1. Cải tạo thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam
Nội thương miền Nam trong 20 năm 1955 - 1975 gắn với sự viện trợ ồ ạt hàng tiêu dùng từ nước ngoài. Chức năng của nội thương chủ yếu là kết nối, vận chuyển, tiêu thụ hàng viện trợ nhập khẩu. Tư nhân nắm quyền chi phối hàng hóa vật tư cho sản xuất và hàng tiêu dùng. Nhìn chung, sự phát triển của thương mại miền Nam gắn với sự viện trợ của hàng nhập khẩu hơn là gắn với sản xuất trong nước. Vì vậy, sau giải phóng năm 1975, viện trợ không còn nữa, nguyên liệu, vật tư cho sản xuất và hàng tiêu dùng thiết yếu đột ngột khan hiếm.
Trong khi đó, nội thương miền Bắc, chủ yếu là thương nghiệp quốc doanh, có chức năng phục vụ xã hội là chủ yếu. Hoạt động của thương nghiệp luôn mang tính hai chiều, cung cấp vật tư cho nông nghiệp và thu mua nông sản; cung cấp vật tư, nguyên, nhiên liệu cho sản xuất công nghiệp và thu mua hàng công nghiệp. Mục đích cuối cùng là phục vụ sản xuất, phục vụ nhu cầu tiêu dùng của xã hội bằng hình thức phân phối theo kế hoạch, theo định lượng. Với tư tưởng “Nhà nước phải lo cho dân”, khi thống nhất đất nước, chúng ta quyết định cải tạo thương nghiệp tư bản tư doanh miền Nam, nhằm nắm nguồn hàng vào tay thương nghiệp quốc doanh để phân phối cho sản xuất và đời sống. Để thực hiện nhiệm vụ này, hàng vạn cán bộ ngành Thương mại, bao gồm Nội thương, Ngoại thương và Vật tư đã được điều động cho miền Nam. Trong đó, nhiều cán bộ cốt cán đã được giao nhiệm vụ khẩn trương xây dựng khung các cơ quan quản lý cấp sở, ty để vào tiếp quản và xây dựng mạng lưới thương mại ở các thành phố, các tỉnh phía Nam. Tháng 5/1975, Tổng nha Nội thương ra đời và ngày 26/5/1975; thành lập Sở Thương nghiệp thành phố Sài Gòn mới giải phóng. Tiếp sau đó là các ty thương nghiệp của các tỉnh, thành phố khác cũng được thành lập. Đến cuối năm 1976, đã thành lập được 2 tổng công ty và 10 công ty thương nghiệp bán buôn toàn miền Nam, gần 60 công ty thương nghiệp tỉnh với trên 500 cửa hàng.
Bộ Nội Thương quyết định cử đoàn cán bộ lấy từ các sở nội thương từ Quảng Bình trở ra, mỗi sở 2 người đã tốt nghiệp đại học chi viện cho các tỉnh từ Quảng Trị đến Kiên Giang để đào tạo cấp tốc các khóa 3 tháng, 6 tháng cho mậu dịch viên. Hoạt động này góp phần tích cực hình thành mạng lưới thương nghiệp và cải tạo thương nghiệp trong những năm đầu thống nhất đất nước.
Ngày 25/6/1976, tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội chung cả nước, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đã nhấn mạnh: “Đối với tư bản thương nghiệp tư nhân và tiểu thương, cần tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng những hình thức thích hợp, chuyển bộ phận lớn sang sản xuất, đồng thời phải ra sức phát triển hệ thống thương nghiệp quốc doanh rộng khắp, đủ sức nắm và tổ chức phân phối tốt những tư liệu sinh hoạt thiết yếu đến tận tay người tiêu dùng”1.
Ngày 15/7/1976, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 254-NQ/TW về những công tác trước mắt ở miền Nam, nêu phương hướng cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh là: “từng bước đẩy lùi và xóa bỏ giai cấp tư sản, trước hết là tư sản thương nghiệp”2; “Hiện nay, tuy Nhà nước đã nắm được một bộ phận quan trọng vật tư hàng hóa thiết yếu, nhưng chưa hoàn toàn làm chủ được thị trường; tình trạng đầu cơ, tích trữ gây ra biến động giá cả làm tác hại đến sản xuất và đời sống. Do đó, trong thời gian trước mắt, nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa công thương nghiệp tư bản tư doanh là phải nhằm trước hết vào thương nghiệp tư bản chủ nghĩa”3. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, ngày 25/9/1976, Chính phủ ra Tuyên bố về chính sách đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam. Ngày 12/4/1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 100-CP ban hành chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp tư nhân ở các tỉnh phía Nam. Hình thức cải tạo được tiến hành như sau:
- Chuyển tư sản thương nghiệp và những người buôn bán nhỏ sang sản xuất là biện pháp chủ yếu để cải tạo thương nghiệp tư nhân.
- Đối với thương nghiệp tư bản tư doanh, nói chung, Nhà nước không đặt vấn đề công tư hợp doanh. Song, cá biệt có những hộ có phương tiện kinh doanh tốt mà từ trước đến nay vẫn ủng hộ cách mạng và chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách của Nhà nước thì có thể tiến hành công tư hợp doanh theo hình thức định lãi.
- Có thể lựa chọn để sử dụng một số nhà tư sản thương nghiệp làm đại lý bán lẻ hàng hóa cho thương nghiệp quốc doanh nhưng phải có biện pháp kiểm soát và quản lý chặt chẽ.
- Đối với một số người buôn bán nhỏ còn được tạm thời tiếp tục kinh doanh, thì tổ chức họ lại thành những hình thức thích hợp như tổ thương nghiệp, tổ mua bán hàng...
Mục đích cao nhất của Quyết định số 100-CP là tập trung các nguồn hàng chủ yếu trong tay Nhà nước, nhằm phân phối theo kế hoạch cho sản xuất và đời sống. Cụ thể:
Chợ Dân Sinh, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10/12/1985 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Đối với các loại hàng nông sản, thủy sản, hải sản và thực phẩm, ngoài những mặt hàng đã có quy định thuộc diện Nhà nước thống nhất quản lý như lương thực, muối..., Nhà nước sẽ thống nhất thu mua ở những vùng sản xuất tập trung một số mặt hàng quan trọng như: cá, thịt lợn, trâu bò; rau và trái cây đặc sản để xuất khẩu; lạc, đậu các loại; hạt tiêu; dừa; mía cây và đường mật; thuốc lá; chè; cà phê; bông; đay; gai; cói (lác), tơ tằm, v.v.. Ở những vùng này, không cho thương nhân hoạt động, tranh mua với Nhà nước. Vì thế, các cơ quan thương nghiệp và vật tư được yêu cầu phải phối hợp vận dụng đồng bộ các biện pháp: giúp đỡ sản xuất, giáo dục chính trị, định giá mua hợp lý, thực hiện hợp đồng hai chiều, quản lý thị trường để bảo đảm tập trung nguồn hàng vào trong tay Nhà nước. Các nông trường quốc doanh phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ giao nộp sản phẩm cho Nhà nước.
Đối với các loại hàng công nghiệp, thủ công nghiệp, các xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh phải thực hiện chế độ giao nộp, tức là bán toàn bộ sản phẩm cho thương nghiệp Nhà nước. Đối với các xí nghiệp tư nhân, bao gồm cả tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp quốc doanh ký hợp đồng đặt mua sản phẩm, hoặc dùng chính sách gia công, hay bán nguyên liệu mua thành phẩm để nắm nguồn hàng, trước hết nhằm vào những sản phẩm dùng nguyên liệu, vật tư chủ yếu do Nhà nước thống nhất quản lý phân phối.
Sau thời gian chuẩn bị về tổ chức và nhân sự, công cuộc cải tạo thương nghiệp bắt đầu từ tháng 3/1978. “Đúng 14h ngày 23/3/1978, toàn Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam bắt đầu chiến dịch xóa bỏ kinh doanh thương nghiệp của các nhà tư sản và chuyển họ sang sản xuất”4. Đến cuối năm 1978, công cuộc cải tạo đã cơ bản hoàn thành. Sau khi nhận ra đây là một chủ trương “chủ quan, nóng vội, nặng về xóa bỏ và cấm đoán”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (năm 1982) đã điều chỉnh lại, khẳng định kinh tế miền Nam có 5 thành phần, gồm: quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, tư bản tư nhân, cá thể.
1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr.149, 217, 218-219.
4. Xem Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd.
1. Cải tạo thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam
Nội thương miền Nam trong 20 năm 1955 - 1975 gắn với sự viện trợ ồ ạt hàng tiêu dùng từ nước ngoài. Chức năng của nội thương chủ yếu là kết nối, vận chuyển, tiêu thụ hàng viện trợ nhập khẩu. Tư nhân nắm quyền chi phối hàng hóa vật tư cho sản xuất và hàng tiêu dùng. Nhìn chung, sự phát triển của thương mại miền Nam gắn với sự viện trợ của hàng nhập khẩu hơn là gắn với sản xuất trong nước. Vì vậy, sau giải phóng năm 1975, viện trợ không còn nữa, nguyên liệu, vật tư cho sản xuất và hàng tiêu dùng thiết yếu đột ngột khan hiếm.
Trong khi đó, nội thương miền Bắc, chủ yếu là thương nghiệp quốc doanh, có chức năng phục vụ xã hội là chủ yếu. Hoạt động của thương nghiệp luôn mang tính hai chiều, cung cấp vật tư cho nông nghiệp và thu mua nông sản; cung cấp vật tư, nguyên, nhiên liệu cho sản xuất công nghiệp và thu mua hàng công nghiệp. Mục đích cuối cùng là phục vụ sản xuất, phục vụ nhu cầu tiêu dùng của xã hội bằng hình thức phân phối theo kế hoạch, theo định lượng. Với tư tưởng “Nhà nước phải lo cho dân”, khi thống nhất đất nước, chúng ta quyết định cải tạo thương nghiệp tư bản tư doanh miền Nam, nhằm nắm nguồn hàng vào tay thương nghiệp quốc doanh để phân phối cho sản xuất và đời sống. Để thực hiện nhiệm vụ này, hàng vạn cán bộ ngành Thương mại, bao gồm Nội thương, Ngoại thương và Vật tư đã được điều động cho miền Nam. Trong đó, nhiều cán bộ cốt cán đã được giao nhiệm vụ khẩn trương xây dựng khung các cơ quan quản lý cấp sở, ty để vào tiếp quản và xây dựng mạng lưới thương mại ở các thành phố, các tỉnh phía Nam. Tháng 5/1975, Tổng nha Nội thương ra đời và ngày 26/5/1975; thành lập Sở Thương nghiệp thành phố Sài Gòn mới giải phóng. Tiếp sau đó là các ty thương nghiệp của các tỉnh, thành phố khác cũng được thành lập. Đến cuối năm 1976, đã thành lập được 2 tổng công ty và 10 công ty thương nghiệp bán buôn toàn miền Nam, gần 60 công ty thương nghiệp tỉnh với trên 500 cửa hàng.
Bộ Nội Thương quyết định cử đoàn cán bộ lấy từ các sở nội thương từ Quảng Bình trở ra, mỗi sở 2 người đã tốt nghiệp đại học chi viện cho các tỉnh từ Quảng Trị đến Kiên Giang để đào tạo cấp tốc các khóa 3 tháng, 6 tháng cho mậu dịch viên. Hoạt động này góp phần tích cực hình thành mạng lưới thương nghiệp và cải tạo thương nghiệp trong những năm đầu thống nhất đất nước.
Ngày 25/6/1976, tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội chung cả nước, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đã nhấn mạnh: “Đối với tư bản thương nghiệp tư nhân và tiểu thương, cần tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng những hình thức thích hợp, chuyển bộ phận lớn sang sản xuất, đồng thời phải ra sức phát triển hệ thống thương nghiệp quốc doanh rộng khắp, đủ sức nắm và tổ chức phân phối tốt những tư liệu sinh hoạt thiết yếu đến tận tay người tiêu dùng”1.
Ngày 15/7/1976, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 254-NQ/TW về những công tác trước mắt ở miền Nam, nêu phương hướng cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh là: “từng bước đẩy lùi và xóa bỏ giai cấp tư sản, trước hết là tư sản thương nghiệp”2; “Hiện nay, tuy Nhà nước đã nắm được một bộ phận quan trọng vật tư hàng hóa thiết yếu, nhưng chưa hoàn toàn làm chủ được thị trường; tình trạng đầu cơ, tích trữ gây ra biến động giá cả làm tác hại đến sản xuất và đời sống. Do đó, trong thời gian trước mắt, nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa công thương nghiệp tư bản tư doanh là phải nhằm trước hết vào thương nghiệp tư bản chủ nghĩa”3. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, ngày 25/9/1976, Chính phủ ra Tuyên bố về chính sách đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam. Ngày 12/4/1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 100-CP ban hành chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp tư nhân ở các tỉnh phía Nam. Hình thức cải tạo được tiến hành như sau:
- Chuyển tư sản thương nghiệp và những người buôn bán nhỏ sang sản xuất là biện pháp chủ yếu để cải tạo thương nghiệp tư nhân.
- Đối với thương nghiệp tư bản tư doanh, nói chung, Nhà nước không đặt vấn đề công tư hợp doanh. Song, cá biệt có những hộ có phương tiện kinh doanh tốt mà từ trước đến nay vẫn ủng hộ cách mạng và chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách của Nhà nước thì có thể tiến hành công tư hợp doanh theo hình thức định lãi.
- Có thể lựa chọn để sử dụng một số nhà tư sản thương nghiệp làm đại lý bán lẻ hàng hóa cho thương nghiệp quốc doanh nhưng phải có biện pháp kiểm soát và quản lý chặt chẽ.
- Đối với một số người buôn bán nhỏ còn được tạm thời tiếp tục kinh doanh, thì tổ chức họ lại thành những hình thức thích hợp như tổ thương nghiệp, tổ mua bán hàng...
Mục đích cao nhất của Quyết định số 100-CP là tập trung các nguồn hàng chủ yếu trong tay Nhà nước, nhằm phân phối theo kế hoạch cho sản xuất và đời sống. Cụ thể:
Chợ Dân Sinh, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10/12/1985 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Đối với các loại hàng nông sản, thủy sản, hải sản và thực phẩm, ngoài những mặt hàng đã có quy định thuộc diện Nhà nước thống nhất quản lý như lương thực, muối..., Nhà nước sẽ thống nhất thu mua ở những vùng sản xuất tập trung một số mặt hàng quan trọng như: cá, thịt lợn, trâu bò; rau và trái cây đặc sản để xuất khẩu; lạc, đậu các loại; hạt tiêu; dừa; mía cây và đường mật; thuốc lá; chè; cà phê; bông; đay; gai; cói (lác), tơ tằm, v.v.. Ở những vùng này, không cho thương nhân hoạt động, tranh mua với Nhà nước. Vì thế, các cơ quan thương nghiệp và vật tư được yêu cầu phải phối hợp vận dụng đồng bộ các biện pháp: giúp đỡ sản xuất, giáo dục chính trị, định giá mua hợp lý, thực hiện hợp đồng hai chiều, quản lý thị trường để bảo đảm tập trung nguồn hàng vào trong tay Nhà nước. Các nông trường quốc doanh phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ giao nộp sản phẩm cho Nhà nước.
Đối với các loại hàng công nghiệp, thủ công nghiệp, các xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh phải thực hiện chế độ giao nộp, tức là bán toàn bộ sản phẩm cho thương nghiệp Nhà nước. Đối với các xí nghiệp tư nhân, bao gồm cả tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp quốc doanh ký hợp đồng đặt mua sản phẩm, hoặc dùng chính sách gia công, hay bán nguyên liệu mua thành phẩm để nắm nguồn hàng, trước hết nhằm vào những sản phẩm dùng nguyên liệu, vật tư chủ yếu do Nhà nước thống nhất quản lý phân phối.
Sau thời gian chuẩn bị về tổ chức và nhân sự, công cuộc cải tạo thương nghiệp bắt đầu từ tháng 3/1978. “Đúng 14h ngày 23/3/1978, toàn Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam bắt đầu chiến dịch xóa bỏ kinh doanh thương nghiệp của các nhà tư sản và chuyển họ sang sản xuất”4. Đến cuối năm 1978, công cuộc cải tạo đã cơ bản hoàn thành. Sau khi nhận ra đây là một chủ trương “chủ quan, nóng vội, nặng về xóa bỏ và cấm đoán”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (năm 1982) đã điều chỉnh lại, khẳng định kinh tế miền Nam có 5 thành phần, gồm: quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, tư bản tư nhân, cá thể.
1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr.149, 217, 218-219.
4. Xem Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd.
III. THƯƠNG MẠI
Chợ Dân Sinh, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10/12/1985 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Cửa hàng mậu dịch quốc doanh những năm đầu thập kỷ 1980 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)
Nhập khẩu hàng tại Cảng Hải Phòng tháng 10/1977 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)