2. Hoạt động thương mại

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương mở rộng lưu thông hàng hóa trong nước thúc đẩy phát triển quan hệ thương mại với các thị trường nước ngoài, cũng như kêu gọi giới thương nhân tích cực mở mang các hoạt động kinh doanh.

Ngày 06/10/1945, Nha Thương vụ Nha Kinh tế Tín dụng trực thuộc Bộ Quốc dân Kinh tế được thành lập1 nhằm góp phần thúc đẩy tiến trình phục hồi phát triển các hoạt động thương mại trong ngoài nước sau thời gian dài bị đình đốn bởi chiến tranh các chính sách kiểm soát, độc quyền của chính quyền thuộc địa. Trong đó, Nha Thương vụ nhiệm vụ chính nghiên cứu, tham mưu cho Chính phủ về quản phát triển các hoạt động thương mại nội địa, cũng như xuất, nhập khẩu. Nha Kinh tế tín dụng chịu trách nhiệm quản lý, điều phối các nguồn tài chính để phát triển kinh tế trong nước, cung cấp các khoản hỗ trợ, nguồn vốn ưu đãi cho thương nhân mở rộng kinh doanh, qua đó giảm nạn vay nặng lãi trong các hoạt động kinh tế. Đồng thời, Chính phủ thành lập Tiểu ban nghiên cứu về Luật thương mại nhằm tạo hành lang pháp cho hoạt động thương mại phát triển2.

a) Thương mại trong nước

Ngay sau khi bản Tuyên ngôn độc lập được đọc, ngày 05/9/1945, Sắc lệnh số 7/SL của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được ban hành, thóc gạo được tự do lưu thông kinh doanh tại khu vực Bắc Bộ. Từ ngày 02/10/1945, nội dung của Sắc lệnh này được mở rộng áp dụng cho cả Trung Bộ3.

Chỉ trong vòng 2 tuần, từ trung tuần tháng 9 đến đầu tháng 10/1945, Bộ Quốc dân Kinh tế đã triển khai hàng loạt chính sách, giải pháp nhằm khơi thông dòng chảy nguyên vật liệu sản xuất cũng như hàng tiêu dùng giữa các vùng miền trên cả nước, thông qua các nghị định cho phép tự do kinh doanh, chuyên chở gỗ, gạo ngũ cốc, da trâu nguyên liệu thuộc da, vỏ cây nguyên liệu làm giấy, nhựa thông, dầu sơn gỗ, các loại hạt dầu, cây gai sản phẩm từ cây gai, đồng vụn sắt vụn...; bãi bỏ việc áp giá trần thu mua của nhiều loại hàng hóa nghiêm cấm nạn đầu cơ, tích trữ các loại hàng hóa với mức xử phạt nghiêm khắc. Nhờ đó, tình trạng thao túng trên thị trường, nạn chợ đen dần được dẹp bỏ, hàng hóa được điều hòa từ nơi nhiều đến nơi ít.

Nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ này vẫn chủ yếu kinh tế nhân giá cả hàng hóa do thị trường quyết định. Tuy nhiên, trong bối cảnh lạm phát tăng cao đối phó với cuộc chiến phá hoại kinh tế của thực dân Pháp cũng như lực lượng quân đội Trung Hoa Dân quốc đóng tại Bắc Bộ, Chính phủ chủ trương giữ quyền kiểm soát giá cả trực tiếp điều hành giá một số mặt hàng quan trọng, kể cả các loại hàng hóa do giới bản nước ngoài sản xuất như đất đèn khí ôxy4, cồn nhiên liệu5, sợi đan6, ximăng7,... nhằm đảm bảo đời sống của nhân dân. Mặt khác, một số quan chuyên trách thu mua phân phối được thiết lập nhằm ổn định vật giá. Điển hình, Thương Điếm Chất Nhờn được thành lập tại khu vực Trung Bộ Nam Bộ để thu mua phân phối các loại dầu nhờn, dầu sơn gỗ8.

sắc lệnh số 7

Chính phủ cũng xóa bỏ việc ấn định mức giá trần thu mua của nhiều loại hàng hóa dưới thời chính quyền thuộc địa, nhằm tạo sự yên tâm cho người sản xuất, thúc đẩy sản xuất hàng hóa cho nhân dân phục vụ công cuộc kháng chiến.

b) Xuất, nhập khẩu

Trên tinh thần tự do thương mại ưu đãi công bằng đối với mọi quốc gia, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bãi bỏ các quy định kiểm soát hoạt động xuất, nhập khẩu của chính quyền thuộc địa trước đây vốn mang nặng tính ưu tiên cho doanh nghiệp xuất, nhập khẩu Pháp dành sự độc quyền thị trường cho hàng hóa Pháp. Đồng thời, để đảm bảo kiểm soát việc xuất, nhập khẩu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 27/SL ngày 10/9/1945 về việc thành lập Sở thuế quan thuế gián thu trực thuộc Bộ Tài chính để thay thế cho Sở Tổng Thanh tra độc quyền muối thuốc phiện các Sở Thương chính Bắc, Trung Nam Bộ thuộc chính quyền thuộc địa. Sở Thuế quan thuế gián thu trách nhiệm quản lý, thu thuế ấn định các quy định mới về xuất, nhập khẩu hàng hóa.

Mọi công ty của người Việt được tham gia hoạt động xuất, nhập khẩu trong khuôn khổ các quy định luật pháp. Một số nhà sản người Việt đã góp vốn thành lập mới công ty xuất, nhập khẩu trong thời kỳ này, như: Công ty Hương Việt tại Nội với số vốn 500.000 đồng Đông Dương, Công ty Việt Bắc tại Nội với số vốn 300.000 đồng Đông Dương...

Tuy nhiên, do hầu hết các cửa khẩu trên đất liền cảng biển chính của Việt Nam đều bị quân đội Anh, Pháp Trung Hoa Dân quốc kiểm soát nên việc phát triển hoạt động xuất, nhập khẩu chưa đạt được tiến triển như kỳ vọng của Chính phủ. Trong đó, thực dân Pháp thực hiện chiến lược chiếm đóng, phong toả cửa khẩu Lạng Sơn cảng Hải Phòng nhằm ngăn chặn lưu thông hàng hóa, bóp nghẹt các hoạt động ngoại thương của Việt Nam. Cảng Sài Gòn thì bị quân đội Anh Pháp chiếm giữ. Quân đội viễn chinh Pháp nhiều lần khiêu khích, xung đột việc kiểm soát hoạt động xuất, nhập khẩu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm kiếm cớ mở rộng chiến tranh. Giới bản Pháp vẫn nắm vai trò chủ đạo trong các hoạt động xuất, nhập khẩu trong thời kỳ này. Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu nhập khẩu trong thời kỳ này tiếp tục xu hướng sụt giảm mạnh như trong giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ hai.

Đối với hoạt động xuất khẩu, căn cứ vào tình hình thị trường từng giai đoạn, Chính phủ đã cấm xuất khẩu một số mặt hàng như thóc, gạo, ngô, đỗ các sản phẩm làm từ ngũ cốc, máy móc, bông đay, vải, muối... nhằm ổn định vật giá trên thị trường nội địa đảm bảo cung ứng các mặt hàng quan trọng cho công cuộc kháng chiến. Đối với các mặt hàng thông thường khác, Chính phủ hết sức khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu. Các mặt hàng xuất khẩu chủ chốt thời kỳ này cao su quặng kim loại các thị trường xuất khẩu chính Nhật Bản, Trung Quốc Thái Lan9.

Đối với hoạt động nhập khẩu, Chính phủ chủ trương hạn chế nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ phẩm, chưa cần thiết trong đời sống nhân dân như gà, thuốc lá, rượu... đồng thời, siết chặt việc nhập khẩu một số mặt hàng quan trọng như muối để bảo hộ, hỗ trợ sản xuất trong nước phát triển. Đơn cử, việc nhập khẩu muối tại Bắc Bộ chỉ được phép thực hiện thông qua cảng Hải Phòng toàn bộ số muối nhập khẩu sẽ được Sở Thuế quan thuế gián thu trưng mua theo giá muối tại Văn (Nam Định)10. Qua đó, đảm bảo hoạt động sản xuất muối của hàng vạn diêm dân trong nước góp phần quan trọng giúp nghề làm muối phục hồi sau thời gian dài bị kìm hãm bởi chính quyền thuộc địa.

Hàng hóa được nhập khẩu trong thời kỳ này chủ yếu bông sợi, xăng dầu, giấy nguyên liệu làm giấy, kim loại1... các thị trường cung ứng lớn nhất Nhật Bản, Thái Lan Trung Quốc. Các loại hàng hóa nhập khẩu phần nhiều phục vụ cho hoạt động sản xuất của các nhà máy thuộc giới bản Pháp.


1. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 3, ngày 13/10/1945, tr.36.

2. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 9, ngày 02/3/1946, tr.117.

3. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 2, ngày 06/10/1945, tr.25.

4. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 9, ngày 17/11/1945, tr.114.

5. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 10, ngày 24/11/1945, tr.128.

6. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 14, ngày 15/11/1945, tr.177.

7. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 2, ngày 12/01/1946, tr.19.

8. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 2, ngày 06/10/1945, tr.26.

9. Haut-Commissariat de France pour l’Indochine: Annuaire statistique de l’Indochine (Onzième Volume 1943 - 1946), Saigon, 1948, p.156.

10. “Nghị định của Bộ trưởng Bộ Tài chính”, Việt Nam Dân quốc Công báo, số 15, ngày 22/12/1945, tr.188.

11. Haut-Commissariat de France pour l’Indochine: Annuaire statistique de l’Indochine (Onzième Volume 1943 - 1946), Ibid, p.158.

2. Hoạt động thương mại

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương mở rộng lưu thông hàng hóa trong nước thúc đẩy phát triển quan hệ thương mại với các thị trường nước ngoài, cũng như kêu gọi giới thương nhân tích cực mở mang các hoạt động kinh doanh.

Ngày 06/10/1945, Nha Thương vụ Nha Kinh tế Tín dụng trực thuộc Bộ Quốc dân Kinh tế được thành lập1 nhằm góp phần thúc đẩy tiến trình phục hồi phát triển các hoạt động thương mại trong ngoài nước sau thời gian dài bị đình đốn bởi chiến tranh các chính sách kiểm soát, độc quyền của chính quyền thuộc địa. Trong đó, Nha Thương vụ nhiệm vụ chính nghiên cứu, tham mưu cho Chính phủ về quản phát triển các hoạt động thương mại nội địa, cũng như xuất, nhập khẩu. Nha Kinh tế tín dụng chịu trách nhiệm quản lý, điều phối các nguồn tài chính để phát triển kinh tế trong nước, cung cấp các khoản hỗ trợ, nguồn vốn ưu đãi cho thương nhân mở rộng kinh doanh, qua đó giảm nạn vay nặng lãi trong các hoạt động kinh tế. Đồng thời, Chính phủ thành lập Tiểu ban nghiên cứu về Luật thương mại nhằm tạo hành lang pháp cho hoạt động thương mại phát triển2.

a) Thương mại trong nước

Ngay sau khi bản Tuyên ngôn độc lập được đọc, ngày 05/9/1945, Sắc lệnh số 7/SL của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được ban hành, thóc gạo được tự do lưu thông kinh doanh tại khu vực Bắc Bộ. Từ ngày 02/10/1945, nội dung của Sắc lệnh này được mở rộng áp dụng cho cả Trung Bộ3.

Chỉ trong vòng 2 tuần, từ trung tuần tháng 9 đến đầu tháng 10/1945, Bộ Quốc dân Kinh tế đã triển khai hàng loạt chính sách, giải pháp nhằm khơi thông dòng chảy nguyên vật liệu sản xuất cũng như hàng tiêu dùng giữa các vùng miền trên cả nước, thông qua các nghị định cho phép tự do kinh doanh, chuyên chở gỗ, gạo ngũ cốc, da trâu nguyên liệu thuộc da, vỏ cây nguyên liệu làm giấy, nhựa thông, dầu sơn gỗ, các loại hạt dầu, cây gai sản phẩm từ cây gai, đồng vụn sắt vụn...; bãi bỏ việc áp giá trần thu mua của nhiều loại hàng hóa nghiêm cấm nạn đầu cơ, tích trữ các loại hàng hóa với mức xử phạt nghiêm khắc. Nhờ đó, tình trạng thao túng trên thị trường, nạn chợ đen dần được dẹp bỏ, hàng hóa được điều hòa từ nơi nhiều đến nơi ít.

Nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ này vẫn chủ yếu kinh tế nhân giá cả hàng hóa do thị trường quyết định. Tuy nhiên, trong bối cảnh lạm phát tăng cao đối phó với cuộc chiến phá hoại kinh tế của thực dân Pháp cũng như lực lượng quân đội Trung Hoa Dân quốc đóng tại Bắc Bộ, Chính phủ chủ trương giữ quyền kiểm soát giá cả trực tiếp điều hành giá một số mặt hàng quan trọng, kể cả các loại hàng hóa do giới bản nước ngoài sản xuất như đất đèn khí ôxy4, cồn nhiên liệu5, sợi đan6, ximăng7,... nhằm đảm bảo đời sống của nhân dân. Mặt khác, một số quan chuyên trách thu mua phân phối được thiết lập nhằm ổn định vật giá. Điển hình, Thương Điếm Chất Nhờn được thành lập tại khu vực Trung Bộ Nam Bộ để thu mua phân phối các loại dầu nhờn, dầu sơn gỗ8.

sắc lệnh số 7

Chính phủ cũng xóa bỏ việc ấn định mức giá trần thu mua của nhiều loại hàng hóa dưới thời chính quyền thuộc địa, nhằm tạo sự yên tâm cho người sản xuất, thúc đẩy sản xuất hàng hóa cho nhân dân phục vụ công cuộc kháng chiến.

b) Xuất, nhập khẩu

Trên tinh thần tự do thương mại ưu đãi công bằng đối với mọi quốc gia, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bãi bỏ các quy định kiểm soát hoạt động xuất, nhập khẩu của chính quyền thuộc địa trước đây vốn mang nặng tính ưu tiên cho doanh nghiệp xuất, nhập khẩu Pháp dành sự độc quyền thị trường cho hàng hóa Pháp. Đồng thời, để đảm bảo kiểm soát việc xuất, nhập khẩu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 27/SL ngày 10/9/1945 về việc thành lập Sở thuế quan thuế gián thu trực thuộc Bộ Tài chính để thay thế cho Sở Tổng Thanh tra độc quyền muối thuốc phiện các Sở Thương chính Bắc, Trung Nam Bộ thuộc chính quyền thuộc địa. Sở Thuế quan thuế gián thu trách nhiệm quản lý, thu thuế ấn định các quy định mới về xuất, nhập khẩu hàng hóa.

Mọi công ty của người Việt được tham gia hoạt động xuất, nhập khẩu trong khuôn khổ các quy định luật pháp. Một số nhà sản người Việt đã góp vốn thành lập mới công ty xuất, nhập khẩu trong thời kỳ này, như: Công ty Hương Việt tại Nội với số vốn 500.000 đồng Đông Dương, Công ty Việt Bắc tại Nội với số vốn 300.000 đồng Đông Dương...

Tuy nhiên, do hầu hết các cửa khẩu trên đất liền cảng biển chính của Việt Nam đều bị quân đội Anh, Pháp Trung Hoa Dân quốc kiểm soát nên việc phát triển hoạt động xuất, nhập khẩu chưa đạt được tiến triển như kỳ vọng của Chính phủ. Trong đó, thực dân Pháp thực hiện chiến lược chiếm đóng, phong toả cửa khẩu Lạng Sơn cảng Hải Phòng nhằm ngăn chặn lưu thông hàng hóa, bóp nghẹt các hoạt động ngoại thương của Việt Nam. Cảng Sài Gòn thì bị quân đội Anh Pháp chiếm giữ. Quân đội viễn chinh Pháp nhiều lần khiêu khích, xung đột việc kiểm soát hoạt động xuất, nhập khẩu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm kiếm cớ mở rộng chiến tranh. Giới bản Pháp vẫn nắm vai trò chủ đạo trong các hoạt động xuất, nhập khẩu trong thời kỳ này. Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu nhập khẩu trong thời kỳ này tiếp tục xu hướng sụt giảm mạnh như trong giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ hai.

Đối với hoạt động xuất khẩu, căn cứ vào tình hình thị trường từng giai đoạn, Chính phủ đã cấm xuất khẩu một số mặt hàng như thóc, gạo, ngô, đỗ các sản phẩm làm từ ngũ cốc, máy móc, bông đay, vải, muối... nhằm ổn định vật giá trên thị trường nội địa đảm bảo cung ứng các mặt hàng quan trọng cho công cuộc kháng chiến. Đối với các mặt hàng thông thường khác, Chính phủ hết sức khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu. Các mặt hàng xuất khẩu chủ chốt thời kỳ này cao su quặng kim loại các thị trường xuất khẩu chính Nhật Bản, Trung Quốc Thái Lan9.

Đối với hoạt động nhập khẩu, Chính phủ chủ trương hạn chế nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ phẩm, chưa cần thiết trong đời sống nhân dân như gà, thuốc lá, rượu... đồng thời, siết chặt việc nhập khẩu một số mặt hàng quan trọng như muối để bảo hộ, hỗ trợ sản xuất trong nước phát triển. Đơn cử, việc nhập khẩu muối tại Bắc Bộ chỉ được phép thực hiện thông qua cảng Hải Phòng toàn bộ số muối nhập khẩu sẽ được Sở Thuế quan thuế gián thu trưng mua theo giá muối tại Văn (Nam Định)10. Qua đó, đảm bảo hoạt động sản xuất muối của hàng vạn diêm dân trong nước góp phần quan trọng giúp nghề làm muối phục hồi sau thời gian dài bị kìm hãm bởi chính quyền thuộc địa.

Hàng hóa được nhập khẩu trong thời kỳ này chủ yếu bông sợi, xăng dầu, giấy nguyên liệu làm giấy, kim loại1... các thị trường cung ứng lớn nhất Nhật Bản, Thái Lan Trung Quốc. Các loại hàng hóa nhập khẩu phần nhiều phục vụ cho hoạt động sản xuất của các nhà máy thuộc giới bản Pháp.


1. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 3, ngày 13/10/1945, tr.36.

2. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 9, ngày 02/3/1946, tr.117.

3. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 2, ngày 06/10/1945, tr.25.

4. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 9, ngày 17/11/1945, tr.114.

5. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 10, ngày 24/11/1945, tr.128.

6. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 14, ngày 15/11/1945, tr.177.

7. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 2, ngày 12/01/1946, tr.19.

8. Việt Nam Dân quốc Công báo, số 2, ngày 06/10/1945, tr.26.

9. Haut-Commissariat de France pour l’Indochine: Annuaire statistique de l’Indochine (Onzième Volume 1943 - 1946), Saigon, 1948, p.156.

10. “Nghị định của Bộ trưởng Bộ Tài chính”, Việt Nam Dân quốc Công báo, số 15, ngày 22/12/1945, tr.188.

11. Haut-Commissariat de France pour l’Indochine: Annuaire statistique de l’Indochine (Onzième Volume 1943 - 1946), Ibid, p.158.

1. Sản xuất công nghiệp

a) Khu vực dân doanh

Hưởng ứng các chính sách cởi mở của chính quyền mới, nhiều chủ nhà máy, cơ sở sản xuất đã tập trung nhanh chóng khôi phục hoạt động, cũng như mở rộng quy mô, thành lập mới các công ty; trong đó, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương tập trung khôi phục hoạt động khai khoáng - lĩnh vực công nghiệp quan trọng nhất thời kỳ này. Chính phủ đã bãi bỏ việc giữ độc quyền tìm kiếm và khai thác mỏ của chính quyền thuộc địa trước đây tại một số khu vực1 và khuyến khích các doanh nghiệp người Việt tham gia hoạt động khai khoáng. Qua đó, khơi thông các nguồn lực đầu tư của tư nhân vào công cuộc kiến quốc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 91/SL ngày 30/5/1946 cho phép ông Đỗ Long Giang tại Hà Nội được thăm dò và khai thác than tại khu vực Giáp Khẩu (Hải Phòng) với diện tích 900 ha trong vòng 30 năm. Sắc lệnh cũng nêu rõ, ông Đỗ Long Giang phải nộp vào ngân sách nhà nước 9.000 đồng Đông Dương trong vòng 3 tháng kể từ ngày nhận được giấy phép, chủ mỏ cũng phải nộp ngân sách 2 đồng Đông Dương trên mỗi tấn than khai thác được và hoạt động khai thác phải được bắt đầu ngay trong vòng 4 tháng kể từ ngày nhận được giấy phép nếu không quyền khai thác sẽ bị hủy bỏ.

Đồng thời, Chính phủ cho phép hoạt động lại hàng loạt mỏ than tại các vùng Hòn Gai, Tân Trào, Làng Cẩm, Phấn Mễ, Quyết Thắng và mỏ thiếc tại Tĩnh Túc vốn bị quân đội phátxít Nhật chiếm đóng trước đây. Một số nhà tư sản khác cũng nộp đơn xin thành lập các khu mỏ mới và mở rộng khai khoáng như mỏ Minh Nhân VII và VIII do ông Cai Văn Minh đứng đơn, mỏ Đồng Hỷ do ông Bùi Văn Khanh đứng đơn2... Tuy nhiên, các công việc này chưa hoàn thành đã phải hủy bỏ, do thực dân Pháp mở rộng chiến tranh.

Hoạt động sản xuất tại nhiều nhà máy, xí nghiệp thuộc các lĩnh vực công nghiệp quan trọng khác như điện, nước, bông sợi, vải, cơ khí... đặc biệt là tại khu vực miền Bắc đã cơ bản đạt mức thông thường. Hoạt động sản xuất của một số doanh nghiệp quy mô vừa của người Việt sản xuất một số loại hàng tiêu dùng trước đây chỉ do nhà máy của người Pháp sản xuất hoặc phải nhập khẩu đã được đẩy mạnh.

b) Khu vực quốc doanh

Nhằm kiểm soát các nguồn lực quan trọng phục vụ quá trình tái thiết nền kinh tế, giải quyết việc làm cho người công nhân, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách, Chính phủ chủ trương thành lập một số đơn vị sản xuất quốc doanh. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 90/SL ngày 30/5/1946 nhằm bãi bỏ các quy định của chính quyền thuộc địa trước đây về việc độc quyền tìm kiếm và khai thác mỏ tại các khu vực Đông Triều, Thái Nguyên, Trà My, Đông Sơn, Khe Bố và đưa các khu này trở thành khu mỏ của Nhà nước. Theo đó, Chính phủ giao Bộ Kinh tế3 chỉ đạo công tác điều hành khai thác tại các khu mỏ này, phục vụ nhu cầu nguyên liệu đầu vào của nhiều nhà máy, cơ sở sản xuất trên cả nước, bao gồm cả các xí nghiệp quân giới quan trọng phục vụ cho công cuộc kháng chiến. Sắc lệnh này cũng nêu rõ những quyền sở hữu trước đây tại các khu mỏ này nếu phù hợp với các quy định mới của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều được tôn trọng.

Đối với một số cơ sở công nghiệp vô chủ hoặc được lực lượng quần chúng giành quyền kiểm soát từ tay thực dân Pháp và quân đội phátxít Nhật, Chính phủ đã huy động lực lượng công nhân sửa chữa và thành lập các ban quản trị để trông coi và điều hành sản xuất.

Điển hình, Nhà máy Giấy Đáp Cầu bị quân Đồng minh ném bom gây thiệt hại nặng hồi tháng 7/1945, giới chủ Pháp đã bỏ trốn để không phải phục vụ sản xuất cho quân đội phátxít Nhật. Lực lượng công nhân nhà máy đã tiến hành sửa chữa và nhanh chóng thành lập ban quản trị để khôi phục sản xuất. Nhà máy đã tập trung giải quyết việc thiếu hụt bột giấy bằng cách tận dụng nguyên liệu nứa và giấy thải loại, giúp đưa sản lượng trong năm 1946 vượt mức đỉnh của năm 1939 và được Chính phủ giao nghiên cứu sản xuất giấy in tiền. Tương tự, Nhà máy Cơ khí Trường Thi cũng được lực lượng công nhân thành lập ban quản trị và khôi phục hoạt động, vừa sửa chữa các đầu máy xe lửa, phụ tùng ngành đường sắt, vừa chế tạo, sửa chữa các loại vũ khí.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng sớm tập trung phát triển lĩnh vực công nghiệp quốc phòng và giao Nha Khoáng chất và Kỹ nghệ Việt Nam thuộc Bộ Kinh tế Quốc gia chịu trách nhiệm tổ chức sản xuất vũ khí, trưng dụng các nhà máy cần thiết nhằm chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược4.

c) Tiểu thủ công nghiệp

Đối với lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, Chính phủ hết sức khuyến khích phát triển. Trong chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ, viết ngày 05/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc phát triển tiểu thủ công nghiệp là một trong những nhiệm vụ phát triển kinh tế trọng tâm5. Chính quyền tại nhiều địa phương đã hỗ trợ nguyên vật liệu cũng như vốn để giúp các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp khôi phục sản xuất.

Bên cạnh đó, hàng hóa dần được lưu thông tự do giữa các vùng miền cũng giúp giải tỏa áp lực thiếu hụt nguyên vật liệu đầu vào và thúc đẩy tiêu thụ các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, tạo điều kiện cho nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp phục hồi, như: kim khí, mộc, dệt vải truyền thống, làm giấy thủ công... Qua đó, góp phần đảm bảo cung ứng hàng hóa đầy đủ cho nhân dân và cho các đơn vị chiến đấu trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

xưởng quân giới Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm xưởng Quân giới Đội Cấn ở Chiến khu Việt Bắc, ngày 12/9/1950 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

d) Đối với tư bản Pháp và nước ngoài

Mặc dù bãi bỏ các quy định hạn chế kinh doanh, độc quyền kinh doanh dưới thời chính quyền cũ trước đây vốn nhằm chủ yếu bảo vệ lợi ích của giới tư bản Pháp và Nhật, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương tôn trọng các quyền kinh doanh đã được xác lập trước đây của các doanh nghiệp nước ngoài cũng như tạo điều kiện cho phép giới tư bản Pháp, Nhật nói riêng và tư bản nước ngoài nói chung duy trì hoạt động kinh doanh bình thường, nhưng phải tuân theo các quy định của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Chính phủ cũng cố gắng không gây những xáo trộn không cần thiết đối với các công ty, cơ sở sản xuất - kinh doanh của giới tư bản nước ngoài tại Việt Nam, trừ một số nhà máy, xí nghiệp của giới tư bản nước ngoài có ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế, quốc phòng, sự hoạt động của các cơ quan nhà nước và đời sống nhân dân, Chính phủ đã tiến hành quốc hữu hóa như Nhà máy nước Hà Nội, Nhà in L’Action tại Hà Nội...

Trong khuôn khổ Hội nghị Phôngtennơbờlô (Fontainebleau) tại Pháp vào tháng 7/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh: “Nước Việt Nam sẵn sàng bảo đảm an toàn cho các số vốn của Pháp đầu tư vào trong lãnh thổ của mình”.

Nhờ các chủ trương này mà nhiều nhà máy thuộc giới tư bản Pháp chuyên sản xuất bông sợi, dệt vải, ximăng, gạch, cơ khí... vẫn hoạt động bình thường sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giúp đảm bảo cung ứng hàng hóa cần thiết, cũng như duy trì công việc cho lực lượng lớn công nhân.

Đối với các nước Mỹ, Hà Lan, Anh và các thuộc địa của nước Anh, Chính phủ đã bãi bỏ quy định bắt buộc phải kê khai tài sản và tịch biên tài sản của chính quyền thuộc địa trước đây nhắm vào các cá nhân hoặc công ty của những nước này có hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Tháng 12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Lời kêu gọi đến Liên hợp quốc trong đó nói rõ thiện chí “Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế. Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc”6. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng chú trọng bảo vệ quyền lợi của người lao động tại các nhà máy, xí nghiệp thuộc giới tư bản nước ngoài, điều tiết hài hòa quyền lợi giữa giới chủ và người lao động.

hội nghị phôngtenobolo Quang cảnh Hội nghị Phôngtennơbờlô (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Cuộc đình công của công nhân Nhà máy Sợi Nam Định

Ngày 16/10/1946, thực dân Pháp tự ý tăng mạnh thuế đối với bông nhập khẩu, giới tư bản Pháp tại Nhà máy Sợi Nam Định cũng được chỉ đạo để tăng giá bán vải cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lên gấp đôi. Đây là hành vi khiêu khích kinh tế thô bạo và vi phạm trắng trợn chủ quyền dân tộc ta trong vấn đề thuế quan. Chính phủ đã lên tiếng phản đối và yêu cầu giới chủ nhà máy phải giữ mức bán vải như thông thường. Tuy nhiên, giới tư bản Pháp không thực hiện yêu cầu này, mà còn tiếp tục tăng giá bán vải cân cho công nhân lên gấp đôi, đồng thời tự ý cho thôi việc 200 công nhân. Ngày 13/11/1946, toàn bộ công nhân Nhà máy Sợi Nam Định đã tổ chức đình công, thành lập Ủy ban Đấu tranh nhằm chống lại sự áp bức của thực dân Pháp. Ủy ban Đấu tranh đã tuyên truyền giải thích cho đồng bào các nơi hiểu rõ ý nghĩa, mục đích cuộc bãi công và kêu gọi mọi người ủng hộ. Đồng thời, Ủy ban đấu tranh tích cực tìm kiếm lo liệu công ăn việc làm và gạo cho công nhân. Báo Cứu quốc và tất cả báo chí lúc đó đã đưa tin về cuộc đấu tranh này, biểu dương tinh thần công nhân Nhà máy Sợi Nam Định, kêu gọi công nhân và nhân dân cả nước ủng hộ. Công nhân và nhân dân các tỉnh Nam Định, Hồng Gai, Hà Đông, Phú Thọ, Sơn Tây, Quảng Ngãi, Hà Nội đã gửi thư cổ vũ, quyên tiền ủng hộ công nhân Nhà máy Sợi Nam Định. Cuộc bãi công kéo dài đến ngày Toàn quốc kháng chiến, vì thực dân Pháp không chịu nhượng bộ. Cuộc bãi công có tiếng vang lớn, gây nhiều thiệt hại cho giới chủ Pháp.


1. Sắc lệnh số 89/SL ngày 30/5/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

2. “Nghị định của Bộ trưởng Bộ Quốc dân Kinh tế”, Việt Nam Dân quốc Công báo, số 47, ngày 23/11/1946, tr.624.

3. Bộ Quốc dân Kinh tế được đổi tên thành Bộ Kinh tế dưới thời Chính phủ Liên hiệp kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (thành lập ngày 02/3/1946).

4. Sắc lệnh số 12/SL ngày 07/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.140.

6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.523.

3. Sự phục hồi của giao thông - liên lạc

Phục hồi giao thông vận tải và hệ thống liên lạc vốn chịu hư hỏng nghiêm trọng trong chiến tranh là một trong những công việc ưu tiên hàng đầu của Chính phủ nhằm thúc đẩy sự phục hồi kinh tế - xã hội. Công việc sửa chữa được tiến hành khẩn trương. Trong điều kiện khó khăn về tài chính và nguồn lực, chỉ sau một tháng, đến giữa tháng 9/1945, hoạt động vận chuyển trên tuyến đường sắt Bắc - Nam đã được khôi phục thông suốt, chỉ còn phải hạ tải tại các cầu Ninh Bình, Đò Lèn, Đò Cấm và Yên Xuân1.

Tuy nhiên, chỉ bốn tháng sau, cầu Yên Xuân dài 420 m và cầu Ninh Bình dài 203 m vốn có kết cấu phức tạp đã được sửa chữa xong. Đồng thời, hàng loạt đầu máy và toa tàu được sửa chữa, đưa vào hoạt động trở lại. Nhiều tuyến đường bộ quan trọng nối các vùng, miền như tuyến Hà Nội - Ninh Bình và Hà Nội - Hải Phòng được sửa chữa, trải nhựa lại và mở rộng, rút ngắn đáng kể thời gian vận chuyển hàng hóa và hỗ trợ hàng hóa lưu thông thuận tiện trong cả nước, đặc biệt góp phần giải quyết tình trạng thiếu lương thực tại Bắc Bộ và thiếu hàng tiêu dùng tại Nam Bộ.

Đối với hệ thống thông tin liên lạc, phần lớn hệ thống đường dây điện tín và điện thoại trước đây do quân đội phátxít Nhật quản lý và đã bị phá hủy nhiều khi lực lượng này đầu hàng. Tuy nhiên, chỉ sau một tuần kể từ ngày cách mạng thành công, hệ thống điện tín - điện thoại giữa Hà Nội với Sài Gòn đã hoạt động bình thường. Đến cuối tháng 8/1945, phần lớn các tỉnh, thành phố đã liên lạc được với chính quyền trung ương tại Hà Nội.


1. Báo Cứu quốc, ngày 14/9/1945, tr.2.

Danh mục

Tùy chỉnh