3. Sự phát triển một số ngành công nghiệp chủ yếu

a) Ngành khí

Ngày 21/6/1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 62- HĐBT về việc thành lập Ban khí của Chính phủ. Ban khí Chính phủ nhiệm vụ giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trên ba lĩnh vực, gồm: nghiên cứu chiến lược phát triển khí dài hạn theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng Nhà nước; nghiên cứu chính sách phát triển ngành khí trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định; thanh tra, kiểm tra các bộ, các ngành các địa phương trong việc chấp hành chiến lược, chính sách phát triển khí ngành địa phương.

Trưởng ban khí của Chính phủ Bộ trưởng Bộ khí Luyện kim. Phó Trưởng ban gồm một Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Kỹ thuật nhà nước; một Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước; một Thứ trưởng Bộ khí Luyện kim. Các ủy viên gồm: Thứ trưởng Bộ Mỏ Than; Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải; Thứ trưởng Bộ Xây dựng; Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp; Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Hóa chất.

Nhiệt điện Phả Lại 1983 Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại cho chạy thử đồng bộ không tải Tổ máy số 1, đạt các thông số kỹ thuật, ngày 19/10/1983 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam) Bộ Cơ khí 1985 Bộ trưởng Bộ khí Luyện kim Nguyễn Văn Kha cùng Đại sứ Liên Saplin thăm nơi sản xuất trong Nhà máy Diesel Sông Công tại lễ bàn giao đợt 1 nhà máy, ngày 04/11/19851 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Về hoạt động, việc tổ chức, sắp xếp lại phân công sản xuất trong toàn quốc được tiến hành theo hướng chuyên môn hóa, kết hợp năng lực khí của quốc doanh trung ương với khí địa phương, khí quốc phòng, khí hợp tác lực lượng khí nhân. Nhiều sản phẩm khí đã giảm được chi phí sản xuất chất lượng tốt hơn, các chi tiết bộ phận được chế tạo hàng loạt các nghiệp khác nhau theo nguyên tắc chuyên môn hóa sản xuất.

Việc bổ sung thiết bị, cải tạo mở rộng nhiều nhà máy khí của các ngành, việc xây dựng mới các sở khí phục vụ nông nghiệp các tỉnh huyện miền Nam, các xưởng bảo dưỡng, sửa chữa ôtô, tàu, thuyền đánh đã tăng thêm năng lực khí ngành khí địa phương. Chúng ta cũng hoàn thành xây dựng đưa vào sản xuất toàn bộ hoặc từng phần Nhà máy khí Nội mở rộng, Cụm khí Đầm, Nhà máy khí trung tâm Cẩm Phả, Nhà máy Khí cụ điện, Nhà máy Xe đạp Xuân Hòa. Năm 1976, khánh thành Nhà máy Dụng cụ số 1 (Hà Nội) do Liên giúp xây dựng. Nhà máy được xây dựng từ trong thời kỳ chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ, đã 3 dây chuyền chính hoạt động bàn ren, ta rô, mũi khoan. Đến thời điểm này, Nhà máy sản xuất được 80 chủng loại sản phẩm với nhiều loại quy cách, kích thước khác nhau, phục vụ ngành khí cả nước.

Các sản phẩm chủ yếu của ngành khí được sản xuất hàng loạt để phục vụ nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm này thiết bị toàn bộ cho xưởng khí huyện, máy kéo bông sen, máy công tác theo sau máy kéo, máy bơm thủy lợi, tàu hút bùn, bơm thuốc trừ sâu, xe cải tiến, công cụ cầm tay trong nông, lâm, ngư nghiệp, tàu đánh cá, trong đó loại tàu 400 sức ngựa, lan, moóc, toa xe lửa, phụ tùng ô tô, máy kéo... cũng tăng lên với tốc độ cao. Một sự kiện nổi bật thời gian này 4 nhà máy khí (VIKYNO, VINAPRO Biên Hòa, Đồng Nai, Trần Hưng Đạo Nội Nhà máy khí nông nghiệp Sơn Bình) đã hợp tác chế tạo thành công máy cày tay Bông sen, phục vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp.

Để phục vụ cho xây dựng bản sản xuất vật liệu xây dựng, ta đã sản xuất được thiết bị toàn bộ cho các nhà máy ximăng công suất 5.000 - 10.000 - 20.000 tấn/năm, các nhà máy gạch 7 - 20 triệu viên/năm, sản xuất hàng loạt máy trộn bêtông, máy trộn vữa... Việc sản xuất máy móc, công cụ cho công nghiệp nhẹ công nghiệp thực phẩm cũng được đẩy mạnh với việc sản xuất hàng loạt thiết bị toàn bộ cho các nhà máy đường, nhà máy xay xát gạo, nhà máy chế biến màu, nhà máy giấy, nhà máy dệt, xưởng thủy tinh... của công nghiệp địa phương. Các máy móc thông dụng như động diesel, động điện, máy biến thế, máy cắt gọt kim loại... hằng năm đều tăng với nhịp độ cao từ 30 - 60%. Chúng ta đã bắt đầu sản xuất được một số linh kiện điện tử để lắp ráp sửa chữa các thiết bị điện tử.

ngăn sông Đà

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng thả viên đá tượng trưng mở đầu cho ngày hội ngăn sông Đà đợt 2 tại công trường xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình, ngày 09/01/1986 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

b) Ngành Điện

Ngày 22/11/1981, Quyết nghị số 1236-NQ/TVQHK6 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chia Bộ Điện Than thành 2 bộ: Bộ Điện lực, Bộ Mỏ Than. Ngày 26/9/1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 105/HĐBT thành lập Ban Năng lượng của Chính phủ, nhiệm vụ giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nghiên cứu chiến lược chính sách phát triển năng lượng nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng trong toàn quốc; điều hòa, phối hợp, đôn đốc các ngành nghiên cứu chiến lược, chính sách phát triển sử dụng các dạng năng lượng của từng ngành; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các chiến lược chính sách; thẩm tra các đề án, chính sách thuộc về năng lượng trước khi trình Hội đồng Bộ trưởng. Trưởng ban Năng lượng đồng chí Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười. Thứ trưởng Bộ Điện lực làm Phó Trưởng ban Thường trực; Thứ trưởng Bộ Mỏ Than Ủy viên.

Về hoạt động, những năm đầu đất nước thống nhất, việc tiếp quản các sở điện lực được tiến hành nhanh gọn, đồng bộ với các ngành khác. Ngày 01/5/1975, ngành đã tiếp nhận hệ thống điện miền Nam từ chính quyền Sài Gòn - một dấu ấn khởi điểm cho việc quản thống nhất toàn hệ thống Điện Việt Nam.

Trong 10 năm 1976 - 1985, hệ thống điện đã tăng thêm công suất nhờ huy động thêm các máy phát của các ngành địa phương, thực hiện các biện pháp cải tiến kỹ thuật. Việc xây dựng các cụm phát điện mới hệ thống truyền tải điện phục vụ thủy lợi đồng bằng sông Cửu Long được hoàn thành phát huy tác dụng. Thời gian này, ta xây dựng hoàn thành nhiều công trình điện, tiêu biểu Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình khởi công từ năm 1973, được đầu thêm vốn xây dựng hoàn thành vào năm 1977; khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình năm 1979, đến năm 1983 tiến hành ngăn sông Đà đợt 1; xây dựng Nhiệt điện Phả Lại năm 1980, gồm 4 tổ máy, tổng công suất lắp đặt 440 MW, hiện đại nhất trong hệ thống điện miền Bắc lúc đó. Từ năm 1983 đến năm 1985 lần lượt đưa 3 tổ máy, tổng công suất 330 MW vào vận hành... Công suất lắp đặt toàn hệ thống điện cả nước năm 1985 đạt 1.666,5 MW, trong đó, nhiệt điện 856 MW; riêng miền Bắc, công suất lắp đặt nhiệt điện đạt 658 MW, gấp 2,5 lần so với năm 1975.

Sản lượng điện phát ra năm 1985 đạt 5,23 tỷ kWh, gấp 1,44 lần năm 1980 gấp 1,7 lần năm 1976. Giai đoạn 1981 - 1985, ngành Điện thực hiện Tổng đồ phát triển điện giai đoạn I hoàn thành nhiều công trình lớn, mang tầm chiến lược quốc gia về nguồn lưới điện, như xây dựng tuyến đường dây 220 kV đầu tiên của Việt Nam: Đông - Hòa Bình (khởi công năm 1979, hoàn thành 1981). Tính đến năm 1985, lưới điện đã phủ trên 90% số huyện trên 60% số trong cả nước.

Năng lượng tái tạo: Những nghiên cứu đầu tiên thập niên 1980

Theo TS. Ngô Đức Lâm, nguyên Cục trưởng Cục Kỹ thuật an toàn Môi trường Công nghiệp - Bộ Công nghiệp (nay Bộ Công Thương), ngay từ thập kỷ 80 của thế kỷ XX, chúng ta đã bắt đầu nghiên cứu năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Thời điểm quy hoạch Tổng đồ-1 (1981 - 1985), khi nguồn điện Việt Nam chủ yếu thủy điện nhiệt điện than, Bộ Điện lực đã đề xuất được Chính phủ cho phép nghiên cứu năng lượng mới, năng lượng tái tạo bằng một Chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước, mang số 10-A. Chủ nhiệm Chương trình kỹ Đình Bông, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học - Kỹ thuật Điện; Tổng thư Chương trình Phó Vụ trưởng Vụ Kỹ thuật - Bộ Điện lực, TS. Ngô Đức Lâm. Năm 1986, Bộ Điện lực tổ chức kết 2 năm thực hiện Chương trình, do Bộ trưởng Phạm Khai chủ trì, Đại tướng Nguyên Giáp, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tới dự. Tại Hội nghị, TS. Ngô Đức Lâm báo cáo kết quả nghiên cứu năng lượng mới năng lượng tái tạo trên ba mặt. Thứ nhất, về nghiên cứu bản; Viện cùng với Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia đã tập hợp kết quả đo đạc tại nhiều địa phương, lập được bản đồ về tiềm năng năng lượng tái tạo gió mặt trời một số địa phương chính. Qua đó đánh giá Việt Nam nước tiềm năng lớn về năng lượng gió, năng lượng mặt trời. Đây tài liệu quý cho việc nghiên cứu phát triển năng lượng tái tạo sau này. Tuy nhiên, theo TS. Ngô Đức Lâm, do kinh phí hạn, nhất công nghệ đo đạc lạc hậu nên số liệu chưa thật chính xác. Thứ hai, về công nghệ: Đối với năng lượng gió, kỹ Đinh Hùng đã thiết kế chế tạo thành công động gió phát điện cỡ nhỏ, quy gia đình, thích hợp với các vùng xa xôi, chưa lưới điện. Thực tế đã lắp đặt thí điểm một số địa phương, được hoan nghênh. Với năng lượng mặt trời, kỹ Văn Khánh đồng sự đã nghiên cứu thành công quy trình lắp ráp tấm panel quang điện - P.V. Tuy nhiên chưa chế tạo được phải nhập P.V. Trên thực tế đã triển khai lắp ráp được nhiều đun P.V cho gia đình nông thôn miền núi dùng cho thắp sáng, nghe đài cũng để thắp sáng cho đường cũng như các phao dẫn đường cho tàu vùng biển Hải Phòng. Thứ ba, về đào tạo, hợp tác quốc tế. Sản phẩm nghiên cứu của Chương trình 10-A được phổ biến, đã góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao một số địa phương. Chương trình cũng mở ra hội hợp tác quốc tế. Viện Nghiên cứu Khoa học - Kỹ thuật Điện quan hệ hợp tác với Nhật Bản, Trung Quốc trong lĩnh vực năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Năm 1987, TS. Ngô Đức Lâm, được điều động làm Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học - Kỹ thuật Điện, đảm nhiệm việc nghiên cứu năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Năm 1990, Viện Nghiên cứu Khoa học - Kỹ thuật Điện hợp nhất với Viện Quy hoạch Điện thành Viện Nghiên cứu Năng lượng. TS. Trần Quốc Cường, Viện trưởng quyết định thành lập Trung tâm Nghiên cứu năng lượng mới, năng lượng tái tạo, do TS. Ngô Đức Lâm làm Giám đốc. Đây Trung tâm đầu tiên nghiên cứu về năng lượng mới năng lượng tái tạo Việt Nam. Năm 1991, Chương trình 10-A chuyển sang Bộ Giáo dục Đào tạo, mang số 52-C, do Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo Trần Hồng Quân làm Chủ nhiệm. Mặc khoa học kỹ thuật còn hạn chế, song những nghiên cứu đầu tiên về năng lượng mới, năng lượng tái tạo từ những năm 1980 đã đặt những viên gạch đầu tiên cho hướng đi mới của Việt Nam, giúp Việt Nam phát triển nhanh chóng công suất nguồn của các dạng năng lượng sạch sau này, tự tin tuyên bố đưa phát thải ròng về “zero” vào năm 2050.

c) Ngành Than

Đã khôi phục xong các mỏ bị đánh phá, trang bị thêm nhiều máy móc thiết bị khai thác, vận chuyển chế biến than hiện đại. Do nhu cầu về than rất lớn nên ta đã xây dựng thêm nhiều mỏ nhỏ để đưa nhanh vào sản xuất các địa phương. Việc xây dựng các mỏ than lớn công suất 1 - 3 triệu tấn/năm cũng được tiến hành khẩn trương để thể đưa vào sản xuất từng phần bắt đầu từ cuối của kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980).

TBT Lê Duẩn Tổng thư Duẩn, Thủ tướng Phạm Văn Đồng Tổng thư Đảng Cộng sản Liên Leonid Ilyich Brezhnev Hiệp ước hữu nghị Việt - tại Điện Kremli, Thủ đô Mátxcơva, ngày 04/11/1978 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

d) Ngành Dầu khí

Đã thăm chuẩn bị cho việc khai thác khí đốt dầu mỏ. Giai đoạn này nhiều sự kiện quan trọng liên quan đến phát triển về mặt tổ chức thăm dò, phát hiện ra dòng dầu khí công nghiệp.

Ngày 03/9/1975, Tổng cục Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam (Tổng cục Dầu khí Việt Nam) được thành lập theo Quyết định số 170/CP của Hội đồng Chính phủ. Ngày 09/9/1977, Chính phủ ra Quyết định số 251/CP thành lập Công ty Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam, gọi tắt Petrovietnam, trực thuộc Tổng cục Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam.

Ngày 03/7/1980, tại Điện Kremli (Mátxcơva), dưới sự chứng kiến của hai Tổng thư Duẩn Leonid Ilyich Brezhnev, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước Việt Nam Nguyễn Lam Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước Liên Nikolai Baibakov đã Hiệp định giữa Chính phủ hai nước về việc hợp tác tiến hành thăm địa chất khai thác dầu, khí thềm lục địa phía Nam Việt Nam. Hiệp định gồm

sáu điều, thể hiện đầy đủ các nguyên tắc bản coi như Hiệp định khung mở đường cho một Hiệp định cụ thể tiếp theo để triển khai công việc thăm địa chất khai thác dầu, khí thềm lục địa phía Nam Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ngày 19/4/1981, dòng khí công nghiệp đầu tiên tại Giếng khoan 61 mỏ Tiền Hải C (trầm tích Mioxen, hệ tầng Tiên Hưng, chiều sâu 1146 - 1156) với lưu lượng 100.000 m3/ngày đêm đã được đưa vào buồng đốt tuốcbin nhiệt điện tại Tiền Hải phát ra dòng điện công suất 10 MW hòa lưới quốc gia. Đây dấu mốc quan trọng đánh dấu lần đầu tiên ngành Dầu khí Việt Nam được ghi tên trên bản đồ dầu khí thế giới, mở ra triển vọng to lớn trên hành trình tìm kiếm, khai thác nguồn tài nguyên làm giàu cho đất nước tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam.

tàu khoan Tàu khoan Mikhail Mirchink nhận dòng dầu công nghiệp từ tầng trầm tích của mỏ Bạch Hổ (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Ngày 19/6/1981, tại Mátxcơva, Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Trần Quỳnh Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Konstantin Katushev đã Hiệp định về việc thành lập nghiệp Liên doanh Vietsovpetro, tiến hành thăm địa chất khai thác dầu khí thềm lục địa phía nam Việt Nam. Ngày 25/12/1983, tàu Mikhail Mirchin đã khoan giếng thăm BH-5 đầu tiên tại Mỏ Bạch Hổ 5 tháng sau, tức ngày 25/5/1984, đã phát hiện ra dòng dầu công nghiệp đầu tiên. Liên tục sau đó mỏ Rồng được phát hiện vào ngày 21/6/1985 mỏ Đại Hùng được phát hiện vào ngày 18/7/1988, mở ra giai đoạn mới cho sự phát triển của ngành Công nghiệp dầu khí Việt Nam.

đ) Ngành Luyện kim

Các cao của Khu Gang thép Thái Nguyên đã khôi phục xong, các xưởng cán thép Lưu Xá, Gia Sàng đã lắp đặt xong thiết bị đi vào sản xuất, các xưởng cán thép miền Nam đã được khôi phục đi vào sản xuất. Nhiều nhà máy khí được trang bị thêm để sản xuất thép đúc thép hợp kim. Sản xuất thiếc, crôm đều tăng hơn trước.

e) Ngành Hóa chất

các sản phẩm chính phân bón hóa học, axít, xút, lốp săm xe đạp. Sản lượng các loại phân bón hóa học được tăng lên nhiều nhờ mở rộng Nhà máy Supe Phốtphát Lâm Thao. Nhà máy Phân đạm Bắc bị máy bay Mỹ ném bom phá hoại, làm cho hơn 30 công trình chủ yếu bị hỏng nặng. Đầu năm 1975, nhà máy được khởi công xây dựng lại khánh thành vào ngày 30/10/1977. Thời điểm này, đây nhà máy phân đạm lớn nhất Việt Nam, hằng năm sản xuất 10 nghìn tấn urê phục vụ sản xuất nông nghiệp sản xuất nhiều mặt hàng khác. Ngành Chế biến cao su cũng được tăng thêm năng lực sản xuất để mở rộng chế tạo săm lốp ôtô, xe đạp, các mặt hàng cao su. Công nghiệp địa phương, tiểu thủ công nghiệp nhiều nơi đã sản xuất được phòng, keo dán, phèn chua, mực in, thuốc bảo quản gỗ các hóa chất thông thường.

phó thủ tướng Đỗ Mười

f) Ngành sản xuất hàng tiêu dùng

Được phát triển theo hướng chuyển mạnh sang sử dụng các sản phẩm của nông, lâm, ngư nghiệp các loại nguyên liệu, vật liệu trong nước kể cả tận dụng phế liệu, phế phẩm, giảm bớt nhập khẩu, đồng thời, chúng ta cũng phát triển công nghiệp địa phương tiểu thủ công nghiệp, thực hiện khai thác nguồn nguyên liệu địa phương xuất khẩu.

công nhân sữa

Đối với sản xuất công nghiệp thực phẩm, nhiều tỉnh huyện đã xây dựng các nhà máy xay xát gạo công suất 15 - 30 tấn bằng thiết bị trong nước. Nhiều xưởng chế biến hoa màu được xây dựng các địa phương nhiều ngô, khoai, sắn... Các thành phố trung tâm công nghiệp được tăng thêm năng lực sản xuất sợi, bánh mì. Công nghiệp đường cũng phát triển hơn trước, nhờ đưa vào sản xuất nhiều sở đường địa phương công suất 50 - 100 tấn mía/ngày. Để tận dụng nguyên liệu, các nhà máy đã bổ sung thiết bị để trở thành những nghiệp liên hợp đường - rượu - giấy. Công nghiệp chế biến chè, thuốc lá, dầu thực vật, chính, đồ hộp, đông lạnh... đều phát triển với tốc độ cao, đặc biệt với các sản phẩm xuất khẩu như chè, thuốc lá, tôm đóng hộp đông lạnh, nhiều mặt hàng tăng gấp 2 - 3 lần. Trong khu vực tiểu thủ công nghiệp cũng phát triển chế biến thực phẩm theo kỹ thuật truyền thống bằng các nguyên liệu nông sản địa phương, nhằm phục vụ cho bữa ăn hằng ngày của nhân dân.

Ngành Dệt đã tăng thêm công suất nhờ việc đưa vào sản xuất Liên hợp Dệt Vĩnh Phú, cải tạo tổ chức lại lực lượng dệt của nhân miền Nam khôi phục nghề dệt thủ công truyền thống, đưa công suất dệt vải lên tới 400 triệu m/năm. Các sở dệt kim, dệt lụa, thảm len, dệt đay thảm đay... cũng được mở rộng. Các nghề cói, may mặc, thêu ren... đều phát triển. Chúng ta đã khẩn trương xây dựng thêm các nhà máy kéo sợi bông, sợi đay đổi mới trang thiết bị máy móc nhiều nhà máy dệt các sở dệt thủ công.

Công nghiệp giấy chế biến gỗ đã được tăng thêm năng lực sản xuất nhờ khôi phục lại nhiều sở sản xuất miền Nam, xúc tiến việc xây lắp Nhà máy Giấy Bãi Bằng Vĩnh Phú, phát triển nhiều sở nhỏ địa phương để sản xuất giấy từ mía, đay, rơm rạ... Các nhà máy gia công gỗ xẻ, gỗ ván sàn, gỗ dán ván ép được trang bị thêm; đã đưa thêm được 3 nhà máy mới vào sản xuất.

Công nghiệp đồ sứ thủy tinh đã phát triển theo hướng mở rộng sở nguyên liệu xây dựng thêm các sở vừa nhỏ các tỉnh huyện, các sở sản xuất đồ thủy tinh cỡ vừa các tỉnh ven biển.

Đã đưa vào sản xuất nghiệp men sứ Hải Dương, nghiệp khai thác cao lanh Vĩnh Phú, Lào Cai, Lâm Đồng; hoàn thành xây dựng Nhà máy Thủy tinh Hải Hưng, mở rộng Nhà máy Bóng đèn, Phích nước Rạng Đông; Nhà máy Phích nước Thành phố Hồ Chí Minh.

nữ công nhân

Các nữ công nhân nhà máy sản xuất xe đạp nghiệp quốc doanh Nội đầu năm 1980 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Đồng thời, việc sản xuất hàng tiêu dùng nhu cầu phổ thông được đẩy mạnh; đã tăng thêm năng lực sản xuất xe đạp phụ tùng xe đạp, quạt điện bóng đèn điện, máy may, đồng hồ, máy thu thanh thu hình, đồ dùng học tập đồ chơi trẻ em...


1. Nhà máy do Liên giúp ta xây dựng trung tâm chế tạo động lớn nhất Việt Nam bấy giờ, mỗi năm sản xuất 2.000 động 55 lực 255 tấn phụ tùng.

3. Sự phát triển một số ngành công nghiệp chủ yếu

a) Ngành khí

Ngày 21/6/1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 62- HĐBT về việc thành lập Ban khí của Chính phủ. Ban khí Chính phủ nhiệm vụ giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trên ba lĩnh vực, gồm: nghiên cứu chiến lược phát triển khí dài hạn theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng Nhà nước; nghiên cứu chính sách phát triển ngành khí trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định; thanh tra, kiểm tra các bộ, các ngành các địa phương trong việc chấp hành chiến lược, chính sách phát triển khí ngành địa phương.

Trưởng ban khí của Chính phủ Bộ trưởng Bộ khí Luyện kim. Phó Trưởng ban gồm một Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Kỹ thuật nhà nước; một Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước; một Thứ trưởng Bộ khí Luyện kim. Các ủy viên gồm: Thứ trưởng Bộ Mỏ Than; Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải; Thứ trưởng Bộ Xây dựng; Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp; Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Hóa chất.

Nhiệt điện Phả Lại 1983 Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại cho chạy thử đồng bộ không tải Tổ máy số 1, đạt các thông số kỹ thuật, ngày 19/10/1983 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam) Bộ Cơ khí 1985 Bộ trưởng Bộ khí Luyện kim Nguyễn Văn Kha cùng Đại sứ Liên Saplin thăm nơi sản xuất trong Nhà máy Diesel Sông Công tại lễ bàn giao đợt 1 nhà máy, ngày 04/11/19851 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Về hoạt động, việc tổ chức, sắp xếp lại phân công sản xuất trong toàn quốc được tiến hành theo hướng chuyên môn hóa, kết hợp năng lực khí của quốc doanh trung ương với khí địa phương, khí quốc phòng, khí hợp tác lực lượng khí nhân. Nhiều sản phẩm khí đã giảm được chi phí sản xuất chất lượng tốt hơn, các chi tiết bộ phận được chế tạo hàng loạt các nghiệp khác nhau theo nguyên tắc chuyên môn hóa sản xuất.

Việc bổ sung thiết bị, cải tạo mở rộng nhiều nhà máy khí của các ngành, việc xây dựng mới các sở khí phục vụ nông nghiệp các tỉnh huyện miền Nam, các xưởng bảo dưỡng, sửa chữa ôtô, tàu, thuyền đánh đã tăng thêm năng lực khí ngành khí địa phương. Chúng ta cũng hoàn thành xây dựng đưa vào sản xuất toàn bộ hoặc từng phần Nhà máy khí Nội mở rộng, Cụm khí Đầm, Nhà máy khí trung tâm Cẩm Phả, Nhà máy Khí cụ điện, Nhà máy Xe đạp Xuân Hòa. Năm 1976, khánh thành Nhà máy Dụng cụ số 1 (Hà Nội) do Liên giúp xây dựng. Nhà máy được xây dựng từ trong thời kỳ chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ, đã 3 dây chuyền chính hoạt động bàn ren, ta rô, mũi khoan. Đến thời điểm này, Nhà máy sản xuất được 80 chủng loại sản phẩm với nhiều loại quy cách, kích thước khác nhau, phục vụ ngành khí cả nước.

Các sản phẩm chủ yếu của ngành khí được sản xuất hàng loạt để phục vụ nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm này thiết bị toàn bộ cho xưởng khí huyện, máy kéo bông sen, máy công tác theo sau máy kéo, máy bơm thủy lợi, tàu hút bùn, bơm thuốc trừ sâu, xe cải tiến, công cụ cầm tay trong nông, lâm, ngư nghiệp, tàu đánh cá, trong đó loại tàu 400 sức ngựa, lan, moóc, toa xe lửa, phụ tùng ô tô, máy kéo... cũng tăng lên với tốc độ cao. Một sự kiện nổi bật thời gian này 4 nhà máy khí (VIKYNO, VINAPRO Biên Hòa, Đồng Nai, Trần Hưng Đạo Nội Nhà máy khí nông nghiệp Sơn Bình) đã hợp tác chế tạo thành công máy cày tay Bông sen, phục vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp.

Để phục vụ cho xây dựng bản sản xuất vật liệu xây dựng, ta đã sản xuất được thiết bị toàn bộ cho các nhà máy ximăng công suất 5.000 - 10.000 - 20.000 tấn/năm, các nhà máy gạch 7 - 20 triệu viên/năm, sản xuất hàng loạt máy trộn bêtông, máy trộn vữa... Việc sản xuất máy móc, công cụ cho công nghiệp nhẹ công nghiệp thực phẩm cũng được đẩy mạnh với việc sản xuất hàng loạt thiết bị toàn bộ cho các nhà máy đường, nhà máy xay xát gạo, nhà máy chế biến màu, nhà máy giấy, nhà máy dệt, xưởng thủy tinh... của công nghiệp địa phương. Các máy móc thông dụng như động diesel, động điện, máy biến thế, máy cắt gọt kim loại... hằng năm đều tăng với nhịp độ cao từ 30 - 60%. Chúng ta đã bắt đầu sản xuất được một số linh kiện điện tử để lắp ráp sửa chữa các thiết bị điện tử.

ngăn sông Đà

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng thả viên đá tượng trưng mở đầu cho ngày hội ngăn sông Đà đợt 2 tại công trường xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình, ngày 09/01/1986 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

b) Ngành Điện

Ngày 22/11/1981, Quyết nghị số 1236-NQ/TVQHK6 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chia Bộ Điện Than thành 2 bộ: Bộ Điện lực, Bộ Mỏ Than. Ngày 26/9/1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 105/HĐBT thành lập Ban Năng lượng của Chính phủ, nhiệm vụ giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nghiên cứu chiến lược chính sách phát triển năng lượng nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng trong toàn quốc; điều hòa, phối hợp, đôn đốc các ngành nghiên cứu chiến lược, chính sách phát triển sử dụng các dạng năng lượng của từng ngành; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các chiến lược chính sách; thẩm tra các đề án, chính sách thuộc về năng lượng trước khi trình Hội đồng Bộ trưởng. Trưởng ban Năng lượng đồng chí Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười. Thứ trưởng Bộ Điện lực làm Phó Trưởng ban Thường trực; Thứ trưởng Bộ Mỏ Than Ủy viên.

Về hoạt động, những năm đầu đất nước thống nhất, việc tiếp quản các sở điện lực được tiến hành nhanh gọn, đồng bộ với các ngành khác. Ngày 01/5/1975, ngành đã tiếp nhận hệ thống điện miền Nam từ chính quyền Sài Gòn - một dấu ấn khởi điểm cho việc quản thống nhất toàn hệ thống Điện Việt Nam.

Trong 10 năm 1976 - 1985, hệ thống điện đã tăng thêm công suất nhờ huy động thêm các máy phát của các ngành địa phương, thực hiện các biện pháp cải tiến kỹ thuật. Việc xây dựng các cụm phát điện mới hệ thống truyền tải điện phục vụ thủy lợi đồng bằng sông Cửu Long được hoàn thành phát huy tác dụng. Thời gian này, ta xây dựng hoàn thành nhiều công trình điện, tiêu biểu Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình khởi công từ năm 1973, được đầu thêm vốn xây dựng hoàn thành vào năm 1977; khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình năm 1979, đến năm 1983 tiến hành ngăn sông Đà đợt 1; xây dựng Nhiệt điện Phả Lại năm 1980, gồm 4 tổ máy, tổng công suất lắp đặt 440 MW, hiện đại nhất trong hệ thống điện miền Bắc lúc đó. Từ năm 1983 đến năm 1985 lần lượt đưa 3 tổ máy, tổng công suất 330 MW vào vận hành... Công suất lắp đặt toàn hệ thống điện cả nước năm 1985 đạt 1.666,5 MW, trong đó, nhiệt điện 856 MW; riêng miền Bắc, công suất lắp đặt nhiệt điện đạt 658 MW, gấp 2,5 lần so với năm 1975.

Sản lượng điện phát ra năm 1985 đạt 5,23 tỷ kWh, gấp 1,44 lần năm 1980 gấp 1,7 lần năm 1976. Giai đoạn 1981 - 1985, ngành Điện thực hiện Tổng đồ phát triển điện giai đoạn I hoàn thành nhiều công trình lớn, mang tầm chiến lược quốc gia về nguồn lưới điện, như xây dựng tuyến đường dây 220 kV đầu tiên của Việt Nam: Đông - Hòa Bình (khởi công năm 1979, hoàn thành 1981). Tính đến năm 1985, lưới điện đã phủ trên 90% số huyện trên 60% số trong cả nước.

Năng lượng tái tạo: Những nghiên cứu đầu tiên thập niên 1980

Theo TS. Ngô Đức Lâm, nguyên Cục trưởng Cục Kỹ thuật an toàn Môi trường Công nghiệp - Bộ Công nghiệp (nay Bộ Công Thương), ngay từ thập kỷ 80 của thế kỷ XX, chúng ta đã bắt đầu nghiên cứu năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Thời điểm quy hoạch Tổng đồ-1 (1981 - 1985), khi nguồn điện Việt Nam chủ yếu thủy điện nhiệt điện than, Bộ Điện lực đã đề xuất được Chính phủ cho phép nghiên cứu năng lượng mới, năng lượng tái tạo bằng một Chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước, mang số 10-A. Chủ nhiệm Chương trình kỹ Đình Bông, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học - Kỹ thuật Điện; Tổng thư Chương trình Phó Vụ trưởng Vụ Kỹ thuật - Bộ Điện lực, TS. Ngô Đức Lâm. Năm 1986, Bộ Điện lực tổ chức kết 2 năm thực hiện Chương trình, do Bộ trưởng Phạm Khai chủ trì, Đại tướng Nguyên Giáp, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tới dự. Tại Hội nghị, TS. Ngô Đức Lâm báo cáo kết quả nghiên cứu năng lượng mới năng lượng tái tạo trên ba mặt. Thứ nhất, về nghiên cứu bản; Viện cùng với Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia đã tập hợp kết quả đo đạc tại nhiều địa phương, lập được bản đồ về tiềm năng năng lượng tái tạo gió mặt trời một số địa phương chính. Qua đó đánh giá Việt Nam nước tiềm năng lớn về năng lượng gió, năng lượng mặt trời. Đây tài liệu quý cho việc nghiên cứu phát triển năng lượng tái tạo sau này. Tuy nhiên, theo TS. Ngô Đức Lâm, do kinh phí hạn, nhất công nghệ đo đạc lạc hậu nên số liệu chưa thật chính xác. Thứ hai, về công nghệ: Đối với năng lượng gió, kỹ Đinh Hùng đã thiết kế chế tạo thành công động gió phát điện cỡ nhỏ, quy gia đình, thích hợp với các vùng xa xôi, chưa lưới điện. Thực tế đã lắp đặt thí điểm một số địa phương, được hoan nghênh. Với năng lượng mặt trời, kỹ Văn Khánh đồng sự đã nghiên cứu thành công quy trình lắp ráp tấm panel quang điện - P.V. Tuy nhiên chưa chế tạo được phải nhập P.V. Trên thực tế đã triển khai lắp ráp được nhiều đun P.V cho gia đình nông thôn miền núi dùng cho thắp sáng, nghe đài cũng để thắp sáng cho đường cũng như các phao dẫn đường cho tàu vùng biển Hải Phòng. Thứ ba, về đào tạo, hợp tác quốc tế. Sản phẩm nghiên cứu của Chương trình 10-A được phổ biến, đã góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao một số địa phương. Chương trình cũng mở ra hội hợp tác quốc tế. Viện Nghiên cứu Khoa học - Kỹ thuật Điện quan hệ hợp tác với Nhật Bản, Trung Quốc trong lĩnh vực năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Năm 1987, TS. Ngô Đức Lâm, được điều động làm Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học - Kỹ thuật Điện, đảm nhiệm việc nghiên cứu năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Năm 1990, Viện Nghiên cứu Khoa học - Kỹ thuật Điện hợp nhất với Viện Quy hoạch Điện thành Viện Nghiên cứu Năng lượng. TS. Trần Quốc Cường, Viện trưởng quyết định thành lập Trung tâm Nghiên cứu năng lượng mới, năng lượng tái tạo, do TS. Ngô Đức Lâm làm Giám đốc. Đây Trung tâm đầu tiên nghiên cứu về năng lượng mới năng lượng tái tạo Việt Nam. Năm 1991, Chương trình 10-A chuyển sang Bộ Giáo dục Đào tạo, mang số 52-C, do Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo Trần Hồng Quân làm Chủ nhiệm. Mặc khoa học kỹ thuật còn hạn chế, song những nghiên cứu đầu tiên về năng lượng mới, năng lượng tái tạo từ những năm 1980 đã đặt những viên gạch đầu tiên cho hướng đi mới của Việt Nam, giúp Việt Nam phát triển nhanh chóng công suất nguồn của các dạng năng lượng sạch sau này, tự tin tuyên bố đưa phát thải ròng về “zero” vào năm 2050.

c) Ngành Than

Đã khôi phục xong các mỏ bị đánh phá, trang bị thêm nhiều máy móc thiết bị khai thác, vận chuyển chế biến than hiện đại. Do nhu cầu về than rất lớn nên ta đã xây dựng thêm nhiều mỏ nhỏ để đưa nhanh vào sản xuất các địa phương. Việc xây dựng các mỏ than lớn công suất 1 - 3 triệu tấn/năm cũng được tiến hành khẩn trương để thể đưa vào sản xuất từng phần bắt đầu từ cuối của kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980).

TBT Lê Duẩn Tổng thư Duẩn, Thủ tướng Phạm Văn Đồng Tổng thư Đảng Cộng sản Liên Leonid Ilyich Brezhnev Hiệp ước hữu nghị Việt - tại Điện Kremli, Thủ đô Mátxcơva, ngày 04/11/1978 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

d) Ngành Dầu khí

Đã thăm chuẩn bị cho việc khai thác khí đốt dầu mỏ. Giai đoạn này nhiều sự kiện quan trọng liên quan đến phát triển về mặt tổ chức thăm dò, phát hiện ra dòng dầu khí công nghiệp.

Ngày 03/9/1975, Tổng cục Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam (Tổng cục Dầu khí Việt Nam) được thành lập theo Quyết định số 170/CP của Hội đồng Chính phủ. Ngày 09/9/1977, Chính phủ ra Quyết định số 251/CP thành lập Công ty Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam, gọi tắt Petrovietnam, trực thuộc Tổng cục Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam.

Ngày 03/7/1980, tại Điện Kremli (Mátxcơva), dưới sự chứng kiến của hai Tổng thư Duẩn Leonid Ilyich Brezhnev, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước Việt Nam Nguyễn Lam Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước Liên Nikolai Baibakov đã Hiệp định giữa Chính phủ hai nước về việc hợp tác tiến hành thăm địa chất khai thác dầu, khí thềm lục địa phía Nam Việt Nam. Hiệp định gồm

sáu điều, thể hiện đầy đủ các nguyên tắc bản coi như Hiệp định khung mở đường cho một Hiệp định cụ thể tiếp theo để triển khai công việc thăm địa chất khai thác dầu, khí thềm lục địa phía Nam Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ngày 19/4/1981, dòng khí công nghiệp đầu tiên tại Giếng khoan 61 mỏ Tiền Hải C (trầm tích Mioxen, hệ tầng Tiên Hưng, chiều sâu 1146 - 1156) với lưu lượng 100.000 m3/ngày đêm đã được đưa vào buồng đốt tuốcbin nhiệt điện tại Tiền Hải phát ra dòng điện công suất 10 MW hòa lưới quốc gia. Đây dấu mốc quan trọng đánh dấu lần đầu tiên ngành Dầu khí Việt Nam được ghi tên trên bản đồ dầu khí thế giới, mở ra triển vọng to lớn trên hành trình tìm kiếm, khai thác nguồn tài nguyên làm giàu cho đất nước tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam.

tàu khoan Tàu khoan Mikhail Mirchink nhận dòng dầu công nghiệp từ tầng trầm tích của mỏ Bạch Hổ (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Ngày 19/6/1981, tại Mátxcơva, Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Trần Quỳnh Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Konstantin Katushev đã Hiệp định về việc thành lập nghiệp Liên doanh Vietsovpetro, tiến hành thăm địa chất khai thác dầu khí thềm lục địa phía nam Việt Nam. Ngày 25/12/1983, tàu Mikhail Mirchin đã khoan giếng thăm BH-5 đầu tiên tại Mỏ Bạch Hổ 5 tháng sau, tức ngày 25/5/1984, đã phát hiện ra dòng dầu công nghiệp đầu tiên. Liên tục sau đó mỏ Rồng được phát hiện vào ngày 21/6/1985 mỏ Đại Hùng được phát hiện vào ngày 18/7/1988, mở ra giai đoạn mới cho sự phát triển của ngành Công nghiệp dầu khí Việt Nam.

đ) Ngành Luyện kim

Các cao của Khu Gang thép Thái Nguyên đã khôi phục xong, các xưởng cán thép Lưu Xá, Gia Sàng đã lắp đặt xong thiết bị đi vào sản xuất, các xưởng cán thép miền Nam đã được khôi phục đi vào sản xuất. Nhiều nhà máy khí được trang bị thêm để sản xuất thép đúc thép hợp kim. Sản xuất thiếc, crôm đều tăng hơn trước.

e) Ngành Hóa chất

các sản phẩm chính phân bón hóa học, axít, xút, lốp săm xe đạp. Sản lượng các loại phân bón hóa học được tăng lên nhiều nhờ mở rộng Nhà máy Supe Phốtphát Lâm Thao. Nhà máy Phân đạm Bắc bị máy bay Mỹ ném bom phá hoại, làm cho hơn 30 công trình chủ yếu bị hỏng nặng. Đầu năm 1975, nhà máy được khởi công xây dựng lại khánh thành vào ngày 30/10/1977. Thời điểm này, đây nhà máy phân đạm lớn nhất Việt Nam, hằng năm sản xuất 10 nghìn tấn urê phục vụ sản xuất nông nghiệp sản xuất nhiều mặt hàng khác. Ngành Chế biến cao su cũng được tăng thêm năng lực sản xuất để mở rộng chế tạo săm lốp ôtô, xe đạp, các mặt hàng cao su. Công nghiệp địa phương, tiểu thủ công nghiệp nhiều nơi đã sản xuất được phòng, keo dán, phèn chua, mực in, thuốc bảo quản gỗ các hóa chất thông thường.

phó thủ tướng Đỗ Mười

f) Ngành sản xuất hàng tiêu dùng

Được phát triển theo hướng chuyển mạnh sang sử dụng các sản phẩm của nông, lâm, ngư nghiệp các loại nguyên liệu, vật liệu trong nước kể cả tận dụng phế liệu, phế phẩm, giảm bớt nhập khẩu, đồng thời, chúng ta cũng phát triển công nghiệp địa phương tiểu thủ công nghiệp, thực hiện khai thác nguồn nguyên liệu địa phương xuất khẩu.

công nhân sữa

Đối với sản xuất công nghiệp thực phẩm, nhiều tỉnh huyện đã xây dựng các nhà máy xay xát gạo công suất 15 - 30 tấn bằng thiết bị trong nước. Nhiều xưởng chế biến hoa màu được xây dựng các địa phương nhiều ngô, khoai, sắn... Các thành phố trung tâm công nghiệp được tăng thêm năng lực sản xuất sợi, bánh mì. Công nghiệp đường cũng phát triển hơn trước, nhờ đưa vào sản xuất nhiều sở đường địa phương công suất 50 - 100 tấn mía/ngày. Để tận dụng nguyên liệu, các nhà máy đã bổ sung thiết bị để trở thành những nghiệp liên hợp đường - rượu - giấy. Công nghiệp chế biến chè, thuốc lá, dầu thực vật, chính, đồ hộp, đông lạnh... đều phát triển với tốc độ cao, đặc biệt với các sản phẩm xuất khẩu như chè, thuốc lá, tôm đóng hộp đông lạnh, nhiều mặt hàng tăng gấp 2 - 3 lần. Trong khu vực tiểu thủ công nghiệp cũng phát triển chế biến thực phẩm theo kỹ thuật truyền thống bằng các nguyên liệu nông sản địa phương, nhằm phục vụ cho bữa ăn hằng ngày của nhân dân.

Ngành Dệt đã tăng thêm công suất nhờ việc đưa vào sản xuất Liên hợp Dệt Vĩnh Phú, cải tạo tổ chức lại lực lượng dệt của nhân miền Nam khôi phục nghề dệt thủ công truyền thống, đưa công suất dệt vải lên tới 400 triệu m/năm. Các sở dệt kim, dệt lụa, thảm len, dệt đay thảm đay... cũng được mở rộng. Các nghề cói, may mặc, thêu ren... đều phát triển. Chúng ta đã khẩn trương xây dựng thêm các nhà máy kéo sợi bông, sợi đay đổi mới trang thiết bị máy móc nhiều nhà máy dệt các sở dệt thủ công.

Công nghiệp giấy chế biến gỗ đã được tăng thêm năng lực sản xuất nhờ khôi phục lại nhiều sở sản xuất miền Nam, xúc tiến việc xây lắp Nhà máy Giấy Bãi Bằng Vĩnh Phú, phát triển nhiều sở nhỏ địa phương để sản xuất giấy từ mía, đay, rơm rạ... Các nhà máy gia công gỗ xẻ, gỗ ván sàn, gỗ dán ván ép được trang bị thêm; đã đưa thêm được 3 nhà máy mới vào sản xuất.

Công nghiệp đồ sứ thủy tinh đã phát triển theo hướng mở rộng sở nguyên liệu xây dựng thêm các sở vừa nhỏ các tỉnh huyện, các sở sản xuất đồ thủy tinh cỡ vừa các tỉnh ven biển.

Đã đưa vào sản xuất nghiệp men sứ Hải Dương, nghiệp khai thác cao lanh Vĩnh Phú, Lào Cai, Lâm Đồng; hoàn thành xây dựng Nhà máy Thủy tinh Hải Hưng, mở rộng Nhà máy Bóng đèn, Phích nước Rạng Đông; Nhà máy Phích nước Thành phố Hồ Chí Minh.

nữ công nhân

Các nữ công nhân nhà máy sản xuất xe đạp nghiệp quốc doanh Nội đầu năm 1980 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Đồng thời, việc sản xuất hàng tiêu dùng nhu cầu phổ thông được đẩy mạnh; đã tăng thêm năng lực sản xuất xe đạp phụ tùng xe đạp, quạt điện bóng đèn điện, máy may, đồng hồ, máy thu thanh thu hình, đồ dùng học tập đồ chơi trẻ em...


1. Nhà máy do Liên giúp ta xây dựng trung tâm chế tạo động lớn nhất Việt Nam bấy giờ, mỗi năm sản xuất 2.000 động 55 lực 255 tấn phụ tùng.

2. Vượt qua giai đoạn suy thoái

Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng khẳng định: đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta là “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”1. Trên cơ sở đó, phương hướng và nhiệm vụ của ngành Công Thương trong kế hoạch phát triển công nghiệp 5 năm 1976 - 1980 được cụ thể hóa và chỉ rõ.

Đối với một số phân ngành chủ chốt trong công nghiệp nặng:

Cơ khí: Nhanh chóng xây dựng lớn mạnh để từng bước cung cấp máy móc, công cụ, phụ tùng, thiết bị lẻ và thiết bị toàn bộ cho các ngành kinh tế quốc dân. Trong kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, hoàn thành sớm quy hoạch cơ khí trong cả nước, ổn định phương hướng sản xuất cho từng xí nghiệp, trên cơ sở thực hiện chuyên môn hóa mà đẩy mạnh hiệp tác hóa giữa cơ khí chung và cơ khí chuyên ngành, cơ khí quốc phòng và cơ khí dân dụng, cơ khí quốc doanh và cơ khí hợp tác xã, cơ khí chế tạo và cơ khí sửa chữa. Sắp xếp, cải tạo và mở rộng những xí nghiệp hiện có để khai thác hết tiềm lực. Đồng thời tập trung sức xây dựng một số xí nghiệp mới quan trọng nhằm hoàn chỉnh từng bước ngành Cơ khí, xây dựng lực lượng cơ khí cho các ngành quan trọng và các địa phương. Cung cấp đủ công cụ thường và công cụ cải tiến với chất lượng tốt; bảo đảm phần lớn nhu cầu sửa chữa và phụ tùng; sản xuất nhiều máy móc, thiết bị đáp ứng từng phần nhu cầu của các ngành kinh tế.

Điện Việt Trì

Nhà máy điện Việt Trì lắp thêm lò 7, 8 và ống khói 2 cao 60 m trong đợt mở rộng quy mô năm 1978 (Ảnh: Trần Nguyên Hợi)

Năng lượng: Phát triển sớm năng lượng, đón trước được nhu cầu; xúc tiến nghiên cứu để khai thác và sử dụng được nhiều dạng năng lượng.

Ngành Điện: Phương hướng cơ bản là kết hợp thủy điện với nhiệt điện; hết sức coi trọng thủy điện, kết hợp quy mô lớn với quy mô vừa và nhỏ. Xây dựng lưới điện cân đối với nguồn điện. Mở rộng một số nhà máy điện cũ và xây dựng một số nhà máy mới, chú trọng xây dựng nhiều trạm thủy điện nhỏ ở trung du và miền núi, nhất là ở Tây Nguyên.

Ngành Than: Đẩy mạnh sản xuất than để đáp ứng nhu cầu trước mắt và tăng nhanh sản lượng trong kế hoạch sau. Triệt để phát huy các mỏ cũ, xây dựng nhanh nhiều mỏ mới. Chú trọng phát triển công nghiệp chế biến than; tăng cường lực lượng cơ khí để chế tạo được từng phần thiết bị và phụ tùng khai thác hầm lò và lộ thiên.

Ngành Dầu khí: Triển khai mạnh việc tìm kiếm, thăm dò dầu mỏ và khí đốt trên đất liền và ngoài biển; tạo điều kiện xây dựng nhanh công nghiệp dầu khí. Khẩn trương chuẩn bị để sớm khởi công xây dựng cơ sở lọc dầu và chế biến dầu.

Luyện kim: Phát triển cân đối từng bước với sản xuất cơ khí, bảo đảm được yêu cầu xây dựng cơ bản. Tiến lên sản xuất cho được một khối lượng lớn kim loại đen, kim loại màu và một phần kim loại quý, hiếm. Hoàn thành xây dựng và mở rộng các cơ sở luyện thép hiện có, xây dựng nhiều lò thép điện trong các nhà máy cơ khí, chuẩn bị xây dựng cơ sở luyện thép cỡ lớn. Mở rộng sản xuất thiếc, tạo điều kiện khởi công các cơ sở luyện kim màu khác. Tập trung làm tốt công tác tìm kiếm những nguồn quặng mới.

Hóa chất: Phát triển toàn diện hóa chất vô cơ và hóa chất hữu cơ. Kết hợp quy mô lớn với quy mô vừa và nhỏ; chú trọng liên hợp sản xuất, hình thành những khu công nghiệp hóa chất hợp lý, vừa đạt hiệu quả kinh tế cao, vừa bảo vệ được môi trường. Phát triển phân bón hóa học và các hóa chất khác phục vụ sản xuất nông nghiệp. Sớm khởi công xây dựng cơ sở sợi nhân tạo, các nhà máy xút và một số nhà máy hóa chất cơ bản. Phát triển hóa dược đáp ứng nhu cầu về thuốc chữa bệnh của nhân dân; tích cực chế biến các sản phẩm từ cao su, hương liệu, tinh dầu...

Đối với công nghiệp nhẹ

Nhiệm vụ cơ bản là sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân; bảo đảm và nâng cao thu nhập thực tế của người lao động; tạo điều kiện cho Nhà nước đẩy mạnh phân công lao động xã hội; cung cấp nhiều hàng hóa cho xuất khẩu. Tận dụng mọi năng lực sản xuất, mọi hình thức tổ chức để sản xuất được ngày càng nhiều sản phẩm với giá thành hạ, chủng loại phong phú, chất lượng cao, sớm chấm dứt tình trạng thiếu hàng tiêu dùng thiết yếu.

Trước hết, tập trung sức phát triển những ngành thuộc nhu cầu đời sống cơ bản, gồm: dệt, da, may mặc, giấy, đồ gỗ, đồ dùng gia đình, đồ dùng học sinh, dụng cụ y tế, dụng cụ nhà trẻ, thể dục thể thao, văn hóa phẩm. Trong kế hoạch 5 năm, phấn đấu bảo đảm cho mọi gia đình đều có mức vải mặc vừa phải, có hàng tiêu dùng thông dụng.

Đối với những cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, đầu tư trang bị hiện đại, cung cấp đủ nguyên liệu, tăng cường quản lý kinh tế, kỹ thuật, bảo đảm làm ra sản phẩm đạt trình độ quốc tế.

Trước mắt, cần nhanh chóng nắm chắc lực lượng công nghiệp nhẹ trong cả nước, tổ chức lại, phân công phối hợp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, kết hợp quy mô lớn với quy mô vừa và nhỏ, trung ương với địa phương, quốc doanh với tập thể và cá thể. Cải tiến kỹ thuật và mở rộng năng lực sản xuất của những cơ sở sẵn có, đồng thời cố gắng xây dựng thêm một số cơ sở mới.

Đối với thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp

Ra sức phục hồi và phát triển thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp, chú ý những nghề thủ công cổ truyền và mỹ nghệ. Trong đó, quan trọng nhất là bằng mọi cách sớm tạo ra nguồn nguyên liệu vững chắc trong nước, đồng thời có kế hoạch nhập khẩu một số nguyên liệu cần thiết để tận dụng lực lượng lao động và công suất thiết bị, bảo đảm nhu cầu thiết yếu của nhân dân và tạo thêm hàng xuất khẩu.

Triển khai các nhiệm vụ trọng tâm nêu trên, các bộ quản lý ngành Công Thương đã nghiên cứu tổ chức lại sản xuất công nghiệp, phân bố lại lực lượng sản xuất, tổ chức nghiên cứu quy hoạch phát triển dài hạn của các phân ngành công nghiệp, lập kế hoạch, tham mưu đề xuất đầu tư nhiều công trình công nghiệp quan trọng. Trong 10 năm 1976 - 1985, tỷ trọng đầu tư vào ngành Công nghiệp chiếm trên 40% tổng vốn đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất, tốc độ tăng đầu tư cho công nghiệp cao hơn mức tăng đầu tư bình quân của toàn bộ khu vực sản xuất vật chất. Trong đó, đầu tư cho nhóm A là trên 70% và nhóm B gần 30%.

Trong thời kỳ này, nhiều công trình tương đối lớn được xây dựng như các nhà máy Sợi Hà Nội, Vinh, Huế, Nha Trang; các nhà máy Đường Lam Sơn, La Ngà; các nhà máy Giấy Bãi Bằng, Tân Mai... Giá trị tài sản ngành công nghiệp được tăng lên đáng kể: giai đoạn 1976 - 1980 tăng thêm 13 tỉ đồng, bằng 35% giá trị tài sản cố định mới tăng thêm thuộc khu vực sản xuất vật chất; giai đoạn 1981 - 1985 tăng 18,6 tỉ đồng, bằng 440% tổng giá trị tài sản cố định thuộc khu vực này2.

Do kết quả cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam và đầu tư xây dựng mới của Nhà nước, số lượng cơ sở công nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh trong cả nước đã tăng thêm đáng kể, hơn 1.000 cơ sở trong vòng 10 năm, từ 2.021 xí nghiệp năm 1976 lên 2.627 xí nghiệp năm 1980 và 3.220 xí nghiệp năm 1985. Trong đó, chủ yếu là các xí nghiệp nhóm A đã từ 1.076 năm 1976 tăng lên 1.458 năm 1980 và 1.851 cơ sở năm 1985, xí nghiệp nhóm B đã từ 945 tăng lên 1.080 và 1.369 cơ sở. Năm 1985 số xí nghiệp do trung ương quản lý là 748 cơ sở và địa phương quản lý là 2.472 cơ sở. Ngành nhiều xí nghiệp nhất là lương thực, thực phẩm, có 634 cơ sở, địa phương nhiều xí nghiệp nhất là Hậu Giang, có 164 cơ sở.

Giấy Bãi Bằng

Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười cùng đại diện Vương quốc Thụy Điển cắt băng khánh thành Nhà máy Giấy Bãi Bằng, ngày 26/11/1982 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Nhà máy Giấy Bãi Bằng: Công trình hữu nghị Việt Nam - Thụy Điển

Bằng những nỗ lực lớn trong công tác ngoại giao của Chính phủ Việt Nam và sự thiện chí, giúp đỡ của Chính phủ Thụy Điển, ngày 20/8/1974, dự án xây dựng một nhà máy sản xuất giấy và bột giấy Bãi Bằng trị giá gần 2,7 tỷ cơron đã được ký kết.

Sau gần 8 năm khẩn trương xây dựng, ngày 26/11/1982, Nhà máy Giấy Bãi Bằng đã chính thức khánh thành.

Nhớ về những ngày đầu Nhà máy mới thành lập, Anh hùng Lao động Trần Ngọc Quế - Nguyên lãnh đạo Công ty Giấy Bãi Bằng chia sẻ: “Ngay sau khi khánh thành, Giấy Bãi Bằng đã nhanh chóng bước vào sản xuất. Bắt đầu từ đây, mỗi cán bộ, công nhân Nhà máy lại sát cánh cùng các chuyên gia, thực hiện chuyển giao kiến thức. Trong giai đoạn này, các chuyên gia Thụy Điển từ Tổng giám đốc đến trưởng ca quản lý là người điều hành trực tiếp. Trước đó, đã có nhiều đoàn được cử sang đào tạo tại Thụy Điển nhưng với tinh thần khiêm tốn, học hỏi khi trở về họ vẫn cùng đội ngũ cán bộ kỹ thuật lắng nghe tiếp thu kiến thức kinh nghiệm thực hành sản xuất từ các chuyên gia với mong muốn nhanh chóng làm chủ được các thiết bị công nghệ. Vào thời điểm ấy, mỗi cán bộ đảng viên của Nhà máy thực sự là những người gương mẫu trong việc bám máy trực tiếp theo dõi vận hành các thiết bị trong dây chuyền sản xuất giấy và bột giấy”.

Nguồn: Website của Tổng Công ty Giấy Việt Nam.

Trong 10 năm 1976 - 1985, sản xuất công nghiệp chia thành hai giai đoạn rõ rệt.

Giai đoạn 1976 - 1980: kết quả sản xuất không tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra. Trong khi vốn đầu tư của Nhà nước, số xí nghiệp quốc doanh tăng đều qua các năm và chiếm tỷ trọng cao nhất trong khu vực sản xuất vật chất thì giá trị tổng sản lượng công nghiệp có mức độ tăng không tương xứng, tăng trong 3 năm đầu, lên cao nhất vào năm 1978, sau đó suy thoái trong 2 năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ II.

Do đó, tất cả các mục tiêu do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đề ra đều không đạt. Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu công nghiệp của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980): giá trị sản lượng cơ khí đạt 80%; sản lượng điện đạt 3.680 triệu kWh, đạt 73,6%; than đạt 52%; khai thác gỗ tròn là 1,577 triệu m3, đạt 45%; vải mặc 182 triệu mét, đạt 40,4%; đánh bắt cá biển 399 nghìn tấn, đạt 39,9%; giấy, bìa 48,3 nghìn tấn, đạt 37%; ximăng 641 nghìn tấn, đạt 32%; phân bón hóa học 367 nghìn tấn, đạt 28%; sản lượng thép 62,5 nghìn tấn, đạt 25%3.

bảng 35

bảng 36

bảng 37

Sản phẩm công nghiệp tính bình quân đầu người giai đoạn 1976 - 1980 cũng cho thấy bức tranh tương tự, sụt giảm vào những năm cuối kỳ của kế hoạch 5 năm.

Giai đoạn 1981 - 1985: Sản xuất công nghiệp vượt qua thời kỳ suy thoái và khủng hoảng, bắt đầu có bước phát triển đều đặn, rõ ràng, năm sau cao hơn năm trước. Nếu trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980), giá trị tổng sản lượng công nghiệp cả nước tăng trong 3 năm đầu và đạt giá trị cao nhất trong năm 1978 (64,1 tỉ đồng), sau đó giảm liên tục cho đến năm 1980 chỉ còn 55,7 tỉ đồng; thì sang kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981 - 1985), giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng liên tục từ năm 1981, đến năm 1985 đạt giá trị cao nhất (101,3 tỉ đồng) so với cả giai đoạn 1976 - 1985. Tốc độ tăng bình quân/năm trong kế hoạch 5 năm 1976 - 1980: 3,3%; tốc độ tăng bình quân/năm trong kế hoạch 5 năm 1981 - 1985: 13,37%, đã kéo tốc độ tăng bình quân/năm trong 10 năm 1976 - 1985 lên 8,2%.

Giai đoạn này, giá trị sản xuất công nghiệp có sự phát triển liên tục, năm sau cao hơn năm trước ở cả công nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh. Xét về cơ cấu, giai đoạn 1976 - 1980 có sự khác biệt với giai đoạn 1981 - 1985. Có thể thấy, giai đoạn 1976 - 1980, công nghiệp quốc doanh chiếm trên 60%, công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm dưới 40%, đến giai đoạn 1981 - 1985, công nghiệp quốc doanh vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn, nhưng giảm xuống dưới 60%, trong khi công nghiệp ngoài quốc doanh vươn lên trên 40%. Cơ cấu giữa công nghiệp trung ương và công nghiệp địa phương cũng có sự thay đổi mạnh mẽ. Giai đoạn 1976 - 1980, công nghiệp trung ương chiếm trên 40% và công nghiệp địa phương chiếm trên 50%; đến giai đoạn 1981 - 1985, khoảng cách này giãn rộng ra, công nghiệp trung ương giảm xuống dưới 40%, còn công nghiệp địa phương chiếm trên 60%.

Thành tựu những năm 1981 - 1985 là kết quả của sự đầu tư cơ sở vật chất trong suốt 10 năm, đặc biệt trong kế hoạch 5 năm lần thứ III đã “hoàn thành mấy trăm công trình tương đối lớn và hàng nghìn công trình vừa và nhỏ, trong đó có một số cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, ximăng, cơ khí, dệt, đường, thủy lợi, giao thông...”4, cộng hưởng với những cải cách quản lý kinh tế, tuy có phần dè dặt, khởi đầu từ Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (năm 1979) mở ra những cải tiến quản lý trong khu vực công nghiệp theo Quyết định số 25-CP, 26-CP ngày 21/01/1981 của Hội đồng Chính phủ và Quyết định số 146-HĐBT ngày 25/8/1982 của Hội đồng Bộ trưởng, đã phát huy mạnh mẽ quyền chủ động sản xuất - kinh doanh và quyền tự chủ tài chính của xí nghiệp, làm cho các xí nghiệp quốc doanh trở nên năng động, sản xuất công nghiệp được “bung ra”, cơ cấu công nghiệp được điều chỉnh theo hướng đẩy mạnh hơn các ngành Công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng.

bảng 38


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr. 524.

2. Xem Bộ Công nghiệp: 60 năm Công nghiệp Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2005, tr.103.

3. Xem Bộ Công Thương: Sơ lược Lịch sử ngành Công Thương Việt Nam, Sđd, tr. 197.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr. 348.

4. Cải tiến quản lý công nghiệp

Báo cáo về tình hình công nghiệp tiêu dùng và công nghiệp địa phương, tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IV họp từ ngày 15/8 đến ngày 23/8/1979, lần đầu tiên đề cập đến quyền chủ động của cơ sở, đến thành phần kinh tế cá thể, đến sản xuất bung ra: “mở rộng quyền chủ động hợp lý của các ngành, các địa phương và cơ sở (kể cả quốc doanh, tập thể và cá thể) trong sản xuất, kinh doanh nhằm làm cho sản xuất “bung ra” để có nhiều hàng hóa cho xã hội”1.

bí thư Nguyễn Văn Linh

Tiếp đó, tại Đề cương kết luận Hội nghị Trung ương 6 khóa IV nêu tinh thần kết hợp ba lợi ích Nhà nước, tập thể và người lao động. Hội nghị Trung ương 6 cũng ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về hàng công nghiệp tiêu dùng và công nghiệp địa phương, khẳng định: “Phải tận dụng các thành phần kinh tế: quốc doanh, công tư hợp doanh, tập thể, cá thể, kể cả tư sản được kinh doanh hợp pháp”2.

Sau đó, ngày 21/01/1981, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 25-CP về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất, kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. Theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa IV, ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước giao, Chính phủ khuyến khích xí nghiệp chủ động tiếp cận thị trường, đa dạng hóa sản xuất, phát triển thêm sản phẩm chính, sản phẩm phụ và dịch vụ công nghiệp. Kế hoạch mới là sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường, gồm ba phần: Kế hoạch A: thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh do Nhà nước quyết định và được Nhà nước đảm bảo cung cấp các yếu tố đầu vào, sản phẩm làm ra phải bán cho Nhà nước theo giá quy định; Kế hoạch B: do xí nghiệp tự lo vật tư để tận dụng khai thác các năng lực sản xuất của mình (như máy móc, nhà xưởng và lao động), sản phẩm làm ra phải bán cho Nhà nước, nhưng giá thành được tính theo giá mua vật tư, nên lợi nhuận định mức được tăng lên gấp 2 - 4 lần so với định mức lợi nhuận của kế hoạch A; Kế hoạch C: kế hoạch sản xuất phụ do xí nghiệp tự tổ chức làm thêm để tận dụng lao động và cải thiện thu nhập cho công nhân, không nằm trong nhiệm vụ sản xuất được giao, sản phẩm làm ra được quyền tiêu thụ trên thị trường. Trong phân phối lợi nhuận, đối với kế hoạch B: nộp vào ngân sách nhà nước 20%; 80% còn lại được sử dụng cho quỹ phát triển sản xuất, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi tập thể. Đối với kế hoạch C: 15% lợi nhuận nộp vào ngân sách nhà nước, xí nghiệp được sử dụng 85%, trong đó sử dụng cho quỹ phát triển sản xuất, quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi tập thể theo tỷ lệ do giám đốc xí nghiệp bàn bạc thỏa thuận với công đoàn để quyết định.

Cũng trong ngày 21/01/1981, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng các hình thức tiền thưởng trong đơn vị sản xuất, kinh doanh của Nhà nước nhằm bảo đảm sự thống nhất giữa ba loại lợi ích: lợi ích của Nhà nước, lợi ích của đơn vị cơ sở, lợi ích của cá nhân người lao động; đặc biệt chú ý đến lợi ích chính đáng của người lao động để khuyến khích sản xuất.

Tiếp đó, ngày 25/8/1982, Hội đồng Bộ trưởng có Quyết định số 146-HĐBT sửa đổi, bổ sung Quyết định số 25-CP ngày 21/01/1981 theo hướng tăng thêm quyền chủ động của các xí nghiệp quốc doanh, trên ba lĩnh vực.

Đối với vật tư: “Các xí nghiệp không được Nhà nước cung ứng đủ vật tư chủ yếu thì được quyền chủ động tìm thêm vật tư, nguyên liệu từ các nguồn khác nhau, kể cả vay ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước để nhập nguyên liệu, phụ tùng”.

phân xưởng máy khâu

Tổng Bí thư Lê Duẩn thăm phân xưởng sản xuất của Xí nghiệp Sản xuất máy khâu Thăng Long, năm 1982 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Đối với kế hoạch: “Xí nghiệp được xây dựng thêm phần kế hoạch bổ sung trên cơ sở tự tìm kiếm vật tư để sản xuất ra những sản phẩm chính hoặc sản phẩm do khách hàng gia công đặt hàng hoặc mở rộng thêm các công việc có tính chất công nghiệp”.

Đối với tiêu thụ sản phẩm: “Với hàng tiêu dùng thuộc sản phẩm phụ mà các tổ chức thương nghiệp quốc doanh không nhận tiêu thụ thì xí nghiệp được tự tổ chức tiêu thụ theo giá đã đăng ký và được duyệt, nhưng phải nộp thuế cho Nhà nước”.

Các quyết định trên đã góp phần làm giảm bớt sự tập trung quan liêu bao cấp trong cơ chế quản lý nhà nước đối với các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, tạo điều kiện cho sự “bung ra” mạnh mẽ của sản xuất. Điều quan trọng là từ đây đã gợi mở ra hướng đổi mới không chỉ trong công tác kế hoạch hóa, mà cả trong các lĩnh vực giá cả, lợi nhuận, các biện pháp khuyến khích vật chất trong cơ chế quản lý kinh tế công nghiệp quốc doanh giai đoạn tiếp theo.

Chiến dịch 62 triệu bao thuốc lá trong một tháng

Những năm 1978 - 1980, Xí nghiệp Liên hiệp Thuốc lá miền Nam vô cùng thiếu thốn nguyên liệu. Xí nghiệp phải tổ chức cho công nhân đi trồng thuốc lá và đến tận nơi cùng thu hoạch, phơi sấy. Khó khăn đủ thứ, đến năm 1980, nhà máy chỉ hoạt động cầm chừng. Tới tháng 11 mà mới đạt 60% kế hoạch năm, còn thiếu 62 triệu bao.

Ngày 29/11/1980, ông Võ Văn Kiệt lúc đó là Bí thư Thành ủy đã trực tiếp xuống Nhà máy nắm tình hình. Sau khi nghe báo cáo tình hình thực tế, ông cho phép Xí nghiệp thay đổi cơ chế điều hành sản xuất. Tất cả các khâu quản lý mang tính chất hành chính trung gian, làm chậm tiến trình sản xuất được xóa bỏ; đồng thời đề nghị các ngành này phải ưu tiên giải quyết ngay những vướng mắc, tạo điều kiện cho xí nghiệp thực hiện chiến dịch sản xuất 62 triệu bao thuốc lá trong tháng 12/1980.

Ngày 29/11/1980, Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt đã trực tiếp đến phát động chiến dịch một tháng sản xuất 62 triệu bao thuốc lá. Ông nói: “Phải kịp thời phát huy khí thế lao động vừa mới bùng lên và những chuyển biến tích cực trong cán bộ, công nhân. Lấy tháng 12 làm cao điểm. Làm sao cho sản lượng tháng 12 đạt được 62 triệu bao thuốc lá còn lại của kế hoạch năm, để bù đắp những tháng qua không sản xuất...”. Ông cũng hứa sẽ góp phần tháo gỡ kịp thời những khó khăn của xí nghiệp như vật tư, xăng dầu, giấy, bao bì, tiền mặt và phương tiện đưa rước công nhân. Ông căn dặn cán bộ và công nhân xí nghiệp trong chiến dịch này phải coi sản xuất như chiến đấu ở mặt trận. Đồng thời, ông triệu tập cuộc họp chỉ đạo bên Xí nghiệp Giấy Tân Mai cung cấp giấy, Nhà in Liksin in nhãn, Sở Thương mại thì giúp bữa ăn cho công nhân. Suốt tháng 12 đó, máy chạy liên tục không ngừng, đúng ngày 31/12/1980 thì bao thuốc lá thứ 62 triệu ra đời, hoàn thành kế hoạch năm.

Sau chiến dịch ấy, Xí nghiệp bắt đầu tính tiền lương theo đơn vị sản phẩm, bữa ăn công nhân cũng được tính toán lại, nhờ vậy họ hăng say làm việc, năng suất tăng. Đời sống công nhân được cải thiện, Công ty cũng có tiền để chủ động nhập nguyên - phụ liệu. Cũng vào thời kỳ này, Thành phố Hồ Chí Minh đã kiến nghị Trung ương cho các xí nghiệp xuất nhập khẩu được trực tiếp giao dịch với khách hàng sau khi hoàn thành chỉ tiêu xuất đại ngạch cho Trung ương theo kế hoạch.

Nguồn: Báo Người lao động.

Mặc dù vậy, sau một thời gian thực hiện, nhiều vấn đề trong quyền tự chủ của xí nghiệp vẫn chưa được bảo đảm, nên Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa V (tháng 7/1984) đã chỉ rõ tác hại của tệ quan liêu, bao cấp, bảo thủ, trì trệ trong cơ chế quản lý kinh tế và tình trạng cục bộ. Cơ chế quản lý còn mang nặng tính chất quan liêu, bao cấp; còn nhiều gò bó với cơ sở và địa phương, chưa phát huy mạnh mẽ tính chủ động, sáng tạo của cơ sở và địa phương; hạch toán kinh tế mang tính chất hình thức, không phản ánh đúng thực chất hiệu quả của sản xuất - kinh doanh; nhiều chính sách, nhất là các chính sách giá, lương, tài chính, tín dụng... mang nặng tính chất bao cấp, cứng nhắc; không phù hợp với thực tế, chưa gắn trách nhiệm với quyền hạn, nghĩa vụ với lợi ích của người lao động, cũng như của từng đơn vị, từng ngành, từng địa phương.

Trên cơ sở nhận định ấy, Nghị quyết Trung ương 6 khóa V quyết định cải tiến quản lý kinh tế theo hai hướng: Thứ nhất, sắp xếp và tổ chức lại sản xuất. Theo đó, các bộ, địa phương cùng với cơ sở sắp xếp lại các xí nghiệp quốc doanh trung ương và địa phương, nhằm khắc phục tình trạng phân tán, chia cắt và chồng chéo. Kiện toàn các tổ chức liên hiệp sản xuất với hình thức và quy mô phù hợp với điều kiện tích tụ và chuyên môn hóa sản xuất. Thứ hai, cải tiến cơ chế quản lý các đơn vị cơ sở sản xuất trên ba mặt: (1) Về kế hoạch hóa, mở rộng quyền hạn và trách nhiệm của xí nghiệp trong xây dựng kế hoạch, bảo đảm kế hoạch thực sự được xây dựng từ cơ sở. (2) Về cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm, phải bảo đảm cung ứng vật tư, năng lượng cho xí nghiệp, đồng thời, xí nghiệp phải giao nộp sản phẩm đầy đủ theo kế hoạch, nếu tổ chức tiêu thụ không nhận theo đúng hợp đồng thì xí nghiệp có quyền bán cho những cơ quan, xí nghiệp khác. (3) Về chế độ tự chủ tài chính, khi giao nộp sản phẩm, xí nghiệp được thanh toán bằng giá bán buôn xí nghiệp, có lợi nhuận thỏa đáng; để lại cho xí nghiệp một phần quỹ khấu hao cơ bản và tỷ lệ lợi nhuận cao hơn để xí nghiệp có khả năng khôi phục tài sản cố định, tiến hành đầu tư chiều sâu và bổ sung vốn lưu động.

Thời kỳ này, Nhà nước đã tiến hành tổ chức lại sản xuất công nghiệp, thành lập nhiều công ty và liên hiệp xí nghiệp trong các ngành công nghiệp. Các xí nghiệp quốc doanh đã được giao thêm quyền tự chủ và nhận được các khuyến khích vật chất nhiều hơn; đồng thời Nhà nước cũng có thái độ cởi mở hơn đối với doanh nghiệp tư nhân và tự do hóa sản xuất, thị trường. Việc ban hành Điều lệ Xí nghiệp mới có tác dụng mở rộng trách nhiệm, quyền hạn tự chủ sản xuất - kinh doanh cho các đơn vị cơ sở. Nhiều địa phương cũng đã giới thiệu mặt hàng mới và nơi giao dịch để các xí nghiệp có thể trao đổi vật tư, thiết bị thừa không dùng đến và biết được các khả năng hợp tác sản xuất của nhau.


1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.40, tr. 265, 381.

Danh mục

Tùy chỉnh