 1954), Sđd, tr.119.

5. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 9, ngày 17/11/1945, tr.115.

6. Xem Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Nội, 2009, t.3, tr.7.

1. Tình hình chính trị, kinh tế, hội Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945

a) Tình hình chính trị

Ngày 08/5/1945, phát xít Đức đầu hàng Đồng minh. châu Á, ngày 15/8/1945, phát xít Nhật cũng đầu hàng. Chớp thời cơ, ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Tiếp đó, ngày 16/8, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào đã thành lập Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đây được coi tiền thân của Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam, trước khi thành lập một chính phủ chính thức, thay mặt quốc dân để giao thiệp với nước ngoài chủ trì mọi công việc trong nước.

Thực hiện nghị quyết của Đại hội quốc dân Tân Trào, hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh mệnh lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, nhân dân cả nước đã chủ động khởi nghĩa giành chính quyền, tiêu biểu các cuộc khởi nghĩa tại Nội, Huế Sài Gòn. Nội khởi nghĩa thắng lợi vào ngày 19/8/1945, tiếp theo sau Huế vào ngày 23/8/1945 Sài Gòn vào ngày 25/8/1945. Ngày 30/8/1945, vua Bảo Đại chính thức tuyên bố thoái vị tại Huế, trao lại ấn, kiếm - biểu tượng quyền lực của chế độ phong kiến cho phái đoàn Chính phủ cách mạng.

Chính quyền trong cả nước đã thuộc về nhân dân, chế độ thuộc địa phong kiến hoàn toàn bị lật đổ. Ngày 27/8/1945, Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam, gồm 14 thành viên do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam.

Đọc Tuyên ngôn Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Quảng trường Ba Đình, ngày 02/9/1945 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Tuy nhiên, nền độc lập của nước non trẻ Việt Nam bị chủ nghĩa đế quốc, thực dân phản động liên kết với nhau bao vây, chống phá từ nhiều phía; trong đó, Hán - chỉ huy quân đội của Trung Hoa Dân quốc với khoảng 200.000 quân đã kéo vào đóng tại Nội hầu hết các thành phố, thị lớn từ biên giới Việt - Trung cho đến tuyến 16 từ cuối tháng 8/1945 với danh nghĩa thực hiện nhiệm vụ giải giáp quân đội phát xít Nhật theo Tuyên bố Potsdam1. Thực tế, đội quân này mưu đồ lật đổ chính quyền cách mạng vừa mới thành lập. Đội quân ô hợp, cướp bóc nhũng nhiễu này đe dọa nghiêm trọng cả chủ quyền độc lập lẫn nền kinh tế Việt Nam.

Ngày 12/9/1945, quân đội Liên hiệp Anh theo ủy quyền của lực lượng Đồng minh tiến vào miền Nam Việt Nam đến tuyến 16 để tước khí quân đội phát xít Nhật. Tuy nhiên, lực lượng này lại cho phép cả đạo quân viễn chinh Pháp vào cùng khi Pháp lên kế hoạch tái chiếm lại Đông Dương thực hiện nhiều hành động gây hấn, chống đối, xung đột với chính quyền cách mạng.

Tại thời điểm này, vẫn còn khoảng 60.000 quân phát xít Nhật đóng tại nước ta nhiều lực lượng chống đối, phản động câu kết với các thế lực nước ngoài để chống lại Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bên cạnh đó, Việt Nam gần như bị phong tỏa khi mọi hải cảng, sân bay nhiều cửa khẩu trên biên giới đất liền vẫn do quân đội Pháp kiểm soát. Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gặp rất nhiều khó khăn trong việc thiết lập cũng như duy trì các quan hệ với nước ngoài.

Ngày 23/9/1945, quân đội Pháp nổ súng tấn công các trụ sở của chính quyền cách mạng tại Sài Gòn, khơi mào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần hai. Ủy ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập kêu gọi nhân dân đứng lên kháng chiến. Quân dân Nam Bộ đã anh dũng, kiên cường trực diện chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược.

Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc với việc tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập dân tộc ra sức xây dựng chế độ hội mới.

Đến cuối tháng 02/1946, với lực lượng vượt trội, quân đội Pháp đã đánh chiếm được tất cả các tỉnh, thành phố, đường giao thông quan trọng vùng Nam Bộ cực Nam Trung Bộ. Với sách lược “Hòa để tiến” các biện pháp chính trị, ngoại giao khéo léo, Chính phủ liên hiệp kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa2 đại diện Chính phủ Cộng hòa Pháp đã kết Hiệp định bộ vào ngày 06/3/1946, tiếp sau đó Tạm ước về quan hệ Việt Nam - Pháp vào ngày 14/9/1946. Qua đó, “tiễn” quân đội Trung Hoa Dân quốc cùng tay sai ra khỏi nước ta, bớt đi được một mối đe dọa thường trực. Đồng thời, chúng ta thêm thời gian quý báu để củng cố chính quyền, chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ chống thực dân Pháp.

Ngay sau khi Hiệp định bộ, người Pháp đã bộc lộ ý đồ phá hoại Hiệp định. Cuối năm 1946, ngay sau khi thêm viện binh, quân đội Pháp liên tục tiến hành các hành động khiêu khích ra tối hậu thư đòi ta phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Chín năm trường kỳ kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ, vẻ vang của dân tộc Việt Nam bắt đầu từ đây.

b) Tình hình kinh tế - hội

Ngoài việc phải đối phó với nạn ngoại xâm nội phản, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ còn phải đương đầu với hàng loạt khó khăn, thử thách về kinh tế - hội. Nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, bị kiệt quệ nặng nề bởi chính sách khai thác, bóc lột đến tận cùng của thực dân Pháp phátxít Nhật cộng thêm chiến tranh, thiên tai liên miên.

Nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử nước ta kéo dài từ tháng 02/1945 đến tháng 4/1945 làm chết khoảng hai triệu người3 còn chưa giải quyết xong hậu quả, thì nguy nạn đói mới lại tiếp tục khi hàng loạt đê tại Bắc Bộ Bắc Trung Bộ bị vỡ vào tháng 8/1945, gây ra một trong những nạn lụt lớn nhất thế kỷ XX tại Việt Nam. Khoảng 40% diện tích lúa mùa đã cấy xong tại Bắc Bộ bị phá hủy. Ba tỉnh Trung Bộ gồm Thanh Hóa, Nghệ An Tĩnh cũng lâm vào cảnh tương tự với mùa màng bị mất gần 50%. Sau trận lụt hạn hán kế tiếp, một lượng lớn đất canh tác bị bỏ hoang hóa. Lượng thóc thu hoạch được của vụ mùa năm 1945 chỉ đủ ăn đến cuối tháng 01/19464.

nhân dân góp gạo Nhân dân góp gạo chống giặc đói (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Thông về phương pháp khẩn cấp chấn hưng nông nghiệp của Bộ Quốc dân Kinh tế gửi các địa phương vào ngày 26/10/1945 nêu: “Ngành kinh tế canh nông đã bị liệt, sức sản xuất nông nghiệp giảm nhiều. Hiện nay, một nạn đói khác đang sắp hoành hành nếu không phương pháp khẩn cấp để cứu chữa thì nạn đói sẽ còn khốc liệt hơn”5.

Trong khi người dân Việt Nam đang thiếu hụt lương thực trầm trọng, đội quân 200.000 người của Trung Hoa Dân quốc còn đòi Chính phủ ta phải thực hiện chế độ trưng thu lương thực để cung cấp 10.000 tấn gạo mỗi tháng.

Ngân quỹ quốc gia khánh kiệt, lượng tiền Chính phủ nắm được từ Sở Ngân khố của người Pháp chỉ còn 1.250.000 đồng Đông Dương, bao gồm 586.000 đồng tiền rách, nát đang chờ tiêu hủy chưa tính số nợ ngân phiếu chưa trả 564.367.522 đồng Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương do người Pháp nắm quyền in ấn, phát hành tiền tệ gây khó khăn bằng cách cắt đứt hoàn toàn nguồn cung cấp tài chính. Các nguồn thu từ thuế vốn đóng góp đến 3/4 ngân sách Đông Dương giảm sút. Các chính sách thuế mới nhằm giảm nhẹ gánh nặng đóng góp cho nhân dân được Chính phủ ban hành ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng khiến nguồn thu ngân sách giảm nhiều trong khi nhu cầu phải chi rất lớn.

Trong khi đó, nền kinh tế đang rơi vào tình trạng lạm phát nghiêm trọng. Khi quân đội phátxít Nhật tràn vào Việt Nam trong năm 1940, chúng đã buộc Pháp phải in nhiều tiền để phục vụ nhu cầu chi tiêu, gây sụp đổ nền kinh tế Việt Nam. Nếu như năm 1940, số lượng tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành chỉ 284,4 triệu đồng Đông Dương thì đến tháng 10/1945, con số này lên đến 2,483 tỉ đồng Đông Dương. Mặt khác, chính quyền cách mạng còn phải đối phó với cuộc chiến tiền tệ, phá hoại kinh tế khốc liệt không chỉ từ thực dân Pháp còn từ chính đội quân Trung Hoa Dân quốc đóng tại Bắc Bộ.

Những vấn đề khác về văn hóa - hội cũng rất cấp bách. Chế độ thống trị thực dân trong gần 80 năm khiến hơn 90% dân số Việt Nam không biết đọc, biết viết6, nhiều tệ nạn hội như nghiện rượu, thuốc phiện, cờ bạc, tín dị đoan... thâm nhập sâu trong các tầng lớp hội. Dân trí thấp cùng với tình hình kinh tế khó khăn sự chống phá của các thế lực thù địch càng khiến tệ nạn hội bùng phát, tạo ra các thử thách nghiêm trọng đối với chính quyền mới.


1. Tuyên bố Potsdam được Mỹ, Anh Trung Hoa Dân quốc công bố ngày 26/7/1945, nêu ra các điều kiện cho sự đầu hàng của quân đội phátxít Nhật.

2. Thành lập ngày 02/3/1946 dựa trên kết quả của kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I tại Nội.

3. Xem Văn Tạo Furuta Motoo: Nạn đói năm 1945 Việt Nam - Những chứng tích lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Nội, 2016, tr.19.

4. Xem Trung tâm Khoa học hội nhân văn quốc gia, Viện Kinh tế học, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000 (Tập 1: 1945 - 1954), Sđd, tr.119.

5. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 9, ngày 17/11/1945, tr.115.

6. Xem Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Nội, 2009, t.3, tr.7.

I. Bối cảnh lịch sử, hệ thống tổ chức và quản lý ngành Công Thương Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Quảng trường Ba Đình, ngày 02/9/1945 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam) góp gạo Nhân dân góp gạo chống giặc đói (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

2. Tình hình sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại

Hoạt động công nghiệp và thương mại của Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 sa sút nghiêm trọng.

Các hoạt động sản xuất công nghiệp gần như bị tê liệt. Hàng loạt cơ sở công nghiệp nặng quan trọng vốn bị quân đội phátxít Nhật chiếm đóng trước đây để phục vụ mục đích quân sự đã bị phá hủy nghiêm trọng khi lực lượng Đồng minh không kích trong thời gian xảy ra chiến tranh. Nhiều nhà máy trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ có chủ là người Pháp, Nhật đã bị đóng cửa, ngưng hoạt động và thanh lý máy móc nhằm thoái vốn trước các biến động thời cuộc. Số ít các nhà máy còn có thể sửa chữa, khôi phục lại hoạt động được thì lại thiếu hụt trầm trọng nguyên vật liệu đầu vào.

Sản lượng của nhiều ngành công nghiệp chỉ bằng 10 - 20% so với trước chiến tranh, đời sống của hàng chục nghìn công nhân bị thất nghiệp rất khó khăn. Đơn cử, trong ngành khai thác than, năm 1940 có 39.500 công nhân thì đến năm 1945 chỉ còn 4.000 công nhân. Sản lượng khai thác trong năm 1940 đạt 2.500.000 tấn thì đến năm 1945 chỉ được 231.000 tấn. Các hoạt động khai thác kẽm, thiếc, sắt, phốtphát cũng đều suy giảm nghiêm trọng trong khi khai khoáng vốn là lĩnh vực kinh tế quan trọng nhất của Việt Nam thời kỳ này.

Việt Nam mới chỉ quản lý được một số nhà máy, cơ sở công nghiệp phục vụ các nhu cầu thiết yếu nhất như cung cấp điện, nước, hoạt động vận tải đường sắt. Khu vực tiểu thủ công nghiệp bị mai một, suy thoái khi một bộ phận lớn thợ thủ công ly tán khỏi các làng nghề truyền thống, bỏ nghề do chiến tranh và nạn đói cũng như các biến động kinh tế khác.

Tương tự, hoạt động thương mại nội địa lẫn xuất, nhập khẩu đều bị đình đốn. Từ giữa tháng 8/1942, lực lượng Đồng minh do Mỹ dẫn đầu đã không kích, phá hủy nặng nề các tuyến đường vận tải chính tại Đông Dương nhằm chống lại quân đội phátxít Nhật. Đến năm 1945, tuyến đường sắt xuyên Đông Dương, trục đường Thiên lý Bắc - Nam (Đường thuộc địa số 1) cũng như nhiều tuyến đường giao thông chính khác, các cảng biển quan trọng như cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn bị phá hủy nghiêm trọng, lưu thông hàng hóa ách tắc. Bên cạnh đó, việc hoạt động sản xuất suy giảm khiến hàng hóa, đặc biệt là các loại hàng hóa tiêu dùng, trở nên khan hiếm. Tình trạng lạm phát vượt kiểm soát, nạn tiền Quan kim và Quốc tệ do quân đội Trung Hoa Dân quốc đem vào lưu hành tại Việt Nam càng khiến tình hình trở nên nghiêm trọng hơn.

Nạn đói năm Ất Dậu

Có mặt tại Việt Nam ngay những ngày sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông Jean Sainteny (đại diện của Chính phủ Pháp trong cuộc đàm phán Pháp - Việt vào ngày 06/3/1946) đã mô tả về tình cảnh thiếu hụt nhiều loại hàng hóa thiết yếu tại Việt Nam trong cuốn hồi ký “Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ” (Histoire d’une paix manquée: Indochine, 1945 - 1947) của mình như sau: “... Còn người dân bản xứ thì đang phải chịu một nạn đói thảm họa nhất trong lịch sử Bắc Kỳ. Nhằm tăng thêm sự hỗn loạn, Nhật Bản đã phá hủy nhiều kho thóc. Bắc Kỳ là xứ thiếu gạo, vẫn thường phải nhập gạo của Nam Kỳ, mỗi năm hàng chục vạn tấn để thỏa mãn nhu cầu của nhân dân. Thế nhưng, các tàu thủy và thuyền buôn lớn đã bị đánh đắm, đường xe lửa xuyên Đông Dương đã bị máy bay Đồng Minh ném bom cắt đứt nhiều quãng. Vụ gặt tháng Mười ở Bắc Kỳ hầu như hoàn toàn mất trắng vì những trận lụt khủng khiếp hồi tháng Tám. Nhiều dân nông thôn vùng đồng bằng bị đói đã tự động kéo tới những đường phố Hà Nội rồi lịm dần vì chết đói. Giá gạo tăng kinh khủng. Chỉ trong một thời gian ngắn đã tăng từ năm đồng lên bẩy đồng, rồi thậm chí lên tới chín đồng Đông Dương một kilô.... Và, nếu Bắc Kỳ thiếu gạo thì Sài Gòn lại thiếu than và đã phải dùng dầu Mazut để chạy điện cho sáu trung tâm phát điện. Sài Gòn không ngừng gửi điện, đòi cung cấp than. Trung Hoa Dân quốc cũng yêu sách, đòi được cung cấp than, viện cớ là nước được Hội nghị Potsdam giao cho làm nhiệm vụ ở Bắc Đông Dương và trên nguyên tắc mỏ than Bắc Kỳ thuộc quyền kiểm soát của Nhật Bản được tiếp quản. Chính phủ Cách mạng Việt Minh cũng đòi quyền kiểm soát”.

Nguồn: Jean Sainteny: Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ,

Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.178-179.

Danh mục

Tùy chỉnh