3. Tiểu thủ công nghiệp vùng giải phóng
Không giống như những vùng tự do trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp vốn có diện tích tương đối lớn, hoàn toàn do ta kiểm soát, ranh giới rõ ràng với vùng tạm bị địch chiếm, vùng giải phóng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được hiểu là vùng dân cư đã được lực lượng cách mạng giải thoát khỏi sự kìm kẹp của chính quyền Sài Gòn, thiết lập chính quyền cách mạng. Nhiều vùng giải phóng được hình thành dưới hình thức nhân dân tự phát nổi dậy, tự phá bỏ hệ thống kiểm soát của chính quyền Sài Gòn và tự tổ chức cuộc sống.
Vùng tranh chấp là những vùng có trạng thái giằng co kiểm soát giữa ta với đối phương, có nơi, có lúc được giải phóng hoàn toàn. Hầu hết thời gian trong cuộc chiến, các vùng đồng bằng miền Nam phần lớn là khu vực tranh chấp.
Cho đến trước năm 1968, vùng giải phóng chủ yếu là các khu vực nằm xa các khu đô thị, trục đường giao thông chính, nằm sâu trong vùng rừng núi, có địa hình hiểm trở và dân cư thưa thớt. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, vùng giải phóng được mở rộng hơn. Tuy nhiên, đến giữa năm 1968 thì tình hình trở nên khó khăn, địch phản kích ác liệt, lấn dần vùng giải phóng, đẩy mạnh cưỡng ép người dân vào các khu tập trung khiến vùng giải phóng bị thu hẹp. Sau chiến thắng bước ngoặt tại Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971, các vùng giải phóng dần được mở rộng với dân số sống tại các vùng này lên đến hơn 5,1 triệu người, chiếm 43% tổng số dân cư sống tại các vùng nông thôn và 40% diện tích đất đai miền Nam1.
Các vùng giải phóng và vùng tranh chấp tuy có sự khác nhau về điều kiện địa lý và kinh tế, nhưng xuyên suốt cuộc kháng chiến, phần lớn dân cư sinh sống tại vùng giải phóng là nông dân, có tiềm lực kinh tế thấp, đời sống thiếu thốn và nền kinh tế chủ yếu phát triển theo hướng tự cung, tự cấp. Các hoạt động kinh tế trong vùng giải phóng cũng như vùng tranh chấp gặp nhiều khó khăn khi chịu sự đánh phá ác liệt, liên tục từ quân địch. Dưới tác động của các loại thuốc diệt cỏ, bom đạn, đồng ruộng tại nhiều nơi bị bỏ hoang hóa, dân cư trở nên thưa thớt, thậm chí biến thành “vùng trắng” như ở Củ Chi, kéo theo đó là sự mai một của nhiều hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
Không thể chỉ trông chờ vào sự chi viện từ miền Bắc, chính quyền cách mạng tại các vùng giải phóng chủ trương khôi phục, khuyến khích phát triển một số nghề truyền thống như rèn, giấy, trồng dâu nuôi tằm, dệt và chế biến nông sản. Nhờ đó, nhiều vùng giải phóng đã tự túc được một phần đáng kể các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, góp phần đảm bảo đời sống cho nhân dân, cán bộ và chiến sĩ. Nhiều lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp bị mai một trong thời gian tạm chiếm đã được phục hồi khi trở thành vùng giải phóng.
Trong các lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp tại vùng giải phóng thì nghề rèn là nổi bật nhất. Các khu giải phóng đều có xưởng rèn và số lượng xưởng tăng dần qua các năm, cung cấp lượng lớn nông cụ, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo canh tác nông nghiệp, giải quyết vấn đề thiếu lương thực. Bên cạnh đó, các xưởng rèn còn tham gia chế tạo nhiều vũ khí thô sơ, phục vụ cho hoạt động du kích, chống các đợt càn quét của đối phương. Nghề Dệt là lĩnh vực quan trọng thứ hai, đặc biệt phát triển tại khu V2. Ví dụ, tại Quảng Ngãi, có 754 khung dệt giúp sản xuất ra hơn 680.000 m vải khổ rộng và hơn 34.000 m vải khổ hẹp; còn tại Quảng Đà, đã có 130 khung dệt vải với sản lượng hơn 33.000 m vải, 1.500 hộ nuôi tằm và 270 lò ươm tơ tằm có sản lượng 33 tấn tơ trong năm 19663. Đặc biệt, sau khi Hiệp định Pari được ký kết năm 1973, nhiều vùng giải phóng được củng cố, một bộ phận người dân từ vùng địch kiểm soát trở lại quê hương, nhân dân bắt đầu có xu hướng bung ra làm ăn. Riêng khu vực giáp biên giới Campuchia đã có 40.000 kiều bào ở Campuchia về tỉnh Bình Phước, Tây Ninh và một số nơi khác để sinh sống4. Ban Kinh tế - Tài chính Trung ương Cục miền Nam5 (gọi tắt là Ban Kinh - Tài) tiến hành cho các cơ quan và nhân dân vay vốn phát triển sản xuất - kinh doanh, nhờ đó hoạt động kinh tế ở vùng giải phóng được mở rộng. Hàng loạt các cơ sở công, nông, thương nghiệp như bông vải sợi, xưởng mộc, xưởng gạch, xưởng ép mía đường, xay xát lúa gạo, chế biến nông sản... được mở mới, giúp tăng đáng kể lượng hàng hóa trên thị trường, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đời sống nhân dân.
1. Xem Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 13 (Từ năm 1965 đến năm 1975), Sđd, tr.162.
2. Khu V gồm các tỉnh từ Quảng Nam, Đà Nẵng đến Ninh Thuận và các tỉnh Tây Nguyên.
3. Xem Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, tập II: 1955 - 1975, Sđd, tr.482.
4. Xem Câu lạc bộ Truyền thống kháng chiến, Ban Kinh - Tài Trung ương Cục miền Nam Việt Nam: Lịch sử Ban Kinh tế - Tài chính Trung ương Cục miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.186.
5. Tiền thân là Ban Tài chính Xứ ủy Nam Bộ.
3. Tiểu thủ công nghiệp vùng giải phóng
Không giống như những vùng tự do trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp vốn có diện tích tương đối lớn, hoàn toàn do ta kiểm soát, ranh giới rõ ràng với vùng tạm bị địch chiếm, vùng giải phóng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được hiểu là vùng dân cư đã được lực lượng cách mạng giải thoát khỏi sự kìm kẹp của chính quyền Sài Gòn, thiết lập chính quyền cách mạng. Nhiều vùng giải phóng được hình thành dưới hình thức nhân dân tự phát nổi dậy, tự phá bỏ hệ thống kiểm soát của chính quyền Sài Gòn và tự tổ chức cuộc sống.
Vùng tranh chấp là những vùng có trạng thái giằng co kiểm soát giữa ta với đối phương, có nơi, có lúc được giải phóng hoàn toàn. Hầu hết thời gian trong cuộc chiến, các vùng đồng bằng miền Nam phần lớn là khu vực tranh chấp.
Cho đến trước năm 1968, vùng giải phóng chủ yếu là các khu vực nằm xa các khu đô thị, trục đường giao thông chính, nằm sâu trong vùng rừng núi, có địa hình hiểm trở và dân cư thưa thớt. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, vùng giải phóng được mở rộng hơn. Tuy nhiên, đến giữa năm 1968 thì tình hình trở nên khó khăn, địch phản kích ác liệt, lấn dần vùng giải phóng, đẩy mạnh cưỡng ép người dân vào các khu tập trung khiến vùng giải phóng bị thu hẹp. Sau chiến thắng bước ngoặt tại Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971, các vùng giải phóng dần được mở rộng với dân số sống tại các vùng này lên đến hơn 5,1 triệu người, chiếm 43% tổng số dân cư sống tại các vùng nông thôn và 40% diện tích đất đai miền Nam1.
Các vùng giải phóng và vùng tranh chấp tuy có sự khác nhau về điều kiện địa lý và kinh tế, nhưng xuyên suốt cuộc kháng chiến, phần lớn dân cư sinh sống tại vùng giải phóng là nông dân, có tiềm lực kinh tế thấp, đời sống thiếu thốn và nền kinh tế chủ yếu phát triển theo hướng tự cung, tự cấp. Các hoạt động kinh tế trong vùng giải phóng cũng như vùng tranh chấp gặp nhiều khó khăn khi chịu sự đánh phá ác liệt, liên tục từ quân địch. Dưới tác động của các loại thuốc diệt cỏ, bom đạn, đồng ruộng tại nhiều nơi bị bỏ hoang hóa, dân cư trở nên thưa thớt, thậm chí biến thành “vùng trắng” như ở Củ Chi, kéo theo đó là sự mai một của nhiều hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
Không thể chỉ trông chờ vào sự chi viện từ miền Bắc, chính quyền cách mạng tại các vùng giải phóng chủ trương khôi phục, khuyến khích phát triển một số nghề truyền thống như rèn, giấy, trồng dâu nuôi tằm, dệt và chế biến nông sản. Nhờ đó, nhiều vùng giải phóng đã tự túc được một phần đáng kể các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, góp phần đảm bảo đời sống cho nhân dân, cán bộ và chiến sĩ. Nhiều lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp bị mai một trong thời gian tạm chiếm đã được phục hồi khi trở thành vùng giải phóng.
Trong các lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp tại vùng giải phóng thì nghề rèn là nổi bật nhất. Các khu giải phóng đều có xưởng rèn và số lượng xưởng tăng dần qua các năm, cung cấp lượng lớn nông cụ, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo canh tác nông nghiệp, giải quyết vấn đề thiếu lương thực. Bên cạnh đó, các xưởng rèn còn tham gia chế tạo nhiều vũ khí thô sơ, phục vụ cho hoạt động du kích, chống các đợt càn quét của đối phương. Nghề Dệt là lĩnh vực quan trọng thứ hai, đặc biệt phát triển tại khu V2. Ví dụ, tại Quảng Ngãi, có 754 khung dệt giúp sản xuất ra hơn 680.000 m vải khổ rộng và hơn 34.000 m vải khổ hẹp; còn tại Quảng Đà, đã có 130 khung dệt vải với sản lượng hơn 33.000 m vải, 1.500 hộ nuôi tằm và 270 lò ươm tơ tằm có sản lượng 33 tấn tơ trong năm 19663. Đặc biệt, sau khi Hiệp định Pari được ký kết năm 1973, nhiều vùng giải phóng được củng cố, một bộ phận người dân từ vùng địch kiểm soát trở lại quê hương, nhân dân bắt đầu có xu hướng bung ra làm ăn. Riêng khu vực giáp biên giới Campuchia đã có 40.000 kiều bào ở Campuchia về tỉnh Bình Phước, Tây Ninh và một số nơi khác để sinh sống4. Ban Kinh tế - Tài chính Trung ương Cục miền Nam5 (gọi tắt là Ban Kinh - Tài) tiến hành cho các cơ quan và nhân dân vay vốn phát triển sản xuất - kinh doanh, nhờ đó hoạt động kinh tế ở vùng giải phóng được mở rộng. Hàng loạt các cơ sở công, nông, thương nghiệp như bông vải sợi, xưởng mộc, xưởng gạch, xưởng ép mía đường, xay xát lúa gạo, chế biến nông sản... được mở mới, giúp tăng đáng kể lượng hàng hóa trên thị trường, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đời sống nhân dân.
1. Xem Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 13 (Từ năm 1965 đến năm 1975), Sđd, tr.162.
2. Khu V gồm các tỉnh từ Quảng Nam, Đà Nẵng đến Ninh Thuận và các tỉnh Tây Nguyên.
3. Xem Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 - 2000, tập II: 1955 - 1975, Sđd, tr.482.
4. Xem Câu lạc bộ Truyền thống kháng chiến, Ban Kinh - Tài Trung ương Cục miền Nam Việt Nam: Lịch sử Ban Kinh tế - Tài chính Trung ương Cục miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.186.
5. Tiền thân là Ban Tài chính Xứ ủy Nam Bộ.
2. Cơ cấu ngành công nghiệp
a) Xu hướng dịch chuyển cơ cấu ngành công nghiệp
Trước năm 1965, nền công nghiệp tại miền Nam có khuynh hướng phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nguồn tài nguyên địa phương như cao su, mía, than, vôi và ximăng, vừa để xây dựng nền công nghiệp “tự lực”, vừa hỗ trợ các ngành công nghiệp khác đang sử dụng nhiều nguồn nguyên liệu nhập khẩu như dệt, giấy...
Tuy nhiên, từ năm 1965 trở đi, cường độ chiến tranh ngày càng tăng cao thì các lĩnh vực công nghiệp đã có sự phân hóa mạnh mẽ. Nếu xét về mức độ đóng góp sản lượng công nghiệp thì nhóm ngành thực phẩm chiếm vị trí quan trọng nhất, đóng góp tới 49% tổng giá trị sản lượng công nghiệp, theo sau đó là nhóm ngành dệt, da và nhuộm. Số lượng doanh nghiệp cũng như lao động hoạt động trong hai nhóm ngành này cũng ở mức cao nhất so với các nhóm ngành khác. Các nhóm ngành công nghiệp nền tảng như luyện kim, cơ khí và hóa chất chiếm vai trò rất nhỏ trong hoạt động sản xuất công nghiệp.
Nếu xét về năng suất lao động thì nhóm ngành Thực phẩm cũng tạo ra giá trị sản lượng bình quân trên mỗi lao động cao nhất, thậm chí gấp 6 lần so với ngành Cơ khí hoặc Chế biến gỗ.
Còn nếu xét về quy mô vốn thì ngành Điện có quy mô vốn lớn nhất, gần gấp 3 lần quy mô vốn của ngành Thực phẩm, nhưng lại chỉ đóng góp có 4,7% vào tổng giá trị sản lượng công nghiệp. Có thể thấy, cơ cấu công nghiệp này chưa hợp lý, không phù hợp để phát triển công nghiệp một cách bền vững.
b) Công nghiệp năng lượng
Mặc dù đóng vai trò quan trọng trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội nhưng xuyên suốt 20 năm, lĩnh vực công nghiệp năng lượng do chính quyền Sài Gòn phát triển vẫn chỉ mang tính chất dở dang.
Đối với sản xuất điện, hệ thống nguồn điện lẫn phân phối điện đều đang trong tình trạng chắp vá. Mặc dù được đánh giá có tiềm năng thủy điện lớn nhưng chính quyền Sài Gòn không chú trọng khai thác nguồn năng lượng này.
Bảng 29: Tình hình sản xuất công nghiệp ở vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát trong năm 1973
Nguồn: Bộ Kinh tế (chính quyền Sài Gòn): Tình hình kinh tế miền Nam Việt Nam 1955 - 1975, tr.150.
Ngoài “bộ ba” Thủy điện Đa Nhim (công suất 160 MW, vận hành năm 1964) - Nhiệt điện Thủ Đức (công suất 165 MW, vận hành năm 1965) - Nhiệt điện Chợ Quán (vận hành năm 1922) thì hầu hết nguồn điện tại miền Nam đến từ các cụm máy diesel. Nguồn điện và lưới điện tập trung cao độ ở khu đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn (chiếm 82%). Các thị xã, tỉnh lỵ các tỉnh, căn cứ quân sự phụ thuộc vào nguồn điện diesel tại chỗ. Những nơi phụ tải cao thì có tăng cường lắp các turbine khí chạy dầu di động công suất lớn. Các cơ sở sản xuất - kinh doanh lớn phải tự triển khai các máy phát điện công suất lớn để đảm bảo điện cho hoạt động. Chỉ có 30% sản lượng điện công cộng là được dùng cho các cơ sở sản xuất, còn lại là dùng cho các hoạt động sinh hoạt và chiếu sáng1. Thậm chí, trong một số khung giờ cao điểm, điện được ưu tiên phân phối cho các căn cứ quân sự. Vào năm cao điểm của hệ thống điện, tổng công suất điện diesel và nhiệt điện dầu chiếm gần 90% tổng công suất của hệ thống.
Mỗi năm, miền Nam phải nhập khẩu gần 2 triệu tấn dầu các loại, khoảng một nửa chỗ này là để sản xuất điện. Với mức giá nhập khẩu từ 7 - 9 US cent/lít vào năm 1973 thì chính quyền Sài Gòn tiêu tốn khoảng 54 triệu USD/năm để đảm bảo năng lượng. Khi nguồn viện trợ từ Mỹ còn dồi dào thì khoản tiền này không quá khó khăn, nhưng khi hết viện trợ thì việc cạn kiệt ngoại tệ dùng cho nhập khẩu dầu sẽ ập đến ngay chỉ trong vòng 1 - 2 tháng.
Toàn bộ miền Nam không có hệ thống lưới điện quốc gia và tổng hệ thống đường dây truyền tải chỉ đạt 800 km, được vận hành độc lập theo các vùng (miền Đông, miền Tây và Cao nguyên). Đến năm 1974, tổng công suất đặt ở miền Nam vào khoảng 812,9 MW, sản lượng điện khoảng 1.624 triệu kWh. Đây được xem là con số quá thấp so với số dân lên đến gần 17 triệu người tại miền Nam. Hơn nữa, hệ thống phát điện tại nhiều nơi quá cũ sau thời gian dài sử dụng nên hiệu suất hoạt động ở mức thấp, khiến việc duy trì nguồn điện càng trở nên khó khăn hơn.
Từ đầu năm 1970, Mỹ và chính quyền Sài Gòn lên kế hoạch phát triển thêm các nguồn năng lượng từ thủy điện và dầu khí. Một loạt vị trí tiềm năng cho phát triển thủy điện như Thạch Hãn, Thượng Sê San, Thượng Srê Pốk, Vũ Gia, Trị An, Sông Bé... đã được khảo sát nhưng chưa có động thái triển khai.
Đối với khai thác dầu khí, chính quyền Sài Gòn đã tiến hành thăm dò tiềm năng dầu khí tương đối sớm trong những năm 1960. Đến tháng 7/1973, các cuộc đấu thầu cấp quyền tìm kiếm và khai thác dầu đầu tiên được tổ chức. Bốn công ty trúng thầu đợt này là ESSO, Mobil Oil, Shell Oil cùng của Mỹ và Sunningdale từ Canađa. Tổng cộng 8 lô trúng thầu đợt này đem lại số tiền hoa hồng chữ ký2 là 16,6 triệu USD.
Đến tháng 5/1974, chính quyền Sài Gòn tổ chức đấu thầu khai thác dầu khí trên thềm lục địa lần thứ hai cho 33 lô với diện tích mỗi lô khoảng 4.000 km2. 17 công ty trúng thầu, hầu hết là các doanh nghiệp của Mỹ và một số công ty thuộc Anh, Nhật Bản, Ốxtrâylia và Canađa. Tổng số tiền hoa hồng chữ ký thu được là 29,1 triệu USD. Các công ty trúng thầu đã tiến hành khoan thăm dò và thu được nhiều kết quả khả quan sơ bộ, tuy nhiên, hoạt động khai thác chính thức chưa được triển khai thì chính quyền Sài Gòn sụp đổ.
Đối với hoạt động khai thác than, chính quyền Sài Gòn mở rộng khai thác mỏ than Nông Sơn (Quảng Nam) vào tháng 9/1955 sau khi mua lại từ giới tư bản Pháp. Mỏ than nay vốn đã được khai thác kể từ thời chính quyền thuộc địa nhưng có chất lượng than không tốt như những mỏ than tại miền Bắc.
Việc thăm dò, mở rộng khai thác được phía Mỹ viện trợ về vốn và cử chuyên gia khai khoáng, Pháp cũng giúp đỡ về chuyên gia và Ốxtrâylia viện trợ phương tiện chuyên chở than. Đến tháng 5/1959, đơn vị quốc doanh Công quản quốc gia mỏ than Nông Sơn được chính thức thành lập. Ban đầu, công nhân phải khai thác thủ công với sản lượng đạt từ 50 đến 60 tấn/ngày, phải đến giữa năm 1960, xưởng điện công suất 150 kW được hoàn thành, giúp hoạt động khai thác được cơ giới hóa và nâng sản lượng lên mức khoảng 100.000 tấn/năm. Đến tháng 3/1961, một xưởng lọc, tuyển than có công suất 500 tấn/ngày được đưa vào hoạt động.
Do không đạt phẩm cấp để sản xuất điện, than được khai thác từ mỏ Nông Sơn chủ yếu sử dụng làm nhiên liệu cho hoạt động sản xuất công nghiệp tại địa phương.
c) Ý tưởng về khu chế xuất
Có thể nói, vai trò của công nghiệp trong hoạt động xuất khẩu của nền kinh tế miền Nam rất nhỏ bé. Hàng hóa xuất khẩu về cơ bản là các sản phẩm nông, lâm, thủy hải sản thô, không qua chế biến sâu, có hàm lượng giá trị gia tăng thấp. Các nhà kinh tế và một số nhà tư sản công nghiệp yêu nước tại miền Nam hiểu rõ rằng nếu sử dụng nguồn nguyên liệu, trang thiết bị nhập khẩu chỉ để sản xuất hàng hóa phục vụ cho thị trường nội địa thì ngành công nghiệp khó có thể phát triển bền vững. Một số đề xuất về việc phát triển công nghiệp đồ hộp, lụa tơ tằm, sản phẩm mỹ nghệ... nhằm chuyên phục vụ thị trường nước ngoài đã được nêu ra.
Đồng thời, chính quyền Sài Gòn do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đứng đầu đã nêu ra ý tưởng thành lập các khu công nghiệp đặc biệt, chỉ chuyên sản xuất các loại hàng hóa phục vụ xuất khẩu hay còn gọi là khu chế xuất. Tại các khu này, nguồn nguyên liệu đầu vào sẽ dựa vào cả nguồn nhập khẩu lẫn trong nước, sử dụng máy móc nhập khẩu hiện đại, công nhân lành nghề và được hưởng các điều kiện tối ưu để thu hút đầu tư, qua đó sản xuất hàng xuất khẩu chất lượng cao nhằm thu về lượng ngoại tệ lớn nhất có thể. Đây được xem là một ý tưởng phát triển kinh tế đột phá của chính quyền Sài Gòn. Khu vực Long Bình (Đồng Nai) và Tân Thuận Đông (Sài Gòn) đã được khảo sát để xem xét vị trí thiết lập các khu chế xuất.
Tháng 12/1972, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký Sắc luật số 043-TT/SLU về việc thiết lập các khu chế xuất. Giữa năm 1973, chính quyền Sài Gòn và giới chức Đài Loan (Trung Quốc) đã ký một thỏa ước hợp tác kỹ thuật trong việc phát triển khu chế xuất Tân Thuận Đông. Tuy nhiên, mọi việc chưa được thực hiện nhiều thì chiến tranh kết thúc nên việc thiết lập các khu chế xuất bị đình trệ.
1. Xem Ban Kinh tế miền Nam: “Mục Tình hình từng ngành - A. Công nghiệp Điện”, trong Tài liệu tham khảo về tình hình kinh tế miền Nam Việt Nam, Viện Kinh tế, Sài Gòn, 1966, tr.2.
2. Là khoản tiền mà nhà thầu phải trả cho nước chủ nhà khi ký hợp đồng dầu khí.