Xuất nhập khẩu
Sự phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu trong giai đoạn này được thể hiện rõ nét nhất là qua sự tăng lên nhanh chóng của tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, từ mức 130 triệu đồng Đông Dương vào năm 1900 lên 320 triệu đồng Đông Dương vào năm 1920, và đạt 603 triệu đồng Đông Dương vào năm 194014.
Trong những năm đầu thế kỷ 20, Việt Nam chủ yếu trong trạng thái nhập siêu do đây là giai đoạn đầu của Cuộc khai thác thuộc địa lần 1 của thực dân Pháp, nhiều nhà máy, xưởng sản xuất mới được thành lập, kéo theo đó là nhu cầu nhập khẩu máy móc, trang thiết bị kỹ thuật tăng cao. Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng lên nhanh chóng trong các năm tiếp theo và hầu như trong trạng thái xuất siêu với mức thặng dư thương mại cao. Tuy nhiên, cuộc Đại khủng hoảng năm 1930 cũng tác động tiêu cực đến hoạt động xuất nhập khẩu nước ta và mọi việc chỉ phục hồi trở lại kể từ năm 1935.
Chính quyền thuộc địa áp dụng chế độ “đồng hóa quan thuế” cho đến năm 1940. Theo đó, mặc dù Pháp và Việt Nam thuộc hai khu vực kinh tế với hai trình độ phát triển khác nhau, có nhu cầu và khả năng xuất nhập khẩu hoàn toàn khác nhau nhưng lại phải áp dụng chung
một chế độ thuế quan giống nhau. Chính quyền thuộc địa Pháp chỉ căn cứ vào tình hình và điều kiện riêng của nước Pháp để áp đặt thuế lên Việt Nam nhằm xây dựng hàng rào thuế quan bảo hộ các sản phẩm và lợi ích của người Pháp tại Đông Dương. Nước Pháp bảo hộ sản phẩm nào thì Việt Nam cũng phải bảo vệ sản phẩm đó, Pháp ưu đãi giao thương với quốc gia nào thì Việt Nam cũng phải ưu đãi nước đó.
Theo đó, hàng hóa từ Pháp được nhập khẩu vào Việt Nam không phải chịu thuế nhập khẩu; trong khi đó, hàng hóa từ các quốc gia khác phải chịu thuế suất thuế nhập khẩu từ 25% - 130%. Nhờ chính sách này, các doanh nghiệp và thương nhân Pháp gần như chi phối độc quyền hoạt động xuất nhập khẩu và Việt Nam buộc phải chủ yếu nhập khẩu hàng hóa từ Pháp (chiếm hơn 50% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng năm). Các sản phẩm được Việt Nam nhập khẩu chủ yếu gồm: các loại máy móc, đồ cơ khí, thép, ô tô, nhiên liệu và sản phẩm hóa dầu.
Trong khi đó, các sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam lại là nguyên liệu thô, gồm sản phẩm nông sản (thóc gạo, cà phê, chè, hạt tiêu), than, xi măng, quặng kim loại, tơ, vải lụa. Thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Hồng Kông, theo sau là Pháp, Nhật Bản, Singapore và Trung Quốc. Bên cạnh hoạt động xuất nhập khẩu thuần túy, hoạt động tái xuất khẩu cũng phát triển mạnh tại Việt Nam khi các bến cảng Sài Gòn, Hải Phòng và Đà Nẵng trở thành điểm trung chuyển hàng hóa của nhiều tuyến thương mại quan trọng trong khu vực và thế giới.
Như vậy, các nguồn lực kinh tế của Việt Nam bị vơ vét triệt để khi bán rẻ cho Pháp các loại nông sản, khoáng sản thô và buộc phải mua với giá cao các sản phẩm công nghiệp khác và sản phẩm tiêu dùng hiện đại từ chính nước Pháp. Do đó, hoạt động xuất nhập khẩu càng phát triển và thặng dư trong cán cân thương mại càng lớn thì nền kinh tế Việt Nam lại càng phát triển thiếu bền vững, càng phụ thuộc sâu hơn vào Pháp. Các chính sách ngoại thương của chính quyền thuộc địa đã ngăn chặn tự do thương mại, làm méo mó sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, cũng như chèn ép sự phát triển của tầng lớp tư sản dân tộc.
Một góc Cảng Hải Phòng (chưa rõ năm chụp) (Ảnh: Coll. Dieulefils) (Nguồn: Résumé Statistique Relatif Aux Années 1913 à 1940, Gouvernement général del’Indochine, năm 1941)
Từ năm 1935 trở đi, sự phụ thuộc về thương mại của Việt Nam vào Pháp mới giảm dần khi Pháp ký các hiệp định thương mại với một số quốc gia như với Nhật Bản (1932), Trung Quốc (1935), Hà Lan (1935), Hoa Kỳ (1936)… Đồng thời, Pháp cũng điều chỉnh lại chế độ thuế quan giữa thuộc địa và chính quốc từ năm 1934, giúp mở rộng thị trường hàng hóa xuất khẩu của các khu vực thuộc địa, bao gồm Việt Nam.
Sự kiện và nhân chứng lịch sử
Cảng Hải Phòng
Nhà báo người Pháp Henri Cucherousset, chủ biên của Tuần báo L’Eveil économique de l’Indochine (Thức tỉnh Kinh tế Đông Dương), đã ghi lại như sau trong cuốn sách Xứ Bắc Kỳ ngày nay (1924): “Hải Phòng mỗi năm xuất cảng những 400.000 tấn các sản vật của xứ Bắc Kỳ; nhập cảng 200.000 tấn các thứ hàng hóa của ngoại quốc. Tại sao hàng xuất cảng lại nhiều hơn hàng nhập cảng như thế. Số là xứ Bắc Kỳ xuất cảng nhiều nhất là gạo, bắp, than, xi măng toàn là những hàng nặng cân mà giá tiền mỗi kilo thì không là bao. Còn như những hàng nhập cảng thì toàn là những thứ đắt tiền cả”.
14. Mặc dù những dữ liệu về trao đổi thương mại dưới thời chính quyền thuộc địa đều được ghi dưới danh nghĩa Liên bang Đông Dương nhưng thực tế các đóng góp chính đều thuộc về Việt Nam.(Ban biên soạn)
Xuất nhập khẩu
Sự phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu trong giai đoạn này được thể hiện rõ nét nhất là qua sự tăng lên nhanh chóng của tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, từ mức 130 triệu đồng Đông Dương vào năm 1900 lên 320 triệu đồng Đông Dương vào năm 1920, và đạt 603 triệu đồng Đông Dương vào năm 194014.
Trong những năm đầu thế kỷ 20, Việt Nam chủ yếu trong trạng thái nhập siêu do đây là giai đoạn đầu của Cuộc khai thác thuộc địa lần 1 của thực dân Pháp, nhiều nhà máy, xưởng sản xuất mới được thành lập, kéo theo đó là nhu cầu nhập khẩu máy móc, trang thiết bị kỹ thuật tăng cao. Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng lên nhanh chóng trong các năm tiếp theo và hầu như trong trạng thái xuất siêu với mức thặng dư thương mại cao. Tuy nhiên, cuộc Đại khủng hoảng năm 1930 cũng tác động tiêu cực đến hoạt động xuất nhập khẩu nước ta và mọi việc chỉ phục hồi trở lại kể từ năm 1935.
Chính quyền thuộc địa áp dụng chế độ “đồng hóa quan thuế” cho đến năm 1940. Theo đó, mặc dù Pháp và Việt Nam thuộc hai khu vực kinh tế với hai trình độ phát triển khác nhau, có nhu cầu và khả năng xuất nhập khẩu hoàn toàn khác nhau nhưng lại phải áp dụng chung
một chế độ thuế quan giống nhau. Chính quyền thuộc địa Pháp chỉ căn cứ vào tình hình và điều kiện riêng của nước Pháp để áp đặt thuế lên Việt Nam nhằm xây dựng hàng rào thuế quan bảo hộ các sản phẩm và lợi ích của người Pháp tại Đông Dương. Nước Pháp bảo hộ sản phẩm nào thì Việt Nam cũng phải bảo vệ sản phẩm đó, Pháp ưu đãi giao thương với quốc gia nào thì Việt Nam cũng phải ưu đãi nước đó.
Theo đó, hàng hóa từ Pháp được nhập khẩu vào Việt Nam không phải chịu thuế nhập khẩu; trong khi đó, hàng hóa từ các quốc gia khác phải chịu thuế suất thuế nhập khẩu từ 25% - 130%. Nhờ chính sách này, các doanh nghiệp và thương nhân Pháp gần như chi phối độc quyền hoạt động xuất nhập khẩu và Việt Nam buộc phải chủ yếu nhập khẩu hàng hóa từ Pháp (chiếm hơn 50% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng năm). Các sản phẩm được Việt Nam nhập khẩu chủ yếu gồm: các loại máy móc, đồ cơ khí, thép, ô tô, nhiên liệu và sản phẩm hóa dầu.
Trong khi đó, các sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam lại là nguyên liệu thô, gồm sản phẩm nông sản (thóc gạo, cà phê, chè, hạt tiêu), than, xi măng, quặng kim loại, tơ, vải lụa. Thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Hồng Kông, theo sau là Pháp, Nhật Bản, Singapore và Trung Quốc. Bên cạnh hoạt động xuất nhập khẩu thuần túy, hoạt động tái xuất khẩu cũng phát triển mạnh tại Việt Nam khi các bến cảng Sài Gòn, Hải Phòng và Đà Nẵng trở thành điểm trung chuyển hàng hóa của nhiều tuyến thương mại quan trọng trong khu vực và thế giới.
Như vậy, các nguồn lực kinh tế của Việt Nam bị vơ vét triệt để khi bán rẻ cho Pháp các loại nông sản, khoáng sản thô và buộc phải mua với giá cao các sản phẩm công nghiệp khác và sản phẩm tiêu dùng hiện đại từ chính nước Pháp. Do đó, hoạt động xuất nhập khẩu càng phát triển và thặng dư trong cán cân thương mại càng lớn thì nền kinh tế Việt Nam lại càng phát triển thiếu bền vững, càng phụ thuộc sâu hơn vào Pháp. Các chính sách ngoại thương của chính quyền thuộc địa đã ngăn chặn tự do thương mại, làm méo mó sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, cũng như chèn ép sự phát triển của tầng lớp tư sản dân tộc.
Một góc Cảng Hải Phòng (chưa rõ năm chụp) (Ảnh: Coll. Dieulefils) (Nguồn: Résumé Statistique Relatif Aux Années 1913 à 1940, Gouvernement général del’Indochine, năm 1941)
Từ năm 1935 trở đi, sự phụ thuộc về thương mại của Việt Nam vào Pháp mới giảm dần khi Pháp ký các hiệp định thương mại với một số quốc gia như với Nhật Bản (1932), Trung Quốc (1935), Hà Lan (1935), Hoa Kỳ (1936)… Đồng thời, Pháp cũng điều chỉnh lại chế độ thuế quan giữa thuộc địa và chính quốc từ năm 1934, giúp mở rộng thị trường hàng hóa xuất khẩu của các khu vực thuộc địa, bao gồm Việt Nam.
Sự kiện và nhân chứng lịch sử
Cảng Hải Phòng
Nhà báo người Pháp Henri Cucherousset, chủ biên của Tuần báo L’Eveil économique de l’Indochine (Thức tỉnh Kinh tế Đông Dương), đã ghi lại như sau trong cuốn sách Xứ Bắc Kỳ ngày nay (1924): “Hải Phòng mỗi năm xuất cảng những 400.000 tấn các sản vật của xứ Bắc Kỳ; nhập cảng 200.000 tấn các thứ hàng hóa của ngoại quốc. Tại sao hàng xuất cảng lại nhiều hơn hàng nhập cảng như thế. Số là xứ Bắc Kỳ xuất cảng nhiều nhất là gạo, bắp, than, xi măng toàn là những hàng nặng cân mà giá tiền mỗi kilo thì không là bao. Còn như những hàng nhập cảng thì toàn là những thứ đắt tiền cả”.
14. Mặc dù những dữ liệu về trao đổi thương mại dưới thời chính quyền thuộc địa đều được ghi dưới danh nghĩa Liên bang Đông Dương nhưng thực tế các đóng góp chính đều thuộc về Việt Nam.(Ban biên soạn)
2. Thương mại
Khác với quan điểm “trọng nông, ức thương” và “bế quan tỏa cảng” của triều đình nhà Nguyễn, phát triển thương mại là một trong mục tiêu quan trọng của người Pháp ngay từ khi bắt đầu quá trình khai thác thuộc địa. Tất nhiên, như trên đã nêu ý đồ này không phải để mang lại sự thịnh vượng cho Việt Nam mà nhằm biến vùng đất thuộc địa thành thị trường tiêu thụ hàng hóa do Pháp sản xuất. Đồng thời, cung cấp cho Pháp những hàng hóa, nguyên liệu thô.