4. Hoạt động ngoại thương

Bộ Ngoại thương quan cao nhất trách nhiệm quản toàn bộ công tác ngoại thương theo đường lối, chính sách của Đảng Nhà nước, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ, kế hoạch của công tác ngoại thương, đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ nhập khẩu... Theo Nghị định số 203-CP ngày 23/11/1961 của Hội đồng Chính phủ về quy định nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy của Bộ Ngoại thương, Bộ Ngoại thương 12 nhiệm vụ quyền hạn là:

“1. Nghiên cứu trình Hội đồng Chính phủ ban hành các chính sách, thể lệ về ngoại thương; tổ chức chỉ đạo thực hiện các chính sách, thể lệ ấy.

2. Nghiên cứu trình Hội đồng Chính phủ phê chuẩn kế hoạch ngoại thương; tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch ấy.

3. Nghiên cứu tình hình thị trường ngoài nước, các chính sách kinh tế, chính sách mậu dịch, các tổ chức biện pháp ngoại thương của nước ngoài để phát triển công tác ngoại thương.

4. Thi hành các hiệp định nước ta đã kết với nước ngoài về mặt ngoại thương. Trong phạm vi ủy quyền của Chính phủ, kết các hiệp định về ngoại thương với các quan ngoại thương nước ngoài.

5. Căn cứ vào chính sách giá cả của Nhà nước, chỉ đạo giá xuất khẩu, nhập khẩu, tham gia ý kiến vào việc quy định giá bán buôn hàng nhập khẩu giá thu mua hàng xuất khẩu.

6. Trong phạm vi kế hoạch ngoại tệ được Hội đồng Chính phủ phê chuẩn, quản việc sử dụng ngoại tệ vào việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa bảo đảm thực hiện kế hoạch thu chi ngoại tệ về ngoại thương.

7. Chỉ đạo việc tổ chức những cuộc triển lãm các mặt hàng hóa của ta các Hội chợ nước ngoài việc tổ chức những cuộc triển lãm các mặt hàng hóa trong nước tính chất ngoại thương.

8. Tham gia ý kiến với các bộ, các ngành Trung ương các Ủy ban hành chính địa phương về các vấn đề quan hệ đến ngoại thương, nhằm mở rộng khai thác nguồn hàng, bảo đảm vật xuất khẩu, áp dụng kỹ thuật mới trong sản xuất, sử dụng hợp ngoại tệ trong việc nhập hàng.

9. Thống nhất quản xuất khẩu, nhập khẩu trong toàn quốc kể cả mậu dịch xuất khẩu, nhập khẩu địa phương, mậu dịch tiểu ngạch biên giới. Cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu quá cảnh hàng hóa; đề ra những biện pháp để thực hiện việc thống nhất quản xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa.

10. Quản các tổ chức kinh doanh trực thuộc Bộ, các Thương vụ Đại diện thương mại nước ngoài.

11. Quản tài sản, tài vụ, vật trong ngành, quản vốn của Nhà nước giao cho Bộ.

12. Quản tổ chức, cán bộ, biên chế, lao động tiền lương trong ngành theo chế độ chung của Nhà nước. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ ngoại thương để kịp đáp ứng nhu cầu công tác ngành”.

Trong quan hệ ngoại thương, xuất khẩu nhập khẩu đều quan trọng, nhưng giai đoạn này xuất khẩu còn ít, trong khi nhập khẩu theo hình thức viện trợ cho vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu, tác động trực tiếp tới quốc phòng, các ngành kinh tế, nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải đời sống nhân dân. vậy, việc đàm phán các hợp đồng thương mại để phát huy cao nhất hiệu quả của các hiệp định thương mại viện trợ với các nước ngoài; đôn đốc lịch giao hàng của đối tác kế hoạch vận chuyển hàng về nước sao cho đủ số lượng, đúng chủng loại, đảm bảo thời gian theo yêu cầu của kế hoạch trong nước, nhất đối với các loại vật chiến lược, như xăng dầu, phân bón, hóa chất...; lập kế hoạch phân phối định giá các mặt hàng... những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong hoạt động ngoại thương.

Phương hướng, nhiệm vụ trong hoạt động ngoại thương cũng như quy mô, nhịp độ, cấu xuất, nhập khẩu những năm chiến tranh 1965 - 1975 về bản khác với giai đoạn trước. thời kỳ khôi phục kinh tế 1955 - 1957, hoạt động ngoại thương hướng tới tái thiết đất nước, khôi phục mở rộng công suất các nhà máy cải thiện đời sống nhân dân đang rất khó khăn sau khi hòa bình trên miền Bắc. Do đó, hàng nhập khẩu phục vụ tiêu dùng chiếm tỷ trọng khá lớn, cao hơn hàng liệu sản xuất. Khi cuộc chiến phá hoại bằng đường không trên miền Bắc diễn ra, hoạt động ngoại thương chuyển hướng mạnh mẽ, nhiệm vụ chủ yếu tranh thủ tới mức cao nhất sự viện trợ quốc tế phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kịp thời đưa hàng nhập khẩu về nước nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế, tiềm lực quốc phòng của hậu phương lớn miền Bắc để tích cực chi viện tiền tuyến; bảo đảm các nhu cầu bản trong đời sống nhân dân. Do đó, giai đoạn 1965 - 1975, hàng nhập khẩu liệu sản xuất lớn hơn nhiều lần hàng nhập khẩu phục vụ tiêu dùng.

Năm 1955, hàng nhập khẩu phục vụ tiêu dùng chiếm hơn một nửa tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu, đến những năm 1965 - 1975 sự đảo chiều, hàng liệu sản xuất, nhập khẩu thường cao hơn gấp 2 lần hàng tiêu dùng.

Công tác nhập khẩu đã cung cấp thiết bị để khôi phục mở rộng xây dựng mới hàng trăm nhà máy, nghiệp. Trong vòng 10 năm (1965 - 1975), nhờ các mặt hàng nhập khẩu thiết bị lẻ thiết bị toàn bộ, Nhà nước đã tiến hành bổ sung, trang bị thêm sở vật chất cho các nhà máy, nghiệp để mở rộng quy sản xuất. Các nhà máy như: Bóng đèn Phích nước Rạng Đông, Sứ Hải Dương, Khu Gang thép Thái Nguyên, Mỏ Apatít Lào Cai, Gỗ Cầu Đuống, In Tiến Bộ, Thủy tinh Hải Phòng... đều những sở quan trọng của các ngành Công nghiệp được nhập khẩu các thiết bị toàn bộ.

Đối với ngành Nông nghiệp, năm 1975, miền Bắc đã xây dựng xong đưa vào phục vụ sản xuất nông nghiệp 1.333 công trình thủy lợi, trong đó hầu hết thiết bị toàn bộ cũng như thiết bị lẻ của các công trình thủy lợi đều nhập khẩu. Để phục vụ cho việc khí hóa nông nghiệp, việc nhập khẩu nhiều loại máy kéo, máy nông nghiệp chủ trương đúng đắn của ngành Ngoại thương lúc bấy giờ. Đến năm 1975, số máy kéo nhập về đã tăng gấp 24 lần so với năm 1960. Trạm máy kéo máy nông nghiệp tăng từ 23 trạm năm 1960 lên 122 trạm năm 1975; số máy kéo tiêu chuẩn từ 136 máy năm 1960 lên 14.197 máy năm 1975.

Cũng tính đến năm 1975, khoảng 96% số hợp tác nông nghiệp đồng bằng đã được trang bị khí. So với năm 1969, số máy động lực tăng 7,3 lần, máy công tác tăng 17 lần1.

bảng 25

máy cày

viên Hợp tác Hòa Loan, tỉnh Vĩnh Phúc dùng máy cày ruộng nước để tăng năng suất gieo cấy trong vụ mùa 1966 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Ngành Giao thông vận tải ngành vị trí hết sức quan trọng không chỉ trong lưu thông hàng hóa còn trong chi viện cho tiền tuyến. Thời kỳ này, ngành Giao thông vận tải nhận được sự giúp đỡ tích cực của các nước hội chủ nghĩa về phương tiện, sở vật chất, kỹ thuật, máy móc trang thiết bị hiện đại thông qua nhập khẩu theo phương thức viện trợ, cho vay. Nhờ vậy, những năm 1965 - 1975, tài sản cố định khối lượng hàng hóa luân chuyển tăng lên nhanh chóng.

Hoạt động xuất khẩu trong giai đoạn này khá ít. Cán cân thương mại luôn mất cân đối. Trong 20 năm 1955 - 1975, năm nào Việt Nam cũng trạng thái nhập siêu.

Trong cấu xuất khẩu, chiếm tỷ trọng lớn nhất chủ yếu các mặt hàng công nghiệp tiểu thủ công nghiệp, hàng nông sản chưa qua chế biến chiếm tỷ trọng không đáng kể.

Điểm tích cực nhất xuất khẩu hàng công nghiệp chiếm ưu thế tuyệt đối vào cuối giai đoạn, đến năm 1975 chiếm 2/3 hàng xuất khẩu.

Nếu cộng thêm hàng tiểu thủ công nghiệp, chiếm trên 90% tổng giá trị kim ngạch hàng xuất khẩu.

bảng 26

bảng 27

Điểm tích cực thứ hai là, xuất khẩu bị giảm sút trong hai lần chiến tranh phá hoại, từ năm 1965 đến năm 1972, nhưng phục hồi nhanh chóng đạt đỉnh cao vào cuối giai đoạn. Những năm 1974 - 1975, kim ngạch xuất khẩu gấp trên dưới 2 lần so với những năm 1966 - 1972.

Ngoài ra, Bộ Ngoại thương cùng với các Bộ Quốc phòng, Giao thông vận tải đã phá tan âm mưu bao vây, phong tỏa miền Bắc của đế quốc Mỹ, luồng giao thông này bị tắc thì ta lại mở luồng khác, mọi loại phương tiện (đường biển, đường sông, đường sắt, đường bộ...), góp phần cùng mặt trận ngoại giao tranh thủ được sự viện trợ quốc tế to lớn từ các nước hội chủ nghĩa các lực lượng tiến bộ trên thế giới; bảo vệ được các địa bàn sở sản xuất hàng xuất khẩu, các địa điểm tập kết hàng xuất khẩu nhập khẩu, các tuyến đường giao thông trong nước với nước ngoài.

chiếu cói

Cán bộ thâu hóa trạm chiếu cói Kim Sơn (Ninh Bình) kiểm tra chất lượng hàng cói xuất khẩu, năm 1970 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Hoạt động ngoại thương cũng góp phần không nhỏ trong việc mở rộng quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nước. Thị trường xuất, nhập khẩu được mở rộng, bên cạnh 12 nước hội chủ nghĩa, Việt Nam còn quan hệ buôn bán với các nước ngoài khối như Pháp, Nhật Bản, Xingapo, Thụy Sĩ, Lan, Bỉ, Anh, Tây Đức, Ấn Độ, Inđônêxia, Campuchia...

Nhập siêu trong những năm tháng kháng chiến được giải quyết chủ yếu bằng hàng viện trợ không hoàn lại cho vay tín dụng. Chúng chiếm tỷ trọng lớn trong các nguồn thanh toán cho hàng nhập khẩu.

Xuất, nhập khẩu thời kỳ độc quyền ngoại thương

Công tác quản xuất, nhập khẩu dựa trên nguyên tắc Nhà nước độc quyền ngoại thương. Mọi hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa đều phải giấy phép. Hàng hóa xuất, nhập khẩu đây nội hàm khá rộng, được hiểu hàng hóa kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu, hàng mẫu, hàng triển lãm, hàng quảng cáo, hàng tạm xuất khẩu, tạm nhập khẩu, hàng vận tải quá cảnh..., kể cả các văn hóa phẩm bằng sáng chế phát minh tính chất hàng hóa; hàng nhập khẩu bằng nguồn ngoại tệ vay nợ, viện trợ các loại hàng phi mậu dịch. quan duy nhất thẩm quyền cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa Bộ Ngoại thương.

độc quyền ngoại thương nên Bộ Ngoại thương phải hoạt động hết công suất, phải đọc hàng trăm các báo cáo, tài liệu với số các dữ liệu thống kê, rồi dựa vào các định hướng, phân tích: kế hoạch phát triển nền kinh tế quốc dân, khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường, chính sách bảo hộ sản xuất đối với tiêu dùng trong nước, cam kết của Chính phủ ta với nước ngoài nhu cầu của thị trường thế giới... để định ra hạn ngạch xuất khẩu nhập khẩu hằng năm với một số mặt hàng chủ yếu.

Tiếp đến, căn cứ vào tổng hạn ngạch xuất khẩu để thống nhất với các bộ, tổng cục, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố về hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu của từng bộ, từng tỉnh, trong đó đã phân bố cụ thể cho từng đơn vị kinh tế phù hợp với khả năng sản xuất nhu cầu nhập khẩu của các đơn vị đó.

Trong khi các đơn vị quản thuộc Bộ Ngoại thương hết sức bận rộn thì các doanh nghiệp chỉ phải lo khâu sản xuất, chế biến, đóng gói hàng hóa cho đúng quy cách. Các công đoạn khó khăn nhất, quyết định nhất đến lợi nhuận sự phát triển của doanh nghiệp tiếp thị, giá bán, thị trường tiêu thụ... đều được giải quyết bằng nghị định thư xuất, nhập khẩu giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ các nước hội chủ nghĩa.

Một thứ trưởng Bộ Ngoại thương thường Trưởng đoàn đàm phán các nghị định thư xuất, nhập khẩu hằng năm giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Liên các nước hội chủ nghĩa. Công việc của Trưởng đoàn khá vất vả. Chỉ riêng việc chỉ đạo các quan tham mưu thuộc Bộ hướng dẫn, giúp đỡ các tổng công ty, công ty thuộc các Bộ khác các địa phương được trực tiếp xuất, nhập khẩu; cùng các bộ, Ủy ban chủ quản xác định chỉ tiêu kế hoạch xuất khẩu, nhập khẩu của đơn vị; giám sát, kiểm tra định kỳ, đột xuất các đơn vị trong việc thực hiện kế hoạch Nhà nước các nghĩa vụ liên quan đến những điều ước hợp đồng với nước ngoài đã sử dụng gần hết quỹ làm việc hằng ngày.

Từ tháng 10 trở đi giai đoạn rất căng thẳng, bước vào thời gian nước rút chuẩn bị đàm phán nghị định thư xuất, nhập khẩu với các nước hội chủ nghĩa được thực hiện vào năm sau. Trưởng đoàn phải thường xuyên trao đổi với đại diện của các bộ Nông nghiệp, Nội thương, Vật tư, Công nghiệp nặng, Công nghiệp nhẹ, Giao thông vận tải, thương vụ Việt Nam nước ngoài..., lên danh sách hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu cho từng mặt hàng. Sau đó soát, điều chỉnh sao cho tổng kim ngạch xuất khẩu bằng tổng kim ngạch nhập khẩu.

Thông thường, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu nông, lâm sản như chè, phê, hạt tiêu, rau quả, thịt... nên việc xác định mặt hàng không phức tạp lắm. Khó khăn đo lường được năng lực sản xuất, thu mua của các đơn vị làm hàng xuất khẩu, nhất các đơn vị trực thuộc địa phương. Nhưng xác định mặt hàng số lượng hàng nhập khẩu một vấn đề khó. lúc đó vật tư, nguyên liệu, máy móc, hàng tiêu dùng thiếu nhiều, thể nói ngành nào cũng thiếu, ngành nào cũng “kêu”. Nói về ưu tiên, lĩnh vực nào cũng đáng ưu tiên; rất khó để cả quyết rằng, nhập khẩu máy móc, vật tư, nguyên phụ liệu về để làm hàng xuất khẩu, hay để tạo hạ tầng sở kinh tế - kỹ thuật cho nền kinh tế, hoặc để phục vụ tiêu dùng trong nước cần phải được ưu tiên trước nhất.

Tùy theo tình hình sản xuất đời sống nhân dân từng năm đoàn đàm phán do Bộ Ngoại thương chủ trì sẽ quyết định ưu tiên mặt hàng số lượng nhập khẩu.

Hàng xuất khẩu của ta chủ yếu chỉ đảm bảo được cho nhu cầu tiêu dùng nhập khẩu các thiết bị lẻ, vật tư, liệu, nguyên liệu sản xuất. Còn thiết bị toàn bộ phần lớn được Liên Xô, Trung Quốc viện trợ hoặc cho vay để xây dựng nên các nhà máy như: khí Nội, Gang thép Thái Nguyên, Phích nước Rạng Đông, phòng Nội, Nhiệt điện Uông Bí, Thủy điện Thác hay Hóa chất Việt Trì...

*****

Chặng đường 10 năm công nghiệp hóa (1965 - 1975) trong điều kiện xen lẫn chiến tranh hòa bình, miền Bắc đã xây dựng được sở vật chất - kỹ thuật bước đầu của chủ nghĩa hội, theo hướng tiến lên một nền sản xuất lớn hiện đại một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Từ năm 1965, miền Bắc phải chuyển hướng kinh tế từ thời bình sang thời chiến từ đó đến năm 1975 thời kỳ chống chiến tranh phá hoại xen kẽ với những thời kỳ ngắn khôi phục kinh tế.

Trong chặng đường đầy cam go đó, sức tàn phá của bom đạn không thể cản nổi những bước tiến trên con đường công nghiệp hóa.

Địch đánh phá vào các thành phố lớn, thì ngành Công Thương phân tán về các địa phương; lấy đơn vị tỉnh làm địa bàn xây dựng công nghiệp, thương mại địa phương toàn diện. Địch lấy các sở công nghiệp làm trọng điểm đánh phá, thì công nhân ngành Công Thương “chắc tay búa, vững tay súng” vừa sản xuất, vừa sẵn sàng đánh trả các cuộc tập kích đường không; công nhân ngành Điện nêu cao khẩu hiệu “giữ vững dòng điện như mạch máu”; công nhân ngành Xăng dầu nêu khẩu hiệu “quý xăng như máu”...

Chấp hành lời kêu gọi của Đảng “Sản xuất phải được coi một nhiệm vụ chiến đấu, phải đổ máu hy sinh”2, ngành Công Thương đã những đóng góp quan trọng chủ yếu trong công nghiệp hóa hội chủ nghĩa. Đến năm 1975, miền Bắc hậu phương hội chủ nghĩa đã hình thành một nền công nghiệp tự chủ, với sở vật chất kỹ thuật được tăng cường đáng kể. Nhiều khu công nghiệp lớn đã đang hình thành. cấu công nghiệp đã phát triển hoàn chỉnh hơn, những sở của các ngành công nghiệp nặng quan trọng liên tục mở rộng về số lượng phát triển về quy mô, nhất các ngành điện, than, khí, luyện kim, hóa chất; đồng thời phát huy năng lực một số ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm.

Đối với hoạt động thương mại, mạng lưới kho, cửa hàng thương nghiệp bố trí trong thời bình không còn thích hợp với thời chiến, nay lại phải phân bố lại cho phù hợp để phòng địch đánh phá đảm bảo cho các cấp, các nơi ít nhiều đều dự trữ. Kế hoạch lưu chuyển hàng hóa được bố trí lại cho phù hợp với quan hệ cung - cầu mới.

Cùng với việc cố gắng tổ chức tiếp nhận, vận chuyển hàng nhập khẩu, cán bộ, công nhân viên toàn ngành đã cùng với các cấp, các ngành, các sở sản xuất, địa phương khắc phục mọi khó khăn để giữ vững sản xuất. Hệ thống thương nghiệp quốc doanh đã mở thêm nhiều điểm bán hàng những nơi mở đường giao thông mới, nơi sở sản xuất dân tán.

Mạng lưới sở hợp tác mua bán được phát triển mạnh trên địa bàn các xã, tăng quầy hàng của hợp tác mua bán nông thôn lên gấp đôi. Toàn ngành đã huy động mọi nguồn lực để bảo vệ an toàn tài sản của Nhà nước trước sự tàn phá của bom đạn địch. Hệ thống thương nghiệp mặt khắp nơi, ngay bên mâm pháo, thế, ngành đã hạn chế được nhiều thiệt hại, số tiền hàng hóa ngành Thương nghiệp quản được hạn chế tổn thất tới mức thấp nhất. Trong chiến tranh, chế độ hạch toán kinh tế các tổ chức kinh doanh thương nghiệp về bản vẫn được duy trì. Thị trường hội ít những hoạt động đầu cơ, buôn lậu.

Các hoạt động xuất, nhập khẩu góp phần tạo dựng một ngành Công nghiệp tương đối hoàn chỉnh, trong đó đã hình thành các ngành công nghiệp nặng mũi nhọn như điện lực, khai khoáng, luyện kim, hóa chất; công nghiệp nhẹ các nhà máy chế biến thực phẩm, dệt may, sản xuất hàng tiêu dùng... góp phần củng cố, tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc phòng cho hậu phương miền Bắc. “Hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung ngoại thương nói riêng đã góp phần tích cực vào việc phá tan âm mưu hành động của địch bao vây phong tỏa lập miền Bắc với thế giới bên ngoài”3.

Chính nhờ vậy, ngành Thương mại Việt Nam giai đoạn 1965 - 1975 đã thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ Đảng Nhà nước giao. Nhu cầu của tiền tuyến chiến đấu ngành trách nhiệm phục vụ đã được đáp ứng kịp thời đầy đủ. Đội ngũ cán bộ, công nhân viên của ngành cùng với hàng hóa ngày càng tiến sâu vào Nam theo chân các lực lượng trang. Các nhu cầu của sản xuất cũng được đáp ứng với mức cố gắng cao nhất. Đối với đời sống, hoạt động của ngành đã đảm bảo các nhu cầu thiết yếu như: vải, dầu hỏa, giấy viết... các hàng hóa khác cho toàn dân theo giá ổn định. Nhờ bộ máy tổ chức ngành ngày một hoàn thiện đã góp phần giữ cho đời sống của người dân tuy không được như thời bình, song cũng không bị đảo lộn nhiều.

Không chỉ nỗ lực xây dựng sở vật chất - kỹ thuật bước đầu cho chủ nghĩa hội, ngành Công Thương còn trực tiếp chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam. Khắp các nghiệp, nhà máy công trường đều lan tỏa các phong trào: “Tay búa, tay súng”, “Toàn dân chi viện chiến trường”, “Vì miền Nam ruột thịt”; hàng vạn cán bộ, công nhân viên, người lao động ngành Công Thương xung phong lên đường nhập ngũ.

Mặc những tiến bộ nhất định trong cải tiến hệ thống tổ chức, cải tiến quản trong sản xuất quản thị trường, nhưng nhìn chung, nền kinh tế miền Bắc còn mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, sở vật chất - kỹ thuật còn thấp kém. Những ngành công nghiệp then chốt còn nhỏ chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.

Trong thương mại, cung vẫn chưa theo kịp cầu chế độ tem phiếu, phân phối theo định lượng điểm nhấn nét; đời sống vật chất của người dân còn nhiều khó khăn.

Sự cồng kềnh của hình kinh tế kế hoạch hóa đã khiến giá trị tổng sản lượng công nghiệp mức tăng trưởng chậm lại không tương xứng với sự đầu tư. hình kinh tế kế hoạch hóa cũng cản trở sự phát triển thương mại. Việc duy trì, phát triển chế độ cung cấp hàng hóa thiết yếu càng làm nảy sinh các hiện tượng tiêu cực. Chế độ bao cấp với tình trạng “bán như cho”, bất chấp giá trị đã trở thành gánh nặng với ngân sách nhà nước.

Mặc ngành Công Thương còn trăn trở trong cải tiến quản hướng đến giải quyết những yếu kém trong thực thi chỉ tiêu pháp lệnh Nhà nước - nét đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hóa; tuy nhiên, vẫn chưa “đụng” đến chế vận hành của hình kinh tế kế hoạch hóa. Thị trường vẫn còn vấn đề “nhạy cảm”; các loại chợ nông thôn, chợ thành thị, chợ chuyên bán hàng nông sản, chợ “đen”, chợ “cóc”, hay hàng rong được phép duy trì với vai trò giải quyết nhu cầu thiết yếu dân sinh, do thị trường chưa được coi động lực cho sự vận động của cung - cầu giá trị trong thúc đẩy sản xuất - kinh doanh.


1. Xem Viện Hàn lâm Khoa học hội Việt Nam, Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 13 (Từ năm 1965 đến năm 1975), Sđd, tr.384.

2. Viện Hàn lâm Khoa học hội Việt Nam, Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 13 (Từ năm 1965 đến năm 1975), Sđd, tr.42.

3. Bộ Thương mại: 60 năm thương mại Việt Nam (1946 - 2006), Sđd.

4. Hoạt động ngoại thương

Bộ Ngoại thương quan cao nhất trách nhiệm quản toàn bộ công tác ngoại thương theo đường lối, chính sách của Đảng Nhà nước, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ, kế hoạch của công tác ngoại thương, đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ nhập khẩu... Theo Nghị định số 203-CP ngày 23/11/1961 của Hội đồng Chính phủ về quy định nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy của Bộ Ngoại thương, Bộ Ngoại thương 12 nhiệm vụ quyền hạn là:

“1. Nghiên cứu trình Hội đồng Chính phủ ban hành các chính sách, thể lệ về ngoại thương; tổ chức chỉ đạo thực hiện các chính sách, thể lệ ấy.

2. Nghiên cứu trình Hội đồng Chính phủ phê chuẩn kế hoạch ngoại thương; tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch ấy.

3. Nghiên cứu tình hình thị trường ngoài nước, các chính sách kinh tế, chính sách mậu dịch, các tổ chức biện pháp ngoại thương của nước ngoài để phát triển công tác ngoại thương.

4. Thi hành các hiệp định nước ta đã kết với nước ngoài về mặt ngoại thương. Trong phạm vi ủy quyền của Chính phủ, kết các hiệp định về ngoại thương với các quan ngoại thương nước ngoài.

5. Căn cứ vào chính sách giá cả của Nhà nước, chỉ đạo giá xuất khẩu, nhập khẩu, tham gia ý kiến vào việc quy định giá bán buôn hàng nhập khẩu giá thu mua hàng xuất khẩu.

6. Trong phạm vi kế hoạch ngoại tệ được Hội đồng Chính phủ phê chuẩn, quản việc sử dụng ngoại tệ vào việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa bảo đảm thực hiện kế hoạch thu chi ngoại tệ về ngoại thương.

7. Chỉ đạo việc tổ chức những cuộc triển lãm các mặt hàng hóa của ta các Hội chợ nước ngoài việc tổ chức những cuộc triển lãm các mặt hàng hóa trong nước tính chất ngoại thương.

8. Tham gia ý kiến với các bộ, các ngành Trung ương các Ủy ban hành chính địa phương về các vấn đề quan hệ đến ngoại thương, nhằm mở rộng khai thác nguồn hàng, bảo đảm vật xuất khẩu, áp dụng kỹ thuật mới trong sản xuất, sử dụng hợp ngoại tệ trong việc nhập hàng.

9. Thống nhất quản xuất khẩu, nhập khẩu trong toàn quốc kể cả mậu dịch xuất khẩu, nhập khẩu địa phương, mậu dịch tiểu ngạch biên giới. Cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu quá cảnh hàng hóa; đề ra những biện pháp để thực hiện việc thống nhất quản xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa.

10. Quản các tổ chức kinh doanh trực thuộc Bộ, các Thương vụ Đại diện thương mại nước ngoài.

11. Quản tài sản, tài vụ, vật trong ngành, quản vốn của Nhà nước giao cho Bộ.

12. Quản tổ chức, cán bộ, biên chế, lao động tiền lương trong ngành theo chế độ chung của Nhà nước. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ ngoại thương để kịp đáp ứng nhu cầu công tác ngành”.

Trong quan hệ ngoại thương, xuất khẩu nhập khẩu đều quan trọng, nhưng giai đoạn này xuất khẩu còn ít, trong khi nhập khẩu theo hình thức viện trợ cho vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu, tác động trực tiếp tới quốc phòng, các ngành kinh tế, nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải đời sống nhân dân. vậy, việc đàm phán các hợp đồng thương mại để phát huy cao nhất hiệu quả của các hiệp định thương mại viện trợ với các nước ngoài; đôn đốc lịch giao hàng của đối tác kế hoạch vận chuyển hàng về nước sao cho đủ số lượng, đúng chủng loại, đảm bảo thời gian theo yêu cầu của kế hoạch trong nước, nhất đối với các loại vật chiến lược, như xăng dầu, phân bón, hóa chất...; lập kế hoạch phân phối định giá các mặt hàng... những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong hoạt động ngoại thương.

Phương hướng, nhiệm vụ trong hoạt động ngoại thương cũng như quy mô, nhịp độ, cấu xuất, nhập khẩu những năm chiến tranh 1965 - 1975 về bản khác với giai đoạn trước. thời kỳ khôi phục kinh tế 1955 - 1957, hoạt động ngoại thương hướng tới tái thiết đất nước, khôi phục mở rộng công suất các nhà máy cải thiện đời sống nhân dân đang rất khó khăn sau khi hòa bình trên miền Bắc. Do đó, hàng nhập khẩu phục vụ tiêu dùng chiếm tỷ trọng khá lớn, cao hơn hàng liệu sản xuất. Khi cuộc chiến phá hoại bằng đường không trên miền Bắc diễn ra, hoạt động ngoại thương chuyển hướng mạnh mẽ, nhiệm vụ chủ yếu tranh thủ tới mức cao nhất sự viện trợ quốc tế phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kịp thời đưa hàng nhập khẩu về nước nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế, tiềm lực quốc phòng của hậu phương lớn miền Bắc để tích cực chi viện tiền tuyến; bảo đảm các nhu cầu bản trong đời sống nhân dân. Do đó, giai đoạn 1965 - 1975, hàng nhập khẩu liệu sản xuất lớn hơn nhiều lần hàng nhập khẩu phục vụ tiêu dùng.

Năm 1955, hàng nhập khẩu phục vụ tiêu dùng chiếm hơn một nửa tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu, đến những năm 1965 - 1975 sự đảo chiều, hàng liệu sản xuất, nhập khẩu thường cao hơn gấp 2 lần hàng tiêu dùng.

Công tác nhập khẩu đã cung cấp thiết bị để khôi phục mở rộng xây dựng mới hàng trăm nhà máy, nghiệp. Trong vòng 10 năm (1965 - 1975), nhờ các mặt hàng nhập khẩu thiết bị lẻ thiết bị toàn bộ, Nhà nước đã tiến hành bổ sung, trang bị thêm sở vật chất cho các nhà máy, nghiệp để mở rộng quy sản xuất. Các nhà máy như: Bóng đèn Phích nước Rạng Đông, Sứ Hải Dương, Khu Gang thép Thái Nguyên, Mỏ Apatít Lào Cai, Gỗ Cầu Đuống, In Tiến Bộ, Thủy tinh Hải Phòng... đều những sở quan trọng của các ngành Công nghiệp được nhập khẩu các thiết bị toàn bộ.

Đối với ngành Nông nghiệp, năm 1975, miền Bắc đã xây dựng xong đưa vào phục vụ sản xuất nông nghiệp 1.333 công trình thủy lợi, trong đó hầu hết thiết bị toàn bộ cũng như thiết bị lẻ của các công trình thủy lợi đều nhập khẩu. Để phục vụ cho việc khí hóa nông nghiệp, việc nhập khẩu nhiều loại máy kéo, máy nông nghiệp chủ trương đúng đắn của ngành Ngoại thương lúc bấy giờ. Đến năm 1975, số máy kéo nhập về đã tăng gấp 24 lần so với năm 1960. Trạm máy kéo máy nông nghiệp tăng từ 23 trạm năm 1960 lên 122 trạm năm 1975; số máy kéo tiêu chuẩn từ 136 máy năm 1960 lên 14.197 máy năm 1975.

Cũng tính đến năm 1975, khoảng 96% số hợp tác nông nghiệp đồng bằng đã được trang bị khí. So với năm 1969, số máy động lực tăng 7,3 lần, máy công tác tăng 17 lần1.

bảng 25

máy cày

viên Hợp tác Hòa Loan, tỉnh Vĩnh Phúc dùng máy cày ruộng nước để tăng năng suất gieo cấy trong vụ mùa 1966 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Ngành Giao thông vận tải ngành vị trí hết sức quan trọng không chỉ trong lưu thông hàng hóa còn trong chi viện cho tiền tuyến. Thời kỳ này, ngành Giao thông vận tải nhận được sự giúp đỡ tích cực của các nước hội chủ nghĩa về phương tiện, sở vật chất, kỹ thuật, máy móc trang thiết bị hiện đại thông qua nhập khẩu theo phương thức viện trợ, cho vay. Nhờ vậy, những năm 1965 - 1975, tài sản cố định khối lượng hàng hóa luân chuyển tăng lên nhanh chóng.

Hoạt động xuất khẩu trong giai đoạn này khá ít. Cán cân thương mại luôn mất cân đối. Trong 20 năm 1955 - 1975, năm nào Việt Nam cũng trạng thái nhập siêu.

Trong cấu xuất khẩu, chiếm tỷ trọng lớn nhất chủ yếu các mặt hàng công nghiệp tiểu thủ công nghiệp, hàng nông sản chưa qua chế biến chiếm tỷ trọng không đáng kể.

Điểm tích cực nhất xuất khẩu hàng công nghiệp chiếm ưu thế tuyệt đối vào cuối giai đoạn, đến năm 1975 chiếm 2/3 hàng xuất khẩu.

Nếu cộng thêm hàng tiểu thủ công nghiệp, chiếm trên 90% tổng giá trị kim ngạch hàng xuất khẩu.

bảng 26

bảng 27

Điểm tích cực thứ hai là, xuất khẩu bị giảm sút trong hai lần chiến tranh phá hoại, từ năm 1965 đến năm 1972, nhưng phục hồi nhanh chóng đạt đỉnh cao vào cuối giai đoạn. Những năm 1974 - 1975, kim ngạch xuất khẩu gấp trên dưới 2 lần so với những năm 1966 - 1972.

Ngoài ra, Bộ Ngoại thương cùng với các Bộ Quốc phòng, Giao thông vận tải đã phá tan âm mưu bao vây, phong tỏa miền Bắc của đế quốc Mỹ, luồng giao thông này bị tắc thì ta lại mở luồng khác, mọi loại phương tiện (đường biển, đường sông, đường sắt, đường bộ...), góp phần cùng mặt trận ngoại giao tranh thủ được sự viện trợ quốc tế to lớn từ các nước hội chủ nghĩa các lực lượng tiến bộ trên thế giới; bảo vệ được các địa bàn sở sản xuất hàng xuất khẩu, các địa điểm tập kết hàng xuất khẩu nhập khẩu, các tuyến đường giao thông trong nước với nước ngoài.

chiếu cói

Cán bộ thâu hóa trạm chiếu cói Kim Sơn (Ninh Bình) kiểm tra chất lượng hàng cói xuất khẩu, năm 1970 (Ảnh: Thông tấn Việt Nam)

Hoạt động ngoại thương cũng góp phần không nhỏ trong việc mở rộng quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nước. Thị trường xuất, nhập khẩu được mở rộng, bên cạnh 12 nước hội chủ nghĩa, Việt Nam còn quan hệ buôn bán với các nước ngoài khối như Pháp, Nhật Bản, Xingapo, Thụy Sĩ, Lan, Bỉ, Anh, Tây Đức, Ấn Độ, Inđônêxia, Campuchia...

Nhập siêu trong những năm tháng kháng chiến được giải quyết chủ yếu bằng hàng viện trợ không hoàn lại cho vay tín dụng. Chúng chiếm tỷ trọng lớn trong các nguồn thanh toán cho hàng nhập khẩu.

Xuất, nhập khẩu thời kỳ độc quyền ngoại thương

Công tác quản xuất, nhập khẩu dựa trên nguyên tắc Nhà nước độc quyền ngoại thương. Mọi hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa đều phải giấy phép. Hàng hóa xuất, nhập khẩu đây nội hàm khá rộng, được hiểu hàng hóa kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu, hàng mẫu, hàng triển lãm, hàng quảng cáo, hàng tạm xuất khẩu, tạm nhập khẩu, hàng vận tải quá cảnh..., kể cả các văn hóa phẩm bằng sáng chế phát minh tính chất hàng hóa; hàng nhập khẩu bằng nguồn ngoại tệ vay nợ, viện trợ các loại hàng phi mậu dịch. quan duy nhất thẩm quyền cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa Bộ Ngoại thương.

độc quyền ngoại thương nên Bộ Ngoại thương phải hoạt động hết công suất, phải đọc hàng trăm các báo cáo, tài liệu với số các dữ liệu thống kê, rồi dựa vào các định hướng, phân tích: kế hoạch phát triển nền kinh tế quốc dân, khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường, chính sách bảo hộ sản xuất đối với tiêu dùng trong nước, cam kết của Chính phủ ta với nước ngoài nhu cầu của thị trường thế giới... để định ra hạn ngạch xuất khẩu nhập khẩu hằng năm với một số mặt hàng chủ yếu.

Tiếp đến, căn cứ vào tổng hạn ngạch xuất khẩu để thống nhất với các bộ, tổng cục, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố về hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu của từng bộ, từng tỉnh, trong đó đã phân bố cụ thể cho từng đơn vị kinh tế phù hợp với khả năng sản xuất nhu cầu nhập khẩu của các đơn vị đó.

Trong khi các đơn vị quản thuộc Bộ Ngoại thương hết sức bận rộn thì các doanh nghiệp chỉ phải lo khâu sản xuất, chế biến, đóng gói hàng hóa cho đúng quy cách. Các công đoạn khó khăn nhất, quyết định nhất đến lợi nhuận sự phát triển của doanh nghiệp tiếp thị, giá bán, thị trường tiêu thụ... đều được giải quyết bằng nghị định thư xuất, nhập khẩu giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ các nước hội chủ nghĩa.

Một thứ trưởng Bộ Ngoại thương thường Trưởng đoàn đàm phán các nghị định thư xuất, nhập khẩu hằng năm giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Liên các nước hội chủ nghĩa. Công việc của Trưởng đoàn khá vất vả. Chỉ riêng việc chỉ đạo các quan tham mưu thuộc Bộ hướng dẫn, giúp đỡ các tổng công ty, công ty thuộc các Bộ khác các địa phương được trực tiếp xuất, nhập khẩu; cùng các bộ, Ủy ban chủ quản xác định chỉ tiêu kế hoạch xuất khẩu, nhập khẩu của đơn vị; giám sát, kiểm tra định kỳ, đột xuất các đơn vị trong việc thực hiện kế hoạch Nhà nước các nghĩa vụ liên quan đến những điều ước hợp đồng với nước ngoài đã sử dụng gần hết quỹ làm việc hằng ngày.

Từ tháng 10 trở đi giai đoạn rất căng thẳng, bước vào thời gian nước rút chuẩn bị đàm phán nghị định thư xuất, nhập khẩu với các nước hội chủ nghĩa được thực hiện vào năm sau. Trưởng đoàn phải thường xuyên trao đổi với đại diện của các bộ Nông nghiệp, Nội thương, Vật tư, Công nghiệp nặng, Công nghiệp nhẹ, Giao thông vận tải, thương vụ Việt Nam nước ngoài..., lên danh sách hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu cho từng mặt hàng. Sau đó soát, điều chỉnh sao cho tổng kim ngạch xuất khẩu bằng tổng kim ngạch nhập khẩu.

Thông thường, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu nông, lâm sản như chè, phê, hạt tiêu, rau quả, thịt... nên việc xác định mặt hàng không phức tạp lắm. Khó khăn đo lường được năng lực sản xuất, thu mua của các đơn vị làm hàng xuất khẩu, nhất các đơn vị trực thuộc địa phương. Nhưng xác định mặt hàng số lượng hàng nhập khẩu một vấn đề khó. lúc đó vật tư, nguyên liệu, máy móc, hàng tiêu dùng thiếu nhiều, thể nói ngành nào cũng thiếu, ngành nào cũng “kêu”. Nói về ưu tiên, lĩnh vực nào cũng đáng ưu tiên; rất khó để cả quyết rằng, nhập khẩu máy móc, vật tư, nguyên phụ liệu về để làm hàng xuất khẩu, hay để tạo hạ tầng sở kinh tế - kỹ thuật cho nền kinh tế, hoặc để phục vụ tiêu dùng trong nước cần phải được ưu tiên trước nhất.

Tùy theo tình hình sản xuất đời sống nhân dân từng năm đoàn đàm phán do Bộ Ngoại thương chủ trì sẽ quyết định ưu tiên mặt hàng số lượng nhập khẩu.

Hàng xuất khẩu của ta chủ yếu chỉ đảm bảo được cho nhu cầu tiêu dùng nhập khẩu các thiết bị lẻ, vật tư, liệu, nguyên liệu sản xuất. Còn thiết bị toàn bộ phần lớn được Liên Xô, Trung Quốc viện trợ hoặc cho vay để xây dựng nên các nhà máy như: khí Nội, Gang thép Thái Nguyên, Phích nước Rạng Đông, phòng Nội, Nhiệt điện Uông Bí, Thủy điện Thác hay Hóa chất Việt Trì...

*****

Chặng đường 10 năm công nghiệp hóa (1965 - 1975) trong điều kiện xen lẫn chiến tranh hòa bình, miền Bắc đã xây dựng được sở vật chất - kỹ thuật bước đầu của chủ nghĩa hội, theo hướng tiến lên một nền sản xuất lớn hiện đại một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Từ năm 1965, miền Bắc phải chuyển hướng kinh tế từ thời bình sang thời chiến từ đó đến năm 1975 thời kỳ chống chiến tranh phá hoại xen kẽ với những thời kỳ ngắn khôi phục kinh tế.

Trong chặng đường đầy cam go đó, sức tàn phá của bom đạn không thể cản nổi những bước tiến trên con đường công nghiệp hóa.

Địch đánh phá vào các thành phố lớn, thì ngành Công Thương phân tán về các địa phương; lấy đơn vị tỉnh làm địa bàn xây dựng công nghiệp, thương mại địa phương toàn diện. Địch lấy các sở công nghiệp làm trọng điểm đánh phá, thì công nhân ngành Công Thương “chắc tay búa, vững tay súng” vừa sản xuất, vừa sẵn sàng đánh trả các cuộc tập kích đường không; công nhân ngành Điện nêu cao khẩu hiệu “giữ vững dòng điện như mạch máu”; công nhân ngành Xăng dầu nêu khẩu hiệu “quý xăng như máu”...

Chấp hành lời kêu gọi của Đảng “Sản xuất phải được coi một nhiệm vụ chiến đấu, phải đổ máu hy sinh”2, ngành Công Thương đã những đóng góp quan trọng chủ yếu trong công nghiệp hóa hội chủ nghĩa. Đến năm 1975, miền Bắc hậu phương hội chủ nghĩa đã hình thành một nền công nghiệp tự chủ, với sở vật chất kỹ thuật được tăng cường đáng kể. Nhiều khu công nghiệp lớn đã đang hình thành. cấu công nghiệp đã phát triển hoàn chỉnh hơn, những sở của các ngành công nghiệp nặng quan trọng liên tục mở rộng về số lượng phát triển về quy mô, nhất các ngành điện, than, khí, luyện kim, hóa chất; đồng thời phát huy năng lực một số ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm.

Đối với hoạt động thương mại, mạng lưới kho, cửa hàng thương nghiệp bố trí trong thời bình không còn thích hợp với thời chiến, nay lại phải phân bố lại cho phù hợp để phòng địch đánh phá đảm bảo cho các cấp, các nơi ít nhiều đều dự trữ. Kế hoạch lưu chuyển hàng hóa được bố trí lại cho phù hợp với quan hệ cung - cầu mới.

Cùng với việc cố gắng tổ chức tiếp nhận, vận chuyển hàng nhập khẩu, cán bộ, công nhân viên toàn ngành đã cùng với các cấp, các ngành, các sở sản xuất, địa phương khắc phục mọi khó khăn để giữ vững sản xuất. Hệ thống thương nghiệp quốc doanh đã mở thêm nhiều điểm bán hàng những nơi mở đường giao thông mới, nơi sở sản xuất dân tán.

Mạng lưới sở hợp tác mua bán được phát triển mạnh trên địa bàn các xã, tăng quầy hàng của hợp tác mua bán nông thôn lên gấp đôi. Toàn ngành đã huy động mọi nguồn lực để bảo vệ an toàn tài sản của Nhà nước trước sự tàn phá của bom đạn địch. Hệ thống thương nghiệp mặt khắp nơi, ngay bên mâm pháo, thế, ngành đã hạn chế được nhiều thiệt hại, số tiền hàng hóa ngành Thương nghiệp quản được hạn chế tổn thất tới mức thấp nhất. Trong chiến tranh, chế độ hạch toán kinh tế các tổ chức kinh doanh thương nghiệp về bản vẫn được duy trì. Thị trường hội ít những hoạt động đầu cơ, buôn lậu.

Các hoạt động xuất, nhập khẩu góp phần tạo dựng một ngành Công nghiệp tương đối hoàn chỉnh, trong đó đã hình thành các ngành công nghiệp nặng mũi nhọn như điện lực, khai khoáng, luyện kim, hóa chất; công nghiệp nhẹ các nhà máy chế biến thực phẩm, dệt may, sản xuất hàng tiêu dùng... góp phần củng cố, tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc phòng cho hậu phương miền Bắc. “Hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung ngoại thương nói riêng đã góp phần tích cực vào việc phá tan âm mưu hành động của địch bao vây phong tỏa lập miền Bắc với thế giới bên ngoài”3.

Chính nhờ vậy, ngành Thương mại Việt Nam giai đoạn 1965 - 1975 đã thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ Đảng Nhà nước giao. Nhu cầu của tiền tuyến chiến đấu ngành trách nhiệm phục vụ đã được đáp ứng kịp thời đầy đủ. Đội ngũ cán bộ, công nhân viên của ngành cùng với hàng hóa ngày càng tiến sâu vào Nam theo chân các lực lượng trang. Các nhu cầu của sản xuất cũng được đáp ứng với mức cố gắng cao nhất. Đối với đời sống, hoạt động của ngành đã đảm bảo các nhu cầu thiết yếu như: vải, dầu hỏa, giấy viết... các hàng hóa khác cho toàn dân theo giá ổn định. Nhờ bộ máy tổ chức ngành ngày một hoàn thiện đã góp phần giữ cho đời sống của người dân tuy không được như thời bình, song cũng không bị đảo lộn nhiều.

Không chỉ nỗ lực xây dựng sở vật chất - kỹ thuật bước đầu cho chủ nghĩa hội, ngành Công Thương còn trực tiếp chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam. Khắp các nghiệp, nhà máy công trường đều lan tỏa các phong trào: “Tay búa, tay súng”, “Toàn dân chi viện chiến trường”, “Vì miền Nam ruột thịt”; hàng vạn cán bộ, công nhân viên, người lao động ngành Công Thương xung phong lên đường nhập ngũ.

Mặc những tiến bộ nhất định trong cải tiến hệ thống tổ chức, cải tiến quản trong sản xuất quản thị trường, nhưng nhìn chung, nền kinh tế miền Bắc còn mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, sở vật chất - kỹ thuật còn thấp kém. Những ngành công nghiệp then chốt còn nhỏ chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.

Trong thương mại, cung vẫn chưa theo kịp cầu chế độ tem phiếu, phân phối theo định lượng điểm nhấn nét; đời sống vật chất của người dân còn nhiều khó khăn.

Sự cồng kềnh của hình kinh tế kế hoạch hóa đã khiến giá trị tổng sản lượng công nghiệp mức tăng trưởng chậm lại không tương xứng với sự đầu tư. hình kinh tế kế hoạch hóa cũng cản trở sự phát triển thương mại. Việc duy trì, phát triển chế độ cung cấp hàng hóa thiết yếu càng làm nảy sinh các hiện tượng tiêu cực. Chế độ bao cấp với tình trạng “bán như cho”, bất chấp giá trị đã trở thành gánh nặng với ngân sách nhà nước.

Mặc ngành Công Thương còn trăn trở trong cải tiến quản hướng đến giải quyết những yếu kém trong thực thi chỉ tiêu pháp lệnh Nhà nước - nét đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hóa; tuy nhiên, vẫn chưa “đụng” đến chế vận hành của hình kinh tế kế hoạch hóa. Thị trường vẫn còn vấn đề “nhạy cảm”; các loại chợ nông thôn, chợ thành thị, chợ chuyên bán hàng nông sản, chợ “đen”, chợ “cóc”, hay hàng rong được phép duy trì với vai trò giải quyết nhu cầu thiết yếu dân sinh, do thị trường chưa được coi động lực cho sự vận động của cung - cầu giá trị trong thúc đẩy sản xuất - kinh doanh.


1. Xem Viện Hàn lâm Khoa học hội Việt Nam, Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 13 (Từ năm 1965 đến năm 1975), Sđd, tr.384.

2. Viện Hàn lâm Khoa học hội Việt Nam, Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 13 (Từ năm 1965 đến năm 1975), Sđd, tr.42.

3. Bộ Thương mại: 60 năm thương mại Việt Nam (1946 - 2006), Sđd.

3. Hoạt động nội thương

Cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ đã làm cho mọi hoạt động của nền kinh tế cũng như hoạt động thương nghiệp phải chuyển hướng cho phù hợp với tình hình mới. Trước hết phải di chuyển và phân tán kho tàng, hàng hóa, phân bố lại lực lượng hàng hóa dự trù ở từng cấp, từng vùng để đề phòng địch đánh phá, nhanh chóng bố trí lại và chiếm lĩnh địa bàn hoạt động mới, mở thêm mạng lưới ở nông thôn, nơi có đông đồng bào, cơ quan, xí nghiệp sơ tán đến. Giờ giấc và phương thức hoạt động mua bán phải thay đổi cho phù hợp với yêu cầu phòng không.

Trong những tháng không quân Mỹ dội bom ác liệt, các điểm bán lẻ của thương nghiệp quốc doanh (gồm mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán) không ngừng được mở rộng.

Tổ chức hợp tác xã mua bán từ huyện, tỉnh đến Trung ương đều do các cơ quan quản lý nhà nước về thương nghiệp phụ trách. Ở tỉnh, thành phố, các ban quản lý hợp tác xã mua bán có vị trí như một phòng chức năng của Sở Thương nghiệp, đồng thời có nhiệm vụ hướng dẫn phong trào hợp tác xã mua bán trong tỉnh, thành phố. Ở Trung ương có Ban Quản lý hợp tác xã mua bán Việt Nam.

Mạng lưới hợp tác xã mua bán được củng cố trong thời bình đã phát triển nhanh chóng trong thời chiến. Từ năm 1965, khi cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất diễn ra, các trung tâm mua bán của khu vực đô thị phân tán xuống các huyện, xã; thị trường nông thôn trở thành đối tượng phục vụ chính. Năm 1965 có 8.485 hợp tác xã mua bán, năm 1968 có 10.628 hợp tác xã mua bán - là thời điểm có số hợp tác xã mua bán cao nhất, sau đó giảm dần ở thời kỳ khôi phục kinh tế những năm 1973 - 1975, với 9.023 hợp tác xã mua bán năm 1975.

ngày mùa Ngày mùa trên sân kho hợp tác xã nông nghiệp ở huyện Nghĩa Hưng trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Điểm bán lẻ của hợp tác xã mua bán gấp gần 2 lần so với điểm bán lẻ của mậu dịch quốc doanh, nhưng tổng mức bán lẻ của các hợp tác xã mua bán chỉ trên dưới 20% so với mậu dịch quốc doanh.

Tuy nhiên, hợp tác xã mua bán còn có chức năng như “cánh tay nối dài” của mậu dịch quốc doanh trong thu mua nông sản, thực phẩm và bán hàng công nghiệp trên thị trường nông thôn, đồng thời phải tự kinh doanh để phục vụ sản xuất và đời sống nông dân trên địa bàn. Mặc dù, mức tăng bình quân của nông nghiệp chỉ khoảng 1,2% mỗi năm; đến năm 1975 nông nghiệp cũng chỉ chiếm 29% trong cơ cấu tổng sản phẩm xã hội, nhưng khối lượng thu mua lương thực, thực phẩm từ các hợp tác xã nông nghiệp để cung cấp cho quốc phòng và các ngành kinh tế khác rất lớn1. Hầu hết các địa phương đều đạt hoặc vượt nghĩa vụ đóng góp các chỉ tiêu nông sản, ngay ở cả những nơi từng xảy ra chiến tranh ác liệt.

Đặc biệt, trong hai lần chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ, xã viên hợp tác xã mua bán còn là những chiến sĩ vận chuyển, áp tải bảo đảm an toàn hàng hóa đi qua các trọng điểm bị đánh phá ác liệt về kho; họ cũng là người đưa hàng hóa tới tận các chiến hào, mâm pháo cho bộ đội, dân quân. Nhiều xã viên đã anh dũng hy sinh khi đang trên đường làm nhiệm vụ.

Các phương thức hoạt động mua bán cũng được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện chiến tranh. Các hợp tác xã mua bán chuyển các hoạt động giao dịch thương mại ở những điểm cố định sang hoạt động lưu động, bám sát những nơi có nhu cầu mới phát sinh để phục vụ. Dọc các tuyến đường giao thông mới, các cơ sở sản xuất được xây dựng, các nơi có dân cư sơ tán đều có thể trở thành các tụ điểm mua bán và lưu thông hàng hóa do các hợp tác xã cung ứng.

bảng 20

bảng 21

Trong những năm 1965 - 1975, hai lực lượng mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán có sự đóng góp tích cực trong đời sống xã hội. Về tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội, cả hai lực lượng có mức tăng trưởng khoảng 2 lần, trong đó, mậu dịch quốc doanh tăng 1,9 lần, hợp tác xã mua bán tăng 2,2 lần, nắm tới 75 - 80% tổng mức bán lẻ trong nước; trong khi thị trường tự do (lúc đó gọi là thị trường không có tổ chức) nắm khoảng 20 - 25% nhưng có mức tăng trưởng cao hơn so với 2 lực lượng của thương nghiệp quốc doanh (3,7 lần).

cửa hàng cảng

Cửa hàng công nghệ phẩm khu phố Ngô Quyền, Hải Phòng mang hàng đến cảng bán cho công nhân, tháng 01/1969 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Thị trường tự do bao gồm chợ nông thôn, chợ khu vực thành thị, chợ chuyên bán các mặt hàng nông sản. Đầu vào của chợ nông thôn là những mặt hàng nông sản, thực phẩm, nông thổ sản do người dân sản xuất, tăng gia thêm, sau khi đã làm nghĩa vụ với Nhà nước; và những mặt hàng công nghiệp, thủ công nghiệp, hàng xén do những người buôn ngồi, buôn chuyến đưa về. Chính quyền địa phương có nhiều biện pháp giúp đỡ chợ nông thôn (như: xây, lợp lại các quán chợ, mở thêm các chợ mới), nhờ đó thu được thuế, có thêm nguồn kinh phí cho địa phương.

bảng 22

Chợ khu vực thành thị thời kỳ 1965 - 1975 bao gồm những quầy hàng của mậu dịch quốc doanh, các tổ hợp tác và những người buôn bán “tự do”. Bên cạnh đó, còn có chợ “cóc”, chợ “xanh”, hay những người bán hàng rong...

Với chợ nông sản, lương thực, thực phẩm được lưu thông từ nông thôn ra thành thị nhờ các thương nhân. Những người buôn hàng chuyến đã tạo ra những luồng hàng ổn định theo mùa và theo tuyến để đưa nông sản về thành phố. Hà Nội có nhiều chợ bán buôn nông sản, một trong những chợ lớn nhất là chợ Bắc Qua. Ở đây, vừa có Ga đầu cầu Long Biên, vừa có Bến Nứa là những đầu mối giao thông của cả đường bộ, đường sắt và đường thủy để chuyên chở nông sản từ các nơi về Thủ đô. Chợ họp từ nửa đêm đến tảng sáng, không chỉ vì sợ máy bay Không quân Hoa Kỳ, mà chủ yếu là vì phải kịp đưa hàng về các chợ nhỏ từ sáng sớm2.

Đây cũng là thời kỳ mở rộng sử dụng tem phiếu, cung cấp hàng hóa theo giá bao cấp cho lực lượng vũ trang, cán bộ và nhân dân mà nguyên nhân chủ yếu là do cung cầu mất cân đối, trong khi phải giữ giá cả ổn định, phải thực hiện nhiều chính sách đối với nhiều loại đối tượng phục vụ... Bản thân tem phiếu mang chức năng và giá trị của tiền tệ nên việc in, phát hành và quản lý chúng cũng phải tuân thủ các nguyên tắc như đối với tiền giấy. Việc vận chuyển cũng đòi hỏi nghiêm ngặt giống như vận chuyển tiền.

Việc quản lý và cấp phát tem phiếu là một việc làm vô cùng phức tạp, đặc biệt tại thời điểm này hoàn toàn dùng phương pháp tính toán và thống kê thủ công, tốn nhiều giấy mực và nhân lực. Ngoài ra, hệ thống tem phiếu có rất nhiều chủng loại. Mỗi loại lại có nguyên tắc và chế độ cấp phát khác nhau, cho các đối tượng khác nhau. Có loại tem phiếu căn cứ theo mức lương, chức vụ, cấp bậc lao động; có loại căn cứ theo độ tuổi nhân khẩu, có loại chỉ giới hạn cho cán bộ, công nhân, viên chức và nhân dân thành thị, có loại lại mở rộng cho toàn thể nhân dân... Đối tượng hưởng theo mỗi loại tem phiếu đó cũng thường xuyên thay đổi theo xu hướng ngày càng tăng lên. Cụ thể năm 1965, số dân phi nông nghiệp chỉ là 3,105 triệu người và tổng số công nhân, viên chức là 971 nghìn người. Nhưng đến năm 1975, số dân phi nông nghiệp đã tăng lên 5,125 triệu người (tăng 65%) và công nhân, viên chức là 1,753 triệu người (tăng 80%)3.

Theo quy định, mỗi năm cấp tem phiếu một lần. Nhưng trong năm lại phát sinh những trường hợp sinh, tử, cưới xin, tăng tuổi, bệnh tật,... nên phải cấp phát và điều chỉnh liên tục.

Chính vì sự phức tạp đó, nên việc cấp phát và quản lý tem phiếu đòi hỏi sự phối hợp của nhiều ngành như: Bộ Tài chính, Bộ Lao động, Bộ Nội thương, Bộ Lương thực, Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan chủ quản đương sự, công an, công đoàn, có khi cả Hội Liên hiệp phụ nữ... Từ đó đã hình thành cả một hệ thống những người làm công việc quản lý và cấp phát tem phiếu từ cấp xã, huyện, tỉnh, thành phố lên tới Trung ương; từ các cơ quan, xí nghiệp, công trường, trường học lên các sở, bộ...

Hàng hóa do Nhà nước cung cấp thông qua mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán trong tổng số chi của gia đình công nhân, viên chức chiếm tỷ trọng rất cao, khoảng 70% trong suốt thời gian chiến tranh và hòa bình xen kẽ (1965 - 1975). Trong phân bố lao động xã hội của các ngành kinh tế, năm 1965, số lao động hoạt động trong ngành Thương nghiệp, cung ứng vật tư chiếm 2,3%, đến năm 1975 tăng lên 3,1%. Về chỉ số phát triển lao động thường xuyên khu vực nhà nước trong lĩnh vực thương nghiệp, lấy năm 1955 là 1 thì đến năm 1965 bằng 7,4 lần; năm 1971 bằng 7,8 lần; năm 1975 bằng 11,1 lần. Về vốn đầu tư xây dựng của Nhà nước ở khu vực thương nghiệp và cung ứng vật tư, lấy bình quân năm của giai đoạn khôi phục 1955 - 1957 là 1 thì đến giai đoạn 1961 - 1965 đạt 1,89 lần; giai đoạn 1966 - 1971 đạt 3,82 lần; giai đoạn 1972 - 1975 đạt 6,38 lần4.

Những số liệu trên cho thấy, xét theo tiêu chí nào thì trong giai đoạn 1965 - 1975, lực lượng thương nghiệp quốc doanh đều có sự phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, tổng giá trị hàng hóa do thương nghiệp quốc doanh thu mua trong nước tăng trưởng mạnh ở tất cả các quãng thời gian hòa bình và chiến tranh luân phiên.

Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965 - 1968), các hợp tác xã nông nghiệp và các nông trường trên toàn miền Bắc đã được trang bị 15.163 máy phát điện, 9.784 máy kéo, 22.127 máy công tác. Năm 1966, hợp tác xã nông nghiệp được trang bị máy phát điện và máy công tác, chiếm 10,9% tổng số hợp tác xã nông nghiệp, năm 1967 chiếm 19,8% và năm 1969 là 29,9%. Trong xây dựng cơ bản phục vụ nông nghiệp, số lượng công trình thủy nông lớn được xây dựng trong những năm 1965 - 1968 đã tăng cao nhất so với các thời kỳ trước đó. Trong những năm 1965 - 1968 tăng 1,5 lần so với thời kỳ 1961 - 1964; tăng 9,6 lần so với thời kỳ 1958 - 1960; tăng 3,3 lần so với thời kỳ 1955 - 19575.

Đây là cơ sở để thương nghiệp phục vụ, cung ứng tư liệu sản xuất, nguyên vật liệu thúc đẩy phát triển sản xuất các ngành kinh tế khác.

Nhờ đó, ở khắp nơi trên miền Bắc đã xuất hiện hàng nghìn hợp tác xã đạt và vượt 5 tấn thóc/ha đất gieo trồng hai vụ lúa - điều mà trước đó chỉ là ước mơ của người nông dân. Nếu năm 1964 mới có 5 huyện và một số hợp tác xã đạt 5 tấn thóc/ha thì đến năm 1967 đã có 30 huyện với 2.551 hợp tác xã.

Sổ cung ứng xăng dầu

Dưới thời bao cấp, xăng dầu là mặt hàng được Nhà nước quản lý chặt chẽ và chỉ cấp theo định mức cho những đơn vị có nhu cầu sử dụng, không phân phối đại trà trên thị trường cho người dân.

Các đơn vị được cấp xăng dầu sẽ được Tổng Công ty Xăng dầu mỡ (nay là Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam) cấp một Sổ cung ứng xăng dầu. Nội dung sổ thể hiện rõ lượng nhiên liệu, loại nhiên liệu và thời điểm cung ứng. Sổ cung ứng này chỉ có giá trị trong một năm. Cuối năm, đơn vị được cấp sổ phải mang sổ cũ đến đơn vị cung ứng vật tư địa phương để đối chiếu và đổi sổ mới.

Kể từ tháng 01/1987, xăng dầu bắt đầu được bán lẻ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Lúc này nguồn cung nhiên liệu tại Việt Nam bắt đầu được cải thiện, Sổ cung ứng xăng dầu dần được loại bỏ.

Nguồn: Tổng cục Thống kê: Kinh tế văn hóa Việt Nam 1930 - 1980, Sđd.

tem vải

sổ xăng dầu

bảng 23

bảng 24

Nhìn theo Chỉ số phát triển thống kê ở bảng trên, ta thấy rõ hơn sức mua phát triển vượt bậc đối với hàng công nghiệp.

Sau 1965, ngành Thương mại chuyển hướng hoạt động cho phù hợp với tình hình mới, ra sức thu mua nhằm nắm nguồn hàng để trang trải cho nhu cầu của sản xuất và đời sống, xây dựng hậu phương miền Bắc vững mạnh, trên cơ sở đó tăng nhanh khối lượng hàng hóa đưa ra tiền tuyến và cung ứng cho vùng mới giải phóng ở miền Nam. Về chỉ số khối lượng vận chuyển chi viện cho tiền tuyến những năm 1965 - 1971, lấy năm 1965 là 1 thì năm 1966 là 2,4; năm 1967 là 4,4; năm 1968 là 8,0; năm 1969 là 7,6; năm 1970 là 9,4; năm 1971 là 9,0. Trong hai năm 1973 - 1974, có khoảng 39,7 nghìn tấn vật chất được vận chuyển vào Nam, bằng 54% tổng khối lượng vật chất đưa vào chiến trường trong 16 năm trước đó. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, có 60% xăng dầu, 65% thuốc men, 85% xe vận tải là từ hậu phương miền Bắc chuyển vào Nam.

tổ bán lẻ

Tổ bán lẻ bách hóa thuộc Xí nghiệp bán lẻ Lạng Sơn bảo đảm đưa hàng về tận tay người tiêu dùng, nhất là vùng nông thôn hẻo lánh, tháng 4/1969 (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Tính cộng đồng trong đám cưới

Năm 1973, anh trai tôi, làm ở Viện Thiết kế máy Công nghiệp, cưới vợ. Đó là những năm tháng hòa bình đầu tiên sau những trận không kích ác liệt bằng B.52 trong 12 ngày đêm trên bầu trời miền Bắc, nên những chuyện như dựng nhà, đốt lò gạch mới hay làm đám cưới lúc đó vui lắm.

Là viên chức nhà nước nên cuộc sống vật chất của anh tôi khá dư dả. Lương 74 đồng, gấp hơn 2,7 so với mức lương thấp nhất của công nhân, viên chức hồi đó là 27 đồng 3 hào. Hằng tháng được mua theo giá bao cấp nhiều loại lương thực, thực phẩm thiết yếu như gạo 15 kg, thịt 1,5 kg, đường 1 kg; cao hơn tiêu chuẩn của nhân dân, mỗi tháng có 3 lạng thịt, 1 lạng đường. Ngoài ra còn có phiếu mua đậu phụ, trứng vịt, nước mắm, thậm chí là cá biển.

Khi cưới vợ, anh tôi được mua 2 tút thuốc lá, 4 bao chè, 4 kg bánh kẹo, 1 bộ chăn màn và giường chiếu (do hết giường nên được đổi sang tủ), 1 cái phích, 1 cái chậu và 1 cái mâm.

Tiêu chuẩn này là mơ ước của nhiều người dân. Nhưng để chuẩn bị cho đám cưới, anh tôi cũng phải gom tiêu chuẩn thuốc lá, thịt, đường của 14 anh em cùng phòng. Mẹ tôi ở quê bán thóc mua bột mì, trứng, đường để làm kẹo, bánh quy gai, bánh quy xốp, bánh vòng vừng...

Một điều may mắn là ông bà tôi có... 8 người con. Nên riêng các cô, chú nhà tôi đã huy động được “lực lượng” gạo, gà, vịt, chè, mứt sen... khá hùng hậu. Thậm chí, bác cả nhà tôi nghèo nhất cũng ủng hộ được 3 bao tải mùn cưa (các bạn đừng cười, thứ này hồi đó rất quý).

Hỗ trợ nhau trong các sự kiện dựng vợ, gả chồng, làm nhà thời đó là chuyện bình thường; như một câu nói phổ biến hồi đó: “Có ai lo hết được cho mình mọi thứ đâu!”.

Nguồn: Theo ký ức của một phóng viên Tạp chí Công Thương.


1. Xem Ban Chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, tr.372.

2. Xem Bộ Công Thương: Sơ lược Lịch sử ngành Công Thương, Sđd, tr165.

3. Xem Bộ Công Thương: Sơ lược Lịch sử ngành Công Thương, Sđd, tr.169.

4. Xem Tổng cục Thống kê: Kinh tế văn hóa Việt Nam 1930 - 1980, Sđd, tr.138, 142, 143.

5. Xem Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 13 (Từ năm 1965 đến năm 1975), Sđd, tr.60-61.

CHƯƠNG V: CÔNG NGHIỆP - THƯƠNG MẠI MIỀN NAM (1955 - 1975)

NM dệt

Nhà máy Dệt VINATECO được xem là nhà máy dệt hiện đại nhất miền Nam cũng như trong khu vực thời bấy giờ (Ảnh: Life)

hàng tiêu dùng

Hàng tiêu dùng nhập khẩu được bày bán tràn lan trên đường phố các đô thị lớn miền Nam, bao gồm cả lượng lớn hàng PX được tuồn lậu ra bên ngoài (Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

Danh mục

Tùy chỉnh