3. Sự phát triển một số ngành công nghiệp chủ yếu

a) Ngành khí

Đây giai đoạn sắp xếp lại, đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản phẩm ngành khí nhằm phục vụ nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp chế biến vận tải; bảo đảm dịch vụ sửa chữa. Nhanh chóng khắc phục tình trạng phân tán của ngành khí bằng cách sắp xếp, tổ chức lại sản xuất trong cả nước trên sở quy hoạch, phân công, hợp tác giữa các doanh nghiệp khí để đáp ứng những nhu cầu cấp bách về sửa chữa trang bị công cụ, một phần máy móc, thiết bị phụ tùng thông thường cho các ngành, các địa phương, trước hết sản xuất nông cụ, máy kéo máy nông nghiệp theo sau máy kéo, máy bơm thủy lợi các loại, bơm thuốc trừ sâu; thiết bị chế biến nông sản cỡ vừa nhỏ, v.v..

nông dân Vĩnh Phúc

Nông dân tỉnh Vĩnh Phúc sử dụng máy tuốt lúa để nâng cao năng suất thu hoạch (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

khí được giao nhiệm vụ ngành chủ lực thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng gắn với sản xuất lớn, gắn với công nghiệp chế biến thị trường; trước hết đẩy mạnh giới hóa, thủy lợi hóa, phát triển công nghệ sau thu hoạch trong các khâu sản xuất chế biến nông sản nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả trên một hécta canh tác, tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường.

Nhìn vào tốc độ tăng trưởng của một số sản phẩm khí phục vụ canh tác chế biến nông sản, ta sẽ thấy hơn công năng phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của ngành này. Động diesel từ 5,3 nghìn chiếc năm 1985 tăng lên 8 nghìn chiếc năm 1995. Tương tự như vậy, máy tuốt lúa tăng từ 19,6 nghìn cái lên 36,3 nghìn cái; máy xay xát tăng từ 1,19 nghìn cái lên 2,04 nghìn cái; nông cụ cầm tay tăng từ 13,3 triệu cái lên 16,5 triệu cái... Với sự phát triển của khí, sản lượng một số loại nông sản chế biến tăng nhanh trong giai đoạn 1985 - 1995. Cụ thể, gạo, ngô xay xát tăng từ 6,2 triệu tấn lên 15,6 triệu tấn; đường tinh luyện tăng từ 46,6 nghìn tấn lên 93 nghìn tấn; dầu thực vật tăng từ 19,1 nghìn tấn lên 38,6 nghìn tấn; chè tăng từ 20,5 nghìn tấn lên 24,2 nghìn tấn...

b) Ngành Điện

Chính phủ đã dành nhiều vốn đầu để xây dựng hoàn thành nhiều công trình quan trọng:

- Nhà máy Thủy điện Hòa Bình hoàn thành năm 1994 công suất lắp máy 1.920 MW, lớn nhất Việt Nam Đông Nam Á đến năm 2012, khi Nhà máy Thủy điện Sơn La công suất 2.400 MW được xây dựng.

- Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại hoàn thành đưa vào vận hành năm 1986, công suất thiết kế 440 MW bao gồm 4 tổ tuốcbin - máy phát 8 hơi theo khối 2 lò/máy, mỗi tổ máy công suất 110 MW. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, sự đóng góp điện năng kịp thời hòa vào hệ thống lưới điện quốc gia của Nhà máy rất quan trọng, thời gian đó chúng ta thiếu điện trầm trọng cho sản xuất - kinh doanh sinh hoạt. Nhiệt điện Phả Lại được coi như một “cứu tinh” đối với ngành Điện miền Bắc, cho đến khi Thủy điện Hòa Bình vận hành đầy đủ 8 tổ máy.

- Đường dây 500 kV Bắc - Nam tổng chiều dài 1.487 km, gồm 3.437 cột điện tháp sắt đi qua 13 tỉnh thành phố gồm Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng (nay tỉnh Quảng Nam thành phố Đà Nẵng), Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Sông (nay các tỉnh Bình Phước, Bình Dương), Thành phố Hồ Chí Minh; trong đó qua vùng đồng bằng 297 km (chiếm 20%), trung du - cao nguyên 669 km (chiếm 45%), núi cao, rừng rậm 521 km (chiếm 35%) với 8 lần vượt sông (sông Đà, sông Mã, sông Lam, sông La, sông Gianh, sông Thạch Hãn, sông Hương, sông Sài Gòn) 17 lần vượt quốc lộ. Công trình phát lệnh khởi công ngày 05/4/1992, nghiệm thu đóng điện tháng 5/1994. Thời điểm này, Việt Nam đã xây dựng xong Trung tâm Điều độ Hệ thống điện quốc gia. Ngày 27/5/1994, Trung tâm Điều độ Hệ thống điện quốc gia đã phát lệnh hòa hệ thống điện miền Nam với 4 tổ máy của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình qua đường dây 500 kV. Về mặt kỹ thuật, đường dây 500 kV Bắc - Nam mạch 1 hợp nhất hệ thống điện 3 miền (trước đây vận hành độc lập với nhau), nhờ đó tăng cường được sự hỗ trợ qua lại thế mạnh của hệ thống điện giữa các miền, tăng tính ổn định độ tin cậy chung của toàn hệ thống.

Phả Lại 1986 Tổ máy số 4 Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại chính thức phát điện từ cuối năm 1986 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Ngoài nguồn điện từ miền Bắc vào qua đường dây 500 kV mạch 1, một công việc cấp bách bảo đảm điện cho các tỉnh Khu V Tây Nguyên thông qua đẩy nhanh xây dựng những sở điện mới đã được xác định, đồng thời tăng thêm dầu phụ tùng để sử dụng tốt hơn những sở điện hiện có. miền Nam, với sự hỗ trợ về tài chính công nghệ của Liên Xô, Nhà máy Thủy điện Trị An đã phát điện tổ máy số 1 ngày 30/4/1988 khánh thành năm 1991. Nhà máy 4 tổ máy, với tổng công suất thiết kế 400 MW, sản lượng điện trung bình hằng năm 1,7 tỉ kWh.

Một hướng quan trọng khác bằng khả năng của Trung ương địa phương, Nhà nước nhân dân, nhiều trạm thủy điện nhỏ được xây dựng các vùng, nhất Tây Nguyên miền núi phía Bắc để giải quyết nguồn điện tại chỗ, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của đồng bào các dân tộc. Đi đôi với nguồn điện, đã xây dựng kịp thời đồng bộ các hệ thống lưới điện, từ cao thế đến trung thế hạ thế. Hoàn thành cải tạo lưới điện Nội, Hải Phòng; tăng thêm nguồn điện lưới điện cho đồng bằng sông Cửu Long; tiến hành chuẩn bị cải tạo lưới điện Thành phố Hồ Chí Minh các thành phố khác khi điều kiện. Cải tiến việc phân phối sử dụng điện, nhằm trước hết bảo đảm một cách ổn định nhu cầu của các trọng điểm về kinh tế hội.

Chuyện làm đường dây 500 kV

GS.VS.TSKH. Trần Đình Long kể: Đầu năm 1992, Tổng thư Đỗ Mười thư Thành ủy Nội Phạm Thế Duyệt đến thăm nhà, Tổng thư nói: “Tôi vừa đi thăm Thành phố Hồ Chí Minh, tình hình cấp điện thật tồi tệ, mỗi tuần thành phố bị cắt điện 4 đến 5 ngày, trong khi Nhà máy Thủy điện Hòa Bình thừa điện phải xả nước, thật lý. Phải xây dựng công trình tải điện để đưa điện từ Hòa Bình vào miền Trung miền Nam càng sớm càng tốt”.

Nhưng nhiều người băn khoăn về tính khả thi hiệu quả kinh tế, thời gian dự kiến hoàn thành công trình quá ngắn so với kinh nghiệm thực tế của thế giới, mức độ an toàn của công trình nhìn từ góc độ hội thể gây lo lắng nhiều vùng tình hình an ninh phức tạp, nơi đường dây đi quá gần với biên giới các nước láng giềng... Tất cả những khó khăn trên được báo cáo phân tích chi tiết, đầy đủ với Thủ tướng Văn Kiệt. Thủ tướng nói: “Nhiệm vụ của các anh phải chứng minh chịu trách nhiệm về tính khả thi của công trình, những việc khác như tiền nong, nhân lực, các vấn đề về hội đã Chính phủ lo”.

Để công trình hoàn thành với thời hạn kỷ lục 2 năm, các khâu lập luận chứng kinh tế - kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật, chào thầu, chọn nhà thầu... đều làm song song, vừa làm vừa nghiên cứu, bổ sung. Mặc vậy, công trình được hoàn thành với chất lượng tốt.

Nguồn: Tạp chí Điện Đời sống.

đường dây 500kV Thủ tướng Văn Kiệt thăm đường dây tải điện 500 kV Bắc - Nam (Ảnh: Nguyễn Công Thành)

c) Ngành Than

Bước vào công cuộc đổi mới cho đến những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, ngành Than phải đối mặt với những khó khăn, thách thức gay gắt, như: nạn khai thác than trái phép phát triển tràn lan, làm tài nguyên môi trường vùng mỏ bị hủy hoại nghiêm trọng, trật tự an toàn hội diễn biến phức tạp...; nhiều đơn vị sản xuất than phải thu hẹp sản xuất, giảm đào lò, giảm bóc đất, công nhân thiếu việc làm, thu nhập đời sống khó khăn. Dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của ngành Than khi Tổng Công ty Than Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 563/TTg ngày 10/10/1994 của Thủ tướng Chính phủ; ngành Than đã từng bước tháo gỡ khó khăn, xây dựng mục tiêu chiến lược đúng đắn cho sự phát triển, từ đó, đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Sản lượng khai thác lên xuống qua các năm: Năm 1985 khai thác 5,7 triệu tấn, tăng lên 6,9 triệu tấn năm 1988, giảm mạnh xuống 3,8 triệu tấn năm 1989, phục hồi dần từ năm 1990 với 4,6 triệu tấn, tăng dần lên 7,2 triệu tấn năm 1995.

d) Ngành Dầu khí

Trong 10 năm (1986 - 1995), ngành Dầu khí nhiều thay đổi về mặt tổ chức khai thác:

- Ngày 26/6/1986 đánh dấu bước đột phá hợp tác toàn diện với Liên về dầu khí với tấn dầu thô đầu tiên được nghiệp Liên doanh Vietsovpetro khai thác từ mỏ Bạch Hổ.

- Luật đầu nước ngoài năm 1987 đã tạo điều kiện để các công ty dầu khí nước ngoài thể đầu vào Việt Nam với các hợp đồng kinh tế đa dạng.

- Ngày 07/7/1988, Bộ Chính trị Nghị quyết số 15-NQ/TW về phương hướng phát triển ngành Dầu khí đến năm 2000, đã khai thông con đường hợp tác đa phương với Liên các đối tác nước ngoài khác. Từ đó, các công ty dầu khí quốc tế bắt đầu hoạt động thông qua Hợp đồng chia sản phẩm dầu khí (PSC). Một trong những thành tựu của ngành phát hiện khai thác hiệu quả thân dầu trong đá móng granitoid nứt nẻ. Thành tựu này đã làm thay đổi quan điểm về tìm kiếm thăm dầu khí trong đá móng Việt Nam, trong khu vực trên thế giới.

- Ngày 06/7/1990, Hội đồng Bộ trưởng Quyết định số 250/HĐBT thành lập Tổng Công ty Dầu mỏ Khí đốt, trên sở hợp nhất các tổ chức làm công tác dầu khí thuộc Tổng cục Dầu khí cũ, tổ chức sản xuất - kinh doanh cách pháp nhân, hạch toán kinh tế, được sử dụng con dấu riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng, trách nhiệm nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến, xuất, nhập khẩu, tổ chức tiêu thụ trên thị trường nội địa các sản phẩm dầu mỏ khí đốt. Thời kỳ này, Tổng Công ty Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam chịu sự quản nhà nước trực tiếp của Bộ Công nghiệp nặng.

dòng khí 1995 Lễ đón dòng khí đầu tiên vào bờ, ngày 17/4/1995 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

- Ngày 14/4/1992, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 125/HĐBT về việc đặt Tổng Công ty Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng.

- Ngày 06/7/1993, Quốc hội ban hành Luật dầu khí, nhằm bảo vệ, khai thác sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên dầu khí, phát triển kinh tế quốc dân, mở rộng hợp tác với nước ngoài. Luật quy định về hoạt động tìm kiếm thăm khai thác dầu khí trong phạm vi lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa của nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Ngày 17/4/1995, khí đồng hành thu gom từ mỏ Bạch Hổ đã được vận chuyển vào bờ, đưa đến trạm phân phối khí Rịa cung cấp khí cho Nhà máy Điện Rịa. Đây công trình đầu tiên Việt Nam được thực hiện theo thông lệ quốc tế kinh nghiệm thực tế từ dự án này đã góp phần to lớn vào việc hình thành phương thức quản các dự án tiếp theo của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam nói riêng, cũng như việc xây dựng các quy chế, quy định luật về xây dựng đấu thầu của Việt Nam nói chung.

- Ngày 29/5/1995, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam được thành lập, trên sở tổ chức, sắp xếp lại Tổng Công ty Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam, tổng công ty nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập; nhiệm vụ nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến, tàng trữ, vận chuyển, làm dịch vụ về dầu khí; xuất, nhập khẩu vật tư, thiết bị dầu khí, dầu thô, các sản phẩm dầu khí; lưu thông các sản phẩm dầu khí... Tổng Công ty được tiến hành các hoạt động dầu khí trên toàn bộ lãnh thổ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa hải đảo thuộc chủ quyền nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam được tiến hành các hoạt động dầu khí nước ngoài khi Chính phủ cho phép.

Sản lượng khai thác tăng trưởng liên tục, từ 0,04 triệu tấn năm 1986 lên 2,7 triệu tấn năm 1990 7,67 triệu tấn năm 1995.

đ) Ngành Luyện kim

Về kim loại màu, đã khai thác tốt các mỏ thiếc hiện có, hoàn thành xây dựng đợt I Liên hiệp Thiếc Quỳ Hợp, mở rộng diện khai thác thiếc sa khoáng quy nhỏ bằng kỹ thuật thủ công nửa giới. Theo kế hoạch hợp tác với các nước hội chủ nghĩa, đẩy mạnh thăm địa chất các mỏ bôxít miền Nam, hoàn thành luận chứng kinh tế - kỹ thuật chuẩn bị khai thác vào kế hoạch sau. Xây dựng đưa vào vận hành nghiệp khai thác tuyển luyện chì, kẽm; nghiên cứu khai thác quặng đồng tổ chức tuyển luyện với quy nhỏ. Năm 1986: Khởi công công trình sắt xốp công suất 22.000 tấn/năm; năm 1989, lần đầu tiên xuất khẩu thép sang thị trường các nước Đông Nam Á.

mỏ thiếc Quỳ Hợp Chuyên gia Liên làm việc tại mỏ thiếc Quỳ Hợp (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

e) Ngành Hóa chất

Giai đoạn 1986 - 1990, việc Nhà nước điều chỉnh mục tiêu theo hướng đẩy mạnh đầu cho 3 chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu, đã mang lại hội cho công nghiệp hóa chất với các sản phẩm phân bón, thuốc trừ sâu... phát triển mở rộng thị trường. Tuy nhiên, do điểm xuất phát tương đối thấp, tốc độ tăng trưởng của ngành đạt mức độ vừa phải, khoảng 6% mỗi năm.

Thời kỳ kế hoạch 5 năm 1991 - 1995, Bộ Công nghiệp nặng được thành lập lại trên sở chế quản mới. Nhà nước đã thành lập hai tổng công ty (Tổng Công ty Phân bón Hóa chất, Tổng Công ty Hóa chất công nghiệp Tiêu dùng), quản các doanh nghiệp thuộc Tổng cục Hóa chất. Ngành Công nghiệp hóa chất đạt tốc độ tăng trưởng cao, bình quân đạt mức gần 20%/năm. Công nghiệp địa phương chiếm tỷ trọng xấp xỉ 57% tổng giá trị sản lượng toàn ngành; trong đó các doanh nghiệp quốc doanh địa phương khoảng 31%. Khu vực ngoài quốc doanh đã phát triển nhanh, chiếm tỷ trọng tới trên 1/4 giá trị tổng sản lượng năm 1995 của toàn ngành.

Mặc khu vực ngoài quốc doanh phát triển mạnh, đặc biệt các doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài, nhưng các doanh nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo, chiếm tỷ trọng 74,4%, trong đó 2 tổng công ty hóa chất chiếm 43%.

f) Ngành Dệt may, Da giày

Cho đến nửa cuối những năm 1980, ngành Dệt may Việt Nam chỉ quan hệ chủ yếu với các nước hội chủ nghĩa nên phần lớn sản phẩm dệt may được tiêu thụ trong nước xuất khẩu sang các nước Đông Âu. Với Liên Xô, theo Hiệp định Việt Nam với Liên ngày 19/5/1980, mỗi năm Liên cung cấp cho Việt Nam 6 vạn tấn bông, một nửa giá trị số bông đó Việt Nam trả bằng sản phẩm may mặc, chủ yếu quần áo bảo hộ lao động; một nửa số bông còn lại chính tiền công, được dùng may mặc phục vụ nhu cầu nội địa, trong đó cả lực lượng trang. Mặc gặp nhiều khó khăn như sản xuất quy nhỏ, công nghệ lạc hậu, hệ thống quản yếu kém, thiếu vốn,... nhưng việc ban hành Luật đầu nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã giúp mở cửa thị trường, kích cầu kinh tế, giúp cho ngành Dệt may được tiếp cận với những công nghệ mới, phát triển vượt bậc mở rộng thị trường xuất khẩu.

Tuy nhiên, phải đến khi Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 114/HĐBT ngày 07/4/1992 về quản nhà nước đối với xuất, nhập khẩu, theo đó cho phép doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được quyền xuất, nhập khẩu; mọi hàng hóa (trừ danh mục hàng hóa do nhà nước quản lý) được xuất, nhập khẩu; cùng với việc Việt Nam EU kết Hiệp định Buôn bán hàng dệt may, thì ngành này tăng trưởng mạnh mẽ, kim ngạch xuất khẩu hằng năm tăng trên 20%.

Đối với ngành Da giày, Việt Nam chủ yếu thực hiện chương trình gia công giầy cho Liên cũ. Khi chế độ hội chủ nghĩa Liên sụp đổ, ngành Da giày đối mặt với cuộc khủng hoảng do không thị trường, nguồn nguyên liệu. Từ năm 1993, ngành Da giày đã khởi sắc trở lại nhờ làn sóng di chuyển sản xuất từ các nước công nghiệp phát triển các nước công nghiệp mới sang các nước đang phát triển. Ngành Da giày Việt Nam bắt đầu tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ từ các nước thông qua đầu FDI, cùng với đó sự dịch chuyển các đơn đặt hàng từ Đài Loan, Hàn Quốc sang Việt Nam. Xuất khẩu sản phẩm da giày đạt được tốc độ tăng trưởng cao, giai đoạn 1993 - 1995 đạt hơn 20%/năm. Ngày 17/7/1995, Việt Nam Liên minh châu Âu (EU) kết Hiệp định khung về hợp tác (FCA), tạo điều kiện cho kim ngạch mặt hàng này sang EU tăng nhanh trong giai đoạn sau. Năm 1995 đạt trên 480 triệu USD, đến năm 1999 đã tăng hơn gấp đôi, đạt trên 1,3 tỉ USD.

Chiến lược tăng tốc dệt may

Năm 1991, khi Liên các nước hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, nhiều doanh nghiệp dệt may gặp khủng hoảng chưa thích ứng được với vấn đề tự tìm kiếm khách hàng.

Nhưng năm 1992, Việt Nam EU kết Hiệp định Buôn bán hàng dệt may; đồng thời Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 114/HĐBT cho phép doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được quyền xuất, nhập khẩu; cho phép mọi hàng hóa (trừ danh mục hàng hóa do Nhà nước quản lý) được xuất, nhập khẩu. Nghị định số 114/HĐBT Hiệp định Buôn bán hàng dệt may đã “chắp cánh” sản xuất xuất khẩu. Năm 1995, với việc thành lập Tổng Công ty Dệt may Việt Nam, đã mở đường cho sự ra đời của Chiến lược phát triển toàn ngành; tăng tốc đầu trang thiết bị hiện đại, tạo bước nhảy vọt về chất lượng, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu tiêu dùng trong nước.

Kết quả, chỉ trong 8 năm, kim ngạch xuất khẩu dệt may tăng gấp 12 lần, từ 158 triệu USD năm 1992 lên 1,9 tỉ USD năm 2000.

3. Sự phát triển một số ngành công nghiệp chủ yếu

a) Ngành khí

Đây giai đoạn sắp xếp lại, đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản phẩm ngành khí nhằm phục vụ nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp chế biến vận tải; bảo đảm dịch vụ sửa chữa. Nhanh chóng khắc phục tình trạng phân tán của ngành khí bằng cách sắp xếp, tổ chức lại sản xuất trong cả nước trên sở quy hoạch, phân công, hợp tác giữa các doanh nghiệp khí để đáp ứng những nhu cầu cấp bách về sửa chữa trang bị công cụ, một phần máy móc, thiết bị phụ tùng thông thường cho các ngành, các địa phương, trước hết sản xuất nông cụ, máy kéo máy nông nghiệp theo sau máy kéo, máy bơm thủy lợi các loại, bơm thuốc trừ sâu; thiết bị chế biến nông sản cỡ vừa nhỏ, v.v..

nông dân Vĩnh Phúc

Nông dân tỉnh Vĩnh Phúc sử dụng máy tuốt lúa để nâng cao năng suất thu hoạch (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

khí được giao nhiệm vụ ngành chủ lực thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng gắn với sản xuất lớn, gắn với công nghiệp chế biến thị trường; trước hết đẩy mạnh giới hóa, thủy lợi hóa, phát triển công nghệ sau thu hoạch trong các khâu sản xuất chế biến nông sản nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả trên một hécta canh tác, tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường.

Nhìn vào tốc độ tăng trưởng của một số sản phẩm khí phục vụ canh tác chế biến nông sản, ta sẽ thấy hơn công năng phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của ngành này. Động diesel từ 5,3 nghìn chiếc năm 1985 tăng lên 8 nghìn chiếc năm 1995. Tương tự như vậy, máy tuốt lúa tăng từ 19,6 nghìn cái lên 36,3 nghìn cái; máy xay xát tăng từ 1,19 nghìn cái lên 2,04 nghìn cái; nông cụ cầm tay tăng từ 13,3 triệu cái lên 16,5 triệu cái... Với sự phát triển của khí, sản lượng một số loại nông sản chế biến tăng nhanh trong giai đoạn 1985 - 1995. Cụ thể, gạo, ngô xay xát tăng từ 6,2 triệu tấn lên 15,6 triệu tấn; đường tinh luyện tăng từ 46,6 nghìn tấn lên 93 nghìn tấn; dầu thực vật tăng từ 19,1 nghìn tấn lên 38,6 nghìn tấn; chè tăng từ 20,5 nghìn tấn lên 24,2 nghìn tấn...

b) Ngành Điện

Chính phủ đã dành nhiều vốn đầu để xây dựng hoàn thành nhiều công trình quan trọng:

- Nhà máy Thủy điện Hòa Bình hoàn thành năm 1994 công suất lắp máy 1.920 MW, lớn nhất Việt Nam Đông Nam Á đến năm 2012, khi Nhà máy Thủy điện Sơn La công suất 2.400 MW được xây dựng.

- Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại hoàn thành đưa vào vận hành năm 1986, công suất thiết kế 440 MW bao gồm 4 tổ tuốcbin - máy phát 8 hơi theo khối 2 lò/máy, mỗi tổ máy công suất 110 MW. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, sự đóng góp điện năng kịp thời hòa vào hệ thống lưới điện quốc gia của Nhà máy rất quan trọng, thời gian đó chúng ta thiếu điện trầm trọng cho sản xuất - kinh doanh sinh hoạt. Nhiệt điện Phả Lại được coi như một “cứu tinh” đối với ngành Điện miền Bắc, cho đến khi Thủy điện Hòa Bình vận hành đầy đủ 8 tổ máy.

- Đường dây 500 kV Bắc - Nam tổng chiều dài 1.487 km, gồm 3.437 cột điện tháp sắt đi qua 13 tỉnh thành phố gồm Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng (nay tỉnh Quảng Nam thành phố Đà Nẵng), Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Sông (nay các tỉnh Bình Phước, Bình Dương), Thành phố Hồ Chí Minh; trong đó qua vùng đồng bằng 297 km (chiếm 20%), trung du - cao nguyên 669 km (chiếm 45%), núi cao, rừng rậm 521 km (chiếm 35%) với 8 lần vượt sông (sông Đà, sông Mã, sông Lam, sông La, sông Gianh, sông Thạch Hãn, sông Hương, sông Sài Gòn) 17 lần vượt quốc lộ. Công trình phát lệnh khởi công ngày 05/4/1992, nghiệm thu đóng điện tháng 5/1994. Thời điểm này, Việt Nam đã xây dựng xong Trung tâm Điều độ Hệ thống điện quốc gia. Ngày 27/5/1994, Trung tâm Điều độ Hệ thống điện quốc gia đã phát lệnh hòa hệ thống điện miền Nam với 4 tổ máy của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình qua đường dây 500 kV. Về mặt kỹ thuật, đường dây 500 kV Bắc - Nam mạch 1 hợp nhất hệ thống điện 3 miền (trước đây vận hành độc lập với nhau), nhờ đó tăng cường được sự hỗ trợ qua lại thế mạnh của hệ thống điện giữa các miền, tăng tính ổn định độ tin cậy chung của toàn hệ thống.

Phả Lại 1986 Tổ máy số 4 Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại chính thức phát điện từ cuối năm 1986 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Ngoài nguồn điện từ miền Bắc vào qua đường dây 500 kV mạch 1, một công việc cấp bách bảo đảm điện cho các tỉnh Khu V Tây Nguyên thông qua đẩy nhanh xây dựng những sở điện mới đã được xác định, đồng thời tăng thêm dầu phụ tùng để sử dụng tốt hơn những sở điện hiện có. miền Nam, với sự hỗ trợ về tài chính công nghệ của Liên Xô, Nhà máy Thủy điện Trị An đã phát điện tổ máy số 1 ngày 30/4/1988 khánh thành năm 1991. Nhà máy 4 tổ máy, với tổng công suất thiết kế 400 MW, sản lượng điện trung bình hằng năm 1,7 tỉ kWh.

Một hướng quan trọng khác bằng khả năng của Trung ương địa phương, Nhà nước nhân dân, nhiều trạm thủy điện nhỏ được xây dựng các vùng, nhất Tây Nguyên miền núi phía Bắc để giải quyết nguồn điện tại chỗ, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của đồng bào các dân tộc. Đi đôi với nguồn điện, đã xây dựng kịp thời đồng bộ các hệ thống lưới điện, từ cao thế đến trung thế hạ thế. Hoàn thành cải tạo lưới điện Nội, Hải Phòng; tăng thêm nguồn điện lưới điện cho đồng bằng sông Cửu Long; tiến hành chuẩn bị cải tạo lưới điện Thành phố Hồ Chí Minh các thành phố khác khi điều kiện. Cải tiến việc phân phối sử dụng điện, nhằm trước hết bảo đảm một cách ổn định nhu cầu của các trọng điểm về kinh tế hội.

Chuyện làm đường dây 500 kV

GS.VS.TSKH. Trần Đình Long kể: Đầu năm 1992, Tổng thư Đỗ Mười thư Thành ủy Nội Phạm Thế Duyệt đến thăm nhà, Tổng thư nói: “Tôi vừa đi thăm Thành phố Hồ Chí Minh, tình hình cấp điện thật tồi tệ, mỗi tuần thành phố bị cắt điện 4 đến 5 ngày, trong khi Nhà máy Thủy điện Hòa Bình thừa điện phải xả nước, thật lý. Phải xây dựng công trình tải điện để đưa điện từ Hòa Bình vào miền Trung miền Nam càng sớm càng tốt”.

Nhưng nhiều người băn khoăn về tính khả thi hiệu quả kinh tế, thời gian dự kiến hoàn thành công trình quá ngắn so với kinh nghiệm thực tế của thế giới, mức độ an toàn của công trình nhìn từ góc độ hội thể gây lo lắng nhiều vùng tình hình an ninh phức tạp, nơi đường dây đi quá gần với biên giới các nước láng giềng... Tất cả những khó khăn trên được báo cáo phân tích chi tiết, đầy đủ với Thủ tướng Văn Kiệt. Thủ tướng nói: “Nhiệm vụ của các anh phải chứng minh chịu trách nhiệm về tính khả thi của công trình, những việc khác như tiền nong, nhân lực, các vấn đề về hội đã Chính phủ lo”.

Để công trình hoàn thành với thời hạn kỷ lục 2 năm, các khâu lập luận chứng kinh tế - kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật, chào thầu, chọn nhà thầu... đều làm song song, vừa làm vừa nghiên cứu, bổ sung. Mặc vậy, công trình được hoàn thành với chất lượng tốt.

Nguồn: Tạp chí Điện Đời sống.

đường dây 500kV Thủ tướng Văn Kiệt thăm đường dây tải điện 500 kV Bắc - Nam (Ảnh: Nguyễn Công Thành)

c) Ngành Than

Bước vào công cuộc đổi mới cho đến những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, ngành Than phải đối mặt với những khó khăn, thách thức gay gắt, như: nạn khai thác than trái phép phát triển tràn lan, làm tài nguyên môi trường vùng mỏ bị hủy hoại nghiêm trọng, trật tự an toàn hội diễn biến phức tạp...; nhiều đơn vị sản xuất than phải thu hẹp sản xuất, giảm đào lò, giảm bóc đất, công nhân thiếu việc làm, thu nhập đời sống khó khăn. Dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của ngành Than khi Tổng Công ty Than Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 563/TTg ngày 10/10/1994 của Thủ tướng Chính phủ; ngành Than đã từng bước tháo gỡ khó khăn, xây dựng mục tiêu chiến lược đúng đắn cho sự phát triển, từ đó, đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Sản lượng khai thác lên xuống qua các năm: Năm 1985 khai thác 5,7 triệu tấn, tăng lên 6,9 triệu tấn năm 1988, giảm mạnh xuống 3,8 triệu tấn năm 1989, phục hồi dần từ năm 1990 với 4,6 triệu tấn, tăng dần lên 7,2 triệu tấn năm 1995.

d) Ngành Dầu khí

Trong 10 năm (1986 - 1995), ngành Dầu khí nhiều thay đổi về mặt tổ chức khai thác:

- Ngày 26/6/1986 đánh dấu bước đột phá hợp tác toàn diện với Liên về dầu khí với tấn dầu thô đầu tiên được nghiệp Liên doanh Vietsovpetro khai thác từ mỏ Bạch Hổ.

- Luật đầu nước ngoài năm 1987 đã tạo điều kiện để các công ty dầu khí nước ngoài thể đầu vào Việt Nam với các hợp đồng kinh tế đa dạng.

- Ngày 07/7/1988, Bộ Chính trị Nghị quyết số 15-NQ/TW về phương hướng phát triển ngành Dầu khí đến năm 2000, đã khai thông con đường hợp tác đa phương với Liên các đối tác nước ngoài khác. Từ đó, các công ty dầu khí quốc tế bắt đầu hoạt động thông qua Hợp đồng chia sản phẩm dầu khí (PSC). Một trong những thành tựu của ngành phát hiện khai thác hiệu quả thân dầu trong đá móng granitoid nứt nẻ. Thành tựu này đã làm thay đổi quan điểm về tìm kiếm thăm dầu khí trong đá móng Việt Nam, trong khu vực trên thế giới.

- Ngày 06/7/1990, Hội đồng Bộ trưởng Quyết định số 250/HĐBT thành lập Tổng Công ty Dầu mỏ Khí đốt, trên sở hợp nhất các tổ chức làm công tác dầu khí thuộc Tổng cục Dầu khí cũ, tổ chức sản xuất - kinh doanh cách pháp nhân, hạch toán kinh tế, được sử dụng con dấu riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng, trách nhiệm nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến, xuất, nhập khẩu, tổ chức tiêu thụ trên thị trường nội địa các sản phẩm dầu mỏ khí đốt. Thời kỳ này, Tổng Công ty Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam chịu sự quản nhà nước trực tiếp của Bộ Công nghiệp nặng.

dòng khí 1995 Lễ đón dòng khí đầu tiên vào bờ, ngày 17/4/1995 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

- Ngày 14/4/1992, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 125/HĐBT về việc đặt Tổng Công ty Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng.

- Ngày 06/7/1993, Quốc hội ban hành Luật dầu khí, nhằm bảo vệ, khai thác sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên dầu khí, phát triển kinh tế quốc dân, mở rộng hợp tác với nước ngoài. Luật quy định về hoạt động tìm kiếm thăm khai thác dầu khí trong phạm vi lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa của nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Ngày 17/4/1995, khí đồng hành thu gom từ mỏ Bạch Hổ đã được vận chuyển vào bờ, đưa đến trạm phân phối khí Rịa cung cấp khí cho Nhà máy Điện Rịa. Đây công trình đầu tiên Việt Nam được thực hiện theo thông lệ quốc tế kinh nghiệm thực tế từ dự án này đã góp phần to lớn vào việc hình thành phương thức quản các dự án tiếp theo của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam nói riêng, cũng như việc xây dựng các quy chế, quy định luật về xây dựng đấu thầu của Việt Nam nói chung.

- Ngày 29/5/1995, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam được thành lập, trên sở tổ chức, sắp xếp lại Tổng Công ty Dầu mỏ Khí đốt Việt Nam, tổng công ty nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập; nhiệm vụ nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến, tàng trữ, vận chuyển, làm dịch vụ về dầu khí; xuất, nhập khẩu vật tư, thiết bị dầu khí, dầu thô, các sản phẩm dầu khí; lưu thông các sản phẩm dầu khí... Tổng Công ty được tiến hành các hoạt động dầu khí trên toàn bộ lãnh thổ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa hải đảo thuộc chủ quyền nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam được tiến hành các hoạt động dầu khí nước ngoài khi Chính phủ cho phép.

Sản lượng khai thác tăng trưởng liên tục, từ 0,04 triệu tấn năm 1986 lên 2,7 triệu tấn năm 1990 7,67 triệu tấn năm 1995.

đ) Ngành Luyện kim

Về kim loại màu, đã khai thác tốt các mỏ thiếc hiện có, hoàn thành xây dựng đợt I Liên hiệp Thiếc Quỳ Hợp, mở rộng diện khai thác thiếc sa khoáng quy nhỏ bằng kỹ thuật thủ công nửa giới. Theo kế hoạch hợp tác với các nước hội chủ nghĩa, đẩy mạnh thăm địa chất các mỏ bôxít miền Nam, hoàn thành luận chứng kinh tế - kỹ thuật chuẩn bị khai thác vào kế hoạch sau. Xây dựng đưa vào vận hành nghiệp khai thác tuyển luyện chì, kẽm; nghiên cứu khai thác quặng đồng tổ chức tuyển luyện với quy nhỏ. Năm 1986: Khởi công công trình sắt xốp công suất 22.000 tấn/năm; năm 1989, lần đầu tiên xuất khẩu thép sang thị trường các nước Đông Nam Á.

mỏ thiếc Quỳ Hợp Chuyên gia Liên làm việc tại mỏ thiếc Quỳ Hợp (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

e) Ngành Hóa chất

Giai đoạn 1986 - 1990, việc Nhà nước điều chỉnh mục tiêu theo hướng đẩy mạnh đầu cho 3 chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu, đã mang lại hội cho công nghiệp hóa chất với các sản phẩm phân bón, thuốc trừ sâu... phát triển mở rộng thị trường. Tuy nhiên, do điểm xuất phát tương đối thấp, tốc độ tăng trưởng của ngành đạt mức độ vừa phải, khoảng 6% mỗi năm.

Thời kỳ kế hoạch 5 năm 1991 - 1995, Bộ Công nghiệp nặng được thành lập lại trên sở chế quản mới. Nhà nước đã thành lập hai tổng công ty (Tổng Công ty Phân bón Hóa chất, Tổng Công ty Hóa chất công nghiệp Tiêu dùng), quản các doanh nghiệp thuộc Tổng cục Hóa chất. Ngành Công nghiệp hóa chất đạt tốc độ tăng trưởng cao, bình quân đạt mức gần 20%/năm. Công nghiệp địa phương chiếm tỷ trọng xấp xỉ 57% tổng giá trị sản lượng toàn ngành; trong đó các doanh nghiệp quốc doanh địa phương khoảng 31%. Khu vực ngoài quốc doanh đã phát triển nhanh, chiếm tỷ trọng tới trên 1/4 giá trị tổng sản lượng năm 1995 của toàn ngành.

Mặc khu vực ngoài quốc doanh phát triển mạnh, đặc biệt các doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài, nhưng các doanh nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo, chiếm tỷ trọng 74,4%, trong đó 2 tổng công ty hóa chất chiếm 43%.

f) Ngành Dệt may, Da giày

Cho đến nửa cuối những năm 1980, ngành Dệt may Việt Nam chỉ quan hệ chủ yếu với các nước hội chủ nghĩa nên phần lớn sản phẩm dệt may được tiêu thụ trong nước xuất khẩu sang các nước Đông Âu. Với Liên Xô, theo Hiệp định Việt Nam với Liên ngày 19/5/1980, mỗi năm Liên cung cấp cho Việt Nam 6 vạn tấn bông, một nửa giá trị số bông đó Việt Nam trả bằng sản phẩm may mặc, chủ yếu quần áo bảo hộ lao động; một nửa số bông còn lại chính tiền công, được dùng may mặc phục vụ nhu cầu nội địa, trong đó cả lực lượng trang. Mặc gặp nhiều khó khăn như sản xuất quy nhỏ, công nghệ lạc hậu, hệ thống quản yếu kém, thiếu vốn,... nhưng việc ban hành Luật đầu nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã giúp mở cửa thị trường, kích cầu kinh tế, giúp cho ngành Dệt may được tiếp cận với những công nghệ mới, phát triển vượt bậc mở rộng thị trường xuất khẩu.

Tuy nhiên, phải đến khi Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 114/HĐBT ngày 07/4/1992 về quản nhà nước đối với xuất, nhập khẩu, theo đó cho phép doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được quyền xuất, nhập khẩu; mọi hàng hóa (trừ danh mục hàng hóa do nhà nước quản lý) được xuất, nhập khẩu; cùng với việc Việt Nam EU kết Hiệp định Buôn bán hàng dệt may, thì ngành này tăng trưởng mạnh mẽ, kim ngạch xuất khẩu hằng năm tăng trên 20%.

Đối với ngành Da giày, Việt Nam chủ yếu thực hiện chương trình gia công giầy cho Liên cũ. Khi chế độ hội chủ nghĩa Liên sụp đổ, ngành Da giày đối mặt với cuộc khủng hoảng do không thị trường, nguồn nguyên liệu. Từ năm 1993, ngành Da giày đã khởi sắc trở lại nhờ làn sóng di chuyển sản xuất từ các nước công nghiệp phát triển các nước công nghiệp mới sang các nước đang phát triển. Ngành Da giày Việt Nam bắt đầu tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ từ các nước thông qua đầu FDI, cùng với đó sự dịch chuyển các đơn đặt hàng từ Đài Loan, Hàn Quốc sang Việt Nam. Xuất khẩu sản phẩm da giày đạt được tốc độ tăng trưởng cao, giai đoạn 1993 - 1995 đạt hơn 20%/năm. Ngày 17/7/1995, Việt Nam Liên minh châu Âu (EU) kết Hiệp định khung về hợp tác (FCA), tạo điều kiện cho kim ngạch mặt hàng này sang EU tăng nhanh trong giai đoạn sau. Năm 1995 đạt trên 480 triệu USD, đến năm 1999 đã tăng hơn gấp đôi, đạt trên 1,3 tỉ USD.

Chiến lược tăng tốc dệt may

Năm 1991, khi Liên các nước hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, nhiều doanh nghiệp dệt may gặp khủng hoảng chưa thích ứng được với vấn đề tự tìm kiếm khách hàng.

Nhưng năm 1992, Việt Nam EU kết Hiệp định Buôn bán hàng dệt may; đồng thời Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 114/HĐBT cho phép doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được quyền xuất, nhập khẩu; cho phép mọi hàng hóa (trừ danh mục hàng hóa do Nhà nước quản lý) được xuất, nhập khẩu. Nghị định số 114/HĐBT Hiệp định Buôn bán hàng dệt may đã “chắp cánh” sản xuất xuất khẩu. Năm 1995, với việc thành lập Tổng Công ty Dệt may Việt Nam, đã mở đường cho sự ra đời của Chiến lược phát triển toàn ngành; tăng tốc đầu trang thiết bị hiện đại, tạo bước nhảy vọt về chất lượng, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu tiêu dùng trong nước.

Kết quả, chỉ trong 8 năm, kim ngạch xuất khẩu dệt may tăng gấp 12 lần, từ 158 triệu USD năm 1992 lên 1,9 tỉ USD năm 2000.

2. Cải tiến quản lý công nghiệp

Những năm 1986 - 1990 là giai đoạn giao thời giữa hai cơ chế cũ và mới. Từng bộ phận của cơ chế cũ được xóa bỏ, từng bước hình thành cơ chế mới. Điều đó đã tạo ra động lực mới cho sự tăng trưởng của nền kinh tế cũng như sản xuất công nghiệp trong nửa đầu thập kỷ 1990. Sự đổi mới trong giai đoạn này chủ yếu là từng bước mở rộng quyền tự chủ cho doanh nghiệp nhà nước đi đôi với khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần.

sản xuất giấy Sản xuất giấy xuất khẩu tại Xí nghiệp Liên hợp giấy Vĩnh Phú (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Trên tinh thần đó, nhiều cơ chế, chính sách mới được xác lập, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển lực lượng sản xuất và điều chỉnh có hiệu quả cơ cấu kinh tế, cơ cấu công nghiệp. Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành các chính sách đổi mới kế hoạch hóa và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đối với xí nghiệp quốc doanh đã giao quyền tự chủ cho các xí nghiệp quốc doanh, xóa bỏ hệ thống chỉ tiêu kế hoạch, kể cả chỉ tiêu thu mua công nghiệp, chỉ để lại duy nhất hai chỉ tiêu là giá trị sản lượng và các khoản nộp ngân sách. Ngân sách cũng đã khắc phục được những bất cập của Quyết định số 76/HĐBT ngày 26/6/1986 của Hội đồng Bộ trưởng về việc ban hành các bản quy định tạm thời về bảo đảm quyền tự chủ sản xuất - kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở. Theo Quyết định số 76/HĐBT, mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh - xã hội của xí nghiệp phải được phản ánh trong một kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính - xã hội thống nhất theo kế hoạch 5 năm và kế hoạch hằng năm. Các đơn vị sản xuất quốc doanh phải lấy các định mức kinh tế - kỹ thuật được cấp có thẩm quyền quy định làm căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch, xét duyệt và hoàn thành kế hoạch. Kế hoạch toàn diện của xí nghiệp phải bao gồm các bộ phận kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; vật tư - kỹ thuật, vận tải; lao động, tiền lương; đầu tư xây dựng cơ bản; khoa học - kỹ thuật; giá thành; tài chính, tín dụng; đời sống xã hội,... được thể hiện bằng hệ thống các chỉ tiêu hiện vật và giá trị. Đối với những sản phẩm chủ yếu quy định trong nhiệm vụ của xí nghiệp và thuộc danh mục sản phẩm trọng yếu cho nhu cầu sản xuất, đời sống, quốc phòng và xuất khẩu, thì xí nghiệp phải đạt kế hoạch sản xuất theo yêu cầu của Nhà nước, Nhà nước giao nhiệm vụ sản xuất và chỉ định các tổ chức tiêu thụ, xí nghiệp cùng các tổ chức tiêu thụ được chỉ định ký hợp đồng kinh tế, xác định quy cách, chủng loại và cơ cấu mặt hàng cụ thể, thời hạn giao hàng. Ngay cả với các sản phẩm không thuộc chỉ tiêu pháp lệnh được giao, nếu xí nghiệp sản xuất bằng các nguồn vật tư tự cân đối nhưng cũng phải đăng ký mặt hàng với ngành chủ quản và báo cáo cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp. Sản phẩm do xí nghiệp sản xuất thêm phải tiêu thụ thông qua hợp đồng kinh tế ký kết với tổ chức kinh doanh vật tư hoặc thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, trước hết các tổ chức quốc doanh.

Từ khi có Quyết định số 217/HĐBT, các chỉ tiêu, kế hoạch theo Quyết định số 76/HĐBT được bãi bỏ. Xí nghiệp có quyền tự chủ xây dựng và thực hiện kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của mình, có quyền mở rộng các hoạt động giao hoặc nhận gia công cho các đơn vị khác, tổ chức dịch vụ kỹ thuật, bảo hành, sửa chữa cho các sản phẩm của mình cũng như cung ứng linh kiện thay thế cho sản phẩm do xí nghiệp làm ra. Xí nghiệp chỉ thực hiện nhiệm vụ sản xuất những sản phẩm với số lượng tương ứng với phần vật tư mà Nhà nước cung ứng, ngoài ra, sản xuất cái gì, bán cho ai hoàn toàn thuộc quyền quyết định của xí nghiệp.

Cùng với việc đổi mới kinh tế quốc doanh, Nhà nước có nhiều chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Ngày 29/12/1987, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được thông qua. Đây được coi là bước ngoặt lịch sử, là văn bản pháp lý quan trọng nhất chính thức hóa việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Các quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản và thu nhập hợp pháp của đối tác nước ngoài được Nhà nước bảo hộ, khẳng định trong Luật: “Trong quá trình đầu tư vào Việt Nam, vốn và tài sản của các tổ chức, cá nhân nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hóa”.

Luật cũng cho phép các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam được chuyển ra nước ngoài lợi nhuận thu được trong quá trình kinh doanh, những khoản tiền trả cho việc cung cấp kỹ thuật hoặc dịch vụ, tiền gốc và lãi của các khoản cho vay trong quá trình hoạt động, vốn đầu tư và các khoản tiền, tài sản khác.

Một điểm nhấn khác của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 là cho phép nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp sở hữu 100% vốn. Điều khoản này thể hiện cam kết Việt Nam coi trọng lợi ích của nhà đầu tư. Đây cũng là nội dung hấp dẫn nhất bởi lúc đó, các nước có nền kinh tế mở hơn như: Thái Lan, Inđônêxia và các nước trong khu vực cũng chưa có loại hình doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.

Năm 1988 - năm đầu thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã cấp phép cho 37 dự án, với tổng vốn đăng ký 366 triệu USD; năm 1989 cấp phép cho 70 dự án, số vốn 539 triệu USD, tăng 89,2% về số dự án và 47,3% về vốn đăng ký; năm 1990 cấp phép cho 111 dự án, tổng vốn đăng ký 803 triệu USD, tương đương với số dự án và bằng 88% số vốn của hai năm 1988, 1989 cộng lại.

xưởng dệt Xưởng dệt PP, PE của Công ty Caps Texvina (Khu công nghiệp Thụy Vân, Phú Thọ), 100% vốn đầu tư của Hàn Quốc (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Đối với kinh tế ngoài quốc doanh trong nước, năm 1988 có hai nghị định về kinh tế tư nhân và kinh tế gia đình được ban hành. Nghị định số 27/HĐBT ngày 09/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành bản quy định về chính sách đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải. Trong đó, Nhà nước công nhận sự tồn tại và các tác dụng tích cực lâu dài của các thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân của Việt Nam; tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế này hoạt động, phát triển trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải với quy mô, ngành nghề thích hợp. Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản và thu nhập hợp pháp của các đơn vị kinh tế và của công dân thuộc các thành phần kinh tế này. Mọi hành vi xâm phạm các quyền đó đều bị xử lý theo pháp luật. Doanh nghiệp tư nhân có quyền dùng ngoại tệ thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mình để hợp đồng với tổ chức xuất, nhập khẩu của Nhà nước đặt mua nguyên liệu, vật tư, thiết bị từ nước ngoài; nhận vật tư, thiết bị, ngoại tệ của thân nhân ở nước ngoài gửi về, không hạn chế về số lượng và được ưu đãi về chính sách thuế; được quyền bán vàng cho ngân hàng lấy ngoại tệ. Đây là điểm khá cởi mở ở thời điểm đó, bởi hơn một năm sau, đến tháng 5/1989, Hội đồng Bộ trưởng mới cho phép tư nhân được tự do kinh doanh vàng, bạc, đá quý. Doanh nghiệp tư nhân cũng được quyền ký gửi vàng để vay ngoại tệ nhập khẩu vật tư, thiết bị cho sản xuất; tự do tiêu thụ các sản phẩm ngoài hợp đồng mua vật tư - bán sản phẩm, hoặc gia công với các tổ chức kinh doanh của Nhà nước...

hộ kinh tế Tổng Bí thư Đỗ Mười thăm một hộ làm kinh tế giỏi ở thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, tháng 9/1994 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Ngày 09/3/1988, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 29/HĐBT ban hành bản quy định về chính sách đối với kinh tế gia đình trong hoạt động sản xuất và dịch vụ sản xuất. Trong đó, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong các chính sách kinh tế, nhằm khuyến khích kinh tế gia đình phát triển trong các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ sản xuất.

Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản và thu nhập hợp pháp của những người làm kinh tế gia đình. Mọi hành vi xâm phạm các quyền đó đều bị xử lý theo pháp luật. Những người làm kinh tế gia đình trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải không phải xin cấp đăng ký kinh doanh và được thực hiện nhiều quyền sau đây:

- Mua nguyên liệu trong nước để sản xuất, mua vật tư, thiết bị lẻ của Nhà nước.

- Được nhận gia công đặt hàng của các tổ chức kinh doanh của Nhà nước (công ty vật tư, xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, công ty thương nghiệp), các đơn vị kinh tế tập thể và thành phần kinh tế khác.

- Tự do tiêu thụ các sản phẩm ngoài mức hợp đồng mua vật tư, bán sản phẩm hoặc gia công đặt hàng với các tổ chức kinh doanh của Nhà nước, với các đơn vị kinh tế tập thể.

- Tự do tiêu thụ các sản phẩm khác làm ra theo chính sách lưu thông hàng hóa của Nhà nước.

- Ký hợp đồng với bất cứ đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu hoặc đơn vị kinh doanh xuất, nhập khẩu nào để bán các sản phẩm xuất khẩu do gia đình làm ra, mua lại vật tư để tái sản xuất, kể cả vật tư nhập khẩu.

- Tự chọn ngân hàng để mở tài khoản, được rút tiền mặt từ tài khoản của mình ở ngân hàng; được vay vốn của ngân hàng để phát triển kinh tế gia đình theo các quy định của ngân hàng; được nhận ngoại tệ của người thân ở nước ngoài gửi về qua Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam để phục vụ sản xuất.

- Được miễn mọi loại thuế kinh doanh.

Tiếp đó, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 15/7/1988 về đổi mới chính sách và cơ chế quản lý đối với các cơ sở sản xuất thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Trong đó, Bộ Chính trị ghi nhận lực lượng sản xuất ngoài quốc doanh đã “cung cấp một phần quan trọng sản phẩm tiêu dùng, sản phẩm xuất khẩu và đáp ứng một phần đáng kể tư liệu sản xuất cho nhiều ngành kinh tế. Gần 2 triệu lao động chuyên sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, làm công nghiệp xây dựng, vận tải và hàng chục vạn lao động tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp ở nông thôn đã tạo ra 60% giá trị công nghiệp địa phương”1. Đây là bước tiến căn bản cho thấy Đảng đã nhận ra rằng, khi kinh tế ngoài quốc doanh không được thừa nhận, nó vẫn phát triển dưới nhiều hình thức, vừa không khai thác hết được lợi ích cho nền kinh tế, vừa không quản lý được, làm thất thu ngân sách nhà nước, thậm chí có thể làm biến chất những cán bộ quản lý lợi dụng sự không thừa nhận của pháp luật để ăn chia với các hoạt động kinh tế ngầm. Từ đó, Đảng ta kịp thời có chủ trương: “Nhà nước có chính sách và biện pháp cụ thể bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các cơ sở sản xuất thuộc tất cả các thành phần kinh tế”2; “bằng luật pháp và các chính sách quản lý kinh tế cụ thể, nhất là các chính sách thuế đúng đắn, Nhà nước tác động tích cực vào quá trình hình thành và phát triển các ngành, nghề cần thiết”3; “Nhà nước bảo đảm quyền tự quản của các cơ sở sản xuất tập thể, công tư hợp doanh, cá thể, tiểu chủ và của các xí nghiệp tư bản tư doanh; xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm, chức năng của hệ thống cơ quan chính quyền các cấp, của các cơ quan quản lý ngành kinh tế kỹ thuật cũng như của các cơ quan có liên quan vừa bảo đảm tôn trọng các nguyên tắc tự quản của các cơ sở sản xuất, vừa bảo đảm sự kiểm tra, kiểm soát đúng đắn của Nhà nước”4.

Năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành hai luật góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tư nhân. Luật công ty, cho phép mọi công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế, tổ chức xã hội có quyền góp vốn đầu tư hoặc tham gia thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần; Luật doanh nghiệp tư nhân, với sự công nhận của Nhà nước: “sự tồn tại lâu dài và phát triển của doanh nghiệp tư nhân, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của doanh nghiệp tư nhân với các doanh nghiệp khác và tính sinh lợi hợp pháp của việc kinh doanh. Trong khuôn khổ pháp luật, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh”.

Sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp FDI cũng đặt ra bài toán phát triển doanh nghiệp nhà nước theo hướng thúc đẩy tích tụ và tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng thời thực hiện chủ trương xóa bỏ dần chế độ bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự phân biệt doanh nghiệp Trung ương, doanh nghiệp địa phương cũng như tăng cường vai trò quản lý nhà nước. Đổi mới xí nghiệp quốc doanh (sau này gọi là doanh nghiệp nhà nước) là một trong những nội dung quan trọng của quá trình đổi mới kinh tế được thực hiện từng bước với các biện pháp thích hợp.

Năm 1994, Chính phủ có hai quyết định thành lập Tổng Công ty 90 và Tổng Công ty 91. Quyết định số 90-TTg ngày 07/3/1994 về tiếp tục sắp xếp doanh nghiệp nhà nước nhằm sắp xếp, thành lập và đăng ký lại các liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty (gọi chung là tổng công ty). Các tổng công ty nhà nước được xem xét thành lập và đăng ký lại khi có đủ các điều kiện: có ít nhất 5 đơn vị thành viên quan hệ với nhau về công nghệ, tài chính, chương trình đầu tư phát triển, dịch vụ về cung ứng, vận chuyển, tiêu thụ, thông tin, đào tạo; toàn tổng công ty có vốn pháp định trên 500 tỉ đồng, đối với một số tổng công ty trong những ngành đặc thù thì vốn pháp định có thể thấp hơn nhưng không được ít hơn 100 tỉ đồng.

Quyết định số 90-TTg cũng nêu rõ 3 điều kiện thành lập mới doanh nghiệp nhà nước. Thứ nhất, chỉ thành lập mới những doanh nghiệp nhà nước trong những ngành then chốt, những lĩnh vực mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, những lĩnh vực có nhu cầu của thị trường nhưng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa có điều kiện đầu tư phát triển. Dành ưu tiên các nguồn vốn cho yêu cầu đổi mới công nghệ và mở rộng năng lực của những doanh nghiệp hiện đang hoạt động, nhất là những doanh nghiệp nhà nước có yêu cầu phát triển. Thứ hai, không thành lập thêm những doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều năng lực kinh doanh cùng ngành đang hoạt động cùng một địa bàn. Thứ ba, kể từ tháng 3/1994, tất cả các doanh nghiệp nhà nước thành lập mới phải có mức vốn pháp định ít nhất bằng 5 lần mức vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn cùng ngành nghề.

Quyết định số 91-TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh, nêu nguyên tắc: Tập đoàn phải có 7 doanh nghiệp thành viên trở lên và có vốn pháp định ít nhất là 1.000 tỉ đồng; tập đoàn có thể hoạt động kinh doanh đa ngành, song nhất thiết phải có định hướng ngành chủ đạo, mỗi tập đoàn được tổ chức công ty tài chính để huy động vốn, điều hòa vốn phục vụ cho yêu cầu phát triển của nội bộ tập đoàn hoặc liên doanh với các đơn vị kinh tế khác. Vào thời điểm năm 1994, tập đoàn kinh doanh là hình thức tổ chức doanh nghiệp còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Vì vậy, các nhóm doanh nghiệp được thành lập theo Quyết định số 91-TTg chưa được gọi là tập đoàn ngay, mà được gọi chung là các Tổng Công ty 91. Đến năm 2006, một số Tổng Công ty 91 bắt đầu chuyển thành các tập đoàn, số còn lại vẫn giữ tên tổng công ty.

Danh sách Tổng Công ty 91

1. Tập đoàn Dệt May Việt Nam

2. Tập đoàn Bảo Việt

3. Tập đoàn Điện lực Việt Nam

4. Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam

3. Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam

6. Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam

7. Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam

8. Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam

9. Tập đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt Nam

10. Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội

11. Tổng Công ty Tàu thủy Việt Nam

12. Tổng Công ty Sông Đà

13. Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam

14. Tổng Công ty Thép Việt Nam

15. Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam

16. Tổng Công ty Lương thực miền Bắc

17. Tổng Công ty Lương thực miền Nam

18. Tổng Công ty Giấy Việt Nam

19. Tổng Công ty Hàng không Việt Nam

20. Tổng Công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam

21. Tổng Công ty Cà phê Việt Nam

22. Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam


1, 2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.49, tr.319-320, 325, 322, 325-326.

III- THƯƠNG MẠI

xuất khẩu gạo

Xuất khẩu gạo tại cảng Sài Gòn (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

bách hóa Tràng Tiền

Bách hóa tổng hợp Tràng Tiền, Hà Nội đầu năm 1990 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

hiệp định Việt - Trung

Lễ ký kết Hiệp định Thương mại Việt - Trung và Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc ở biên giới hai nước Việt Nam - Trung Quốc tại Thủ đô Bắc Kinh, ngày 07/11/1991 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Danh mục

Tùy chỉnh